Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tài liệu ôn thi lịch sử các học thuyết kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.03 KB, 17 trang )

CHƯƠNG 6: TRƯỜNG PHÁI TÂN CỔ ĐIỂN
Câu 1: Trình bày lí luận ích lợi giới hạn và giá trị giới hạn của Áo, cho vài ví dụ để
CMR tư tưởng giới hạn của trường phái đã đc kinh tế học hiện đại kế thừa và phát triển (
= tư tường giới hạn đc những trường phái nào kế thừa và phát triển).
Câu 2: CMR trường phái giới hạn ở Áo đã xa rời nguyên lí giá trị lao động của TP cổ
điển Anh và đi theo nguyên lí giá trị lợi ích của Say.35
Câu 3: Dựa trên cơ sở nào mà J.B.Clark đề ra nguyên tắc trả lương cho công nhân theo
sản phẩm giới hạn, theo anh (chị) nguyên tắc trả lương đó có bóc lột hay không? vì sao?.
35
Câu 4: CMR lí thuyết cân bằng thị trường của L.Walras thể hiện đặc trưng phương pháp
luận của TP Tân cổ điển (thể hiện sự kế thừa và phát triển bàn tay vô hình của
A.Smith).36
Dựa vào lí thuyết này có thể khắc phục các vấn đề khủng hoảng thất nghiệp không? Vì
sao?. 36
Câu 5: Chứng minh rằng Lí thuyết giá cả của A.Marshall thể hiện rõ đặc điểm phương
pháp luận của trường phái tân cổ điển ( kế thừa và phát triển bàn tay vô hình của
A.Smith)38
Câu 6: Trình bày nội dung lí thuyết giá cả của A.Marshall, rút ra ý nghĩa lí luận và thực
tiễn từ việc nghiên cứu lí thuyết này.38
Câu 7: CMR lí thuyết kinh tế của TP Tân cổ điển là cơ sở hình thành kinh tế học vi
mô.41
Câu 8: So sánh đặc điểm phương pháp luận của trường phái cổ điển Anh với Tân cổ
điển.42
Câu 9: Đánh giá trường phái tân cổ điển.44
Câu 1: Trình bày lí luận ích lợi giới hạn và giá trị giới hạn của Áo, cho vài ví dụ để
CMR tư tưởng giới hạn của trường phái đã đc kinh tế học hiện đại kế thừa và phát
triển ( = tư tường giới hạn đc những trường phái nào kế thừa và phát triển).
Lí luận ích lợi giới hạn:
Được phát triển từ tư tưởng của nhà kinh tế học người Đức Herman Gossen (1810-1858)
ông đã đưa ra định luật nhu cầu và tư tưởng về ích lợi giới hạn. Từ đó các nhà kinh tế
của trường phái thành Viên (Áo) đã phát triển thành lí thuyết kinh tế "ích lợi giới hạn".


Tác giả:Carl Menger(1840-1921)
· Tiền đề: 2 định luật về nhu cầu của Herman Gossen(1810-1858)
Định luật 1: bất cứ 1 nhu cầu nào của con ng cũng có thể đc t/m nếu như ng ta tiêu dùng
1 loại sp có tính năng đáp ứng đc nhu cầu. Cường độ của nhu cầu giảm dần khi số lượng


sp đc đưa ra để thỏa mãn nhu cầu tăng lên. Nhu cầu sẽ ko còn nữa nếu như con ng đc
t/m sp đến tột độ (cường độ nhu cầu bằng 0)
Định luật 2: Cá nhân ý thức đc nhu cầu của mình và biết rõ cách thức để t/m nhu cầu vì
vậy nếu như biết suy luận,tính t oán thì cá nhân sẽ sắp xếp nhu cầu theo 1 trật tự nhất
định. Trật tự này hoặc là căn cứ vào cường độ của nhu cầu hoặc là căn cứ vào ý muốn
của cá nhân cho thấy đc nhu cầu nào là cấp thiết và mức độ cấp thiết của từng nhu
cầu,để từ đó con ng có kế hoạch chi tiêu thích hợp. Trong trường hợp thu nhập của con
ng còn thấp thì việc tiêu dùng thường chỉ giới hạn ở những nhu cầu cấp thiết còn khi thu
nhập tăng dần lên,con ng có xu hướng tiêu dùng những HH cao cấp, xa xỉ nhiều hơn.
· Nội dung:
Ích lợi là đặc tính cụ thể của vật mà nhờ đó những nhu cầu khác nhau của con ng đc
t/m,phân ra thành ích lợi chủ quan,khách quan,ích lợi cụ thể,trìu tượng.
Do nhu cầu của con ng có cường độ khác nhau nên nếu như đc tuần tự t/m thì nhu cầu sẽ
có cường độ giảm và theo đà tăng của vật đc đưa ra để t/m nhu cầu thì vật sau sẽ đc đánh
giá lợi ích thấp hơn vật trước.Vì vậy vs 1 số lượng sp có giới hạn thì vật đc đưa ra sau
cùng sẽ đc gọi là sp giới hạn và ích lợi của vật đó đc gọi là ích lợi giới hạn.
Ích lợi khách quan: là ích lợi vốn có của vật chất (ví dụ: củi đốt thì nóng lên).
Ích lợi chủ quan: là ích lợi được sử dụng theo yêu cầu con người (ví dụ: con người
dùng sức nóng của củi đốt để sưởi ấm , nấu ăn, ...).
Ích lợi cụ thể: là ích lợi của số lượng vật phẩm mà người ta có thể đo lường được (ví
dụ: quần áo để mặc, gạo để ăn, ...).
Theo đà thỏa mãn nhu cầu, ích lợi có xu hướng giảm dần. Cùng với đà tăng lên của
vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu thì "mức bão hòa" về vật phẩm tăng lên còn "mức độ cấp
thiết" của nhu cầu giảm xuống. Do đó theo đà thỏa mãn nhu cầu tăng thì ích lợi của vật

