Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu ôn thi lịch sử các học thuyết kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.77 KB, 8 trang )

CHƯƠNG 9: TRƯỜNG PHÁI CHÍNH HIỆN ĐẠI
Câu 1: Phân tích nguyên nhân xuất hiện và đặc điểm phương pháp luận của TP chính hiện
đại.
Câu 2: So sánh đặc điểm phương pháp luận của Trường phái chính hiện đại và chủ nghĩa
tự do mới.
Câu 3: Cơ chế thị trường đc P.Samuelson đề cập ntn trong lí thuyết về nền kinh tế hỗn
hợp.
Câu 4: Theo P.Samuelson, tại sao trong nền kinh tế thị trường nhà nước phải can thiệp
vào nền kinh tế.
Câu 5: Theo P.Samuelson: “Sau khi tìm hiểu kĩ về bàn tay vô hình chúng ta không nên
quá say mê với vẻ đẹp của cơ chế thị trường, coi nó là hiện thân của sự hoàn hảo, tinh túy
của sự hài hòa, là ngoài tầm tay con người”. Phân tích câu nói trên.
Câu 6: Theo P.Samuelson, điều hành 1 nền kinh tế không có chính phủ hoặc thị trường thì
cũng như định vỗ tay bằng 1 bàn tay. Nhận xét luận điểm. Rút ra ý nghĩa thực tiễn của
luận điểm đó.
Câu 1: Phân tích nguyên nhân xuất hiện và đặc điểm phương pháp luận của TP
chính hiện đại.
Nguyên nhân xuất hiện
Các lí thuyết kinh tế của trường phái cổ điển mới đều tập trung đề cao vai trò của cơ chế
thị trường tự do cạnh tranh.
Trường phái Keynes và Keynes mới lại đề cao vai trò điều tiết vĩ mô kinh tế của Nhà
nước và phê phán những khuyết tật của thị trường.
Thực tế, nền kinh tế sẽ phát triển không hiệu quả nếu như đề cao quá đáng vai trò của thị
trường hoặc vai trò nhà nước. Sự phê phán các trường phái dẫn đến sự xích lại gần nhau
giữa hai chiều hướng (Từ những 60 – 70 của thế kỷ XX).
Từ đó hình thành “Trường phái chính hiện đại”.
Mầm mống về nền kinh tế hỗn hợp có từ những năm cuối thế kỷ thứ XIX, sau chiến tranh
thế giới thứ hai nó được nhà kinh tế học Mỹ tên là Hassen nghiên cứu và tư tưởng này
tiếp tục được phát triển mạnh mẽ từ những năm 70 của thế kỷ XX
Đặc điểm của học thuyết kinh tế trường phái chính hiện đại:
Tư tưởng chủ yếu của họ là điều hành một nền kinh tế hiện đại mà thiếu vắng bàn tay của


nhà nước hay bàn tay của thị trường chả khác nào vỗ tay bằng 1 bàn tay.
Đặc điểm nổi bật của học thuyết kinh tế trường phái chính hiện đại là:
Vận dụng một cách tổng hợp các lí thuyết và phương pháp của các trường phái kinh tế
trong lịch sử nhằm đưa ra lí thuyết làm cơ sở cho các hoạt động của doanh nghiệp và
chính sách kinh tế của Nhà nước tư sản.


Sử dụng cả phương pháp phân tích vi mô và phân tích vĩ mô để trình bày các vấn đề kinh
tế.
Sử dụng nhiều công thức toán học, đồ thị để lí giải các hiện tượng và quá trình kinh tế.
Theo đó, nền kinh tế thị trường cần có sự điều tiết của Nhà nước.
Câu 2: So sánh đặc điểm phương pháp luận của Trường phái chính hiện đại và chủ
nghĩa tự do mới.
Trường phái Tân cổ điển

Trường phái chính hiện đại

Cố gắng nghiên cứu mọi vấn đề của nền
Chú ý nghiên cứu lĩnh vực trao đổi, lưu kinh tế ( đặc biệt có thêm lĩnh vực tài
thông, nhu cầu
chính – tín dụng)
Coi trọng cả hai bàn tay điều tiết của thị
Đề cao sự tự phát của cơ chế thị, coi nhẹ trường và nhà nước: điều hành nền kinh
sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, họ tế mà thiếu vắng bàn tay của nhà nước
tin tưởng cơ chế thị trường tự phát đảm hay bàn tay của thị trường chả khác nào
bảo cân bằng kinh tế.
vỗ tay bằng 1 bàn tay.
Sử dụng cả phương pháp vi mô và vĩ mô:
họ sử dụng tổng hợp các quan điểm và
phương pháp của các TP kinh tế trước để

