Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

M t s bi n ph p nh m n ng cao kh n ng c nh tranh s n ph m c a x nghi p TOCAN tr n th tr ng qu c t

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 69 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và /> và là website chia sẻ miễn phí luận văn, đồ
án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho tất cả
mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự đóng góp của
quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu xin quý khách
gửi về
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của xí nghiệp TOCAN
trên thị trường quốc tế

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, bất cứ một doanh nghiệp nào khi bắt tay vào kinh doanh đều
muốn gắn kinh doanh của mình vào thị trường và họ hiểu rằng: “Thương trường chính là
chiến trường”, mặc dù nơi đó không có tiếng bom, tiếng súng nhưng để tồn tại cần phấn
đấu vượt qua mọi trở ngại là hết sức khó khăn, phức tạp. Nơi đó cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp là vô cùng khốc liệt, một mất một còn. Nếu ai tuân theo quy luật của thị
trường thì sẽ tồn tại và ngược lại, bất chấp quy luật của thị trường thì sẽ thất bại. Như
vậy, để tồn tại, để là người chiến thắng trong cuộc đua đầy khó khăn, thử thách thì buộc
các doanh nghiệp phải cạnh tranh. Cạnh tranh không chỉ diễn ra trong phạm vi nhỏ hẹp ở
một quốc gia mà còn diễn ra giữa các tập đoàn với nhau, giữa các quốc gia với nhau, thậm
chí cả giữa các Châu lục với nhau.
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế tăng trưởng nhanh đã tạo nên động lực thu hút
mạnh mẽ đầu tư từ phía nước ngoài, từ đó tạo điều kiện cho sản phẩm của Việt Nam có
mặt trên thị trường quốc tế thông qua con đường xuất khẩu. Tuy nhiên, sức cạnh tranh
trên thị trường quốc tế vô cùng mạnh mẽ và các doanh nghiệp Việt Nam thường bị chèn
ép bởi nhiều lý do khác nhau. Vì thế, các doanh nghiệp phải tăng cường khả năng cạnh
tranh. Nhờ có cạnh tranh mà doanh nghiệp sẽ tự tìm cho mình một hướng đi đúng để giữ
vững được chỗ đứng trên thị trường quốc tế, giữ được chữ tín với khách hàng và từ đó
mới có thể đạt được thành công trong kinh doanh.
Từ những nhận thức cơ bản về vấn đề cạnh tranh và thực tiễn cạnh tranh của xí nghiệp
TOCAN, đề tài luận văn là: “Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh sản


phẩm của xí nghiệp TOCAN trên thị trường quốc tế”.
Luận văn sẽ đi vào nghiên cứu vấn đề cạnh tranh, một trong những vấn đề quyết định sự
thành bại của doanh nghiệp hiện nay.
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ cơ sở khoa học của cạnh tranh, khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế của các doanh nghiệp nói chung và của xí nghiệp TOCAN nói riêng. Trên
cơ sở đó, luận văn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp nói chung và của xí nghiệp TOCAN nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề cạnh tranh sản phẩm và khả năng cạnh
tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
Kết cấu luận văn ngoài mở đầu, kết luận gồm 3 phần:
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp.
Phần 2: Thực trạng khả năng cạnh tranh của xí nghiệp TOCAN hiện nay.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Phần 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của xí
nghiệp TOCAN trên thị trường quốc tế.
Do thời gian, trình độ còn hạn chế và kinh nghiệm về thực tế chưa nhiều mà chỉ là những
kiến thức nghiên cứu trên sách vở nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em
kính mong thầy giáo cùng ông giám đốc và ban quản lý xí nghiệp xem xét và góp ý kiến
để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Cảnh Hoan, đã
tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn
cá nhân ông Trần Việt Trung giám đốc xí nghiệp và ban quản lý xí nghiệp đã tạo điều kiện
thuận lợi và dành cho em những ý kiến quý báu trong quá trình thực tập, hoàn thành luận
văn này.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
PHẦN I

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
Các yếu tố phục vụ hoạt động cạnh tranh là các yếu tố tạo nên sản phẩm. Vì vậy cạnh
tranh sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện nổi bật nhất, là biểu hiện cuối cùng của
cạnh tranh được bộc lộ ra bên ngoài. Do đó trong phần này, từ những khái quát chung về
cạnh tranh, chúng ta sẽ đề cập tới những vấn đề về cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, một trong những vấn đề quyết định sự thành
bại của doanh nghiệp hiện nay.
I. Thị trường quốc tế và cạnh tranh trên thị trường quốc tế của doanh nghiệp.
1. Thị trường và thị trường quốc tế của doanh nghiệp.
1.1. Các quan niệm về thị trường dưới các góc độ khác nhau.
Chúng ta biết rằng thị trường ra đời, tồn tại và phát triển khi có đầy đủ 3 yếu tố cơ bản
sau:
- Phải có khách hàng và người bán.
- Khách hàng phải có nhu cầu chưa được thoả mãn. Đây chính là động lực chủ yếu thúc
đẩy khách hàng mua hàng hoá và dịch vụ.
- Khách hàng phải có sức mua, tức là phải có tiền để mua hàng. Nếu chỉ có nhu cầu mà
không có tiền thì quá trình mua bán, trao đổi không thực hiện được.
Trên cơ sở đó, các quan niệm về thị trường nói chung và thị trường quốc tế nói riêng có
thể xét theo nhiều góc độ khác nhau và từ đó có những quan niệm khác nhau.
- Theo quan niệm của kinh tế học: “Thị trường là tổng thể của cung và cầu đối với một
loại hàng hoá nhất định trong một không gian và thời gian cụ thể “.
- Theo quan niệm của Marketing: “Thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn
cùng có một nhu cầu mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để
thoả mãn nhu cầu mong muốn đó”.
Như vậy, thị trường chính là nơi diễn ra quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, là nơi gặp
gỡ giữa người mua và người bán. Số lượng người mua và người bán tham gia nhiều hay ít
phản ánh quy mô của thị trường là lớn hay nhỏ. Số lượng hàng hoá cần sản xuất và giá cả
của sản phẩm là bao nhiêu đều do cung và cầu trên thị trường quyết định. Thị trường là
điều kiện, là môi trường sản xuất hàng hoá. Không có thị trường thì sản xuất, trao đổi,
mua bán hàng hoá không thể tiến hành được.

Khi đề cập tới thị trường, chúng ta không thể không nói đến các quy luật kinh tế của thị
trường. Sau đây là một số quy luật kinh tế phổ biến:

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Quy luật giá trị: Quy định hàng hoá được sản xuất ra và trao đổi trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết tức là chi phí bình quân trong xã hội. Trong lưu thông (mua - bán)
phải tuân theo quy luật trao đổi ngang giá.
- Quy luật cung cầu: Nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị
trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn luôn có xu thế chuyển dịch, xích lại gần
nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường.
- Quy luật cạnh tranh: Phản ánh mức độ cạnh tranh của hàng hoá được sản xuất ra và bán
trên thị trường với các loại hàng hoá khác cùng loại.
Tuy nhiên đứng trên giác độ quản lý một doanh nghiệp thì thị trường là gì ?
Đối với doanh nghiệp, thị trường phải gắn với các tác nhân kinh tế tham gia vào thị
trường như người mua, người bán, người phân phối... với những hành vi của họ. Những
hành vi này không phải bao giờ cũng tuân theo những quy luật cứng nhắc dựa trên những
giả thuyết về tính hợp lý trong tiêu dùng. Chẳng hạn, hành vi của người mua, người bán
đối với sản phẩm cụ thể còn chịu ảnh hưởng của yếu tố tâm lý, điều kiện giao dịch.
Mặt khác, trong điều kiện kinh doanh hiện đại thì nhu cầu là vấn đề hết sức quan trọng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu là cái nội dung bên trong
được biểu hiện bằng hành vi, ý kiến, thái độ bên ngoài của khách hàng, là cái mà doanh
nghiệp có thể tiếp cận được. Vì vậy đứng trên giác độ doanh nghiệp thì thị trường của
doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng hay một nhóm khách hàng đang mua hoặc sẽ
mua sản phẩm của doanh nghiệp.
Từ đó ta có khái niệm về thị trường quốc tế của doanh nghiệp : “Thị trường quốc tế của
doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó”.
Theo quan niệm trên thì số lượng và cơ cấu nhu cầu của khách hàng nước ngoài đối với
sản phẩm của doanh nghiệp cũng như sự biến động của các yếu tố đó theo không gian và
thời gian là đặc trưng cơ bản của thị trường quốc tế của doanh nghiệp. Số lượng và cơ cấu

