Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Th c tr ng ho t ng th tr ng d ch v t i ch nh Vi t Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 22 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và /> và là website chia sẻ miễn phí luận văn, đồ
án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho tất cả
mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự đóng góp của
quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu xin quý khách
gửi về
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Thực trạng hoạt động thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />A. LỜI MỞ ĐẦU
Ở nước ta, cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế, một số hệ thống thị trường dịch vụ tài chính đồng bộ dần được hình thành nhằm
đáp ứng nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài chính ngày càng tăng của các chủ thể trong nền
kinh tế. Các loại hình dịch vụ tài chính ngày càng đa dạng, cả về số lượng cũng như
chủng loại, bao gồm: dịch vụ ngân hàng, dịch vụ trên thị trường chứng khoán, dịch vụ
bảo hiểm, kế toán, kiểm toán, tư vấn tài chính…Các chủ thể tham gia thị trường dịch vụ
tài chính ngày càng mở rộng, trong đó có các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh. Giá cả dịch vụ tài chính đang được đổi mới theo định hướng tự do hoá, giảm
dần sự can thiệp mang tính hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước. Thị trường
dịch vụ tài chính cũng đang trong quá trình hội nhập với thế giới và khu vực.
Tuy nhiên, thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam mới đang trong quá trình hình thành,
các loại hình dịch vụ tài chính còn sơ khai, chưa đáp ứng được các nhu cầu về dịch vụ tài
chính của nền kinh tế. Đặc biệt, khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn một
số rào cản: Cơ chế, chính sách, thiếu thông tin…Những vấn đề về thị trường dịch vụ tài
chính và phát triển dịch vụ tài chính Việt Nam còn đang khá mới mẻ. Chính vì vậy, cần
có một nghiên cứu khái quát về thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam nhằm cung cấp
thông tin cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính, cũng
như cho các đói tượng và làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp phát triển thị trường dịch
vụ tài chính Việt Nam. Đó là lý do em chọn đề tài này. Trong bài tiểu luận, em đã nêu ra
một số vấn đề về phát triển dịch vụ tài chính ở Việt Nam trong quá trình hội nhập, bao


gồm: Một số vấn đề cơ bản về cơ bản về vấn đề thị trường dịch vụ tài chính, thị trường
dịch vụ tài chính tại một số nước trên thế giới, thực trạng hoạt động dịch vụ tài chính Việt
Nam, hội nhập thị trường dịch vụ tài chính, những định hướng và giải pháp.
Do sự hạn chế về thời gian và trình độ mà bài tiểu luận này của em khó tránh khỏi những
thiếu sót. Em kính mong những nhận xét, đánh giá của các thày cô giáo để bài viết được
tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />B. NỘI DUNG
I.

KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH.

1.

Khái quát chung

Tuy là một khái niệm mới nhưng khái niềm về thị trường dịch vụ tài chính đã được
nghiên cứu khá nhiều.Tuy nhiên, do tính chất quan trọng của nó đối với phát triển kinh tế,
nhất là trong bối cảnh mở cửa và hội nhập hiện nay thì cần phải có cách hiểu chung và
thống nhất để thuận tiện cho việc phát triển lĩnh vực này tại mỗi nước và trên toàn thế
giới.Thị trường dịch vụ tài chính là một khái niệm mới do tổ chức thương mại thế giới
WTO đưa ra nhằm hình thành các quy tắc ứng xử giữa các thành viên WTO trong hoạt
động thương mại dịch vụ.Theo WTO: một dịch vụ tài chính là bất kì dịch vụ nào có tính
chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp.Dịch vụ tài chính bao
gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và
dịch vụ tài chính khác. Có thể phân chia các loại dịch vụ tài chính thành bốn nhóm:
_Dịch vụ ngân hàng

_Dịch vụ trên thị trường chứng khoán
_Dịch vụ bảo hiểm
_Dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính.
2.

Quá trình hình thành và phát triển của thị trường dịch vụ tài chính

Trong các loại hình dịch vụ tài chính, ngân hàng là loại hình dịch vụ xuất hiện sớm
nhất.Dịch vụ ngân hàng đã xuất hiện đầu tiên tại vùng Địa Trung Hải, cụ thể là tại Hy
Lạp và La Mã, với dịch vụ đầu tiên là dịch vụ đổi tiền, đổi ngoại tệ lấy bản tệ và dịch vụ
triết khấu thương phiếu giúp các nhà buôn có vốn.Sự phát triển của những con đường
thương mại xuyên lục địa mới và những biến chuyển trong ngành hàng hải vào thế kỉ
15,16,17 đã dần chuyển trung tâm thương mại của thế giới từ Địa Trung Hải sang châu
Âu và quần đảo Anh, nơi ngân hàng trở thành nghành công nghiệp hàng đầu.Sự phát triển
của cách mạng công nghiệp, việc ứng dụng phương thức sản xuất lớn đòi hỏi một sự mở
rộng tương ứng trong thương mại toàn cầu để tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp, đòng
thời đòi hỏi phải phát triển các phương thức thanh toán và tín dụng mới.Vì vậy, hệ thống
ngân hàng đã phát triển nhanh chóng thêm nhiều loại hình dịch vụ mới để đáp ứng nhu
cầu về thanh toán và tín dụng.Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, các dịch vụ
ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng.Bên cạnh các dịch vụ ngân hàng truyền thống, đã

