Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Th c tr ng s n xu t kinh doanh v kh n ng c nh tranh c a c ng ty c ph n i n nh vi n th ng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.47 MB, 77 trang )

Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/> và là website chia sẻ miễn phí luận văn,
đồ án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho tất
cả mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự đóng góp
của quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu xin quý
khách gửi về
Tài

liệu

này



được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>Thực trạng sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của công ty cổ phần Điện nhẹ
viễn thông

Tài

liệu

này

được

/>
tải


miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website


/>


/>LỜI MỞ ĐẦU
Một quy luật khắc nghiệt nhất của thị trường đó là cạnh tranh. Theo đó bất kỳ chủ thể
kinh tế nào tham gia thị trường nếu không tiếp cận kịp với guồng quay của nó thì tất yếu
sẽ bị đánh bật ra khỏi thị trường. Do sức ép của cạnh tranh buộc các nhà doanh nghiệp
phải thường xuyên tìm mọi cách để sử dụng hợp lý nhất những nguồn lực của mình,
phải sử dụng những công cụ cạnh tranh có hiệu quả nhất nhằm đạt được những mục tiêu
chiến lược đặt ra của doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp xây dựng hoạt động trong một môi trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt do sự lớn mạnh của các doanh nghiệp khác trong ngành, do sự ra đời của
các doanh nghiệp mới tham gia thị trường, và sự thâm nhập của các doanh nghiệp xây
dựng nước ngoài thì yêu cầu nâng cao khả năng cạnh tranh là điều kiện sống còn của
mỗi doanh nghiệp.
Công ty cổ phần Điện nhẹ viễn thông, với tuổi đời còn non trẻ, năng lực còn yếu kém để
có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường cạnh tranh đầy khốc liệt như hiện nay
thì vấn đề làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường xây lắp nói chung đang là một bài toán mà từng ngày, từng giờ ban lãnh đạo của
công ty đang tìm lời giải đáp.
Từ tính cấp thiết và hữu dụng của vấn đề, với mong muốn là góp phần rất nhỏ vào việc
tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của công ty trên thị
trường xây lắp trong thời gian tới nên Em quyết định lựa chọn đề tài: " Một số biện pháp
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty cổ phần Điện nhẹ viễn thông" cho luận
vặn tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu của luận văn gồm 3 phần chính:
Phần I: Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng trong nền kinh
tế thị trường.
Phần II: Thực trạng sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của công ty cổ phần
Điện nhẹ viễn thông.

Phần III: Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty cổ
phần Điện nhẹ viễn thông
Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này


được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>Với khả năng, trình độ và thời gian có hạn cho nên phần trình bày do Em thực hiện khó
tránh khỏi được những khiếm khuyết.Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo tận tình
của các thầy cô giáo và các bạn để Em có thể hoàn thành tốt hơn ý tưởng của mình.
Em cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Văn Minh, cùng toàn thể các cô chú,
các anh chị trong công ty cổ phần Điện nhẹ viễn thông đã giúp em hoàn thành đề tài
nghiên cứu này!
Sinh viên: Lê Thị Vi

Tài

liệu

này


được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí


từ

website

/>


/>CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP XÂY
DỰNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. CẠNH TRANH
1.Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh đặc biệt phát triển cùng với sự phát triển nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ
nghĩa. Theo Mác "cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch". Nghiên cứu sâu về nền sản xuất hàng hoá
tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác đã phát hiện ra quy luật điều
chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân và qua đó đã hình thành nên giá cả thị trường. Quy
luật này dựa trên sự chênh lệch giữa giá trị, chi phí và khả năng có thể bán được hàng
hóa dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận.
Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh càng có vai trò quan trọng. Nó là điều
kiện, là yếu tố kích thích kinh doanh và là động lực thức đẩy sản xuất phát triển góp
phần thức đẩy sự phát triển của xã hội nói chung.
Như vậy, sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng người
cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Kết quả cạnh tranh sẽ có một số doanh
nghiệp bị buộc thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi một số doanh nghiệp vẫn
tồn tại và phát triển, phát triển hơn nữa.
Cũng chính nhờ cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận động theo
hướng nâng cao năng suất lao động xã hội. Yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi

quốc gia trên con đường phát triển.
Tóm lại, ta có thể hiểu cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể
kinh doanh hoạt động trên thị trường nhằm giành giật những khả năng về mở rộng quá
trình sản xuất sản phẩm, mở rộng thị phần cho doanh nghiệp, tạo ra cho xã hội những
sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, dịch vụ chu đáo.

Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài


liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>2. Các loại hình cạnh tranh.
2.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường có:
+ Cạnh tranh giữa người bán với người mua là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật
mua rẻ- bán đắt, trên thị trường người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao
nhất. Giá cả cuối cùng được chấp nhận là giá thống nhất giữa người bán và người mua
sau quá trình mặc cả với nhau.
+ Cạnh tranh giữa người mua và người mua là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung
cầu. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa những người mua trở nên quyết liệt,
giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lên. Do hàng hoá trên thị trường khan hiếm nên
người mua sẵn sàng trả giá cao để mua được hàng hoá họ cần, khi đó người bán tiếp tục

nâng giá, kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao, còn người mua phải
mua hàng hoá không sát giá trị với nó. Đây là cuộc cạnh tranh người mua tự làm hại
chính mình.
+ Cạnh tranh giữa người bán và người bán là cuộc cạnh tranh gay go quyết liệt nhất.
Các doanh nghiệp cạnh tranh và thôn tính lẫn nhau để tranh giành khách hàng, thị
trường, đây là cuộc cạnh tranh có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của mỗi doanh
nghiệp.
2.2. Căn cứ vào hành vi của những thành viên tham gia:
+ Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh trên thị trường có rất nhiều người bán và
không người nào có ưu thế để cung ứng một số lượng sản phẩm quan trọng khả dĩ ảnh
hưởng đến giá cả. Xét về phía người mua cũng không có người mua nào mua một khối
lượng sản phẩm quan trọng đến mức ảnh hưởng tới giá cả, các sản phẩm bán ra đều
được xem là đồng nhất, tức là ít khác nhau về quy cách phẩm chất, mẫu mã. Những
người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng với giá cả trên thị trường, bởi
vì cung cầu thị trường được tự do hình thành, giá cả được xác định ở mức mà số cầu của
một sản phẩm đủ để thu tất cả số cung có thể cung ứng. Các doanh nghiệp tham gia trên
thị trường này chủ yếu tìm biện pháp cắt giảm chi phí và sản xuất một số lượng sản
phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo: là cuộc cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn các sản
phẩm không đồng nhất với nhau, cùng một loại sản phẩm có thể chia làm nhiều loại,
Tài

liệu

này

được

/>
tải


miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website


/>


/>mỗi loại sản phẩm, nhãn hiệu sản phẩm đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau, mặc
dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Các điều kiện mua, bán hàng rất
khác nhau, vì nhiều lý do người bán lôi kéo khách hàng về phía mình bằng nhiều cách:
quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, tín dụng, chiết khấu, giảm giá người bán có
thể ấn định giá linh hoạt tuỳ theo khu vực bán sản phẩm, tuỳ theo khách hàng cụ thể và
mức lợi nhuận mong muốn.
+ Thị trường cạnh tranh độc quyền: cạnh tranh độc quyền là cạnh tranh diễn ra trên thị
trường mà ở đó có một số người bán một số sản phẩm thuần nhất.
Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra trên thị
trường. Nhà độc quyền hoàn toàn có quyền định đoạt giá cả và số lượng bán ra. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là độc quyền có sự tự do hoàn toàn về giá mà tuỳ theo
đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm nhà độc quyền có thể định giá cao hay thấp để thu lợi
nhuận tối đa.Trong kinh doanh ai là người độc quyền sẽ có lợi thế song về mặt xã hội thì
nó làm kìm hãm sự phát triển sản xuất, làm hại người tiêu dùng. Vì vậy, ở một số nước
có luật chống độc quyền, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.