nhu cầu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, vĩ mô và vi mô, vì thế
đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải nghiên cứu một cách tỉ mỉ, chính xác.
1.2. Cấu trúc của thị trường quốc tế.
Thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp khách hàng nước ngoài hiện tại và tương
lai của doanh nghiệp. Do đó ta có thể phân tích cấu trúc của tập hợp khách hàng này để
phân chia thành từng những nhóm khách hàng tương đối thuần nhất, theo cấu trúc sẽ giúp
doanh nghiệp xác định được mục tiêu cần chiếm lĩnh trong tương lai và các biện pháp
thực hiện mục tiêu đó. Cấu trúc của tập hợp khách hàng này có thể phân tích theo mức độ
tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp và khi đó thị trường bao gồm các bộ phận hợp
thành sau:
1.2.1. Thị trường sản phẩm.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Sản phẩm ở đây được hiểu là một hay một nhóm sản phẩm cùng loại.
- Nếu sản phẩm là vật phẩm tiêu dùng, hàng hoá dịch vụ thì phải bắt đầu xét từ tổng thể
dân cư của vùng lãnh thổ đang xét.
- Nếu sản phẩm là tư liệu sản xuất (các yếu tố sản xuất) thì phải bắt đầu xét từ tổng thể
các doanh nghiệp trong vùng đó có sử dụng các tư liệu đó.
Để xác định được thị trường hiện tại của sản phẩm đang xét cần:
- Xác định thị trường không tiêu dùng tuyệt đối: Đây là những khách hàng mà trong mọi
trường hợp đều không quan tâm tới sản phẩm của doanh nghiệp vì nhiều lý do khác nhau
như: giới tính, lứa tuổi, môi trường văn hoá - xã hội...
- Xác định thị trường không tiêu dùng tương đối: Đó là tập hợp những người hay doanh
nghiệp hiện tại không tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp vì nhiều lý do khác nhau như:
thiếu thông tin về sản phẩm, không có đủ khả năng về tài chính để tiêu dùng sản phẩm,
chất lượng sản phẩm không cao, thói quen tập quán tiêu dùng...
1.2.2. Thị trường của doanh nghiệp.
Thị trường của doanh nghiệp có thể được chia làm 2 loại: Thị trường tiềm năng lý thuyết
và thị trường tiềm năng thực tế.
- Thị trường tiềm năng lý thuyết: Là thị trường mà doanh nghiệp có thể chiếm lĩnh được

nếu mọi điều kiện kinh doanh được liên kết lại một cách tối ưu. Đó chính là mục tiêu mà
doanh nghiệp phải chiếm lĩnh trong một thời gian dài. Thị trường tiềm năng lý thuyết gồm
3 bộ phận:
Một là: Thị trường hiện tại của doanh nghiệp.
Hai là: Một phần thị trường của các đối thủ cạnh tranh mà doanh nghiệp có thể hi vọng
chiếm lĩnh dần.
Ba là: Một phần thị trường không tiêu dùng tương đối có thể sẽ tiêu dùng sản phẩm của
doanh nghiệp.
- Thị trường tiềm năng thực tế: Là sự thu hẹp của thị trường tiềm năng lý thuyết sao cho
nó mang tính hiện thực hơn trên cơ sở năng lực hiện có của doanh nghiệp, như hạn chế về
vốn, sự cản trở của các đối thủ cạnh tranh... Đó là mục tiêu mà doanh nghiệp cần xác định
để chiếm lĩnh trong thời gian ngắn.
Việc xác định chính xác thị trường của doanh nghiệp và cấu trúc của nó sẽ tạo điều kiện
để doanh nghiệp nhận thức rõ hơn những mục tiêu cụ thể mà doanh nghiệp cần đạt tới và
xây dựng những chính sách thích hợp.
Tóm lại, sự ra đời và phát triển của thị trường là một tất yếu khách quan, thúc đẩy sự phát
triển của nền sản xuất xã hội. Khi đề cập đến thị trường là nói đến sự cạnh tranh giữa các
chủ thể kinh tế. Không có cạnh tranh thì không có thị trường. Thị trường chính là nơi gặp
gỡ của các đối thủ trên chiến trường không có tiếng súng.
2. Nhận thức cơ bản về cạnh tranh.
2.1. Cạnh tranh là gì ?
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường
nhằm giành giật những lợi ích kinh tế về mình để thu được lợi nhuận cao.
Các chủ thể ở đây là người bán, người mua các loại hàng hoá, dịch vụ. Đối với người bán:
Bao giờ họ cũng hướng tối đa hoá lợi nhuận bằng cách bán được càng nhiều hàng càng
tốt với giá cao. Ngược lại, đối với người mua, họ muốn tối đa hoá lợi ích những hàng hoá
mà họ mua được, tức là họ muốn mua hàng hoá có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, thoả mãn
tiêu dùng nhưng giá lại rẻ. Do đó hai bên cạnh tranh nhau để dành những phần có lợi tốt

nhất cho mình.
Các yếu tố cấu thành sự cạnh tranh:
- Các chủ thể kinh tế tham gia cạnh tranh: đó là những người có cung và cầu về sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ.
- Đối tượng tham gia sự cạnh tranh: là các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ.
- Môi trường cạnh tranh: là thị trường cạnh tranh.
Chính 3 yếu tố này làm cho thị trường trở nên sôi động và đầy tính chiến thắng.
2.2. Phân loại cạnh tranh.
2.2.1. Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường, ta có:
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo:
Là thị trường có rất nhiều người bán, người mua, song không một ai có ưu thế trong việc
cung ứng và mua sản phẩm để có thể thay đổi được giá cả. Mỗi người sản xuất là một
“người nhận giá”, tức là người đó phải bán ra theo giá thịnh hành trên thị trường. Các sản
phẩm được bày bán trên thị trường này được xem là đồng nhất. Tức là, sản phẩm đều
không có sự khác biệt lớn về chủng loại, mẫu mã thậm chí còn giống nhau y hệt và chúng
“nhỏ quá” không thể tác động đến giá cả trên thị trường.
- Thị trường cạnh tranh độc quyền.
Thị trường cạnh tranh độc quyền là thị trường chỉ có duy nhất một người sản xuất và bán
một loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mà trên thị trường không có sản phẩm, hàng hoá
và dịch vụ thay thế. Trên thị trường nhà độc quyền có quyền quyết định giá cả và số
lượng hàng hoá bán ra. Nhà độc quyền có xu hướng hạn chế sản lượng và đẩy giá lên để
kiếm lợi nhuận kinh tế trong ngắn hạn. Tuy nhiên việc định giá sản phẩm còn phải tuỳ
thuộc vào nhu cầu trên thị trường, cơ chế quản lý của Nhà nước... Độc quyền trong sản
xuất kinh doanh là lợi thế của nhà độc quyền đối với các nhà sản xuất khác cùng ngành
trong tương lai. Nhưng đứng trên góc độ tổng thể nền kinh tế thì sẽ kìm hãm sự phát triển
sự sản xuất và người tiêu dùng chính là người bị thiệt thòi nhất.
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
Đây là loại thị trường có nhiều nhà sản xuất cung ứng nhiều sản phẩm. Phần lớn sản
phẩm là không đồng nhất. Chẳng hạn, cùng một loại sản phẩm có thể chia ra thành nhiều
thứ loại, phẩm cấp khác nhau mặc dù xét về thực chất thì giữa chúng hầu như không có