đưa ra lí thuyết kinh tế của mình nhằm
Sử dụng phương pháp vi mô: từ sự phân làm cơ sở cho hoạt động của doanh
tích kinh tế trong các xí nghiệp rút ra kết nghiệp và chính sách kinh tế của nhà
luận cho toàn bộ nền kinh tế.
nước tư sản.
Sử dụng công cụ toán học trong phân tích
kinh tế (công cụ, mô hình, đồ thị)
Giống nhau.
Đặt nền móng cho tư tưởng “giới hạn”

Chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng giới hạn:
việc tổ chức nền kinh tế phải tuân theo
quy luật khan hiếm, phải lựa chọn khả
năng sản xuất, phải tính đến quy luật
năng suất giảm dần và chi phí tương đối
ngày càng cao

Câu 3: Cơ chế thị trường đc P.Samuelson đề cập ntn trong lí thuyết về nền kinh tế
hỗn hợp.
Lí thuyết nền kinh tế thị trường nhà nước là tư tưởng trung tâm của TP kinh tế học hiện
đại.


Nếu như các nhà kinh tế trường phái cổ điển và tân cổ điển say mê với “bàn tay vô hình”
và “cân bằng tổng quát” của thị trường, trường phái Keynes say sưa với “bàn tay hữu
hình” của nhà nước thì P.Samuelson chủ trương phân tích nền kinh tế dựa trên cả “2 bàn
tay” của thị trường và nhà nước. Ông cho rằng “điều hành nền kinh tế không có chính
phủ hoặc thị trường cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”. Cụ thể, ông đề cập đến cơ
chế thị trường như sau:
Theo Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân

người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba
vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế.
- Sản xuất hàng hóa gì? với số lượng bao nhiêu?
- Sản xuất hàng hóa như thế nào? Ai là người sản xuất, sản xuất bằng nguồn lực nào, sử
dụng kĩ thuật sản xuất nào?
- Sản xuất cho ai? Ai là người được hưởng các thành quả của những nỗ lực kinh tế, hay
sản phẩm quốc dân được phân chia như thế nào?
Những đặc trưng của cơ chế thị trường là:
- Không phải là sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế
- Là phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác
nhau. Không có bộ não trung tâm, nó vẫn giải được những bài toán mà máy tính lớn nhất
ngày nay không thể giải nổi (giải quyết những vấn đề sản xuất phân phối).
- Không ai thiết kế ra, xuất hiện tự nhiên và cũng thay đổi (luôn luôn thay đổi) như xã hội
loài người. Không cá nhân hay tổ chức đơn lẻ nào có trách nhiệm sản xuất, tiêu dùng,
phân phối hay định giá.
Thị trường là một quá trình mà trong đó người mua và ng bán một thứ hàng hóa nào đó
tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa.
Các yếu tố cơ bản của cơ chế thị trường:
- Hàng hóa và dịch vụ: hàng hóa yếu tố đầu vào như đất đai, lao động tư bản và hàng hóa
tiêu dùng, dịch vụ.
- Cung cầu về hàng hóa trên thị trường.
- Giá cả của hàng hóa.
Cơ chế thị trường chịu sự điều khiển của “hai ông vua” là người tiêu dùng và kĩ thuật.
(Người tiêu dùng thống trị, điều khiển thị trường nhưng lại bị kĩ thuật hạn chế vì kinh tế
không thể vượt qua giới hạn của khả năng sản xuất) Do đó chỉ người tiêu dùng không
quyết định được sản xuất cái gì mà còn do: chi phí sản xuất, các qui định kinh doanh.
Vì thế thị trường đóng vai trò trung gian hòa giải sở thích người tiêu dùng và hạn chế của
kĩ thuật.
Đặc điểm của cơ chế vận hành:



- Cơ chế thị trường tự phát đảm bảo cân bằng cung cầu hàng hóa.
- Lợi nhuận vừa là động lực vừa là mục tiêu của người sản xuất kinh doanh. Họ bị lôi
cuốn vào những mặt hàng lãi cao lảng tránh những mặt hàng lãi thấp và không có lãi.
Ưu điểm của cơ chế thị trường:
- Cơ chế thị trường giúp huy động có hiệu quả các nguồn lực.
- Kích thích cải tiến kĩ thuật công nghệ, nâng cao năng suất lao đông nhằm tiết kiệm chi
phí sản xuất…
- Thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội.
- Làm cho khối lượng hàng hóa trên thị trường ngày càng phong phí đa dạng, nâng cao
chất lượng sản phẩm… Một nền KT vận động theo cơ chế thị trường sẽ cho nó đạt được
những thành tựu to lớn về tăng trưởng & phát triển, về thỏa mãn nhu cầu, về tính cơ động
& linh hoạt của nền KT. Mà những thành tựu này khó có thể đạt được ở trong 1 nền KT
không phải là thị trường.
Nhược điểm: - Tuy nhiên, cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật.
+Nó có xu hướng dẫn tới những hậu quả khó tránh. Đó là khủng hoảng, thất nghiệp, lạm
phát, phân hóa giầu nghèo.
+- Phá hoại tự do cạnh tranh. Nền KT thị trường lấy cạnh tranh làm động lực, song cạnh
tranh lại có xu hướng chuyển hóa thành mặt đối lập với nó là độc quyền. Độc quyền lại là
1 hạn chế đối với cạnh tranh, tức là hạn chế đối với động lực phát triển KT.
+Nền KT vận động theo cơ chế thị trường có xu hướng kích thích việc sử dụng tài
nguyên 1 cách bừa bãi, tàn phá môi trường, môi sinh & phá hoại sự cân bằng sinh thái.
nhà sản xuất chạy đua theo lợi nhuận mà không quan tâm đến các tác động tiêu cực đến
môi trường của công nghệ sản xuất.
- Phân hóa giàu nghèo: cơ chế thị trường có thể đem lại sự phân phối thu nhập bất bình
đẳng.
- Khủng hoảng kinh tế.
- Ảnh hưởng của độc quyền: sản lượng thấp, giá cả hàng hóa bị đẩy cao, hạn chế sự cải
tiến kĩ thuật…
- Ngoài ra còn các khuyết tật của thị trường khác như: ngoại ứng (tích cực va tiêu cực,

không có nhà cung ứng hàng hóa công cộng).
Để đối phó với những khuyết tật, sai lầm của cơ chế thị trường, nền kinh tế hiện đại cần
phối hợp bàn tay vô hình của thị trường với bàn tay hữu hình của nhà nước như thuế
khóa, chỉ tiêu, pháp luật…
Câu 4: Theo P.Samuelson, tại sao trong nền kinh tế thị trường nhà nước phải can
thiệp vào nền kinh tế.


Nghiên cứu sự hoạt động của nền kinh tế thị trường, P.S chỉ rõ: bàn tay vô hình nhiều khi
cũng đưa nền kinh tế đến sai lầm. Đó chính là những khuyết tật vốn có của cơ chế thị
trường. Những thất bại này có thể là do tác động bên ngoài gây ra như ô nhiễm môi
trường mà doanh nghiệp k phải trả giá cho sự hủy hoại đó; hoặc những thất bại của thị
trường do tình trạng độc quyền; khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát và phân phối
thu nhập bất bình đẳng…
Để đối phó với những khuyết tật, sai lầm của cơ chế thị trường, nền kinh tế hiện đại cần
phối hợp bàn tay vô hình của thị trường với bàn tay hữu hình của nhà nước như thuế
khóa, chỉ tiêu, pháp luật…
Nhà nước có 4 chức năng chính trong nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất, thiết lập khuôn khổ pháp luật: đề ra các quy tắc của trò chơi kinh tế mà người
tiêu dùng, doanh nghiệp và bản thân chính phủ phải tuân theo
Thứ hai, sửa chữa các thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả. Cụ thể:
- Đưa ra các luật lệ nhằm hạn chế độc quyền, đảm bảo tính cạnh tranh.
- Đánh thuế hoặc đưa ra các tiêu chuẩn, thông số cho phép nhằm hạn chế ngoại ứng tiêu
cực. Trợ cấp, khuyến khích ngoại ứng tích cực.
- Đảm bảo cung ứng hàng hóa công cộng thông qua hoạt động của các DN công ích, trợ
cấp về tài chính tín dụng cho các DN đó hoạt động hiệu quả.
Thứ ba, đảm bảo sự công bằng. Cơ chế thị trường sinh ra sự phân hóa, bất bình đẳng về
thu nhập. Chính phủ có nhiệm vụ phân phối lại thu nhập thông qua công cụ thuế đối với
người có thu nhập cao, trợ cấp cho người có thu nhập thấp (tem phiếu thực phẩm, hỗ trợ
y tế, nhà ở xã hội…) hệ thống hỗ trợ chăm sóc người già, người tàn tật, ng thất nghiêp…