Tài

liệu

này

được

/>
tải


miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website


/>


/>3. Các lực lượng cạnh tranh trên thị trường.

Những người
gia nhập
Mối đe tiềm
doạ năng
gia nhập

Các đối thủ
Người

cạnh tranh

Sức mạnh

cung

của người

ứng

cung ứng

trong ngành

Sức mạnh

của người
mua

Người
mua

Sự cạnh
tranh giữa
các đối thủ
Mối đe doạ
thay thế

Các sản phẩm
thay thế
Trước hết, ta định nghĩa ngành kinh tế là một nhóm những công ty sản xuất những sản
phẩm thay thế gần gũi của nhau. Một công ty trong một ngành sản xuất không thể đứng
độc lập một mình trên thị trường mà không có mối quan hệ với bên ngoài mà thực tế
chúng hoạt động và phát triển trong những môi trường hết sức phức tạp.
Micheal porter trong cuốn "chiến lược cạnh tranh" đã đưa ra 5 lực lượng cạnh tranh tác
động đến mức độ cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp
Năm lực lượng cạnh tranh: nguy cơ nhập cuộc của các đối thủ mới, cuộc cạnh tranh
giữa các đối thủ hiện tại, mối đe doạ của các sản phẩm thay thế, sức mạnh của người
mua và sức mạnh của người cung ứng là 5 lực lượng cơ bản của cạnh tranh trên thị
trường.

Tài

liệu

này


được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn


phí

từ

website

/>


/>Toàn bộ 5 lực lượng cạnh tranh này kết hợp với nhau xác định cường độ cạnh tranh và
mức lợi nhuận của ngành. Những lực lượng mạnh mẽ nhất sẽ thống trị và trở thành
trọng yếu theo quan điểm xây dựng chiến lược.
3.1. Nguy cơ nhập cuộc của các đối thủ ngoài ngành
Những đối thủ mới của ngành mang đến những năng lực sản xuất mới, sự mong muốn
chiếm lĩnh một thị trường nào đó và thường là những người có tiềm lực to lớn. Giá bán
có thể bị kéo xuống hoặc chi phí của các hãng đi trước có thể bị tăng lên và kết quả là
giảm mức lợi tức. Các công ty đa dạng hoá hoạt động của mình thông qua việc xâm
nhập vào một ngành từ những thị trường khác thường sử dụng các nguồn lực của họ để
tạo ra một cuộc cải tổ. Sự xâm nhập vào một ngành, với dự định xây dựng một vị trí trên
thị trường điều đó có lẽ cần coi như một sự nhập cuộc mới mặc dù không có một thực
thể mới nào tạo ra.
Nguy cơ nhập cuộc vào một ngành phụ thuộc vào những barie nhập cuộc thể hiện qua
các phản ứng của các đối thủ cạnh tranh hiện thời mà các đối thủ mới có thể dự đoán
được. Các barie này là tính kinh tế, sự khác biệt của sản phẩm, những đòi hỏi về vốn,
chi phí, khả năng tiếp cận với các kênh phân phối và những bất lợi về chi phí không liên
quan tới quy mô. Nếu các barie cao hoặc các đối thủ mới có thể dự đoán được sự toan
tính trả đũa quyết liệt của các đối thủ hiện thời đang quyết tâm phòng thủ thì nguy cơ
nhập cuộc sẽ thấp.
3.2 Cuộc cạnh tranh của các đối thủ hiện tại
Trong cuộc cạnh tranh này các đối thủ sử dụng các chiến thuật như cạnh tranh về giá,

các cuộc chiến về quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng cường phục vụ khách hàng
hoặc các dịch vụ sau khi bán. Cuộc cạnh tranh, tranh đua xảy ra vì một nhiều đối thủ
thấy bị chèn ép hoặc thấy cơ hội để cải thiện vị trí. Trong đa số các ngành, những bước
đi của một công ty có những hiệu ứng rõ ràng với các đối thủ cuả nó và như thế có thể
kích thích sự trả đũa hoặc những cố gắng chống trả lại.
Một số hình thức cạnh tranh, rõ ràng nhất là cạnh tranh về giá, rất không ổn định và có
khả năng làm giảm lợi nhuận toàn ngành. Các đối thủ cạnh tranh rất nhanh chóng và dễ
dàng bắt chước các hành động giảm giá và một khi làm như vậy sẽ hạ thấp doanh thu
của tất cả các hãng trừ khi độ co dãn của cầu là khá lớn. Ngược lại, cuộc cạnh tranh về
Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>




Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>quảng cáo có thể làm tăng nhu cầu và làm giảm mức độ dị biệt của sản phẩm trong
ngành và dẫn tới có lợi ích cho toàn ngành.
Cạnh tranh khốc liệt ở một số ngành là kết quả của một loạt các yếu tố cấu trúc tác động
lẫn nhau như các đối thủ cạnh tranh đông đảo hoặc đều bằng vai phải lứa hay sự thiếu
vắng về sự khác biệt của sản phẩm và về các chi phí chuyển đổi, cũng có thể là do các
đối thủ cạnh tranh đa dạng về chiến lược, về nguồn gốc con người
3.2 Áp lực từ các sản phẩm thay thế

Xét theo nghĩa rộng thì các công ty trong ngành phải cạnh tranh với các ngành sản xuất
các sản phẩm thay thế. Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một
ngành bằng cách đặt một ngưỡng tối đa cho mức giá mà các hãng trong ngành có thể
kinh doanh có lãi. Khả năng về lựa chọn giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn
thì ngưỡng chặn trên đối với lợi nhuận càng chắc chắn hơn.
Xác định những sản phẩm thay thế chính là tìm kiếm những sản phẩm có cùng công
năng như sản phẩm của một ngành. Nhiều khi công việc này rất tinh vi đẩy người phân
tích vào những ngành kinh doanh dường như xa lạ với ngành. Vì thế để đối mặt với các
sản phẩm thay thế thì đó là vẫn đề chung của toàn ngành, ví dụ việc quảng cáo của một
hãng không đủ thắng nổi sản phẩm thay thế thì việc quảng cáo liên tục mạnh mẽ của
hãng trong ngành chắc chắn sẽ cải thiện đáng kể vị trí chung của toàn ngành.
3.4 Sức mạnh của người mua
Người mua cạnh tranh với ngành bằng cách bắt ép mặc cả để có chất lượng tốt hơn,
phục vụ nhiều hơn và làm cho các doanh nghiệp cùng ngành chống lại nhau. Tất cả đều
làm hao tổn lợi nhuận của ngành.
Sức mạnh của mỗi nhóm khách hàng phụ thuộc vào một loạt các đặc điểm của tình hình
thị trường, vào tầm quan trọng hàng hoá của ngành xét trong mối tương quan với toàn
bộ hoạt động kinh doanh của nhóm. Sức mạnh của người mua tăng hoặc giảm thay đổi
theo thời gian của các yếu tố như sự nhạy cảm với giá, sự đầy đủ thông tin hoặc do kết
quả của quyết định chiến lược của công ty.
Chính vì vậy, việc lựa chọn các nhóm khách hàng chính yếu, thị trường chính yếu
phải được xem xét như một chiến lược tối quan trọng.