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />sự khác biệt đáng kể. Mặt khác, các hình thức mua bán cũng rất khác nhau vì nhiều lý do
khác nhau như khách quen, thói quen tiêu dùng sản phẩm của khách hàng, uy tín của sản
phẩm... Các nhà sản xuất cạnh tranh nhau bằng chất lượng sản phẩm, giá cả, các hình thức
quảng cáo, chào hàng, khuyến mại... để có thể thu được mức lợi nhuận mong muốn. Có
thể nói đây là loại thị trường rất phổ biến hiện nay.
2.2.2. Căn cứ vào chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường, ta có:
- Cạnh tranh giữa người bán với người mua.
Đây là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ - bán đắt. Người mua luôn luôn muốn
được mua rẻ, ngược lại người bán luôn có tham vọng bán đắt. Sự cạnh tranh này được
thực hiện trong quá trình mặc cả và cuối cùng giá cả được hình thành và hành động mua
bán được thực hiện.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau.
Đây là cuộc cạnh tranh dựa trên quy luật cung - cầu. Khi một loại hàng hoá, dịch vụ nào
đó có cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa những người mua trở nên gay gắt và giá
cả hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng lên. Kết quả cuối cùng là những người mua thì tự làm hại
mình vì để có được hàng thì họ phải bỏ ra một khoản tiền, còn phần “béo bở” thì lại thuộc
về người bán, mặc dù họ đứng ngoài cuộc.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau.
Đây là cuộc cạnh tranh chính trên vũ đài thị trường, đồng thời cũng là cuộc cạnh tranh
khốc liệt nhất. Cạnh tranh giữa những người bán với nhau thực chất là cuộc cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp nhằm dành điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có lợi hơn. Do
đó nó có ý nghĩa sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.
Trong thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, số
lượng hàng hoá bán ra ngày càng tăng thì cạnh tranh càng quyết liệt. Đã có người nói
rằng: “Thị trường và cạnh tranh là con dao hai lưỡi”. Thị trường đối với doanh nghiệp này
là cái nôi, nhưng đối với doanh nghiệp kia là nghĩa địa. Cạnh tranh với doanh nghiệp này
là động lực để phát triển, trong khi đối với doanh nghiệp khác lại như một hành động tự
sát, là con đường dẫn đến diệt vong. Do đó phần tiếp theo sẽ trình bầy rõ hơn một số vấn

đề về cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau.
II. Các hình thức cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện nay trên thị trường quốc tế.
1. Tổng quan về doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu của tiêu thụ và thu về cho mình một
khoản lợi nhuận nhất định.
Mỗi doanh nghiệp là một hệ thống có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường bên ngoài và
có cấu trúc bên trong gồm nhiều phân hệ khác nhau. Vì thế doanh nghiệp có thể coi là

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />một cơ thể sống của đời sống kinh tế. Cơ thể đó cần có sự trao đổi chất với môi trường
bên ngoài (tức là thị trường). Quá trình trao đổi chất mà diễn ra thường xuyên, liên tục thì
cơ thể đó khoẻ mạnh. Ngược lại, sự trao đổi đó diễn ra yêú ớt thì cơ thể đó sẽ quặt quẹo
và ốm yếu.
Về chức năng của doanh nghiệp, được chia làm 2 chức năng cơ bản:
Một là: Doanh nghiệp phải làm chức năng quản lý sản xuất, quản lý tài chính, quản lý
nhân lực... Đây là các chức năng rất quan trọng vì đó là các yếu tố góp phần tiết kiệm các
nguồn lực cần thiết trong sản xuất, giảm giá thành, tăng năng suất và hiệu quả của doanh
nghiệp nói chung.
Nhưng đó vẫn chưa đủ đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và lại không có gì đảm bảo chắc
chắn cho sự thành đạt của doanh nghiệp nếu tách rời nó ra khỏi một chức năng khác chức năng kết nối mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Hai là: Doanh nghiệp phải làm chức năng Marketing, gồm:
- Tìm và lập ra các kênh, các luồng để tiêu thụ hàng hoá một cách thuận lợi nhất, có lợi
nhất.
- Phân phối một cách công bằng và hợp lý mọi kết quả sản xuất kinh doanh đã đạt được.
2. Cạnh tranh của các doanh nghiệp.
2.1. Khái niệm.
Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh, coi cạnh tranh là yếu
tố, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó cạnh tranh của các doanh

nghiệp được xem là vấn đề then chốt của mọi vấn đề về cạnh tranh.
Cạnh tranh của các doanh nghiệp là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các doanh
nghiệp với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm dành các điều
kiện có lợi nhất về sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ...
Trong cạnh tranh các doanh nghiệp thường đưa ra 2 đối sách:
- Đối đầu trực tiếp với các đối thủ cạnh tranh để vươn lên trên và duy trì lợi thế cạnh
tranh.
- Phát triển con đường cạnh tranh hoà diệu để dành thắng lợi mà không cần phải hi sinh gì
nhiều (như đàm phán...). Đối sách này ít tốn kém, nhưng có nhiều khó khăn.
Do vậy để thực hiện được 2 đối sách trên thì buộc doanh nghiệp phải tính toán kỹ lưỡng,
cẩn thận. Đồng thời cũng cần phải đưa ra được các chiến lược cạnh tranh để tránh thất bại
trên thương trường.
2.2. Phân loại cạnh tranh của các doanh nghiệp.
2.2.1. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành (nội bộ ngành).
Cạnh tranh nội bộ ngành là cuộc đấu tranh giữa những nhà doanh nghiệp cùng kinh doanh
một loại hàng hoá hay dịch vụ nhằm dành lấy những điều kiện có lợi nhất trong việc sản
xuất, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ ấy và thu được lợi nhuận cao so với vốn đã bỏ ra. Cạnh
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường đồng nhất đối với hàng
hoá, dịch vụ cùng loại trên cơ sở giá trị xã hội của hàng hoá và dịch vụ đó. Thực chất
trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách tiêu diệt, thôn tính lẫn
nhau.
2.2.2. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp khác ngành.
Là cuộc cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ khác
ngành với nhau, nhằm thu được lợi nhuận và có tỉ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đã bỏ
ra. Trong quá trình này, các doanh nghiệp luôn quan tâm đến những ngành có lợi nhất nên
đã chuyển vốn từ ngành có tỉ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỉ suất lợi nhuận cao hơn.
Vì vậy việc các doanh nghiệp thường xuyên chuyển từ ngành này sang ngành khác để tìm
kiếm cơ hội đầu tư vốn có nhiều lợi nhuận hơn đã vô hình chung hình thành nên sự phân

phối vốn hợp lý giữa các nhà sản xuất, từ đó cũng dẫn đến sự hình thành tỉ suất lợi nhuận
bình quân và sự cạnh tranh trong nội bộ ngành lại tăng lên.
2.3. Vai trò và ảnh hưởng của cạnh tranh tới doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân.
2.3.1. Đối với doanh nghiệp.
- Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Bởi vì yếu tố cạnh tranh xuyên xuốt từ quá trình sản xuất đến tiêu thụ của doanh
nghiệp. Trong đó tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng, là cái bộc lộ rõ nhất của cạnh
tranh vì thế nó có vai trò rất quan trọng. Muốn dẫn đầu cạnh tranh phải có một sự hoạch
định tiêu thụ sản phẩm đúng đắn.
- Cạnh tranh tạo động lực cho doanh nghiệp đổi mới, hoàn thiện hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Đưa doanh nghiệp phát triển lên vị trí cao hơn nữa.
- Cạnh tranh quyết định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường dựa vào thị phần mà
doanh nghiệp đã chiếm lĩnh được. Nó phản ánh quy mô thị trường của doanh nghiệp là
lớn hay là nhỏ.
- Cạnh tranh có thể giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tạo dựng được uy tín của mình
trên thị trường. Trái lại cạnh tranh cũng có thể đưa doanh nghiệp lún sâu vào tình trạng
khủng hoảng và có thể đi đến tiêu vong. Đó là tính hai mặt của cạnh tranh mà mọi doanh
nghiệp cần phải nghiên cứu, xem xét để tìm được các biện pháp kinh doanh thích hợp.
2.3.2. Đối với người tiêu dùng.
Nhờ có cạnh tranh người tiêu dùng có thể sử dụng các loại sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ
với chất lượng cao, giá cả phù hợp với mức thu nhập của họ. Cạnh tranh làm cho lợi ích
của người tiêu dùng được đảm bảo. Người tiêu dùng được tôn trọng và bảo vệ bởi chất
lượng, tính năng sử dụng... của sản phẩm, hàng hoá mà doanh nghiệp đưa ra.
2.3.3. Đối với nền kinh tế quốc dân.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Cạnh tranh thị trường là nơi mọi thành phần kinh tế có thể tham gia tự do cạnh tranh,
làm ăn buôn bán. Là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi thành phần kinh tế trong nền
kinh tế thị trường.

- Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ
khoa học, kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất.
- Cạnh tranh chính là điều kiện để các nhà kinh doanh có thể phát huy, thể hiện tài năng
của mình. Tạo ra một đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi, năng động, sáng tạo và chân chính.
- Cạnh tranh góp phần tạo ra những nhu cầu mới, kích thích nhu cầu phát triển bằng việc
sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm mới để đáp ứng những nhu cầu đó. Góp phần nâng
cao chất lượng đời sống xã hội và sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
- Cạnh tranh kết hợp với sự quản lý của Nhà nước sẽ góp phần xoá bỏ những độc quyền
bất hợp lý, xoá bỏ bất bình đẳng trong kinh doanh.
Tuy nhiên mặt trái của cạnh tranh luôn luôn đồng hành với mặt tích cực, đó là:
- Cạnh tranh tạo ra sự phân hoá giầu nghèo, gây bất ổn trong xã hội.
- Nếu sự quản lý của Nhà nước lỏng lẻo thì cạnh tranh có xu hướng dẫn đến độc quyền
hay có những hậu quả tiêu cực khác.
- Cạnh tranh có thể làm phát sinh hàng giả, hàng nhập lậu làm rối loạn thị trường, ảnh
hưởng tới người tiêu dùng và những nhà sản xuất làm ăn chân chính.
- Ô nhiễm môi trường cũng là một nguyên nhân xuất phát từ cạnh tranh do các doanh
nghiệp luôn hướng tới lợi nhuận cao mà không chú ý tới việc dành chi phí cho xử lý chất
thải ô nhiễm...
Vì thế buộc phải có sự tham gia quản lý vĩ mô của Nhà nước một cách kịp thời, đúng lúc
để hướng nền kinh tế - xã hội đi theo hướng có lợi nhất.
3. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thông thường cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt khi có nhiều doanh nghiệp tham gia sản xuất
cùng một loại hàng hoá sản phẩm. Do đó buộc các doanh nghiệp phải có các công cụ cạnh
tranh của mình. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp là một tập hợp các kế hoạch,
chính sách, các chiến lược... mà doanh nghiệp sử dụng để vượt lên đối thủ cạnh tranh, tác
động vào tâm lý tiêu dùng của khách hàng để có thể tiêu thụ được nhiều sản phẩm và thu
được lợi nhuận cao.
3.1. Công cụ cạnh tranh là sản phẩm và chất lượng sản phẩm.
Khi chọn sản phẩm làm vũ khí cạnh tranh thì cần phải tập chung giải quyết toàn bộ chiến
lược về sản phẩm, làm cho sản phẩm thích ứng nhanh chóng với thị trường. Chất lượng

sản phẩm là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là hệ thống đặc tính các nội tại của sản phẩm được xác định bằng
những thông số có thể đo được hay so sánh được phù hợp với những điều kiện kỹ thuật
hiện tại và thoả mãn được những nhu cầu nhất định của xã hội.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Chất lượng sản phẩm càng cao tức là làm tăng được mức độ thoả mãn của người tiêu
dùng đối với sản phẩm, kích thích tiêu dùng dẫn đến tăng khả năng tiêu thụ và tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ khác. Trên cơ sở đó tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm phải được thể hiện toàn diện bằng hàm lượng khoa học kỹ thuật
trong sản phẩm. Hàm lượng khoa học cao, chất lượng sản phẩm tốt thì có thể bán được
với giá cao. Nhất là khi mà mức thu nhập của khách hàng nước ngoài là rất cao, họ rất
quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Vì thế chất lượng sản phẩm có thể “vượt mặt” giá cả
lên vị trí đứng đầu trong cạnh tranh.
Ngoài ra cũng cần phải quan tâm tới bao bì sản phẩm. Chú trọng đến tính chất bảo vệ sản
phẩm không hư hỏng. Tạo sự chú ý, thu hút người mua, đồng thời cần chú ý tới tâm lý
tiêu dùng của khách hàng là họ mua hàng hoá, sản phẩm còn tận dụng bao bì để sử dụng
trong đời sống hàng ngày. Về nhãn hiệu sản phẩm thì coi nhãn hiệu là đại biểu cho chất
lượng sản phẩm, uy tín của sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp, là vũ khí cạnh tranh với
hàng hoá cùng loại. Ngày nay, trong sự cạnh tranh khốc liệt thì hai yếu tố trên trở nên vô
cùng quan trọng, là một công cụ cạnh tranh đắc lực. Nếu mẫu mã của sản phẩm đẹp, độc
đáo thì sẽ thu hút được khách hàng quan tâm, chú ý.
Doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới công dụng và lợi ích của sản phẩm. Xem công dụng
của sản phẩm đạt đến mức độ nào? Làm ra sản phẩm nhằm cho nhu cầu nào? Người tiêu
dùng sử dụng vào công việc gì? Công dụng của sản phẩm được mở rộng tức là thuận tiện
và đa năng trong sử dụng thì người tiêu dùng sẽ mua nhiều, nhà sản xuất sẽ bán được
nhiều hàng...
Như vậy chất lượng sản phẩm trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh

nghiệp, bởi nó biểu hiện sự thoả mãn nhu cầu khách hàng của sản phẩm và có thể đương
đầu với đối thủ cạnh tranh.
3.2. Công cụ cạnh tranh là giá cả sản phẩm.
Mặc dù trên thị trường hiện nay, cạnh tranh đã nhường vị trí hàng đầu cho cạnh tranh
bằng chất lượng sản phẩm, dịch vụ, bằng thời gian cung cấp hàng hoá và điều kiện giao
hàng, nhưng giá cả vẫn có vai trò quyết định.
Giá cả sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà doanh nghiệp dự tính có
thể nhận được từ khách hàng thông qua việc trao đổi sản phẩm đó trên thị trường.
Giá cả sản phẩm = Giá thành sản phẩm + Lãi đầu tư + Lãi của doanh nghiệp
Giá cả sản phẩm được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thể hiện qua các chính sách giá
bán mà doanh nghiệp áp dụng đối với từng thị trường khác nhau. Cạnh tranh giá cả sản
phẩm của doanh nghiệp có thể bắt đầu từ các yếu tố hình thành nên giá thành sản phẩm,

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />như: nguyên vật liệu, lao động, giá thuê đất đai, nhà xưởng, tiền điện, tiền nước... Sau đó
là các chi phí gián tiếp như: chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng, các chính
sách của Nhà nước... Như vậy trong giá cả sản phẩm, doanh nghiệp có thể tạo được ưu
thế cạnh tranh so với các đối thủ cạnh tranh của mình.
Chính sách bán sản phẩm của doanh nghiệp là mục tiêu của doanh nghiệp nhằm xây dựng
một hệ thống giá cả trong tương lai và mong đợi sẽ được thị trường chấp nhận. Công cụ
cạnh tranh là giá cả sản phẩm được thể hiện qua các chính sách giá bán sau:
- Doanh nghiệp bán với mức giá thấp (thấp hơn so với giá của thị trường). Đây là hình
thức thu hút khách hàng nhiều hơn về phía mình so với đối thủ cạnh tranh nhưng phải có
điều kiện là chất lượng và chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp phải tương đương so
với đối thủ cạnh tranh.
- Doanh nghiệp bán với mức giá cao (cao hơn so với giá của thị trường). Với hình thức
này, doanh nghiệp muốn hướng tới một bộ phận khách hàng cao cấp nhưng phải có điều
kiện là chất lượng và chủng loại sản phẩm phải vượt trội, hơn hẳn so với đối thủ cạnh
tranh, đồng thời nó cũng phải là những sản phẩm đã trở nên quen thuộc đối với người tiêu

dùng. Mặt khác doanh nghiệp cũng có thể sử dụng mức giá cao đối với những sản phẩm
mới khi người tiêu dùng chưa biết rõ về sản phẩm và chưa có cơ hội so sánh với sản phẩm
khác để xem loại sản phẩm này là đắt hay rẻ, chất lượng tốt hay không tốt.
- Doanh nghiệp bán với mức giá phân biệt: Là các mức giá linh hoạt khác nhau nhằm khai
thác hết sự đàn hồi nhu cầu khác nhau của người tiêu dùng theo khu vực, mùa vụ, tầng
lớp, tình bằng hữu... Các mức giá đó được phân biệt theo nhiều tiêu thức khác nhau như:
phân biệt theo lượng mua, phân biệt theo chất lượng, phân biệt theo phương thức thanh
toán...
- Doanh nghiệp bán phá giá (giá thấp hơn hẳn so với giá của thị trường). Doanh nghiệp
dùng chính sách để đánh bại đối thủ cạnh tranh, loại đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường.
Để thực hiện được chính sách này, doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính mạnh, tiềm lực
về khoa học công nghệ, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường... Tuy nhiên doanh nghiệp
cũng phải luôn đề phòng với các đối thủ khác vì hôm nay có thể loại bỏ được vài đối thủ
nhưng có thể ngày mai sẽ có đối thủ khác tiêu diệt doanh nghiệp bằng chính sách bán phá
giá mà doanh nghiệp đã áp dụng.
3.3. Hệ thống phân phối (Kênh phân phối hàng hoá).
Phân phối hàng hoá là hoạt động tổ chức, điều hành, vận chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất
đến tay người tiêu dùng. Phân phối hàng hoá của doanh nghiệp là hệ thống các quan
điểm, chính sách và giải pháp tổ chức các kênh, luồng, mạng lưới bán sỉ, bán lẻ hàng hoá
nhằm bán được nhiều hàng, đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Thông thường có 4 kênh phân phối cho hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp, được biểu
diễn qua sơ đồ sau:

A
B
Người
Người
Người

bán lẻ
tiêu
sản
- Kênh A (Kênh cấp không): là một kênh trực tiếp bởi vì người sảndùng
xuất bán trực
xuất
C
Người
Người
tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.
Nhiều
sản phẩm hàng
hoálẻ
và dịch vụ được phân phối
bán
buôn
bán
theo cách này. Do không có trung gian trong kênh nên người sản xuất phải thực hiện tất

D năngĐại
Người
Người
cả các chức
của lý
kênh.
bánphối
buôn
- Kênh B (Kênh 1 cấp): là mạng phân
gián tiếp theobán
kênh lẻ

ngắn có thêm người bán lẻ.
Được sử dụng khi người bán lẻ có quy mô lớn có thể mua khối lượng lớn từ người sản
xuất hoặc chi phí lưu kho là quá đắt nếu sử dụng người bán buôn.
- Kênh C (Kênh 2 cấp): là mạng phân phối gián tiếp theo kênh dài. Trong kênh có thêm
người bán buôn. Được sử dụng phổ biến cho các loại hàng hoá giá trị đơn vị thấp, chi phí
thấp được mua thường xuyên bởi người tiêu dùng.
- Kênh D (Kênh 3 cấp): là kênh dài nhất, được sử dụng khi có nhiều người sản xuất nhỏ
và nhiều người bán lẻ nhỏ. Đại lý được sử dụng để giúp phối hợp cung cấp sản phẩm với
khối lượng lớn.
Do đó việc lựa chọn cụ thể kênh phân phối thì yêu cầu doanh nghiệp cần chú ý tới một số
điểm sau:
- Về đặc điểm hàng hoá:
+ Đối với hàng hoá khó bảo quản, dễ hư hỏng như lương thực, thực phẩm... đòi hỏi phải
tiếp cận thị trường trực tiếp nhiều hơn để tránh tổn thất do đặc tính của sản phẩm hàng
hoá.
+ Đối với hàng hoá cồng kềnh, nặng... phải lựa chọn kênh ngắn.
+ Đối với hàng hoá đơn chiếc, hàng hoá có kỹ thuật đặc biệt thì doanh nghiệp có thể bán
trực tiếp vì có sự am hiểu về hàng hoá của mình.
- Về đặc điểm của khách hàng:
+ Nếu khách hàng có số lượng đông ở nhiều vùng khác nhau thì doanh nghiệp cần xây
dựng các khâu trung gian ở nhiều nơi, nhiều cấp.
+ Đối với các sản phẩm đòi hỏi nhiều chi phí phục vụ cho các đơn vị đặt hàng lẻ tẻ,
thường xuyên thì cần phải dựa vào các nhà bán buôn.
+ Nếu nhiều khách hàng muốn mua hàng trực tiếp ở các cửa hàng của doanh nghiệp thì
doanh nghiệp có thể bán trực tiếp...

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Việc nghiên cứu các kênh hiện có, tìm ra những kênh mới tin cậy nhất, ổn định nhất là
một vấn đề quan trọng trong chiến lược phân phối. Nếu lựa chọn kênh ngắn: có mặt hợp

lý, dễ gần gũi với khách hàng, dễ kiểm soát. Lựa chọn kênh dài: cũng rất cần thiết, khắc
phục được sự ít vốn, hiểu thị trường nhưng cần phải bổ sung thêm nhân lực để kênh phân
phối của doanh nghiệp có thể hoạt động như mong muốn.
Ngày nay các nhà sản xuất muốn có được hiệu quả trong kinh doanh phải có nhiều kênh,
mạng lưới dày đặc trong phân phối hàng hoá. Nhờ đó nếu có ách tắc kênh nào thì đã có
kênh khác tiếp ứng hoạt động. Do đó có thể nói các doanh nghiệp cạnh tranh nhau trên
từng cây số của thị trường.
3.4. Các công cụ Marketing.
3.4.1. Dịch vụ sau bán hàng.
Hoạt động của doanh nghiệp không phải dừng lại sau lúc giao hàng, thu tiền của khách
hàng mà còn có hoạt động dịch vụ sau bán hàng. Dịch vụ sau bán hàng thể hiện trách
nhiệm đến cùng đối với người tiêu dùng về sản phẩm của mình. Các dịch vụ sau bán hàng
như: vận chuyển hàng miễn phí, bảo hành hướng dẫn cách sử dụng sản phẩm, lắp đặt sản
phẩm tại gia đình người tiêu dùng... Tất cả những thứ đó sẽ gây được uy tín của sản phẩm
và doanh nghiệp trên thị trường, giữ và tăng thêm được khách hàng, tạo cho khách hàng
cảm thấy yên tâm trước khi quyết định mua hàng.
Qua hoạt động dịch vụ sau bán hàng mà doanh nghiệp biết được sản phẩm của mình đáp
ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ra sao. Sự khen chê của khách hàng, phát hiện
các khuyết tật của sản phẩm mà đổi mới, hoàn thiện tốt hơn. Dịch vụ sau bán hàng là một
giải pháp rất tốt cho uy tín của doanh nghiệp trong cạnh tranh.
3.4.2. Quảng cáo.
Quảng cáo là nghệ thuật sử dụng các phương tiện truyền đưa thông tin về hàng hoá cho
thị trường mà cụ thể là cho người tiêu dùng. Quảng cáo là phương sách có tính chất chiến
lược để đạt được hoặc duy trì một lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Quảng cáo để thu hút
sự chú ý của mọi người đến sản phẩm của doanh nghiệp (như lợi ích, tiện lợi, tính chất sử
dụng của hàng hoá...). Quảng cáo để kích thích nhu cầu tiêu dùng, từ đó có thể tăng tốc
độ bán hàng, thu được lợi nhuận.
III. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nói đến khả năng của doanh nghiệp là nói đến thực lực của doanh nghiệp, như: tiềm lực

tài chính, công nghệ hiện đại, đội ngũ lao động năng động, lành nghề, bộ máy quản lý
giỏi... Chính các thực lực này sẽ được huy động vào phục vụ cho hoạt động cạnh tranh.
Nhưng để cạnh tranh được thì doanh nghiệp cần phải biến các thực lực này thành các lợi

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />thế so với đối thủ cạnh tranh. Do đó ta có khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là: “Lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh
tranh trong việc thoả mãn đến mức cao nhất các đòi hỏi của thị trường”.
Như vậy, các yếu tố được xem là lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh chính
là chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối sản phẩm, trình độ quản lý, trình độ
công nhân, tiềm lực tài chính, trình độ công nghệ... Trong đó các yếu tố chất lượng sản
phẩm, giá cả, hệ thống phân phối sản phẩm, dịch vụ sau bán... là các yếu tố trực tiếp tạo
nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bởi vì các yếu tố này đã và đang đáp ứng các
đòi hỏi, yêu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng, kích thích khách hàng tiêu dùng sản
phẩm của doanh nghiệp (biểu hiện cuối cùng của cạnh tranh được bộc lộ ra bên ngoài).
Tuy nhiên cũng không thể coi nhẹ các yếu tố như: tiềm lực tài chính, trình độ quản lý,
trình độ công nhân... vì chính các yếu tố này tác động không nhỏ đến chất lượng sản
phẩm, giá cả, hệ thống phân phối sản phẩm...
2. Vai trò của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Cạnh tranh là một hoạt động xuyên suốt, luôn luôn tồn tại ở mỗi doanh nghiệp khi doanh
nghiệp tiếp cận vào thị trường. Vì vậy, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp có vai trò rất quan trọng, không những dành chiến thắng trước các đối thủ cạnh
tranh, mở rộng được thị trường mà còn giúp doanh nghiệp phát huy được sức mạnh của
mình, tạo được uy tín trên thị trường, nâng cao được trình độ quản lý, tay nghề của công
nhân, vận dụng được khoa học kỹ thuật máy móc hiện đại vào sản xuất, chất lượng sản
phẩm cao, giá thành sản phẩm hạ...
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc
tế.