có xu hướng giảm (vật phẩm sau đưa ra thỏa mãn nhu cầu có ích lợi ít hơn vật phẩm
trước) . Với số lượng vật phẩm nhất định, vật phẩm cuối cùng để thỏa mãn nhu cầu sẽ là
"vật phẩm giới hạn", ích lợi của nó là "ích lợi giới hạn", nó quyết định ích lợi chung của
tất cả các vật phẩm khác. Như vậy, Ích lợi giới hạn là ích lợi của vật đc đưa ra sau cùng
để t/m nhu cầu; vật đó có ích lợi nhỏ nhất và quy định lợi ích của tất cả các vật khác.
Thế giới quan giữa ích lợi giới hạn vs số lượng sp đc đưa ra để t/m nhu cầu là tương
quan tỉ lệ nghịch. Số lượng sản phẩm kinh tế càng ít thì "ích lợi giới hạn" càng lớn. Sản
phẩm kinh tế tăng thì tổng ích lợi tăng còn "ích lợi giới hạn" giảm, có thể dẫn tới 0 (ví
dụ: nước quá nhiều, không còn khan hiếm thì chỉ còn ích lợi trừu tượng).
Lí luận giá trị giới hạn:
· Tiền đề:
Lí luận giá trị ích lợi của J.B.Say.


Lí luận ích lợi giới hạn.
· Nội dung:
Phủ nhận lí thuyết giá trị lđ của trường phái ‘TS cổ điển’ và C.Mác.
Đưa ra lý thuyết giá trị - ích lợi (giá trị - chủ quan): Theo đó “ích lợi giới hạn” quyết
định giá trị của sản phẩm kinh tế, đó là “giá trị giới hạn”, nó quyết định giá trị của tất cả
các sản phẩm khác (ích lợi của vật quyết định giá trị - ở đây là: “ích lợi giới hạn”).
Muốn có nhiều giá trị phải tạo ra sự khan hiếm.
Về Giá trị trao đổi (GTTĐ): Ngược với A.X cho rằng GTTĐ là khách quan, Menger
(một nhà kinh tế học trường phái cổ điển mới) cho rằng GTTĐ là chủ quan, sở dĩ hai
người trao đổi sản phẩm cho nhau là vì cả hai đều tin rằng sản phẩm mà mình bỏ ra đối
với mình ít giá trị hơn sản phẩm mà mình thu về (ở đây có sự so sánh các sản phẩm, nếu
có lợi mới trao đổi, căn cứ vào nhu cầu bản thân).
+ Hai điều kiện để hành vi trao đổi được thực hiện:
- Cả hai đều có lợi trong trao đổi.
- Sản phẩm dư thừa của người này là khan hiếm của người kia và ngược lại.
+ Các hình thức giá trị:

- Giá trị khách quan: xuất phát từ tác dụng của một vật mang lại cho ta kết quả cụ thể
(than đốt cho nhiệt lượng), đây là mối quan hệ người với vật và kết quả xuất phát từ việc
sử dụng vật, không bao hàm những phán đoán chủ quan của con người.
- Giá trị chủ quan: xuất phát từ sự tiêu dùng những kết quả mà sản phẩm mang lại cho
con người quy định sử dụng nó như thế nào (nhiệt lượng đốt than sử dụng vào việc gì).
Từ đó phân chia giá trị sử dụng và giá trị trao đổi thành: giá trị sử dụng chủ quan, giá trị
trao đổi chủ quan, giá trị sử dụng khách quan, giá trị trao đổi khách quan.
ØKế thừa và phát triển:
Lí thuyết “Năng suất giới hạn”, “ng công nhân giới hạn”và “sp giới hạn”của J.B.Clark
trong trường phái giới hạn ở Mĩ. A.Marshall nhà kinh tế thuộc trường phái Cambridge
Anh cũng cho rằng nhu cầu về của cải là có giới hạn và khẳng định giá cầu của người
mua được quyết định bởi ích lợi giới hạn.
J.M.Keynes và P.A.Samuelson đã ủng hộ lí thuyết này:
Keynes đã xây dựng lí thuyết “Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn” và “Hiệu quả giới hạn
của tư bản”. Samuelson đưa ra lí thuyết “Giới hạn khả năng sản xuất” và “Sự lựa chọn”
Câu 2: CMR trường phái giới hạn ở Áo đã xa rời nguyên lí giá trị lao động của TP
cổ điển Anh và đi theo nguyên lí giá trị lợi ích của Say.


Theo trường phái cổ điển Anh, giá trị là khách quan, lao động hao phí để tạo nên hàng
hóa quyết định giá trị hàng hóa đó. Nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là
năng suất lao động và tính chất lao động.
Thêm nữa, khi nghiên cứu nguyên lí giá trị lao động, TP cổ điển Anh xuất phát từ 2
thuộc tính của hàng hóa đó là giá trị sử dụng và giá trị và phân biệt được chúng. Không
phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng có giá trị. Giá trị sử dụng không quyết định giá
trị trao đổi.
Ngược lại, nguyên lí giá trị ích lợi của J.B.Say đối lập hoàn toàn với trường phái cổ điển
Anh khi cho rằng sản xuất tạo ra giá trị sử dụng, giá trị sử dụng truyền giá trị cho các
vật. Giá trị là thước đo tính hữu dụng.
Ông ta không phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị do đó che đậy bản chất và đặc thù