Tài

liệu

này

được


/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí


từ

website

/>


/>3.5 Sức mạnh của người cung ứng
Những người cung ứng có thể khẳng định sức mạnh của mình đối với các thành viên
bằng cách đe doạ tăng hoặc giảm chất lượng hàng hoá dịch vụ, bằng cách đó chèn ép
lợi nhuận tiêu thụ của một ngành khi ngành đó không còn khả năng bù đắp lại chi phí
tăng lên trong mức giá của ngành.
Ngoài các hãng cung ứng còn phải coi lực lượng lao động như một lực

lượng cung

ứng, và lực lượng cung ứng có rất nhiều sức mạnh trong nhiều ngành. Thực tế đã chỉ ra
rất rõ ràng những nhân viên có tay nghề và kinh nghiệm thì việc họ làm hay không làm
cho doanh nghiệp sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, chất lượng sản phẩm của
công ty.
II. CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG TRONG CƠ

CHẾ THỊ

TRƯỜNG.
1.

Quan niệm về cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng.

1.1 Khái niệm doanh nghiệp xây dựng

Theo nghị định của Chính phủ số 52/ 1999/ NĐ- CP ngày 08/ 07/ 1999 về việc ban hành
quy chế quản lý đầu tư và xây dựng định nghĩa: "doanh nghiệp xây dựng là doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, có
đăng ký kinh doanh về xây dựng"
Nhiệm vụ chủ yếu của doanh nghiệp xây dựng là chuyên môn nhận thầu thi công xây
lắp kèm theo các tổ chức sản xuất phụ như vật liệu xây dựng, cấu kiện xây dựng (nếu
có) và các tổ chức quản lý, dịch vụ khác thuộc ngành xây dựng như vận tải xây dựng,
bảo trì, bảo dưỡng công trình.
1.2 Khái niệm về cạnh tranh trong xây dựng
+ Theo kinh tế học cạnh tranh được định nghĩa là sự giành giật thị trường để tiêu thụ
hàng hoá giữa các doanh nghiệp.
Nội dung trong định nghĩa này nhấn mạnh đến cạnh tranh trong khâu tiêu thụ sản phẩm,
hàng hoá. Nó chú trọng nhiều đối với các ngành mà sản phẩm hoàn thành trước khi xác
định được khách hàng là ai. Còn đối với ngành xây dựng do sản phẩm xây dựng (các
công trình xây dựng) có tính đặc thù, khác biệt hẳn so với các doanh nghiệp trong ngành
Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí


từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>khác - đó là sản phẩm xây dựng thường mang tính đơn chiếc và sản phẩm theo đơn đặt

hàng (yêu cầu) của chủ đầu tư. Như vậy, là các doanh nghiệp xây dựng xác định được
khách hàng trước khi sản phẩm xây dựng được hoàn thành. Xuất phát từ đặc thù này mà
cạnh tranh trong ngành xây dựng cũng có tính đặc thù riêng so với các ngành khác. Cụ
thể, đối với các doanh nghiệp thuộc các ngành khác thì thị trường tổ chức sự cạnh tranh
và cũng chính thị trường đánh giá khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp tham gia
thị trường. Còn đối với các doanh nghiệp xây dựng, sự cạnh tranh do các chủ đầu tư
(bên mời thầu) và do đó cũng chính chủ đầu tư quyết định ai sẽ là người thắng cuộc
trong cạnh tranh. Theo nghĩa đó, cạnh tranh trong xây dựng có thể định nghĩa như sau:
+ Theo nghĩa hẹp: cạnh tranh trong xây dựng là việc các doanh nghiệp xây dựng
đưa ra các biện pháp kỹ thuật, chất lượng, tổ chức, giá cả, biện pháp thi công tốt nhất,
đáp ứng tốt nhất yêu cầu của chủ đầu tư nhằm dành được mục tiêu thắng thầu xây dựng
công trình đó.
Theo quan niệm này, mới chỉ xem xét sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng
tham gia đấu thầu xây dựng một công trình nhất định mà chưa chỉ ra được sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp xây dựng trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, tham gia
nhiều công trình đấu thầu khác nhau và các đối thủ cạnh tranh cũng khác nhau. Vì thế
mà nếu theo quan điểm này thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng chiến
lược cạnh tranh dài hạn của doanh nghiệp.
+ Theo nghĩa rộng: cạnh tranh là quá trình đấu tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp xây
dựng nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi và thế mạnh cho mình so với các đối thủ
cạnh tranh.
Theo quan điểm này, sự cạnh tranh được xem xét rộng hơn cả về không gian và thời
gian. Sự cạnh tranh không chỉ bó hẹp trong một số nhà thầu và thời gian diễn ra một
cuộc đấu thầu mà là cả quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này đòi
hỏi mỗi doanh nghiệp xây dựng muốn tồn tại được trong thị trường cạnh tranh thì phải
có một cách nhìn toàn diện hơn và phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh
hợp lý ở mọi thời điểm, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn chủ động trong thị trường cạnh
tranh ngày càng gay gắt và đầy biện động.

Tài


liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được


tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>1.3 Tính tất yếu phải nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng.
Cũng như các doanh nghiệp trong các ngành khác, các doanh nghiệp xây dựng tồn tại
trong thị trường cạnh tranh phải xác định cho mình một vị trí nhất định, chiếm lĩnh một
phần thị trường nhất định. Sự tồn tại của các doanh nghiệp xây dựng luôn bị các đối thủ
khác bao vây. Vì vậy, để tồn tại doanh nghiệp xây dựng phải luôn luôn vận động, phát
triển, nâng cao khả năng cạnh tranh nếu không doanh nghiệp sẽ bị cạnh tranh đào thải.
Mặt khác, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn xuất phát từ các yếu tố
sau:
+ Yêu cầu ngày càng cao của chủ đầu tư không chỉ về chất lượng, tiến độ thi công, giá
cả thấp, mà cả về mặt đảm bảo duy tư bảo dưỡng công trình ngày càng cao. Các công
trình trong tương lai ngày càng hiện đại hơn, phức tạp hơn. Vì thế đòi hỏi mỗi doanh
nghiệp phải có những cải tiến đổi mới nhất định để nâng cao năng lực của mình mới có
khả năng đáp ứng được những đòi hỏi này.
+ Do sự phát triển của khoa học công nghệ, kỹ thuật trong xây dựng đòi hỏi các doanh
nghiệp xây dựng đẩy nhanh quá trình áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, tăng cường
tự động hoá để giảm chi phí đầy nhanh tốc độ thi công, nâng cao chất lượng công trình,
có khả năng xây dựng các công trình phức tạp về mặt kỹ thuật và lớn về mặt quy mô.