Theo trên các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là các yếu tố
tác động tới chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối, dịch vụ sau bán hàng... Tuỳ
từng mức độ ảnh hưởng mà doanh nghiệp phải đối mặt, có thể là tốt, là xấu. Nếu tốt sẽ
tạo được ưu thế trước đối thủ cạnh tranh và ngược lại, nếu xấu sẽ làm cho doanh nghiệp
khó tồn tại trên thị trường và có khi còn bị đánh bật ra khỏi thị trường đó.
Có 2 yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đó là các yếu tố bên
ngoài doanh nghiệp và các yếu tố thuộc về bản thân doanh nghiệp.
3.1. Các yếu tố thuộc bên ngoài doanh nghiệp.
3.1.1. Các nhân tố mang tính toàn cầu.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi những nhân tố thuộc về
hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù ngày nay trên thế giới xu hướng chung là tự do mậu

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt hàng rào ngăn cản đối với kinh doanh quốc tế. Các
doanh nghiệp luôn phải đối mặt với các hạn chế thương mại khác nhau.
- Thuế quan (Tariffs).
Thuế quan nhập khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá nhập khẩu. Thuế
quan nhập khẩu làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt giá cả trong nước,
đồng thời tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước mở rộng sản xuất và khả năng
cạnh tranh cũng được tăng cường, vì thế ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh. Thuế quan nhập khẩu được áp dụng rất
rộng rãi ở các quốc gia tuy rằng ở các nước mức thuế là khác nhau.
- Hạn ngạch (Quota).
Là việc đề ra những giới hạn về số lượng hàng hoá thông qua hình thức cấp giấy phép
(Quota nhập khẩu). Mục tiêu của hạn ngạch là để bảo lưu ngoại hối, bảo vệ công nghệ
cũng như công ăn việc làm trong nước. Cấm vận là hình thức cao nhất của hạn ngạch.
- Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật.
Là những quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, đo lường, an toàn lao động, bao bì đóng gói,
tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sinh thái đối với máy móc thiết bị và dây chuyền công

nghệ. Các nước sẽ sử dụng khéo léo các quy định này để biến chúng thành công cụ cạnh
tranh có lợi cho nước chủ nhà trong thương mại quốc tế.
- Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary export Restraints - VER).
Đây là hình thức của hàng hoá mậu dịch phi thuế quan. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là
một biện pháp hạn chế xuất khẩu mà theo đó một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia
xuất khẩu phải hạn chế tốt số lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách “tự
nguyện”.
Như vậy vô hình chung các yếu tố đó đã tạo ra một môi trường cạnh tranh bất lợi hơn cho
các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên những khó khăn cho quá trình thâm nhập có thể
lại được bù đắp bằng doanh số và lợi nhuận vì một thị trường tổng thể lớn hơn và thuần
nhất hơn được xác lập sẽ kéo theo sự tăng trưởng kinh tế và mức tiêu dùng các sản phẩm
nhập ngoại của khách hàng nước ngoài.
3.1.2. Các nhân tố thuộc môi trường kinh tế.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế của từng nước
khi doanh nghiệp xâm nhập vào thị trường của nước đó. Việc nghiên cứu nền kinh tế của
từng nước sẽ giúp doanh nghiệp thấy được mức tiêu dùng về sản phẩm của doanh nghiệp
là lớn haylà nhỏ (khả năng thanh toán của khách hàng). Vì thế đòi hỏi chất lượng sản
phẩm là tốt, trung bình hay bình thường... Trên cơ sở việc phân tích các cấu trúc của thị
trường các nước sẽ cho phép doanh nghiệp “vượt mặt” đối thủ cạnh tranh, dành được chỗ
đứng trên thị trường.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />3.1.3. Các nhân tố thuộc môi trường chính trị - luật pháp.
Các quốc gia rất khác nhau về môi trường chính trị - luật pháp, vì thế nó có ảnh hưởng rất
sâu rộng đến các doanh nghiệp nước ngoài. Cụ thể:
- Thái độ đối với doanh nghiệp nước ngoài.
Đối với doanh nghiệp này, quốc gia này rất dễ dãi, khuyến khích thực sự đối với doanh
nghiệp như chính phủ ban hành những quy định tạo thuận lợi cho nhà kinh doanh nước
ngoài, chẳng hạn là luật lệ khuyến khích đầu tư, tinh giảm về các luật lệ về cấp giấy phép
và các quy định liên quan đến xuất nhập khẩu. Ngược lại, lại có quốc gia khác lại có thái

độ thù nghịch, chẳng hạn chính phủ sẽ đưa ra những yêu cầu về hạn ngạch nhập khẩu, hạn
chế sử dụng ngoại tệ...
Ngoài ra khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn bị ảnh hưởng bởi:
- Sự ổn định về chính trị.
- Sự điều tiết về tiền tệ, tỷ giá hối đoái biến động mạnh cũng tạo nên các rủi ro cho doanh
nghiệp nước ngoài.
- Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền.
- Các quy định mang tính chất bắt buộc về pháp luật và quản lý như cấm đoán hay kiểm
soát đối với một số hàng hoá và dịch vụ, cấm một số phương thức hoạt động thương mại
(nhất là trong lĩnh vực quảng cáo), các kiểu kiểm soát về giá cả, số lượng sản phẩm hay
là các tiêu chuẩn mang tính bắt buộc đối với sản phẩm của doanh nghiệp.
3.1.4. Các nhân tố thuộc môi trường văn hoá.
Mỗi quốc gia đều có những tập tục, quy tắc, kiêng kỵ riêng. Chúng được hình thành theo
truyền thống văn hoá của mỗi quốc gia và có ảnh hưởng to lớn đến tập tính tiêu dùng của
khách hàng và của quốc gia đó. Do đó có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Vì thế buộc các doanh nghiệp phải đưa ra những sản phẩm mang tính chất văn
hoá truyền thống, chất lượng cao, giá cả hợp lý, mới lạ, đa năng...
3.1.5. Các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh.
Sức hấp dẫn của thị trường nước ngoài đã thu hút rất nhiều đối thủ cạnh tranh và cạnh
tranh quốc tế diễn ra rất gay gắt.
- Các nhà doanh nghiệp nước ngoài phải đối mặt các đối thủ cạnh tranh nội địa. Đối thủ
cạnh tranh nội địa được hưởng một ưu thế rất thuận lợi do những hỗ trợ của chính phủ và
tinh thần dân tộc của khách hàng. Rất có thể họ ưu tiên sản phẩm nội địa hơn so với sản
phẩm nhập ngoại. Tuy nhiên rất có thể đối thủ cạnh tranh nội địa phải ở thế bất lợi do sự
bất tín nhiệm của khách hàng đối với doanh nghiệp đó hay trở thành nạn nhân của thói
chuộng hàng ngoại.
- Loại đối thủ thứ hai là các doanh nghiệp nước ngoài khác đang hoạt động trên thị
trường đó. Các doanh nghiệp không thể chờ đợi ở họ một thái độ hợp tác hay những phản
ứng thụ động mà ngược lại doanh nghiệp phải đối mặt với những biện pháp ứng phó khi
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />trực tiếp, khi gián tiếp, khi thô thiển, khi tinh vi với những nguồn lực rất đáng kể về chi
phí cho cạnh tranh.
Cạnh tranh giữa sản phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm nước ngoài luôn chịu ảnh
hưởng của hình ảnh một đất nước tạo ra bởi dòng ghi chú “Made in...” trên sản phẩm, do
đó có tác động không nhỏ đến khách hàng địa phương. Sự nhận thức của khách hàng là
khó bảo thủ và khó thay đổi trừ khi doanh nghiệp có những đối phó tương ứng.
3.1.6. Sự phát triển của khoa học, công nghệ trên thế giới.
Tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bằng chất lượng sản phẩm và giá cả
sản phẩm. Nếu có công nghệ phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp có được ưu thế trong cạnh
tranh, mặt khác nếu doanh nghiệp không kịp thời đổi mới thì sản phẩm của doanh nghiệp
sẽ trở nên lạc hậu, làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp.
3.1.7. Hàng giả.
Là nỗi lo của bất cứ một doanh nghiệp nào. Nó làm cho uy tín của doanh nghiệp bị lu mờ,
làm mất đi khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
3.1.8. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong nước đối với doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng bởi các chính sách, luật pháp
của Nhà nước như:
- Các chính sách về miễn giảm thuế xuất khẩu sản phẩm đối với của doanh nghiệp.
- Các điều khoản, quy định về giấy phép xuất khẩu sản phẩm.
- Các quan hệ kinh tế đối ngoại của Nhà nước sẽ giúp doanh nghiệp có thể gia nhập thị
trường quốc tế...
Các doanh nghiệp luôn mong muốn ở Nhà nước có các chính sách phù hợp, đúng hướng,
hỗ trợ về tài chính, nguồn lực... để tạo cho doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất
kinh doanh, thu được lợi nhuận, có lợi thế trong cạnh tranh, từ đó có thể giúp Nhà nước
thu được nguồn ngoại tệ lớn, khoa học - công nghệ trong nước không bị lạc hậu so với thế
giới, cùng góp phần phát triển chung nền kinh tế đất nước.
3.2. Các yếu tố thuộc về bản thân doanh nghiệp.
3.2.1. Nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu là chi phí trực tiếp tạo ra giá thành sản phẩm. Do đó việc lựa chọn và sử

