Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tài liệu ôn thi lịch sử các học thuyết kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.91 KB, 5 trang )

CHƯƠNG 4: CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA TP HẬU CỔ ĐIỂN (TƯ SẢN
TẦM THƯỜNG)
Câu 1: Phân tích đặc điểm của trường phái tư sản tầm thường.29
Câu 2:Lí luận nhân khẩu, giá trị và lợi nhuận khủng hoảng kinh tế của Th.R.Malthus.29
Câu 3: Lí luận giá trị ích lợi, 3 nhân tố sản xuất, thất nghiệp và khủng hoảng kinh tế của
J.B.Say.30
Câu 1: Phân tích đặc điểm của trường phái tư sản tầm thường.
Trường phái tư sản tầm thường xuất hiện từ cuối thế kỷ XVIII, phát triển mạnh ở những
năm 30 thế kỷ XIX trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể:
- Chủ nghĩa tư bản bắt đầu bộc lộ hạn chế và mâu thuẫn
- Mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng.
- Khủng hoảng kinh tế đầu tiên nổ ra (1825)
- Giai cấp vô sản không ngừng lớn mạnh
- Xuất hiện CNXH không tưởng.
- Hệ thống lý luận của kinh tế tư sản cổ điển không còn phù hợp, đòi hỏi phải có học
thuyết kinh tế mới.
Trường phái Hậu Cổ Điển(HCĐ),mặc dù xuất hiện ngay sau trường phái TSCĐ nhưng
các nhà lý luận của trường phái HCĐ lại hoàn toàn xa rời những lý luận cuả trường phái
TSCĐ.Họ rời bỏ phương pháp trừu tượng hoá khoa học,không đi sâu vào phân tích bản
chất của sự vật,hiện tượng mà chỉ xem xét hời hợt bên ngoài.Đặc biệt là họ đã áp dụng
phương pháp tâm lý chủ quan trong phân tích kinh tế.Hơn nữa,họ lại xa rời lý thuyết về
giá trị lao động và đưa ra các lý luận về giá trị ích lợi hay giá trị các nhân tố sản xuất
vv...Ta có thể thấy được điều đó qua các học thuyết của một số đại diện tiêu biểu cho
trường phái này như R.Malthus và J.B.Say. Đây là trào lưu kinh tế học chính trị tư sản
không khoa học, không tìm hiểu bản chất bên trong của kinh tế tư bản chủ nghĩa, mà chỉ
miêu tả bề ngoài, nhằm mục đích ca tụng, biện hộ cho chủ nghĩa tư bản. Là học thuyết
mang tính chất chủ quan: Mục đích không phải để kế thừa và phát triển những tư tưởng
khoa học của nhân loại mà nhằm che đậy các mâu thuẫn và khuyết tật của chủ nghĩa tư
bản, từ đó ca ngợi và bảo vệ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, biện hộ cho chủ nghĩa
tư bản bằng mọi giá.
Trong phương pháp luận: Xa rời phương pháp luận của trường phái cổ điển, không đi


sâu vào phân tích bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế, chỉ chú ý xem xét các
hiện tượng bên ngoài. Đặc biệt là áp dụng phương pháp tâm lý chủ quan trong phân tích
kinh tế, coi kinh tế chính trị là khoa học nghiên cứu về đạo đức xã hội.
Sử dụng nhiều tài liệu, số liệu thiếu khoa học, phi lịch sử để nghiên cứu.


Về nội dung: Xuất phát từ mục tiêu bảo vệ giai cấp tư sản, biện hộ cho chủ nghĩa tư bản
một cách có ý thức nên họ không thể tìm kiếm và xây dựng những phạm trù, khái niệm
và quy luật khoa học. Họ quan tâm xem xét phạm trù quy luật có lợi hay không có lợi
cho giai cấp tư sản. Đúng như C.Mác đã nhận xét: “Sự nghiên cứu vô tư đã nhường chỗ
cho những trận chiến đấu của bọ viết văn thuê, những sự tìm tòi khoa học vô tư đã được
thay thế bằng sự ca tụng có tính chất thiên kiến và đê hèn”.
Học thuyết kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển không những không phát triển được lý
luận của học thuyết kinh tế tư sản cổ điển mà dần dần xa rời, sau đó đoạn tuyệt với
những nội dung khoa học của nó, đặc biệt lý luận giá trị - lao động. Họ chỉ quan tâm tới
việc tìm tòi những yếu điểm, những tư tưởng tầm trong học thuyết kinh tế tư sản cổ điển
để xây dựng thành hệ thống những quan điểm cho rằng: các phạm trù kinh tế là quy luật
tự nhiên, phi lịch sử, hay chủ nghĩa tư bản là tồn tại vĩnh viễn vv… Do vậy sự xuất hiện
của kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển là sự báo hiệu sự khủng hoảng về tư tưởng, lý
luận của giai cấp tư sản sau học thuyết kinh tế tư sản cổ điển.
Học thuyết kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển là học thuyết mang tính chất phản động,
trái với đạo lý của con người.
Quá trình phát triển:
Thời kỳ đầu: mục tiêu của kinh tế tư sản hậu cổ điển là phê phán những người xã hội
chủ nghĩa không tưởng và tách những yếu tố tầm thường của kinh tế chính trị tư sản cổ
điển để xây dựng thành hệ thống lý luận của mình.
Tiếp theo: kinh tế tư sản hậu cổ điển công khai tách khỏi kinh tế chính trị tư sản cổ điển,
phủ nhận và phê phán các học thuyết của kinh tế tư sản cổ điển, đặc biệt là học thuyết
giá trị - lao động.
Thời kỳ cuối thế kỷ thứ XIX, khi học thuyết kinh tế Mác ra đời , các nhà kinh tế tư sản