xã hội của giá trị.
J.B.Say cho rằng giá trị càng cao thì tính hữu dụng càng lớn.
Trong khi đó, trường phái giới hạn cho rằng giá trị là chủ quan, và ích lợi quyết định giá
trị. Theo đó “ích lợi giới hạn” quyết định giá trị của sản phẩm kinh tế, đó là “giá trị giới
hạn”, nó quyết định giá trị của tất cả các sản phẩm khác (ích lợi của vật quyết định giá
trị - ở đây là: “ích lợi giới hạn”). Muốn có nhiều giá trị phải tạo
ra sự khan hiếm.
Như vậy cũng giống như nguyên lí giá trị ích lợi của J.B.Say, TP giới hạn của Áo cho
rằng ích lợi tạo nên giá trị và phát triển thêm “ích lợi giới hạn” phủ nhận lí luận trường
phái cổ điển Anh rằng lao động hao phí mới tạo ra giá trị.
Có thể thấy trường phái giới hạn ở Áo đã xa rời nguyên lí giá trị lao động của TP cổ điển
Anh và đi theo nguyên lí giá trị lợi ích của Say
Câu 3: Dựa trên cơ sở nào mà J.B.Clark đề ra nguyên tắc trả lương cho công nhân
theo sản phẩm giới hạn, theo anh (chị) nguyên tắc trả lương đó có bóc lột hay
không? vì sao?
Trên cơ sở lí luận “năng suất giới hạn”, Clark đưa ra lí luận tiền lương và lợi nhuận.
Nội dung năng suất giới hạn: J.B.Clark cho rằng ích lợi của lao động thể hiện ở năng
suất của nó tuy nhiên năng suất lao động giảm dần, ng công nhân đc thuê sau cùng là
người công nhân giới hạn. Năng suất của anh ta là năng suất giới hạn. Đó là năng suất
thấp nhất và nó quyết đinh năng suất chung của các CN khác.
Ông sử dụng lí luận “năng lực chịu trách nhiệm” để phân tích. Theo lí luận này, thu nhập
là “năng lực chịu trách nhiệm” của các nhân tố sản xuất. Ở đây, công nhân có lao động,
nhà tư bản có tư bản. Họ đều nhận đc “sp giới hạn” tương ứng.
Theo Clark, tiền lương của CN bằng “sp giới hạn” của lđộng. Phần còn lại là “thặng dư
của ng tiêu dùng lao động”. Với sự phân phối như vậy, Clark cho rằng sẽ ko còn sự bóc


lột nữa.Vì ng công nhân giới hạn đã nhận đc sp đầy đủ do anh ta tạo ra, do đó anh ta ko
bị bóc lột. Những ng công nhân khác cũng sẽ nhận đc tiền lương theo mức tiền lương
của ng công nhân giới hạn đó.Vì thế họ cũng ko bị bóc lột. Nguyên tắc này đc áp dụng

cho phân phối địa tô và lợi tức.
Nguyên tắc trả lương như Clark tuy đã được ông giải thích bằng lí luận kinh tế nhưng
vẫn là bóc lột. Nguyên tắc trả lương theo sản phẩm mà C.Mac đề ra là đơn giá tiền công
đc xác định bằng thương số giữa tiền công trung bình của công nhân trong 1 ngày với số
sản phẩm trung bình của một công nhân tạo ra trong một ngày. Thực chất đơn giá tiền
công là tiền trả cho thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm.
Sản phâm giới hạn bao h cũng ít hơn mức sản phẩm trung bình các công nhân sản xuất
ra nguyên nhân do sự có hạn của máy móc nhà xưởng. vì vậy trả công theo sản phẩm
giới hạn sẽ thấp hơn trả theo mức sản phẩm trung bình.
Hơn nữa Clark cho rằng phần còn lại là thặng dư của ng tiêu dùng lao động nhưng thực
chất, tư bản k tạo ra giá trị thặng dư, giá trị thặng dư là do lao động của công nhân tạo
ra, như thế nguyên tắc trả lương của Clark vẫn là tước đoạt phần giá trị thặng dư của lao
động.
Câu 4: CMR lí thuyết cân bằng thị trường của L.Walras thể hiện đặc trưng
phương pháp luận của TP Tân cổ điển (thể hiện sự kế thừa và phát triển bàn tay vô
hình của A.Smith). Dựa vào lí thuyết này có thể khắc phục các vấn đề khủng hoảng
thất nghiệp không? Vì sao?
ØNội dung lí thuyết:(đi thi không cần chép nội dung)
Cơ cấu nền kinh tế thị trường có 3 loại thị trường:
- Thị trường sản phẩm (TTSP): Nơi mua bán hàng hóa, tương quan trao đổi giữa các loại
hàng hóa là giá cả của chúng .
- Thị trường tư bản (TTTB): Nơi hỏi và vay tư bản, lãi suất tư bản cho vay là giá cả của
tư bản.
- Thị trường lao động (TTLĐ): Nơi thuê mướn công nhân, tiền lương (tiền công) là giá
cả của lao động .
Ba thị trường độc lập với nhau, nhưng nhờ hoạt động của doanh nhân nên có quan hệ
với nhau, cụ thể:
- Doanh nhân: là người sản xuất hàng hóa để bán .
- Để sản xuất họ phải vay vốn (ở thị trường tư bản), thuê công nhân (ở thị trường lao
động) vì thế họ là sức cầu trên hai thị trường này (tạo ra sức cầu cho xã hội). Chi phí sản

xuất là: Lãi suất trả tư bản và tiền lương .
- Khi sản xuất được hàng hóa: họ đem bán trên TTSP, khi đó họ là sức cung trên TTSP.


- Mối quan hệ được hình thành như sau:
Khi bán sản phẩm trên thị trường được giá cao hơn chi phí sản xuất doanh nhân sẽ có có
lãi vì thế họ mở rộng sản xuất nên phải vay thêm tư bản, thuê thêm công nhân làm cho
sức cầu trên TTTB và TTLĐ tăng dẫn đến giá cả của tư bản và lao động tăng kết quả là
chi phí sản xuất tăng .
Mặt khác, sản phẩm sản xuất tăng thì sản phẩm hàng hóa trên TTSP tăng nên giá cả
hàng hóa giảm làm cho thu nhập của doanh nhân giảm. Khi giá cả của hàng hóa sản xuất
tăng thêm ngang bằng chi phí sản xuất ra chúng thì doanh nhân không có lời trong việc
sản xuất thêm vì vậy họ không mở rộng sản xuất nữa (không vay thêm tư bản và thuê
thêm công nhân nữa) .
Từ đó làm cho giá cả tư bản và lao động ổn định dẫn đến giá hàng hóa ổn định (tiền
công, lãi suất, giá hàng tiêu dùng đều ổn định) Khi đó ba thị trường đều đạt được trạng
thái cân bằng, nền kinh tế ở trạng thái cân bằng tổng quát (Sự cân bằng tổng quát giữa
các thị trường) – Điều này được thực hiện thông qua dao động tự phát của cung cầu và
giá cả trên thị trường trong điều kiện tự do cạnh tranh
Điều kiện để có cân bằng tổng quát là: có sự cân bằng giữa thu nhập bán hàng hóa sản
xuất thêm và chi phí sản xuất ra chúng (Sự cân bằng giữa giá hàng hóa và chi phí sản
xuất) .
Tóm lại: Những nhà kinh tế thuộc trường phái cổđiển muốn tin tưởng vào sức mạnh
củanền kinh tế thị trường và sự hoạtđộng của các quy luật kinh tế. Theo họ, sựđiều tiết
của “bàn tayvô hình” sẽđảm bảo cho quá trình tái sản xuất phát triển bình thường .
ØThể hiện đặc trưng phương pháp luận của trường phái tân cổ điển:
Tập trung nghiên cứu nền kinh tế trong quan hệ trao đổi lưu thông, chứ không quan tâm
đến quá trình sản xuất, cụ thể ở đây là ba loại thị trường: sản phẩm, tư bản và lao động.
L.Walras tập trung nghiên cứu hoạt động của các doanh nhân từ đó hiểu được mối quan
hệ và cơ chế hoạt động của 3 loại thị trường điều đó thể hiện phương pháp vi mô trong