+ Do đặc điểm của sản xuất xây dựng là liên quan đến nhiều ngành có giá trị văn hoá, xã
hội, quốc phòng cao. Hơn nữa, giá trị một công trình xây dựng thường là rất cao. Do đó,
trong xây dựng không cho phép có phế phẩm. Vì thế, đòi hỏi các doanh nghiệp xây
dựng phải nâng cao năng lực mới có thể tạo ra được những công trình có chất lượng
cao.
Như vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng trong giai đoạn
hiện nay là một yêu cầu tất yếu khách quan vừa là để giành thắng lợi trong cạnh tranh,
vừa là để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tế.
1.4 Vai trò của cạnh tranh trong xây dựng
Cạnh tranh trong xây dựng một mặt tạo nên động lực phát triển ngành xây dựng nói
riêng àầ kinh tế nói chung. Một mặt nó là cách hữu hiệu nhất để tối đa hoá lợi nhuận và
lợi ích của cả người cung cấp (doanh nghiệp xây dựng) lẫn chủ đầu tư. Điều này được
thể hiện qua các vai trò sau:
Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ


website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>* Đối với các chủ đầu tư
+ Thực hiện có hiệu quả yêu cầu về xây dựng công trình, tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng
cơ bản, thực hiện đúng tiến độ thi công.

+ Tăng cường quản lý vốn đầu tư, tránh lãng phí vốn.
+ Đảm bảo quyền chủ động, tránh được tình trạng phụ thuộc vào nhà xây dựng công
trình.
+ Thúc đẩy nâng cao trình độ và năng lực đội ngũ cán bộ kinh tế và kỹ thuật của chính
các chủ đầu tư.
* Đối với các doanh nghiệp xây dựng
+ Phát huy đến mức tối đa tính chủ động trong việc tìm kiếm thị trường .
+ Đầu tư có trọng điểm nhằm nâng cao năng lực kỹ thuật và công nghệ.
+ Hoàn thiện các mặt quản lý, nâng cao năng lực của cán bộ quản lý tay nghề của công
nhân.
+ Thúc đẩy hiệu quả kinh tế, giảm chi phí, tăng lợi nhuận.
Bên cạnh những ưu điểm thì cạnh tranh cũng nảy sinh nhiều nhược điểm như cạnh tranh
không lành mạnh, vi phạm pháp luật, ô nhiễm môi trường.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh ttranh của doanh nghiệp xây dựng.
2.1 Nhóm các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
2.1.1 Chính sách của Đảng và Nhà nước
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đã tham gia vào nền kinh tế dù có tư cách pháp nhân
hay không đều phải hoạt động trong tầm kiểm soát của Nhà nước bị chi phối bởi các
điều luật và quy định do Nhà nước đặt ra. Hiện nay, thị trường xây dựng hoạt động dựa
trên các nghị định, văn bản hướng dẫn và thông tư hướng dẫn của chính phủ với hai điều
luật cơ bản nhất đó là “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành kèm theo Nghị
định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999, “Quy chế đấu thầu” ban hành kèm theo Nghị định
88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 và các nghị định bổ sung như 12,14/NĐ-CP ban hành
ngày 5/5/2000. Ngoài ra, còn có các quy định về mức giá, khung giá và các chế tài yêu
cầu doanh nghiệp phải tuân thủ. Chính những bó buộc này có ảnh hưởng quan trọng đến
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nó quyết định doanh nghiệp có được phép hay

Tài

liệu


này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải


miễn

phí

từ

website

/>


/>không khi tham gia vào các thị trường, và điều kiện để tham dự vào các thị trường đó
cũng như những nguyên tắc phải tuân thủ trong các quá trình hoạt động.
Ngoài các quy định có liên quan tực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp còn phải tuân theo các quy định về thuê mướn, an toàn lao động, vật giá,
quảng cáo, vệ sinh môi trường. Mức độ ổn định của hành lang pháp lý nói chung sẽ tạo
điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh và ngược lại, doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn khi phải đối diện với những thay đổi liên tục của Nhà nước
về các chính sách, làm suy yếu sức cạnh tranh trong quá trình tham gia vào thị trường.
Như vậy, hoạt động của mỗi doanh nghiệp không chỉ chịu sự chi phối của các quy luật
thị trường mà còn chiụ sự quản lý và sự can thiệp của Chính phủ thông qua các chính
sách và hệ thống pháp luật, Nó đóng một vai trò quan trọng đến hoạt động của các
doanh nghiệp nói chung cũng như các doanh nghiệp xây dựng nói riêng.
2.1.2. Đối thủ cạnh tranh
Sự hiểu biết về đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng đối với một doanh nghiệp.
Các đối thủ cạnh tranh quy định tính chất và mức độ tranh đua hoặc thủ thuật dành
thắng lợi trên thương trường. Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào các yếu tố như: số lượng
các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, mức độ tăng trưởng ngành, cơ cấu chi phí cố
định, các nguyên tắc chiến lược và những cản trở khi rút lui. Sự hiện hữu của những yếu
tố này có xu hướng làm tăng nhu cầu hoặc nguyện vọng của doanh nghiệp muốn đạt

được và bảo vệ thị trường của mình và làm cho sự cạnh tranh thêm gay gắt.
Cường độ cạnh tranh tăng lên khi một doanh nghiệp xây dựng thấy có cơ hội để củng cố
vị trí trên thị trường hoặc nhận thấy áp lực cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp khác.
Cường độ cạnh tranh được biểu hiện dưới dạng các chính sách hạ thấp giá bỏ thầu, các
chiến dịch quảng cáo, việc áp dụng những giải pháp thi công mới, máy móc công nghệ
hiện đại, tăng cường các dịch vụ khách hàng và bảo hành sản phẩm. Với những đòi hỏi
ngày một cao của thị trường và sự vận động theo xu hướng đi lên của các đối thủ cạnh
tranh là một sức ép mạnh mẽ với doanh nghiệp trong việc đổi mới các hoạt động của
mình.

Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>




Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>2.1.3 Thị trường
Trong giới hạn của luận văn chúng ta sẽ chỉ xem xét thị trường trên hai góc độ là thị
trường các yếu tố đầu vào và thị trường các yếu tố đầu ra của các doanh nghiệp.
Thị trường các yếu tố đầu vào
Các yếu tố đầu vào của một doanh nghiệp bao gồm nguyên vật liệu, máy móc thiết bị,
lao động, vốn kết hợp với nhau tạo ra sản phẩm là các công trình xây dựng. Đảm bảo