dụng nguyên vật liệu vào sản xuất sẽ quyết định một phần đến chất lượng và giá thành
sản phẩm. Nếu chi phí nguyên vật liệu lớn sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp.
3.2.2. Lực lượng cán bộ và công nhân trong doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm đạt đến mức nào? giá cả sản phẩm là bao nhiêu? kênh phân phối
hàng hoá như thế nào?... đều do cán bộ và công nhân trong doanh nghiệp xây dựng và
quản lý. Trình độ quản lý, năng suất lao động, ý thức của mọi người trong doanh nghiệp
sẽ tác động không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
3.2.3. Thiết bị máy móc, dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Nếu quy mô và khả năng sản xuất của doanh nghiệp lớn sẽ có lợi thế hơn so với các
doanh nghiệp nhỏ, lẻ khác, bởi lẽ doanh nghiệp có quy mô và khả năng sản xuất lớn sẽ tạo
ra được nhiều sản phẩm, từ đó có thể hạ được giá bán sản phẩm, tiêu thụ được nhiều sản
phẩm dẫn đến đánh bại được đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Mặt khác doanh nghiệp có quy mô và khả năng sản xuất lớn sẽ có nhiều bạn hàng trong
mua bán, có được chữ tín với khách hàng, tăng được ưu thế so với đối thủ cạnh tranh.
3.2.4. Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp.
Đây chính là công cụ đắc lực và quan trọng để đánh bại đối thủ cạnh tranh. Đến một thời
điểm cụ thể doanh nghiệp với tiềm lực tài chính dồi dào có thể bán sản phẩm với mức giá
thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh, loại đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường.
Với một mức vốn lớn, doanh nghiệp sẽ mở rộng được quy mô sản xuất, có điều kiện đổi
mới công nghệ máy móc, thiết bị. Tình hình sử dụng vốn sẽ quyết định chi phí về vốn của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
3.2.5. Hoạt động Marketing của doanh nghiệp.
Hoạt động Marketing không thể thiếu ở mỗi doanh nghiệp hiện nay. Chúng giúp doanh
nghiệp phân tích nhu cầu của khách hàng, các hình thức cạnh tranh của đối thủ, dự báo
được số lượng sản phẩm có thể tiêu thụ trong tương lai... Trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ
đưa ra các chiến lược kinh doanh hiệu quả, tạo được các sản phẩm phù hợp với sở thích
của khách hàng với mức giá linh hoạt theo sự biến động của thị trường. Xây dựng được

hệ thống tiêu thụ sản phẩm rộng khắp trên nhiều quốc gia khác nhau từ đó làm tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
3.2.6. Vị trí của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi vị trí địa lý của doanh
nghiệp. Nó quyết định đến cước phí vận chuyển hàng hoá, thời gian giao hàng, điều kiện
giao dịch...
4. Ý nghĩa của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp đứng vững
được trên thị trường. Đồng thời giúp doanh nghiệp nâng cao được yếu tố có lợi nhất cho
mình, tìm ra giải pháp cạnh tranh hữu hiệu nhất, làm giảm các yếu tố bất lợi và lấy đó làm
bàn đạp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để thu được lợi nhuận cao.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
PHẦN II
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA XÍ NGHIỆP TOCAN HIỆN NAY
Năm tháng qua đi, nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, cạnh tranh trên thị trường
quốc tế cũng càng trở nên gay gắt, quyết liệt hơn. Trong cuộc đọ sức ấy, xí nghiệp
TOCAN đã và đang sản xuất ra một khối lượng lớn các loại chổi sơn phục vụ cho ngành
công nghiệp xây dựng dân dụng và vững bước đi trên con đường dẫn đến thành công.
I. Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp TOCAN.
Nghề làm chổi sơn ra đời rất sớm, nước khởi thuỷ là Trung Quốc. Khoảng thế kỷ thứ 15,
người phương Tây đã học được cách làm chổi sơn và chổi sơn đã được áp dụng rộng rãi
vào ngành xây dựng.
Năm 1987, công ty TOCONTAP của Việt Nam đã xuất một lô hàng nhỏ sang hãng Nour
Trading House Inc. của Canada, trong đó có một Container cán chổi gỗ nhưng lô hàng đó
không phù hợp với thị trường. Hãng Nour Trading House Inc. quyết định phải có sự kết
hợp giữa hãng và công ty TOCONTAP trong sản xuất để tạo ra sản phẩm thích hợp với
thị trường. Sau đó hai bên đã ký kết hợp đồng hợp tác sản xuất dài hạn tại Việt Nam vào

năm 1992. Phía công ty TOCONTAP đã chọn thêm một doanh nghiệp trong nước có sẵn
đất đai, nhà xưởng để tổ chức liên kết kinh tế.
Tháng 11 năm 1993, xí nghiệp TOCAN chính thức được thành lập theo nghị định 28 của
Chính phủ về liên kết kinh tế giữa các tổ chức quốc doanh (Bộ thương mại và Sở lao
động thương binh xã hội) và những công nhân đầu tiên được tuyển chọn vào xí nghiệp,
máy móc thiết bị cũng được chuyển từ Canada vào Việt Nam.
Tháng 1 năm 1994, xí nghiệp chính thức đi vào hoạt động với sự điều hành trực tiếp của
các bộ phận quản lý của xí nghiệp cùng với sự phối hợp chặt chẽ của các chuyên gia
Canada. Các sản phẩm mà xí nghiệp TOCAN sản xuất để xuất khẩu ra thị trường nước
ngoài là: cán chổi gỗ, đầu chổi sơn và chổi sơn hoàn chỉnh.
Căn cứ vào hợp đồng đã ký kết:
- Phía Nour Trading House Inc. có nghĩa vụ cung cấp máy móc, thiết bị, cung cấp nguyên
vật liệu cần thiết mà phía Việt Nam chưa có. Chuyển giao toàn bộ dây chuyền công nghệ
sản xuất cán gỗ, đầu chổi sơn và chổi sơn với tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng mà hãng
đang chế tạo ở Canada và có đủ sức mạnh cạnh tranh trên thế giới.
- Phía Việt Nam có nghĩa vụ thiết lập bộ máy sản xuất, bộ máy điều hành, duy trì tốc độ
sản xuất theo những yêu cầu của thị trường, phối hợp chặt chẽ với hãng Nour Trading
House Inc. để duy trì sản phẩm cũ, tạo ra sản phẩm mới nhằm đẩy mạnh hơn nữa trong
sản xuất chế tạo sản phẩm và loại dần các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Xí nghiệp TOCAN hiện đang trực thuộc công ty TOCONTAP, nằm trên địa bàn thuộc
làng Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
II. Một số đặc điểm về sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp.
1. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý.
Tổ chức bộ máy quản lý của xí nghiệp TOCAN được dựa trên mô hình quản lý của Bắc
Mĩ. Việc thiết lập tổ chức bộ máy quản lý của xí nghiệp TOCAN khá đơn giản, gọn nhẹ.
Gồm:
- Về quản lý: Giám đốc, phó giám đốc, chuyên viên xuất - nhập khẩu và tài chính - kế


Giám đốc

toán.
- Về bộ phận sản xuất: Quản đốc, chuyên viên kỹ thuật sản xuất và 7 tổ sản xuất.
Sơ đồ 1 – Tổ chức bộ máy quản lý của xí nghiệp TOCAN.