hậu cổ điển tập trung chống lại học thuyết kinh tế Mác.
Thời kỳ có lý luận của Lênin về chủ nghĩa đế quốc thì các nhà kinh tế tư sản hậu cổ điển
lại tập trung chống lại các luận điểm của Lênin.
Tóm lại, mục đích của kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điền là lý giải cho sự tồn tại của
chủ nghĩa tư bản là hợp quy luật và vĩnh viễn.
Câu 2: Lí luận nhân khẩu, giá trị và lợi nhuận khủng hoảng kinh tế của
Th.R.Malthus.
Lí luận nhân khẩu:
Cứ 25 năm, Dân số tăng nhanh theo cấp số nhân: 1,2,4,8,16,32,64……
Tư liệu:khảo sát tốc độ gia tăng dân số ở Mĩ TK17,18
Trong khi đó: Của cải và tư liệu sinh hoạt tăng chậm theo cấp số cộng: 1,2,3,4,5,6, 7…


Tư liệu:dựa vào những tài liệu ở nc Pháp và lập luận về quy luật độ màu mỡ của đất đai
ngày càng giảm.
Sự nghèo khổ đói khát không phải do chế độ xã hội mà do số dân k thích ứng với số tư
liệu sinh hoạt.
Giải pháp ông nêu ra để lập lại thế cân bằng: gây chiến tranh,phát triển dịch bệnh,bắt
công nhân lao động quá sức…Về sau ông thêm vào những giải pháp hạn chế sinh đẻ.
Đánh giá:
Số liệu khập khiễng, cùng thời gian nhưng không cùng không gian.
Võ đoán, tùy tiện khi không hiểu rằng dân sốMĩ tăng nhanh k phải chỉ do gia tăng tự
nhiên mà còn do các cuộc di dân từ châu Âu.
Tùy tiện áp đặt quy luật của giới động vật lên con người trong nghiên cứu3/9/2015 Lịch
sử các học thuyết kinh tế
Lí luận giá trị:
Lợi dụng yếu tố tầm thường trong lí luận của A.Smith khi cho rằng “Giá trị hàng hóa
bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua đc bằng hàng hóa đó. Các chi phí này
bao gồm chi phí về lao động sống,chi phí về lao động vật hoá cộng với lợi nhuận tư bản
ứng trước”. Theo Malthus, lao động có thể mua đc bằng hàng hóa là do chi phí để sản

xuất ra hàng hóa đó quyết định.
Malthus phủ nhận lao động tạo ra giá trị và coi lợi nhuận là yếu tố cấu thành khác của
giá trị. từ đó coi lợi nhuận như 1 khoản thặng dư ngoài số lao động hao phí để sản xuất
hàng hóa. Malthus đã đưa ra quan niệm sai lầm về lợi nhuận,coi lợi nhuận "là khoản dôi
ra ngoài chi phí về lao động sống và lao động vật hoá".Với quan niệm này về lợi nhuận
vô hình chung,Malthus đã dẫn tới một cách giải thích sai lầm về nguồn gốc của lợi
nhuận,cho rằng không chỉ sức lao động của người công nhân mà cả các công cụ lao
động và đối tượng lao động cũng tham gia vào quá trình hình thành lợi nhuận.
Lí luận lợi nhuận khủng hoảng:(cái này chính là thuyết người thứ 3)
Lợi nhuận là một khoản cộng thêm vào giá cả, xuất hiện là do chuyển nhượng, nhưng ai
là ng trả khoản đó? Theo R.M lợi nhuận không thể xuất hiện trong trao đổi giữa các nhà
tư bản. Malthus nhận định trong phạm vu khả năng những người đảm nhiệm sản xuất
không thể tìm ra lượng cầu có khả năng thanh toán cho phần lượng cung do lợi nhuận
đại biểu. Do đó tình trạng sản xuất thừa sẽ xuất hiện. Xã hội chỉ có tư bản và công nhân
thì không thể tránh khỏi tai họa đó.
Vì vậy cần có tiêu dùng của giai cấp k sản xuất như quý tộc tăng lữ…một cách hoang
phí để tạo lượng cầu cho nhà tư bản nhằm giải quyết tình trạng sản xuất thừa.