đúng số lượng, chất lượng, thời gian cung cấp các yêú tố đầu vào là một yêu cầu rất
quan trọng đối với doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần phải thiết lập được mối quan
hệ chặt chẽ với các tổ chức cung ứng.
Các tổ chức cung ứng vật tư thiết bị có ưu thế có thể tìm kiếm lợi nhuận bằng cách tăng
giá, giảm chất lượng sản phẩm hoặc giảm mức độ dịch vụ đi kèm. Trong những trường
hợp số lượng ngườ cung cấp ít, không có sản phẩm thay thế hay nhà cung cấp không có
thiện chí thì doanh nghiệp sẽ phải chịu một sức ép lớn về đầu vào. Ngược lai, nếu các
nhà cung cấp có uy tín trên thị trường quan tâm và đặt quan hệ hữu hảo thì doanh nghiệp
có thể nâng thế mạnh của mình trước các chủ đầu tư bằng cách phấn đấu nâng cao chất
lượng công trình, hạ thấp chi phí xây dựng.
Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp xây lắp cần có một nhu cầu tài chính rất lớn
như để tạm ứng đầu tư xây dựng nhiều công trình cùng một lúc, đầu tư đổi mới công
nghệ, thiết bị trên diện rộng, tăng cường vốn lưu động cho kinh doanh...Nguồn tiền này
tự bản thân doanh nghiệp nhiều khi không đáp ứng đủ mà phải nhận được từ các nguồn
vay ngắn hạn và dài hạn từ các tổ chức tín dụng và ngân hàng. Nếu có các chính sách tài
chính phù hợp sẽ tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp.
Các nhà cung ứng nói chung có quyền lực nhất định đối với hoạt động của doanh nghiệp
xây lắp một cách gián tiếp, họ sẽ góp phần vào việc làm tăng hay suy yếu khả năng cạnh
tranh của công ty trong quá trình tham gia vào thị trường đấu thầu xây dựng.
Thị trường các yếu tố đầu ra.
Do đặc điểm các sản phẩm xây dựng là các công trình xây dựng với các yêu cầu đòi hỏi
riêng về chất lượng, kỹ thuật thì sự tín nhiệm của khách hàng là tài sản rất có giá trị. Sự
tín nhiệm này đạt được do biết thoả mãn tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của chủ đầu tư so
với các ddối thủ cạnh tranh. Trên thị trường xây dựng chủ đầu tư có quyền tự do lựa
Tài

liệu

này


được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí


từ

website

/>


/>chọn doanh nnghiệp xây dựng có khả năng tạo ra cho mình những sản phẩm xây dựng
theo yêu cầu thiết kế trên cả hai phương diện kỹ thuật , mỹ thuật và kinh tế. Chủ đầu tư
công trình có thể tổ chức sự cạnh tranh giữa các doamh nghiệp xây dựng khác nhau
bằng cách tổ chức đấu thầu xây dựng hoặc tiếp xúc với một doanh có uy tín đã được lựa
chọn sẵn để ký kết hợp đồng.
Nhìn chung nhu cầu và quyền lực của chủ đầu tư là rất khó xác định, các doanh nghiệp
xây lắp càng được các chủ đầu tư tín nhiệm thì càng có uy tín và có nhiều cơ hội khẳng
định vị trí của mình. Vì vậy, cần chú ý đến các mối quan hệ làm ăn rộng rãi, và thật khéo
léo trong dự đoán ý đồ của chủ đầu tư tạo cơ hội thắng thầu cho doanh nghiệp.
2.1.4 Tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
Nhân tố này cũng có tác động mạnh mẽ tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp và được thể
hiện trên các khía cạnh sau:
- Tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua việc ứng
dụng những thành tựu mới và tạo ra nhiều nhu cầu mới cũng như những cơ hội kinh
doanh mới cho doanh nghiệp.
-Tiến bộ khoa học công nghệ cũng tạo ra những khó khăn và thử thách mới cho doanh
nghiệp như số lao động dôi ra khi áp dụng những thiết bị công nghệ mới, tốc độ tăng
hao mòn ssản phẩm vô hình và đòi hỏi doanh nghiệp phải huy động một lượng vốn khá
lớn đầu tư cho công nghệ mới.
2.2 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Hoàn cảnh nội tại của công ty bao gồm tất cả các yếu tố và hệ thống bên trong của nó.
Các công ty cần phải cố gắng phân tích một cách cặn kẽ các yếu tố nhằm xác định rõ

các ưu điểm để đạt được lợi thế cạnh tranh tối đa.
Chức năng của bộ phận Marketing bao gồm:
Việc phân tích, lập kế hoạch thực hiện và kiểm tra các chương trình trong đó, đặt trọng
tâm vào việc tạo ra và duy trì các mối quan hệ và trao đổi với khách hàng theo nguyên
tắc hai bên cùng có lợi. Trong doanh nghiệp xây lắp, hệ thống này có vai trò quan trọng
trong việc tạo ra một hình ảnh tốt đẹp về doanh nghiệp, nó làm tăng khả năng cạnh tranh
của công ty trong quá trình tham gia đấu thầu thể hiện trên các mặt sau:

Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>




Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>- Khả năng thu thập thông tin trên thị trường bao gồm các thông tin về các công trình
cần tham gia đấu thầu, sự biến động của môi trường kinh doanh, những thông tin cơ bản
khác về các đối thủ cạnh tranh.
- Trách nhiệm giao tiếp và thương lượng của Marketing trong các hoạt động thị trường
của các doanh nghiệp xây dựng trong điều kiện kinh doanh ngày càng trở nên khó khăn
và cạnh tranh khốc liệt là phải dành được lợi thế cạnh tranh trên thị trường để có thể ký
được nhiều hợp đồng xây dựng
Tài chính kế toán

Để có thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp nói chung
đòi hỏi doanh nghiệp phải có một năng lực tài chính nhất định nghĩa là phải có một số
vốn và tài sản cần thiết như: máy móc thiết bị, nhà xưởng, vật tư, tiền mặt...Doanh
nghiệp có trách nhiệm huy động, tổ chức quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vì
sự tồn tại và tăng trưởng lâu dài của nó.
Trong quá trình tham gia dự thầu, nhà thầu nào có ưu thế vượt trội về vốn so với các nhà
thầu khác sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh và được chủ đầu tư đánh giá rất cao. Sức mạnh
tài chính của doanh nghiệp được thể hiện trong quá trình tham gia dự thầu, nhà thầu nào
có ưu thế vượt trội về vốn so với các nhà thầu khác sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh và
được chủ đầu tư đánh giá rất cao. Sức mạnh tài chính của doanh nghiệp được thể hiện
thông qua các vấn đề như: Quy mô vốn lớn, cơ cấu vốn hợp lý, khả năng huy động vốn
ngắn hạn và dài hạn nhanh, thuận lợi, chi phí vốn thấp so với toàn ngành và so với đối
thủ cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn khá cao, hệ thống kế toán có hiệu quả và hiệu
năng phục vụ cho việc lập các kế hoạch đầu tư tài chính, lợi nhuận…
Tài chính của doanh nghiệp luôn phải công khai trong hồ sơ dự thầu, nếu năng lực tài
chính của doanh nghiệp đủ mạnh thì doanh nghiệp sẽ được chấm điểm cao khi xem xét
hồ sơ dự thầu và ngược lại. Mặt khác, doanh nghiệp có khả năng về tài chính cao sẽ có
nhiều cơ hội để đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ máy móc, các phương tiện sử
dụng ttrong quá trình thi công xây lắp để nâng cao năng suất lao động.
Máy móc thiết bị và trình độ công nghệ
Đối với doanh nghiệp xây dựng thì nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến khả năng doanh
nghiệp có thể tham gia dự thầu các công trình có khối lượng lớn, giá trị và yêu cầu kỹ
Tài