nghiên cứu của ông.
Đồng thời việc nghiên cứu mối quan hệ và cơ chế vận động của 3 loại thị trường trên cơ
sở hoạt động của các doanh nhân với các mục tiêu như tăng lợi nhuận hay giảm chi phí
=> điều này thể hiện tâm lí chủ quan cá biệt, cá nhân trong phân tích kinh tế.
Ông kế thừa và phát triển tư tưởng tự do kinh tế - bàn tay vô hình của A.Smith:
Lí thuyết “Bàn tay vô hình”:
Con người khi tham gia các hoạt động kinh tế ngoài bị chi phối bởi lợi ích cá nahan còn
chịu tác động của các quy luật kinh tế khách quan thậm chí đáp ứng nhu cầu của xã hội
tốt hơn lợi ích cá nhân.


Điều kiện cần thiết để các quy luật kinh tế khách quan hoạt động: sự tồn tại và phát triển
của sản xuất và trao đổi hàng hóa; nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do kinh tế (tự do
sản xuất, tự do liên doanh liên kết, tự do mậu dịch).
Nhà nước không cần thiết phải can thiệp vào nền kinh tế vì bản thân cơ chế thị trường có
thể giải quyết hài hòa các mối quan hệ của nền kinh tế.
Lí thuyết cân bằng tổng quát:
Trong nền kinh tế tồn tại 3 thị trường độc lập: thị trường hàng hóa, lao động và tư bản
được liên kết với nhau thông qua hoạt động của doanh nhân.
Khi bán sản phẩm trên thị trường được giá cao hơn chi phí sản xuất doanh nhân sẽ có có
lãi vì thế họ mở rộng sản xuất nên phải vay thêm tư bản, thuê thêm công nhân làm cho
sức cầu trên TTTB và TTLĐ tăng dẫn đến giá cả của tư bản và lao động tăng kết quả là
chi phí sản xuất tăng .
Mặt khác, sản phẩm sản xuất tăng thì sản phẩm hàng hóa trên TTSP tăng nên giá cả
hàng hóa giảm làm cho thu nhập của doanh nhân giảm. Khi giá cả của hàng hóa sản xuất
tăng thêm ngang bằng chi phí sản xuất ra chúng thì doanh nhân không có lời trong việc
sản xuất thêm vì vậy họ không mở rộng sản xuất nữa (không vay thêm tư bản và thuê
thêm công nhân nữa) .
Từ đó làm cho giá cả tư bản và lao động ổn định dẫn đến giá hàng hóa ổn định (tiền
công, lãi suất, giá hàng tiêu dùng đều ổn định) Khi đó ba thị trường đều đạt được trạng

thái cân bằng, nền kinh tế ở trạng thái cân
bằng tổng quát (Sự cân bằng tổng quát giữa các thị trường) – Điều này được thực hiện
thông qua dao động tự phát của cung cầu và giá cả trên thị trường trong điều kiện tự do
cạnh tranh.
Điều kiện để có cân bằng tổng quát là: có sự cân bằng giữa thu nhập bán hàng hóa sản
xuất thêm và chi phí sản xuất ra chúng (Sự cân bằng giữa giá hàng hóa và chi phí sản
xuất).
Điểm kế thừa:
Nội dung lí thuyết thể hiện sự tập trung quan điểm về cơ chế thị trường tự điều tiết trong
nền kinh tế hàng hóa TBCN.
Hoạt động của các doanh nhân không phải do tự phát mà bị chi phối bởi các quy luật
kinh tế khách quan, theo biến động của quan hệ cung cầu và giá cả hàng hóa.
Theo ông, cơ chế tự điều tiết của “Bàn tay vô hình” sẽ làm cho tái sản xuất diễn ra bảo
đảm đc tỉ lệ cân đối và duy trì đc sự phát triển bình thường.
ØDựa vào lí thuyết này không thể giải quyết các vấn đề khủng hoảng. (câu này k đảm
bảo chuẩn nhé)


Giải thích:
Vì nó quá đề cao vai trò của cơ chế thị trường, đặt niềm tin tuyệt đối vào cơ chế đó, mà
chưa biết đến mặt trái, tác động tiêu cực và những thất bại mà tự cơ chế đó sinh ra. Ông
ko thừa nhận khủng hoảng kinh tế, ko thấy nguồn gốc và tác động của khủng hoảng kinh
tế cũng như ko thấy đc vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Lịch sử đã chứng minh bản thân khủng hoảng kinh tế là một khuyết tật của cơ chế thị
trường, tự bản thân cơ chế thị trường không thể giải quyết được đòi hỏi bàn tay nhà
nước can thiệp nhằm khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trưởng.
Hơn nữa, việc mở rộng sản xuất dẫn đến giảm giá thành sản phẩm và tăng lãi suất tiển
lương cho công nhân thường không tương xứng với nhau dẫn đến “khủng hoảng thừa”.
Hàng hóa sản xuất ra quá nhiều, người công nhân tuy có nhu cầu về hàng hóa nhưng tiền
lương ít ỏi không đủ chi trả nên không thể mua được.