Câu 3: Lí luận giá trị ích lợi, 3 nhân tố sản xuất, thất nghiệp và khủng hoảng kinh
tế của J.B.Say.
Lí luận về giá trị ích lợi:
Nguyên lí giá trị ích lợi của J.B.Say đối lập hoàn toàn với trường phái cổ điển Anh khi
cho rằng sản xuất tạo ra giá trị sử dụng, giá trị sử dụng truyền giá trị cho các vật. Giá trị
là thước đo tính hữu dụng. Ông ta không phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị do đó
che đậy bản chất và đặc thù xã hội của giá trị. J.B.Say cho rằng giá trị càng cao thì tính
hữu dụng càng lớn, của cải càng nhiều thì giá trị càng lớn.
(Điều này đi ngược với lí luận giá trị của D.Ricardo: Ông đã có sự phân biệt rõ ràng dứt
khoát hơn giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, ông nhấn mạnh “ tính hữu ích không
phải là thước đo giá trị trao đổi, mặc dầu nó rất cần thiết cho giá trị này”; năng suất lao

động tăng lên sẽ ảnh hưởng một cách khác nhau đến của cải và giá trị.
Ông phê phán sự đồng nhất hai khái niệm tăng của cải và tăng giá trị. “Giá trị của hàng
hóa nhiều hay ít không phụ thuộc vào khối lượng của cải nhiều hay ít mà phụ thuộc điều
kiện thuận lợi hay khó khăn”.)
Ngay trong lí luận này, Say lại tự mâu thuẫn vs chính mình:ở 1 chỗ khác,ông cho rằng
quan hệ cung-cầu cũng quyết định giá trị.Ông nói thước đo giá trị của hàng hóa bằng số
lượng các đồ vật mà ng khác đồng ý đưa ra để đổi lấy hàng hóa nói trên. Theo C.Mác
luận điểm này cho thấy vật càng hiếm thì giá trị càng cao tuy nhiên C.Mác đã chứng
minh được cung cầu chỉ là điều tiết mức chênh lệch giữa giá cả thi trường và giá trị hàng
hóa.
Lí luận 3 nhân tố sản xuất:
Tiền đề:
- lí thuyết giá trị ích lợi của ông
- quan niệm sai lầm của A.Smith về cơ cấu giá trị: Giá trị=tiền công(v)+lợi nhuận(p)+địa
tô(r) ->giá trị=v+m
Nội dung: theo ông, tham gia vào quá trình SX gồm 3 nhân tố: lao động, tư bản, đất đai.
Mỗi 1 nhân tố có 1 ích lợi riêng. Do đó tạo ra tương ứng vs nó 1 bộ phận giá trị: ích lợi
của lao động tạo ra tiền công, ích lợi của tư bản tạo ra lợi nhuận, ích lợi của đất đai tạo
ra địa tô. Ích lợi của 3 nhân tố trên tạo ra giá trị của HH.
Lí luận về thất nghiệp:
Là ng ca ngợi CNTB,J.Say tìm mọi cách để che đậy hậu quả của việc sử dụng máy móc
theo lối TBCN. Ông đưa ra ‘thuyết bù trừ’ để giải thích nạn thất nghiệp.
Theo Say,chỉ trong thời kì đầu,việc sử dụng máy móc có 1 số điều bất tiện,gạt bỏ 1 bộ
phận công nhân ra và làm cho họ tạm thời ko có việc làm.Nhưng cuối cùng thì công


nhân vẫn có lợi vì việc sử dụng máy móc,công ăn việc làm sẽ tăng lên bằng 1 nghề
khác.Ông còn cho rằng việc dùng máy móc để sản xuất làm cho hàng hóa rẻ đi,công
nhân là ng có lợi nhất.
Theo cách trình bày của Say,công nhân là “g/cấp quan tâm đến thành tựu kĩ thuật của

SX hơn tất cả các g/cấp khác”.Thực ra,ông chỉ muốn CM sự hòa hợp lợi ích giữa tư bản
và lao động.
Lí luận về khủng hoảng:
Công cụ để CM:
Quy luật thị trường: dưới tác động của CNTB, khối lượng HH bán ra bằng khối lượng
HH mua vào (AD=AS) nên ko thể có SX thừa. Do:
- Hàng hóa đc trao đổi bằng hàng hóa.
- Người bán đồng thời là người mua.
- Sản xuất tự tạo ra thị trường.
- Tiền chỉ là vật trung gian làm cho trao đổi đc thực hiện dễ dàng.
- Nên cung tự tạo ra cầu
Ông cũng thừa nhận tình trạng SX thừa có thể xảy ra, ông dự kiến có 2 khả năng:
- SX thừa do sức mua ko đủ:chỉ xảy ra mang tính cục bộ,quy luật thị trường có khả năng
tự điều chỉnh
- Thừa tuyệt đối: điều này thực tế ko bao giờ xảy ra vì nhu cầu của con ng là vô cùng
Ông cho rằng sản xuất thừa chỉ là sự mất cân đối về cơ cấu,còn trên phạm vi toàn xã hội
ko thể có khủng hoảng sản thừa nên lí luận này mang tính bao biện, tầm thường.



×