Chuyên viên
XNK

Phó giám
đốc

Quản đốc
Tổ cơ khí

Tài chính
kế toán

Chuyên viên
kỹ thuật sản
xuất

Tổ nồi hơi
cắt xếp gỗ
Tổ làm cán

Tổ chế biến
lông
Tổ đầu chổi


Mối quan hệ chỉ đạo.
Mối quan hệ phối hợp cộng tácTổ
vàhoàn
hỗ trợ nghiệp vụ.
Việc vận hành tổ chức bộ máy quản chỉnh
lý của xí nghiệp TOCAN là khá linh động, nhịp
nhàng, các bộ phận ít xẩy ra sự cố làm ảnh hưởng chung đến toàn xí nghiệp.
Chức năng của từng bộ phận trong xí nghiệp:

Tổ đóng gói

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Giám đốc: là người có thẩm quyền cao nhất trong xí nghiệp. Ngoài trách nhiệm của một
giám đốc xí nghiệp Việt Nam (lo toàn bộ hoạt động của xí nghiệp, chế độ của xí
nghiệp...), còn chịu trách nhiệm trực tiếp giao dịch với phía nước ngoài, điều tiết sản xuất
thích ứng trước những biến động của thị trường, phối hợp với hãng Nour Trading House
Inc. để tăng sức cạnh tranh của xí nghiệp.
- Phó giám đốc: là cộng sự đắc lực của giám đốc, thực hiện chức năng quản lý toàn diện
xí nghiệp. Phụ trách kế hoạch sản xuất và các chế độ đối với người lao động, chịu trách
nhiệm về tổ chức và phối hợp quá trình sản xuất từ khâu kiểm tra, đánh giá kết quả sản
xuất, đồng thời được uỷ quyền khi giám đốc vắng mặt.
- Chuyên viên xuất - nhập khẩu: phụ trách công việc cung cấp sản phẩm đầy đủ, kịp thời
cho phía nước ngoài và đảm bảo nguyên liệu nhập từ nước ngoài vào đúng số lượng, chất
lượng.
- Tài chính - kế toán: có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác kế toán tại xí nghiệp.
- Quản đốc: có nhiệm vụ triển khai cụ thể kế hoạch sản xuất theo thứ tự ưu tiên của sản
phẩm, quản lý kiểm tra chất lượng sản phẩm.
- Chuyên viên kỹ thuật sản xuất: có nhiệm vụ quản lý kỹ thuật công nghệ, kiểm định

nguyên liệu trước khi đưa vào sản xuất.
- Các tổ sản xuất theo đúng chức năng hoạt động.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />2. Đặc điểm về cơ cấu lao động của xí nghiệp.
Nguồn lực lao động của xí nghiệp được bố trí một cách hợp lý, đúng người, đúng việc,
phù hợp với trình độ và khả năng của mỗi người. Tổng số lao động chính thức của xí
nghiệp TOCAN đến quý I năm 2000 là 150 người và được chia làm hai bộ phận chính: bộ
phận trực tiếp làm ra sản phẩm chiếm khoảng 96% (144 người) trong đó bộ phận làm việc
thủ công chiếm 30% (45 người) và bộ phận làm việc bằng máy chiếm 66% (99 người); bộ
phận quản lý chung chiếm 4% (6 người). Thu nhập bình quân đầu người của mỗi lao động
là 560.000 đồng/tháng. Lao động có trình độ đại học, trung học và phổ thông tăng. Ngoài
ra, khác với các ngành lao động khác, số công nhân được phân bổ vào các tổ sản xuất phụ
thuộc vào nhu cầu của thị trường. Nếu nhu cầu nhiều, sản phẩm nằm trong vòng kiểm soát
thì số lượng công nhân tăng và ngược lại. Trong thực tế, thời điểm cao nhất lực lượng lao
động của xí nghiệp là 220 người (năm 1998).
Biểu 1: Kết cấu lao động của xí nghiệp qua các năm 1997, 1998, 1999, quý I năm 2000.
Chỉ tiêu

1997

1998

1999

Quý I-2000

Tổng số lao động


160

220

140

150

Đại học

8

12

7

9

Phổ thông trung học

105

143

91

96

Phổ thông


47

65

42

45

Thu nhập bình quân

460.000

485.000

520.000

560.000

Nguồn: Theo báo cáo tổng kết tình hình hoạt động của xí nghiệp TOCAN năm 1997,
1998, 1999, quý I năm 2000.
3. Đặc điểm về tài chính của xí nghiệp TOCAN.
Căn cứ vào hợp đồng đã ký kết, căn cứ vào khả năng tài chính của hãng Nour Trading
House Inc. và xí nghiệp TOCAN, căn cứ vào nhu cầu thay đổi theo từng giai đoạn, 2 bên
đã thống nhất: hãng Nour Trading House Inc. chuyển tiền cho xí nghiệp TOCAN dưới
hình thức ứng trước tiền thanh toán. Xí nghiệp TOCAN có trách nhiệm bảo toàn và phát
triển nguồn vốn này, đồng thời làm tăng nguồn vốn tự có của xí nghiệp.
Tính đến quý I năm 2000, tổng số vốn sản xuất kinh doanh của xí nghiệp là:
9.638.460.000 VNĐ, trong đó:
- Vốn cố định: 8.433.652.000 VNĐ
- Vốn lưu động: 1.204.808.000 VNĐ

4. Đặc điểm về sản xuất kinh doanh của xí nghiệp TOCAN.
Thị trường, sự cạnh tranh, tồn tại, phát triển, tác động gián tiếp của khách hàng... đều
quyết định toàn bộ đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
4.1. Nguyên vật liệu.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Nguyên liệu để sản xuất chổi sơn được cung ứng từ 2 nguồn:
- Từ nước ngoài: lông được nhập từ Thượng Hải, Á Khẩu, Trùng Khánh của Trung Quốc,
sợi hoá học (gồm sợi nilông, sợi polyeste) được nhập tại hãng Dupont của Mỹ, keo được
nhập từ Anh Quốc, hoá chất, sơn đặc biệt, đinh và các vật liệu phụ như ghim, cúc... được
nhập từ nhiều nước trên thế giới.
- Trong nước: Gỗ được lấy tại Lào Cai, Yên Bái, Nghệ An, mực in được các hãng liên
doanh cung cấp, đai chổi, bao bì nhãn mác... đã được nội địa hoá và đây cũng là hướng
phát triển mới của xí nghiệp TOCAN.
Nguyên liệu chính của chổi sơn hoàn chỉnh được xí nghiệp sử dụng là: lông, sợi, gỗ, đai
chổi, sơn đặc biệt, keo, đinh... Sản phẩm chổi sơn có nhiều loại, kích cỡ khác nhau (từ
chiếc rộng 1 cm, dài 7 cm cho đến chiếc to nhất rộng 10 cm, dài 45 cm) nên kết cấu
nguyên liệu của sản phẩm cũng khác nhau.
Biểu 2: Kết cấu nguyên vật liệu theo công thức trong một sản phẩm chổi sơn hoàn chỉnh.
Tỷ trọng

STT

Loại nguyên liệu

1

Lông, sợi

38


2

Gỗ

19

3

Đai chổi

2

4

Keo

1,2

5

Đinh

0,3

6

Hoá chất, sơn đặc biệt

0,2


(%)

Qua biểu trên thì lông, sợi, gỗ là 2 nguyên liệu chính, chiếm tỷ trọng lớn trong các thành
phần cấu tạo nên sản phẩm. Tổng hợp nguyên liệu chứa trong giá trị của một sản phẩm
chổi sơn chiếm 60,7%, còn lại 39,3% là: lao động: 25%; điện nước, khấu hao máy móc,
tiền đầu tư...: 12%; bao bì, nhãn mác...: 2,3%.
Ngoài nguyên liệu chính, xí nghiệp còn sử dụng nguyên liệu phụ để tạo ra sản phẩm chổi
sơn hoàn chỉnh.
Biểu 3: Nguyên vật liệu phụ.
STT

Loại nguyên liệu

Công dụng

1

Điện, nước

Vận hành máy móc và rửa vật liệu.

2

Mực in

In lên cán chổi, nhãn mác, bao bì.

3


Paraphin

Làm lớp bảo vệ bề mặt trên cán chổi gỗ, ngăn

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×