Câu 5: Chứng minh rằng Lí thuyết giá cả của A.Marshall thể hiện rõ đặc điểm
phương pháp luận của trường phái tân cổ điển ( kế thừa và phát triển bàn tay vô
hình của A.Smith)
ØĐặc trưng phương pháp luận của Trường phái tân cổ điển:
Marshall tập trung nghiên cứu nền kinh tế trong quan hệ trao đổi lưu thông, chứ không
quan tâm đến quá trình sản xuất.
Ông đưa ra các phạm trù kinh tế mới: cung, cầu, giá cung, giá cầu, hệ số co dãn của
cầu… là sự phối hợp các phạm trù toán học và kinh tế học để giải thích quy luật kinh tế.
Ông đã biết sử dụng công cụ toán học trong phân tích kinh tế: đồ thị, công thức.
Để xây dựng mô hình cung - cầu thị trường Marshall đi sâu vào phân tích tâm lí, hành vi
của người tiêu dùng và nhà sản xuất từ đó rút ra kết luận cho toàn nền kinh tế => áp
dụng phương pháp vi mô trong nghiên cứu.
Theo ông giá trị là phạm trù siêu hình, vô nghĩa, chỉ có giá cả là phạm trù thiết thực và
cụ thể vì thế nhà kinh tế không đề cập tới phạm trù giá trị.
Việc phân tích mối quan hệ cung cầu dưới góc độ hành vi của người mua và người bán
đều mong muốn đạt được lợi ích tốt nhất cho mình (người mua chỉ quan tâm đến việc
tốn ít tiền nhất mà thỏa mãn được tốt nhất nhu cầu của mình, người bán chỉ quan tâm
đến lợi nhuận) mà không quan tâm đến nền sản xuất, bối cảnh lịch sử xã hội nói chung
=> điều này thể hiện tâm lí chủ quan cá biệt, cá nhân trong phân tích kinh tế.
Việc phân tích cung- cầu thị trường một cách thuần túy cũng thể hiện việc Marshall
muốn xây dựng một nền kinh tế học thuần túy không bị tác động bởi yếu tố giai cấp.
Kế thừa và phát triển Bàn tay vô hình của A.Smith.
Lí thuyết “Bàn tay vô hình”:


Con người khi tham gia các hoạt động kinh tế ngoài bị chi phối bởi lợi ích cá nhân còn
chịu tác động của các quy luật kinh tế khách quan thậm chí đáp ứng nhu cầu của xã hội
tốt hơn lợi ích cá nhân.
Điều kiện cần thiết để các quy luật kinh tế khách quan hoạt động: sự tồn tại và phát triển
của sản xuất và trao đổi hàng hóa; nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do kinh tế (tự do

sản xuất, tự do liên doanh liên kết, tự do mậu dịch).
Nhà nước không cần thiết phải can thiệp vào nền kinh tế vì bản thân cơ chế thị trường có
thể giải quyết hài hòa các mối quan hệ của nền kinh tế.
Lí thuyết giá cả của Marshall:
Ông tập trung nghiên cứu nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh.
Ông cho rằng: Ở trên thị trường, giá cả đc hình thành một cách tự phát do tác động của
mối quan hệ cung cầu. Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì hình thành nên giá cả cân
bằng hay giá cả thị trường: “Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì sẽ chấm dứt cả khuynh
hướng tăng dẫn khuynh hướng giảm, lượng hàng hóa
sản xuất, thế cân bằng được thiết lập”.
=> Marshall đề cao sự tự phát của cơ chế thị trường, coi nhẹ sự can thiệp của Nhà nước
vào kinh tế, tin tưởng cơ chế thị trường tự phát đảm bảo cân bằng kinh tế.
Câu 6: Trình bày nội dung lí thuyết giá cả của A.Marshall, rút ra ý nghĩa lí luận và
thực tiễn từ việc nghiên cứu lí thuyết này.
· Lí thuyết giá cả của A.Marshall:
Ở trên thị trường, giá cả đc hình thành một cách tự phát do tác động của mối quan hệ
cung cầu:
· Cầu và giá cầu:
- Cầu là biểu hiện của nhu cầu có khả năng thanh toán, nó được biểu hiện bởi khối lượng
tiền tệ và giá cả nhất định.
- Nhân tố ảnh hưởng đến cầu: nhu cầu; thu nhập; giá cả của bản thân hàng hóa.
- Hệ số co dãn của cầu phản ánh mối sự thay đổi của cầu dưới sự thay đổi của giá.
: sự thay đổi của cầu.
: sự thay đổi của giá.
K: hệ số co dãn của cầu theo giá.
K=:=
Sự co dãn của cầu phụ thuộc vào các nhân tố sau: mức giá cả, giá cả của các hàng hóa
có liên quan, sức mua của dân cư và nhu cầu mua sắm của dân cư.
· Cung và giá cung:



- Cung là khối lượng hàng hóa sản xuất ra đem bán trên thị trường với một giá cả nhất
định.
- Nhân tố ảnh hưởng đến cung: giá cả hàng hóa đó.
· Cân bằng thị trường và giá cả thị trường
- Thị trường là tổng thể những người có quan hệ mua bán hay là nơi gặp gỡ của cung và
cầu. Khi nghiên cứu cơ chế thị trường, Marshall cho rằng một mặt trong điều kiện cạnh
tranh hoàn toàn thì cung cầu phụ
thuộc vào giá cả. Mặt khác, cơ chế thị trường tác động làm giá cả phù hợp với cung cầu,
nghĩa là giá cả được quyết định bởi cung, cầu. Theo ông, giá cả là quan hệ số lượng mà
trong đó hàng hóa và tiền tệ được trao đổi với nhau.
- Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì hình thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị
trường: “Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì sẽ chấm dứt cả khuynh hướng tăng dẫn
khuynh hướng giảm, lượng hàng hóa sản xuất, thế cân bằng được thiết lập”.
- Marshall cho rằng, yếu tố thời gian có ảnh hưởng quan trọng đến cung, cầu và giá cả
cân bằng. Trong thời gian ngắn thì cung cầu có tác động với giá cả.
- Ngoài ra, sự độc quyền cũng có tác động đến giá cả. Để có lợi nhuận cao, các nhà độc
quyền thường giảm sản lượng để nâng bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là độc
quyền quyết định được tất cả, bởi vì trên thị trường còn chịu sự tác động của sự co dãn
của cầu.
· Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Ý nghĩa lí luận:
Tích cực:
Lí thuyết giá cả của Marshall đi sâu phân tích cơ chế thị trường dưới góc độ vi mô, vì
thế là cơ sở quan trọng cho kinh tế học vi mô hiện đại
Là lí thuyết đầu tiên đặt nền móng cho việc phân tích thị trường theo mô hình cung cầu, đây là nguyên lí cơ bản nhất của kinh tế học vi mô hiện đại, xuyên suốt gần như
mọi vấn đề của nền kinh tế thị trường.
Hạn chế:
Phân tích lý thuyết giá cả: Với tính phê phán và đứng trên cơ sở lý luận giá trị - lao động
của chủ nghĩa Mác thì có thể nhận xét lý thuyết giá cả của Marshall như sau: Trong thời