liệu

này

được


/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ


website

/>


/>thuật phức tạp. Một doanh nghiệp nếu có tiềm lực lớn về máy móc thiết bị và công nghệ
thi công sẽ được đánh giá cao trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Khả năng cạnh tranh cuả máy móc thiết bị và công nghệ được thể hiện thông qua: số
lượng, chất lượng, sự đa dạng về chủng loại máy móc thiết bị, công suất và tính hiện
đại, khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật phức tạp của công trình. Mặt khác, chính sự
hiện đại của máy móc thiết bị và công nghệ giúp cho doanh nghiệp có cơ hội sử dụng
các giải pháp thi công tiên tiến, từ đó rút ngắn tiến độ thi công và tiết kiệm các chi phí
xây dựng, hạ giá thành công trình và do đó tăng ưu thế trước các đối thủ cạnh tranh.
Trong trường hợp giá trị sử dụng của máy móc thiết bị đã giảm sút nhiều theo thời gian
thì các doanh nghiệp cần có những đầu tư cải tiến, sáng tạo thay vì đầu tư mua sắm thay
mới hoàn toàn. Khi đó, dù là những máy móc thiết bị đã sản xuất từ lâu và là những máy
móc thuộc lớp công nghệ cũ thì doanh nghiệp vẫn có thể tăng khả năng cạnh tranh thông
qua các giải pháp sáng tạo và cải tiến kỹ thuật. Tuy nhiên, về lâu dài sự phát triển ngày
càng cao của kỹ thuật công nghệ sẽ nhanh chóng loại bỏ doanh nghiệp với những máy
móc kỹ thuật có tính năng hoạt động đơn giản, mức độ tự động hóa thấp và mang nhiều
tính chất thủ công.
Về nhân sự:
Khi xem xét sự ảnh hưởng của nhân tố con người đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp xây lắp, người ta thường quan tâm đến các vấn đề sau:
- Ban lãnh đạo bao gồm Giám đốc, các Phó giám đốc phụ trách các lĩnh vực. Đây là
những cán bộ cao cấp nhất trong doanh nghiệp, quyết định trực tiếp đến mọi hoạt động
của doanh nghiệp cũng như sự thanh bại của doanh nghiệp trên thương trường. Nếu
công ty có được êkíp lãnh đạo đoàn kết có năng lực và kinh nghiệm sẽ tăng được sức
mạnh nội lực trong nhân sự cho công ty, vừa tạo ra được một bộ mặt đáng tin cậy đối

với các chủ đầu tư và các tổ chức khác có liên quan.
- Nhân sự của các phòng ban chuyên trách
Đây là lực lượng chủ chốt trong công tác đấu thầu trợ giúp Ban giám đốc trong các lĩnh
vực cho mình phụ trách, chịu trách nhiệm trước công ty về toàn bộ hoạt động của đơn vị
mình.

Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài


liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>Đội trưởng xây dựng và công nhân, đây là lực lượng trực tiếp tạo ra sản phẩm là các
công trình xây dựng có quan hệ sống còn tới sức mạnh trong cạnh tranh của doanh
nghiệp. Mỗi một đội trưởng hay mỗi công nhân, tuy chỉ có ảnh hưởng rất nhỏ tới công
việc của doanh nghiệp nhưng với một số lượng rất đông, tổng hợp của những ảnh hưởng
rất nhỏ đó sẽ tạo nên bộ mặt của toàn công ty quyết định tới chất lượng của các công
trình về mặt kỹ thuật, mỹ thuật đặc biệt là các mặt tiến độ, thời gian, quyết định về vấn
đề tiết kiệm hay lãng phí nguồn lực.
Những nguồn lực vật chất vô hình khác
- Vị trí địa lý của doanh nghiệp xây dựng:
Có một ảnh hưởng nhất định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vì nếu chủ đầu

tư nhận thấy doanh nghiệp nằm trên vùng địa lý thuận lợi đối với dự án đầu tư họ sẽ có
một tâm lý yên tâm và tin tưởng hơn. Do đó, doanh nghiệp phải phát huy tối đa sức
mạnh cạnh tranh về địa lý đối với các công trình xây dựng nằm trên địa bàn hoạt động
của mình. Sự thuận lợi trong di chuyển các nguồn lực từ các doanh nghiệp tới nơi thi
công sẽ làm giảm chi phí xây lắp, tăng lợi nhuận, tăng chất lượng công trình từ đó tăng
xác suât chúng thầu cho doanh nghiệp.
- Quy mô và năng lực sản xuất: lý thuyết lợi thế về quy mô cho thấy nếu doanh nghiệp
có quy mô và năng lực sản xuất lớn sẽ càng có điều kiện giảm chi phí sản xuất cận biên
trên một đơn vị sản phẩm, tiết kiệm được nhiều chi phí chung cũng như các chi phí quản
lý doanh nghiệp, chi phí máy móc thiết bị... Từ đó mở ra cơ hội cắt giảm chi phí không
cần thiết, khai thác tối đa nguồn lực, thế mạnh của doanh nghiệp và khẳng định vị thế
cạnh tranh trên thương trường.

Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ


website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>- Nền nếp tổ chức: mỗi doanh nghiệp đều có một nền nếp tổ chức định hướng cho phần
lớn công việc của mình. Nó ảnh hưởng đến phương thức thông qua quyết định của nhà
quản trị, quan điểm của họ đối với các chiến lược và điều kiện môi trường của công ty.

Nề nếp tổ chức có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạch định và thực hiện chiến
lược hoặc là ưu điểm thúc đẩy các hoạt động đó.
3. Các hình thức cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng.
Các hình thức cạnh tranh đó là biểu hiện về mặt tăng cường khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Ngày nay, người ta thường nói tới hai hình thức chủ yếu xét theo tính giới
hạn của cạnh tranh mà các doanh nghiệp thường áp dụng là:
* Hình thức cạnh tranh theo chiều rộng (cạnh tranh có giới hạn)
Sở dĩ gọi là cạnh tranh có giới hạn là vì hình thức này chỉ phát huy hiệu quả, tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong một giới hạn nhất định mà thôi, các yếu tố chủ
yếu của hình thức này trong các doanh nghiệp xây dựng bao gồm :
+ Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm (các công trình xây dựng) mà doanh nghiệp có
thể dựa trên cơ sở nguồn lực hiện tại của doanh nghiệp. Theo đó doanh nghiệp có thể
tận dụng tối đa nguồn lực hiện có, tuy nhiên danh mục hàng hoá được mở rộng thêm sẽ
không được phong phú. Hoặc là đa doanh nghiệp phải đủ mạnh về tài chính. Song với
cách thức đa dạng hoá này cho phép doanh nghiệp có thể mở rộng danh mục hàng hoá
một cách phong phú hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường. Mỗi cách
thức tiến hành đa dạng hoá đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Vì vậy doanh nghiệp
phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường và điều kiện thực tế của doanh nghiệp để áp
dụng hình thức đa dạng hoá nào cho phù hợp nhất, đảm bảo đem lại hiệu quả cao nhất
cho doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty, mở rộng thị phần của
công ty trên thị trường xây dựng.
+ Tăng cường các hoạt động tìm kiếm thông tin về các công trình sẽ được đầu tư xây
dựng thông qua các phương tiện về thông tin đại chúng, qua các nhân viên công ty, qua
các mối quan hệ thân quen với các chủ đầu tư, qua kế hoạch xây dựng của nhà nước, của
các ban ngành địa phương hoặc là có thể thông qua các biện pháp tình báo kinh tế (nếu
cần). Trong các biện pháp trên, đặc biệt chú trọng đến mối quan hệ với các chủ đầu tư.
Vì chủ đầu tư là người quyết định ai thắng, ai bại trong cuộc cạnh tranh. Đồng thời, qua
Tài