Thứ tư, ổn định kinh tế vĩ mô thông qua các công cụ thuế suất, chi tiêu chính phủ, lãi suất
thành toán chuyển nhượng, chính sách tiền tệ nhằm khuyến khích hoặc hạn chế các hoạt
động kinh tế.
Câu 5: Theo P.Samuelson: “Sau khi tìm hiểu kĩ về bàn tay vô hình chúng ta không
nên quá say mê với vẻ đẹp của cơ chế thị trường, coi nó là hiện thân của sự hoàn
hảo, tinh túy của sự hài hòa, là ngoài tầm tay con người”. Phân tích câu nói trên.
Câu nói trên thể hiện quan điểm của P.S về cơ chế thị trường. Ông một mặt khẳng định
“vẻ đẹp của cơ chế thị trường” nhưng cho rằng không nên quá say mê, tin tưởng vào nó
vì bản thân cơ chế thị trường cũng có thể đưa nền kinh tế đến với những sai lầm. Cụ thể:
Ưu điểm của cơ chế thị trường:
- Cơ chế thị trường giúp huy động có hiệu quả các nguồn lực.
- Kích thích cải tiến kĩ thuật công nghệ, nâng cao năng suất lao đông nhằm tiết kiệm chi
phí sản xuất…
- Thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội.


- Làm cho khối lượng hàng hóa trên thị trường ngày càng phong phí đa dạng, nâng cao
chất lượng sản phẩm…
Nhược điểm: Cơ chế thị trường có thể gây nên các hiện tượng:
- Lạm phát
- Thất nghiệp
- Phá hoại tự do cạnh tranh
- Ô nhiễm môi trường: nhà sản xuất chạy đua theo lợi nhuận mà không quan tâm đến các
tác động tiêu cực đến môi trường của công nghệ sản xuất.
- Phân hóa giàu nghèo: cơ chế thị trường có thể đem lại sự phân phối thu nhập bất bình
đẳng.
- Khủng hoảng kinh tế.
- Ảnh hưởng của độc quyền: sản lượng thấp, giá cả hàng hóa bị đẩy cao, hạn chế sự cải
tiến kĩ thuật…
- Ngoài ra còn các khuyết tật của thị trường khác như: ngoại ứng (tích cực va tiêu cực,

không có nhà cung ứng hàng hóa công cộng).
Để đối phó với những khuyết tật, sai lầm của cơ chế thị trường, nền kinh tế hiện đại cần
phối hợp bàn tay vô hình của thị trường với bàn tay hữu hình của nhà nước như thuế
khóa, chỉ tiêu, pháp luật…
Câu 6: Theo P.Samuelson, điều hành 1 nền kinh tế không có chính phủ hoặc thị
trường thì cũng như định vỗ tay bằng 1 bàn tay. Nhận xét luận điểm. Rút ra ý nghĩa
thực tiễn của luận điểm đó.
Vỗ tay phải có cả 2 bàn tay vỗ vào nhau mới tạo ra tiếng kêu, việc vỗ tay bằng một bàn
tay thì không thế phát ra tiếng, cũng giống như vây. P.S khẳng định vai trò của cả hai bàn
tay trong điều tiết một nền kinh tế, nếu thiếu một trong 2 bàn tay thì nền kinh tế không
thể vận hành một cách “khỏe mạnh” được. Cụ thể
Cơ chế thị trường có những ưu điểm mà bàn tay của nhà nước không thể có được:
- Cơ chế thị trường giúp huy động có hiệu quả các nguồn lực.
- Kích thích cải tiến kĩ thuật công nghệ, nâng cao năng suất lao đông nhằm tiết kiệm chi
phí sản xuất…
- Thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội.
- Làm cho khối lượng hàng hóa trên thị trường ngày càng phong phú đa dạng, nâng cao
chất lượng sản phẩm…
Tuy nhiên, nếu không có bàn tay của nhà nước can thiệp, cơ chế thị trường có thể gây nên
các hiện tượng:
- Lạm phát


- Thất nghiệp
- Phá hoại tự do cạnh tranh
- Ô nhiễm môi trường: nhà sản xuất chạy đua theo lợi nhuận mà không quan tâm đến các
tác động tiêu cực đến môi trường của công nghệ sản xuất.
- Phân hóa giàu nghèo: cơ chế thị trường có thể đem lại sự phân phối thu nhập bất bình
đẳng.
- Khủng hoảng kinh tế.