gian ngắn thì lợi ích cận biên quyết định giá trị, điều này lại mắc phải sai lầm mà thuyết
ích lợi đã gặp phải. Còn trong thời gian dài chi phí sản\ xuất quyết định giá cả thì không
giải thích được trong giá cả đó bao gồm cả lợi nhuận của nhà tư bản chứ không chỉ có
chi phí sản xuất. Nhà tư bản không thể bán hàng hóa với giá bằng với chi phí sản xuất
được.


Nếu cho rằng quan hệ cung cầu quyết định giá cả thì cũng không có căn cứ vững chắc vì
giá cả thay đổi cũng tác động làm cung cầu thay đổi. Điều này thể hiện sự luẩn quẩn
trong lý luận của Marshall: Cung, cầu quyết định giá cả, sau đó giá cả lại quyết định
cung, cầu. Thực ra quan hệ cung, cầu về một hàng hóa nào đó trên thị trường chỉ làm
cho giá cả dao động xung quanh giá trị chứ không tạo ra giá trị (giá trị chỉ được tạo ra
trong quá trình sản xuất chứ không phải trong trao đổi).
Ý nghĩa thực tiễn:
Giúp ta nhận thức đc trạng thái vận động của thị trường dưới tác động của các quy luật
khách quan, sự cân bằng cung cầu trên thị trường ko phải là cân bằng tĩnh, mà là cân
bằng động, luôn dao động qua điểm cân bằng.
Đâylà cơ sở để phân tích sự biến động giá cả HH trên thị trường, để nhà nước có chính
sách điều chỉnh thích hợp.
Các doanh nghiệp chủ động trong chiến lược kinh doanh, tác động vào cung, cầu và đưa
ra chính sách giá cả để thu lợi nhuận cao.
Việc xác định K giúp các xí nghiệp độc quyền đưa ra chính sách giá cả có lợi cho mình
(giá cả độc quyền để thu lợi nhuận độc quyền cao), có thể bán số lượng sản phẩm ít hơn
mà giá cả cao hơn.
Sự co giãn của cầu phụ thuộc vào các nhân tố: mức giá cả, sức mua và nhu cầu mua sắm
.
Thời gian là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cung cầu và giá cả. Quy tắc chung là:
- Thời gian ngắn (thời kỳ nghiên cứu ngắn) phải chú ý tới ảnh hưởng của cầu lên giá trị .
- Thời gian dài (thời kỳ nghiên cứu càng dài) thì ảnh hưởng tác động của chi phí tới giá
trị rất quan trọng.

Câu 7: CMR lí thuyết kinh tế của TP Tân cổ điển là cơ sở hình thành kinh tế học vi
mô.
Có thể nói, lí thuyết kinh tế học của TP tân cổ điển là cơ sở hình thành kinh tế học vi mô
hiện đại, bởi có thể tìm thấy sự kế thừa TP Tân cổ điển của kinh tế học vi mô hiện đại ở
các nội dung: đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, thuật ngữ cơ bản, lí
thuyết cơ bản.
Đối tượng nghiên cứu:Lĩnh vực nghiên cứu là lĩnh vực trao đồi lưu thông, trao đổi, nhu
cầu…
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp vi mô, nghiên cứu kinh tế trong các xí nghiệp cụ
thể, các loại hàng hóa cụ thể từ đó rút ra kết luận cho toàn chung cho toàn nền kinh tế.
Sử dụng các mô hình, công thức, đồ thị toán học đề giải thích nền kinh tế.


Thuật ngữ cơ bản: sau này, kinh tế học vi mô hiện đại tiếp tục sử dụng các thuật ngữ cơ
bản mà Tp Tân cổ điển đã đưa ra:
Ích lợi giới hạn của TP giới hạn thành Viene – Áo sau này là lợi ích cận biên trong kinh
tế vi mô
Năng suất giới hạn của TP Mĩ sau này chính là năng suất cận biên của lao động trong kt
vi mô.
Thuật ngữ cung cầu, hệ số co dãn của cầu trong lí luận của Marshall đc phát triển thành
lí thuyết cung cầu, hệ số co dãn của cầu theo giá (công thức của Marshall là co dãn
khoảng, ngoài ra còn có công thức co dãn điểm.) trong kinh tế học vi mô, ngoài ra còn
đc phát triển thêm các khái niệm khác như hệ số co dãn của cung theo giá, của cầu theo
thu nhập…
Các lí thuyết cơ bản: Cùng với sự kế thừa các thuật ngữ cơ bản, kinh tế học vi mô hiện
đại cũng kế thừa và phát triển xa hơn các lí thuyết kinh tế cơ bản của TP Tân cổ điển.
TP Tân cổ điển
Kinh tế học vi mô
Lí thuyết ích lợi giới hạn – Áo:
Ích lợi là đặc tính cụ thể của vật mà nhờ đó những nhu cầu khác nhau của con ng đc t/m,

phân ra thành ích lợi chủ quan, khách quan, ích lợi cụ thể, trìu tượng.
Do nhu cầu của con ng có cường độ khác nhau nên nếu như đc tuần tự t/m thì nhu cầu sẽ
có cường độ giảm và theo đà tăng của vật đc đưa ra để t/m nhu cầu thì vật sau sẽ đc đánh
giá lợi ích thấp hơn vật trước.Vì vậy vs 1 số lượng sp có giới hạn thì vật đc đưa ra sau
cùng sẽ đc gọi là sp giới hạn và ích lợi của vật đó đc gọi là ích lợi giới hạn.
Ích lợi giới hạn là ích lợi của vật đc đưa ra sau cùng để t/m nhu cầu; vật đó có ích lợi
nhỏ nhất và quy định lợi ích của tất cả các vật khác.
Lí thuyết lợi ích của kt học vi mô:
Lợi ích đc hiểu là sự thỏa mãi hài lòng đạt đc khi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.
Người tiêu dùng sẽ tối đa hóa các lợi ích đạt được khi tiêu dùng.
Lợi ích đc đo bằng đơn vị của trí tưởng tượng mà ng tiêu dùng gán cho hàng hóa khi tiêu
dùng đc biểu hiện bằng mức độ sẵn sàng chi trả của họ cho 1 đơn vị hàng hóa tiêu dùng.
Lợi ích cận biên là lợi ích tăng thêm khi tiêu dùng thêm 1 đơn vị hàng hóa dịch vụ.
MU =
Quy luật lợi ích cận biên giảm dần: lợi ích của hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thêm có xu
hướng giảm dần và điều này chỉ đúng trong thời gian ngắn.
Lí thuyết năng suất giới hạn:


J.B.Clark cho rằng ích lợi của lao động thể hiện ở năng suất của nó tuy nhiên năng suất
lao động giảm dần, ng công nhân đc thuê sau cùng là người công nhân giới hạn. Năng
suất của anh ta là năng suất giới hạn. Đó là năng suất thấp nhất và nó quyết đinh năng
suất chung của các CN khác.
Hàm sản xuất ngắn hạn của kinh tế học vi mô.
Q = f (K, L).
K cố định, năng suất cận biên của lao động MPL = là sản phẩm đầu ra tăng thêm khi sử
dụng thêm 1 đơn vị lao động.
Với quy mô của nhà máy đc cho trc thì MPL có xu hướng tăng do khai thác đc thêm
công suất của máy móc nhưng nếu tiếp tục tăng L mà K vẫn cố định thì năng suất cận
biên sẽ giảm dần.

Lí thuyết cung cầu – Marshall:
Cầu là biểu hiện của nhu cầu có khả năng thanh toán, nó được biểu hiện bởi khối lượng
tiền tệ và giá cả nhất định.
Nhân tố ảnh hưởng đến cầu: nhu cầu; thu nhập; giá cả của bản thân hàng hóa.
Lí thuyết cung cầu – kinh tế học vi mô:
Cầu là số lượng hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua tại
các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định vs đk các yếu tố khác k đổi.
Nhân tố ảnh hưởng đến cầu: thu nhập, giá hàng hóa thay thế hoặc bổ sung, quy mô thị
trường, sở thích, kì vọng.
Lượng cầu: số lượng hàng hóa ng tiêu dùng muốn mua tại 1 mức giá nhất định.
Nhân tố ảnh hưởng đến lượng cầu: giá cả hàng hóa đó
Cung là khối lượng hàng hóa sản xuất ra đem bán trên thị trường với một giá cả nhất
định.
Nhân tố ảnh hưởng đến cung: giá cả hàng hóa đó.
Cung: là số lượng hàng hóa dich vụ ng bán muốn bán tại các mức giá khác nhau trong
khoảng thời gian nhất định với đk các yếu tố khác k đổi.
Nhân tố ảnh hưởng đến cung: công nghệ và năng suất, giá cả đầu vào, thuế và trợ cấp, số
lượng nhà sản xuất, kì vọng…
Lượng cung: lượng hàng hóa đc bán tại 1 mức giá nhất định.
Nhân tố ảnh hưởng đến lượng cung: giá cả hàng hóa đó
Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì hình thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị
trường: “Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì sẽ chấm dứt cả khuynh hướng tăng dẫn
khuynh hướng giảm, lượng hàng hóa sản xuất, thế cân bằng được thiết lập”.


Cân bằng cung cầu là trạng thái mà lượng cung bằng lượng cầu tại 1 mức giá.
Hệ số co dãn của cầu phản ánh mối sự thay đổi của cầu dưới sự thay đổi của giá.
: sự thay đổi của cầu.
: sự thay đổi của giá.
K: hệ số co dãn của cầu theo giá.

K=:=
Hệ số co dãn của cầu theo giá đo lường sự thay đổi tương đối của lượng cầu do 1%
tương đối của giá hàng hóa.
Co dãn khoảng (đoạn):
EDP = ×
Co dãn điểm:
EDP = ×
Câu 8: So sánh đặc điểm phương pháp luận của trường phái cổ điển Anh với Tân cổ
điển.
Bảng 1: So sánh chung.
Trường phái cổ điển Anh
Trường phái Tân cổ điển
Ra đời và phát triển ở Châu Âu, từ giữa TK 18-19.
Ra đời và phát triển ở Tây Âu, Mỹ, vào cuối TK 19- đầu TK 20.
Đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực sản xuất.
Đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực trao đổi, lưu thông lợi ích, tiêu dùng.
Sử dụng phương pháp phân tích vĩ mô, cho rằng quy luật kinh tế khách quan chi phối
hoạt động kinh tế.
Sử dụng phương pháp phân tích vi mô, kết hợp phạm trù kinh tế với phạm trù toán học.
Cho rằng cung quyết định cầu, cung tạo ra cầu, sản xuất quyết định tiêu dùng.
Cho rằng cầu quyết định cung, tiêu dùng quyết định sản xuất.
Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chủ trương chống lại sự can thiệp của nhà nước vào hoạt
động kinh tế.
Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chủ trương chống lại sự can thiệp của nhà nước vào hoạt
động kinh tế.
Lao động là yếu tố duy nhất tạo ra giá trị, là nguồn gốc của giá trị, của của cải, của giàu
có.