liệu


này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải


miễn

phí

từ

website

/>


/>mối quan hệ này doanh nghiệp ngoài viêc biết được nhu cầu đầu tư của chủ đầu tư còn
biết được thị hiếu, sở thích, năng lực của chủ đầu tư để từ đó đưa ra các biện pháp cạnh
tranh tối ưu nhất đảm bảo tốt nhất yêu cầu của chủ đầu tư.
+ Cải thiện các phương thức thanh toán, các điều kiện thuận lợi và nhanh chóng ký kết
hợp đồng. Tiến hành củng cố và mở rộng các hoạt động công trình.
+Không những nâng cao chất lượng công tác lập hồ sơ dự thầu qua đó để giới thiệu
năng lực của doanh nghiệp với chủ đầu tư. Hồ sơ dự thầu chính là tài liệu đầu tiên để
chủ đầu tư tìm hiểu, đánh giá doanh nghiệp. Vì thế, nó hết sức quan trọng đòi hỏi công
ty phải có một đội ngũ cán bộ đảm nhiệm công tác này một cách tốt nhất vừa đảm bảo
chất lượng của hồ sơ, vừa bảo đảm kịp thời gian yêu cầu của chủ đầu tư.
+ Hoàn thiện công tác tổ chức thi công để rút ngắn tiến độ thi công vừa giảm bớt tình
trạng ứ đọng vốn của doanh nghiệp, giảm bớt chi phí quản lý từ đó hạ thấp giá công
trình đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh về giá, đồng thời đảm bảo đưa
nhanh công trình vào sử dụng để phát huy tối đa công dụng của công trình.
* Hình thức cạnh tranh theo chiều sâu
Đó là hình thức cạnh tranh bằng chất xám trong sản phẩm.
Nội dung của hình thức này bao gồm:
+ Tăng cường hoạt động nghiên cứu, cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm
tức là đổi mới các tiêu chuẩn về kỹ thuật, tính an toàn, tính thẩm mỹ của công trình xây

dựng.
+ Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, hiện đại hoá phương pháp sản xuất kể từ khâu khảo
sát thiết kế cho đến khâu thi công công trình nhờ đó có thể rút ngắn tiến độ thi công
công trình.
+ Nâng cao trình độ của người lao động bao gồm cả cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và
công nhân sản xuất.
Đây là một hình thức cạnh tranh không có điểm dừng, vì khi một doanh nghiệp muốn
chế tạo ra sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, có chất lượng cao mà chất lượng lại là
một đại lượng bất định, nó không ngừng thay đổi theo sự phát triển của xã hội, đó là
việc phấn đấu của một doanh nghiệp là không ngừng. Chính vì lý do đó, mà người ta gọi
hình thức cạnh tranh theo chiều sâu là hình thức cạnh tranh không có giới hạn và hình
Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website


/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>thức này ngày càng được mọi doanh nghiệp quan tâm đặc biệt là trong nền kinh tế tri
thức.
4.

Các phương thức cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng.


Phương thức cạnh tranh đó là cách thức mà doanh nghiệp dùng để cạnh tranh trên thị
trường. Đối với một doanh nghiệp xây dựng có thể sử dụng các cách thức cạnh tranh
sau:
4.1 Cạnh tranh bằng sản phẩm (các công trình xây dựng).
Chữ tín của các công trình xây dựng quyết định uy tín của doanh nghiệp xây dựng và
tạo lợi thế có tính quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Cạnh tranh
bằng sản phẩm của doanh nghiệp xây dựng thể hiện chủ yếu qua các mặt sau:
+ Cạnh tranh bằng trình độ của các công trình xây dựng biểu thông qua chất lượng công
trình, tính hữu dụng của công trình, tính kinh tế và tính kỹ thuật của công trình. Để cạnh
tranh bằng trình độ công trình doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư đổi mới công
nghệ, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến, khi tiến hành thi công công trình phải
tính đến các điều kiện tự nhiên của khu vực thi công để từ đó có các giải pháp kỹ thuật
cho phù hợp.
+ Cạnh tranh bằng chất lượng công trình.
Theo quan niệm chung, chất lượng sản phẩm là tổng hợp các đặc tính cần có của sản
phẩm, quá trình xây dựng và tiện nghi phục vụ. Như vậy, chất lượng sản phẩm vừa phải
tuân theo các quy phạm kỹ thuật, vừa phải thoả mãn mong muốn của người tiêu dùng.
Trong sản xuât kinh doanh xây dựng thì chất lượng của sản phẩm được đo bằng các chỉ
tiêu như: tuổi thọ, độ tin cậy, độ an toàn, tính kỹ thuật, tính kinh tế, tính mỹ thuật của
công trình.
+ Tuổi thọ của công trình là thời gian mà công trình sử dụng từ khi mới hoàn thành bàn
giao cho tới khi hư hỏng hoàn toàn. Tuổi thọ công trình càng cao thì chất lượng sản
phẩm càng cao.
+ Độ tin cậy của công trình là khả năng chịu áp lực, độ uốn cong, khả năng chịu lực,
xoáy, gió, bão hay nói cách khác là khả năng chịu sự thay đổi của môi trường. Để tạo ra
một công trình có độ tin cậy cao thì yếu tố kỹ thuật phải được đảm bảo một cách chặt
chẽ, khi sử dụng các yếu tố kỹ thuật phải tính toán.
Tài


liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải


miễn

phí

từ

website

/>


/>+ Độ an toàn của công trình phụ thuộc vào cấu kiện chịu lực của công trình như không
nứt, không bị lún, không thấm, không nghiêng, bảo đảm an toàn khi sử dụng.
+ Tính mỹ thuật của công trình là sự phù hợp với cảnh quan xung quanh, bố cục vật thể
kiến trúc, trang trí nội thất. Ngày nay tính mỹ thuật của công trình ngày càng được quan
tâm không chỉ là do bản thân sản phẩm xây dựng có tính văn hoá, xã hội, quốc phòng
cao mà còn do thị hiếu, kiến thức mỹ thuật của người dân ngày càng được nâng cao.
Một công trình dù bề thế và hiện đại đến đâu nhưng không đảm bảo tính mỹ thuật thì
cũng bị đánh giá là có chất lượng không tốt.
+ Cạnh tranh bằng chất lượng công trình cần phải nhìn từ hai góc độ.
+ Chất lượng của các công trình đã được thi công, hoàn toàn đưa vào sử dụng. Đây sẽ là
lời quảng cáo hữu hiệu nhất về uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp.
+ Chất lượng công trình đang trong quá trình đấu thầu. Đây chính là nỗ lực phát huy
mọi nguồn lực vốn có của doanh nghiệp để đảm bảo thực hiện đúng kỹ thuật thiết kế và
đưa ra các biện pháp đề xuất, các giải pháp kỹ thuật hợp lý nhất đảm bảo đáp ứng tốt
nhất yêu cầu của chủ đầu tư.
Ngày nay, đang có xu hướng chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh bằng chất
lượng công trình. Vì thế, mà sự cạnh tranh thông qua chất lượng công trình ngày một
gay gắt, nó là một công cụ hữu hiệu cho cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng. Đó