- Ảnh hưởng của độc quyền: sản lượng thấp, giá cả hàng hóa bị đẩy cao, hạn chế sự cải
tiến kĩ thuật…
- Ngoài ra còn các khuyết tật của thị trường khác như: ngoại ứng (tích cực và tiêu cực,
không có nhà cung ứng hàng hóa công cộng).
Để đối phó với những khuyết tật, sai lầm của cơ chế thị trường, nền kinh tế hiện đại cần
phối hợp bàn tay vô hình của thị trường với bàn tay hữu hình của nhà nước như thuế
khóa, chỉ tiêu, pháp luật…
Nhà nước có 4 chức năng chính trong nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất, thiết lập khuôn khổ pháp luật: đề ra các quy tắc của trò chơi kinh tế mà người
tiêu dùng, doanh nghiệp và bản thân chính phủ phải tuân theo
Thứ hai, sửa chữa các thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả. Cụ thể:
- Đưa ra các luật lệ nhằm hạn chế độc quyền, đảm bảo tính cạnh tranh.
- Đánh thuế hoặc đưa ra các tiêu chuẩn, thông số cho phép nhằm hạn chế ngoại ứng tiêu
cực. Trợ cấp, khuyến khích ngoại ứng tích cực.
- Đảm bảo cung ứng hàng hóa công cộng thông qua hoạt động của các DN công ích, trợ
cấp về tài chính tín dụng cho các DN đó hoạt động hiệu quả.
Thứ ba, đảm bảo sự công bằng. Cơ chế thị trường sinh ra sự phân hóa, bất bình đẳng về
thu nhập. Chính phủ có nhiệm vụ phân phối lại thu nhập thông qua công cụ thuế đối với
người có thu nhập cao, trợ cấp cho người có thu nhập thấp (tem phiếu thực phẩm, hỗ trợ
y tế, nhà ở xã hội…) hệ thống hỗ trợ chăm sóc người
già, người tàn tật, ng thất nghiêp…
Thứ tư, ổn định kinh tế vĩ mô thông qua các công cụ thuế suất, chi tiêu chính phủ, lãi suất
thành toán chuyển nhượng, chính sách tiền tệ nhằm khuyến khích hoặc hạn chế các hoạt
động kinh tế.
Trong nhiều trường hợp, sự can thiệp của Nhà nước cũng có những hạn chế như có nhiều
vấn đề Nhà nước không lựa chon đúng, sự tài trợ của Chính phủ có lúc kém hiệu quả (do
chương trình quá lớn, thời gian quá dài), sự ảnh hưởng của chủ quan (Chính phủ bị chi
phối bởi thiểu số người, hoặc bởi những người bất tài, tham nhũng,...) dẫn đến việc đưa
ra những quyết định sai lầm, không phù hợp với quy luật khách quan, không phản ánh



đúng sự vận động của thị trường. Vì vậy theo Samuelson sự can thiệp của Nhà nước chỉ
nên giới hạn “trong khuôn khổ khôn ngoan của cạnh tranh”.
Tóm lại, phát triển kinh tế có hiệu quả là phải dựa vào cả “hai bàn tay”:
Cơ chế thị trường(bàn tay vô hình): xác định giá cả, sản lượng trong nhiều lĩnh vực.
Sự điều tiết của Chính phủ (bàn tay hữu hình): bằng các chương trình thuế, chi tiêu và
luật lệ.
Ý nghĩa thực tiễn với nước ta:
Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường là cần thiết để ngăn ngừa và khắc
phục những khuyết tật của thị trường,để thị trường hoạt động có hiệu quả.Thực chất đây
là sự mở rộng chức năng của nhà nước khi lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ xã
hội hoá cao.
Các chức năng kinh tế của nhà nước đc Samuelson quan tâm như thiết lập khuôn khổ
pháp luật,sửa chữa thất bại của thị trường,đảm bảo công bằng xã hội và ổn định nền KT
vĩ mô.Đây là những nội dung quan trọng mà các NN đều phải quan tâm khi xây dựng thể
chế KTTT mà chúng ta nghiên cứu vận dụng.
Để làm tốt chức năng trên,NN cần sử dụng các công cụ KT vĩ mô.Samuelson đã chỉ ra
các công cụ như pháp luật, chương trình KT, chính sách KT trong đó rất coi trọng chính
sách tài chính tiền tệ và các công cụ KT khác.Đây là những công cụ ko thể thiếu đc để
NN quản lí 1 nền KT thị trường hiện đại
Samuelson nêu quan điểm ko nên tuyệt đối hoá vai trò Kt của NN,cũng ko nên tuyệt đối
hoá vai trò của thị trường trong vận hành 1 nền KT.Đây là 1 tổng kết thực tiễn rất quan
trọng mà chúng ta cần quan tâm nghiên cứu,vận dụng trong công cuộc đổi mới để vận
hành nền KTTT định hướng XHCN có hiệu quả.



×