Giá trị hàng hóa do lượng lao động hao phí tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hóa

đó quyết định.
Giá trị không bắt nguồn, không phụ thuộc vào lao động mà phụ thuộc hoàn toàn vào tâm
lý chủ quan của con người.
Giá trị của hàng hóa là do sự tương tác giữa tính quan trọng , cấp thiết của nhu cầu và số
lượng vật phẩm hiện có quyết định.
Lao động là cái duy nhất, chính xác để đo lường giá trị trao đổi của hàng hóa.
Chưa giải thích được tại sao vật càng khan hiếm thì giá trị trao đổi càng cao.
Giá trị trao đổi được hình thành do sự đánh giá chủ quan của người mua, người bán về
công dụng của hàng hóa.
Giải thích được tại sao vật càng khan hiếm thì giá trị trao đổi càng cao.( dựa trên quy
luật ích lợi giới hạn giảm dần).
Giá thị trường chịu sự điều tiết của giá cả tự nhiên.
Giá thị trường là kết quả sự va chạm giữa giá cung với giá cầu, va chạm giữa cung với
cầu.
Giá cả hàng hóa trong lưu thông quyết định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông.
Giá cả tỉ lệ thuận với khối lượng tiền đưa vào trong lưu thông.
Ricardo cho rằng tiền lương là giá cả thị trường của lao động phụ thuộc vào giá cả tự
nhiên (giá các tư liệu sinh hoạt…).
Phủ nhận cuộc đấu tranh đòi tăng lương của người công nhân:
+ Adam Smith cho rằng tiền lương chỉ có thể tăng trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
+ Ricardo cho rằng lương thấp là điều tự nhiên, lương cao là thảm họa.
Clark cho rằng người công nhân được tiền lương là sản phẩm biên tế của lao động.(giải
thích dựa trên lý
luận năng suất giới hạn)
Phủ nhận cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm thất nghiệp của người công nhân. Clark
cho rằng công nhân phải chấp nhận tiền lương thấp để có việc làm, muốn tiền lương cao
thị có thể chính mình bị sa thải. (lý luận năng suất biên giảm dần).
Lợi nhuận là kết quả của việc trả công thấp hơn giá trị.
Phủ nhận sự bóc lột khi cho rằng lợi nhuận là kết quả của toàn bộ tư bản đầu tư ban đầu.
Không giải thích được lợi nhuận trên cơ sở nguyên tắc trao đổi ngang giá.

Bohm Bawerk cho rằng lợi nhuận là khoảng chênh lệch do sự đánh giá chủ quan khác
nhau của con người về 2 loại của cải : của cải hiện tại (TLTD) được đánh giá cao, của
cải tương lai (TLSX) được đánh giá thấp.


Xã hội tư bản là công bằng, nhà tư bản có lợi nhuận phù hợp với năng suất giới hạn của
tư bản, khẳng định lợi nhuận là không bóc lột. (nguyên tắc hành vi hợp lý)
Đã giải thích được.
Địa chủ có địa tô là kết quả của độ màu mỡ tương đối của đất đai.
Địa chủ có địa tô phù hợp với năng suất biên tế của đất đai.
Phát triển lý thuyết Bàn tay vô hình, tôn trọng các quy luật khách quan tự phát, chi phối
hoạt động con người.
Tâm lí chủ quan (cá biệt các nhân) Phát triển lý thuyết ích lợi giới hạn và thuyết giá trị
giới hạn, quan tâm đến nhu cầu tâm lý chủ quan của con người.
Bảng 2: So sánh đặc điểm phương pháp luận:
Cổ điển Anh
Tân cổ điển
Đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực sản xuất.
Chuyển sự chú ý phân tích sang lĩnh vưc lưu thông, trao đổi, nhu câu…
Họ nghiên cứu các vấn đề kinh tế của tư bản chủ nghĩa.
Họ muốn gạt bỏ các yếu tố chính trị, giai cấp để xây dựng môn kinh tế học thuần túy.
Tiếp cận và tìm hiểu các quy luật kinh tế khách quan.(VD:Giá trị hàng hóa là khách
quan.Giá trị hàng hóa do lượng lao động hao phí tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng
hóa đó quyết định)
Tâm lí chủ quan (cá nhân cá biệt) trong phân tích kinh tế.
(Giá trị của hàng hóa là do sự tương tác giữa tính quan trọng, cấp thiết của nhu cầu và số
lượng vật phẩm hiện có quyết định).
Phương pháp nghiên cứu thể hiên tính 2 mặt: mặt khoa học – trừu tượng hóa và mặt tầm
thường – mô tả liệt kê hời hợt.(lấy ví dụ lí luận giá trị lao động của A.Smith, 2 định
nghĩa giá trị)

Phương pháp vi mô trong phân tích kinh tế.
Tích cực áp dụng các công cụ toán học như đồ thị, công thức, mô hình. (Ví dụ: Trường
phái giới hạn Áo, cung cầu Marshall)
Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.
“Bàn tay vô hình” A.Smith
Giống nhau
L.Walras


Marshall.
Câu 9: Đánh giá trường phái tân cổ điển.
Thành tựu:
Các nhà kinh tế trường phái cổ điển mới đã đạt được một số thành tựu, đó là:
Những phân tích về kinh tế thị trường hiện đại cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã được
vận dụng trong hoạt động thực tiễn.
Đã có sự phân tích cụ thể sự vận động của nền kinh tế trên cơ sở các quy luật của thị
trường, nghiên cứu sâu hơn các quan hệ sản xuất trao đổi.
Đã góp phần vào sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản, đưa ra những biện pháp điều chỉnh
chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản.
Tác động đến việc xây dựng các chính sách kinh tế của các nước tư bản trong thời kỳ
này.
Là cơ sở của kinh tế học vĩ mô hiện đại
Hạn chế:
Với ý định cách tân, bổ khuyết cho các tư tưởng kinh tế tư sản cổ điển song còn nhiều
hạn chế và nhiều lý luận không vượt qua được kinh tế tư sản cổ điển, những hạn chế đó
là:
Mưu toan bác bỏ học thuyết kinh tế Mác về giá trị, giá trị thặng dư, tư bản và các kết
luận của Mác về mâu thuẫn tư sản và công nhân, về sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản.
Xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm chủ quan, không tính đến vai trò quyết định của
nền sản xuất và của các điều kiện lịch sử xã hội. Những điều kiện này quyết định đặc

điểm phát triển kinh tế ở một giai đoạn nhất định. Từ đó đi đến khẳng định các phạm trù
kinh tế trong chủ nghĩa tư bản là tồn tại vĩnh viễn.
Mưu toan biến kinh tế chính trị thành môn khoa học kinh tế thuần túy. Thực chất muốn
gạt bỏ mối quan hệ kinh tế và chính trị, coi những hoạt động kinh tế là những hoạt động
tách rời khỏi một chế độ chính trị nhất định, che giấu những lợi ích kinh tế khác nhau
đằng sau những hoạt động kinh tế.



×