là sự cạnh tranh không có giới hạn. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm là tất
yếu khách quan đối với bất kỳ doanh nghiệp xây dựng nào hoạt động trong cơ chế thị
trường. Ngày nay, nhiều doanh nghiệp không còn đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu
nữa mà đặt mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm là trên hết vì họ nhận thức được
rằng chất lượng sản phẩm không những là mục tiêu của doanh nghiệp mà nó là công cụ,
phương tiện để thực hiện các mục tiêu khác.
4.2 Cạnh tranh bằng giá cả.
Quy luật giá trị đã chỉ ra rằng: với cùng một sản phẩm có chất lượng như nhau nếu sản
phẩm nào có giá cả thấp hơn thì sẽ thắng trong cạnh tranh và ngược lại thì sẽ bị thị
trường đào thải. Các doanh nghiệp xây dựng cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của
doanh nghiệp này. Giá cả là một trong các tiêu thức hàng đầu để các chủ đầu tư lựa chọn
nhà thầu. Đối với các công trình xây dựng thường có giá trị rất thấp, do đó mà giá cả tác
Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website


/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn

phí

từ

website

/>


/>động rất mạnh đối với các chủ đầu tư. Điều này, đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải
tìm mọi cách để giảm giá thành sản phẩm. Phương thức cạnh tranh này ở mỗi doanh
nghiệp xây dựng là khác nhau, và trong cùng một doanh nghiệp xây dựng cũng có sự
khác nhau qua các thời kỳ, các công trình khác nhau. Biểu hiện của phương thức cạnh

tranh này thông qua chính sách giá cả của doanh nghiệp xây dựng.
* Chính sách đặt giá cao.
Chính sách này áp dụng khi doanh nghiệp xây dựng có một khả năng công nghệ đặc
biệt và độc quyền. Khi đó buộc các chủ đầu tư phải chấp nhận giá cao.
* Chính sách đặt giá thấp.
Doanh nghiệp xây dựng đưa ra giá thấp nhằm loại trừ các đối thủ cạnh tranh hiện có và
ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh mới. Để áp dụng chính sách này đòi hỏi doanh nghiệp
phải tận dụng nguồn năng lực sản xuất và giảm chi phí xây dựng công trình và khi xây
dựng chính sách đặt ra thấp doanh nghiệp cần lấy mức giá hoà vốn làm căn cứ.
* Chính sách linh hoạt theo thị trường.
Theo chính sách giá này các doanh nghiệp xây dựng tuỳ thuộc vào thị trường xây lắp để
đặt giá cho phù hợp. Chẳng hạn khi nhu cầu đầu tư của xã hội giảm sẽ dẫn đến đầu về
xây dựng công trình giảm, mức độ tranh giành các công trình giữa các doanh nghiệp
xây dựng trở nên gay gắt hơn thì doanh nghiệp cần đặt giá thấp hơn nhằm thắng thầu,
tạo công ăn việc làm cho ngưòi lao động, chờ cơ hội mới và ngược lại.
* Chính sách phân hoá theo sản phẩm.
Doanh nghiệp tiến hành phân biệt giá cho từng khu vực địa lý (vì theo từng khu vực mà
giá cả nguyên vật liệu khác nhau, điều kiện giao thông vận chuyển nguyên vật liêu khác
nhau). Hoặc doanh nghiệp xây dựng cũng có thể phân biệt giá theo kế hoạch, theo mùa.
Lý do là do thời tiết thay đổi dẫn đến các điều kiện thi công cũng thay đổi, thời gian
khác nhau, giá cả nguyên vật liêụ cũng khác nhau.
Ngoài các chính sách giá trên doanh nghiệp xây dựng còn thực hiện các chính sách giá
khuyến khích theo giá trị công trình, theo điều kiện tạm ứng vốn, và thanh toán theo
điều kiện tín dụng. Sở dĩ như vậy, vì lượng vốn cần cho xây dựng là rât lớn mà doanh
nghiệp xây dựng của ta luôn ở trong tình trạng thiếu vốn rất nhiều.
Tài

liệu

này


được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>



Tài

liệu

này

được

tải

miễn


phí

từ

website

/>


/>4.3 Cạnh tranh bằng tiến độ thi công.
Thường thì một công trình được thi công trong một thời gian dài (từ 1 đến 5 năm) thậm
chí còn dài hơn lại tiến hành ngoài trời, chịu tác động nhiều của điều kiện thời tiết. Vì
vậy, mà thời gian thi công kéo dài sẽ gây lãng phí rất nhiều về công sức, tiền của. Hơn
nữa, một công trình không phải chỉ phục vụ cho tiêu dùng cá nhân, tiêu dùng cuối cùng
mà phần lớn lại nhằm mục đích phục vụ công cộng. Nói như vậy, có nghĩa là tiến độ thi
công ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả khai thác của công trình. Chính vì thế, mà việc
đẩy nhanh tiến độ thi công không chỉ là đòi hỏi của chủ đầu tư mà ngay các doanh
nghiệp xây dựng cũng đòi hỏi phải rút ngắn tiến độ thi công để giảm chi phí, hạ giá
thành. Tiến độ thi công được các chủ đầu tư rất coi trọng khi đánh giá nhà thầu. Để rút
ngắn tiến độ thi công các doanh nghiệp xây dựng phải cải tiến, đổi mới công nghệ kỹ
thuật, lựa chọn biện pháp, trình tự công nghệ thi công, tăng cường công xưởng hoá, cơ
giới hoá.
4.4 Cạnh tranh bằng chính sách phân phối và tiêu thụ sản phẩm.
Trong xây dựng, giai đoạn phân phối và tiêu thụ khác so với các ngành khác. Nó bắt đầu
khi sản phẩm được hoàn thành tức là trước khi xây dựng xong công trình kể từ khi ký
kết hợp đồng cho đến khi kết thúc xây dựng và bàn giao công trình. Chính vì thế mà
chính sách phân phối và tiêu thụ sản phẩm xây dựng phải được xem xét ở 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn tìm kiếm các tuyến liên hệ với chủ đầu tư. Việc tìm kiếm này có thể thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, vô tuyến, đài có thể qua mối quan
hệ lâu dài với các chủ đầu tư từ trước.

+ Giai đoạn sau khi đã tìm kiếm được chủ đầu tư và đã được chủ đầu tư lựa chọn thì
chính sách tiêu thụ ở đây phải bảo đảm sao cho các khâu ký kết hợp đồng, điều chỉnh
hợp đồng, nghiệm thu bàn giao công trình, thanh toán và xác định thời gian bảo hành
được thuận lợi nhất.
Trên đây, là một số phương thức cạnh tranh chủ yếu trong xây dựng. Trên thực tế
thì các doanh nghiệp xây dựng thường sử dụng tổng hợp các phương thức cạnh tranh để
nâng cao khả năng cạnh tranh về mọi mặt của doanh nghiệp xây dựng.

Tài

liệu

này

được

/>
tải

miễn

phí

từ

website

/>




×