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />xuất hiện nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại như cho vay tiêu dùng, tư vấn tài
chính, cho vay tài trợ dự án, thuê mua tài chính…
Bên cạnh dịch vụ ngân hàng, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, cách mạng
công nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế thế giới, các loại hình dịch vụ tài chính khác
ấy được hình thành,sự phát triển của dịch vụ thị trường chứng khoán gắn liền với sự hình
thành và phát triển của một số thị trường chứng khoán.Từ năm 1611 đã có một số nhà
buôn bắt đầu buôn bán cổ phiếu của công ty Đông Ấn, hình thành sở giao dịch chứng

khoán đầu tiên tại Amsterdam-Hà Lan.Năm 1724, ở Pháp thành lập sở giao dịch chứng
khoán Paris. Tuy nhiên, phải đến tháng3 năm 1802, sở giao dịch chứng khoán London
khai trương, đánh dấu bước phát triển quan trọng của nghành công nghiệp chứng
khoán.Sau đó, năm 1817, hội giao dịch chứng khoán NewYork được thành lập.Năm1863
đổi tên thành “sở giao dịch chứng khoán NewYork”.Các dịch vụ về bảo hiểm cũng ra đời
và phát triển mạnh ở Anh ngay từ thế kỉ XVI.Loại hình dịch vụ bảo hiểm đầu tiên là hình
thức bảo hiểm tương hỗ.Cuối thế kỉ XVIII, công ty bảo hiểm tương hỗ đầu tiên cũng
được thành lập ở Mĩ.
II.

THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH TẠI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

1.

Anh

*Dịch vụ ngân hàng
Hệ thống ngân hàng Anh được thành lập vào năm 1964, được hoạt động dưới hình thức
ông chủ ngân hàng của chính phủ và những người quản lý nợ.Sau đó, vai trò của hệ thống
ngân hàng ngày được nâng cao, tập trung chủ yếu vào quản lý tiền tệ quốc gia và vị trí
của nó tại Hệ thống tài chính tiền tệ Anh.Bản chất chủ yếu của hệ thống ngân hàng là lợi
nhuân nhưng cũng liên quan tới hệ thống ngân hàng ngày nay. Những sự kiện và hoàn
cảnh 3 năm về trước và cả hiện tại quyết định mô hình và ảnh hưởng tới những vai trò và
trách nhiệm của hệ thống ngân hàng. Chúng hình thành văn hoá và truyền thống của hệ
thống ngân hàng có liên quan tới danh tiếng và tính hiệu quả của ngân hàng trung ương
đầu thế kỉ 21.Cũng vào thời điểm này, bản chất hệ thống ngân hàng cũng tương tự như
bản chất hệ thống kinh tế và tài chính và thường có cả vị thế chính trị. Hệ thống ngân
hàng nước Anh cũng phổ biến như vậy.
*Thị trường chứng khoán
Vào giữa thế kỉ XVI, tất cả hàng hoá tại nước Anh được giao dịch trên một mậu dịch thị

trường. Sau khi nước Anh hoàn tất cuộc cách mang công nghiệp, nhiều công ty và ngân

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hàng ra đời bên cạnh trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty ngày càng gia
tăng. Từ đó mậu dịch thị trường London được tách thành các bộ phận giao dịch khác
nhau cho mỗi loại hàng hoá trong đó giao dịch giá khoán động sản được tách thành thị
trường chứng khoán. Lúc này, việc mua bán chứng khoán được diễn ra tại các cửa hiệu cà
phê. Tới năm 1793, London có “một ngôi nhà tạm” để tiến hành giao dịch chứng khoán.
Gần mười năm sau, vào năm 1802, thị trường chứng khoán Hoàng Gia chính thức được
thành lập tại London, nguồn gốc của sở giao dịch chứng khoán london ngày nay(LS E).
Thời kì đầu, LS E là một hội vô danh. Cácchứng khoán chỉ có giá trị tượng trưng cho các
hội viên nắm giữ, không có ưu quyền gì về giao dịch. Cơ cấu tổ chức của hội được quy
định hết sức chặt chẽ gồm hai loại thành viên là người môi giới và người tự doanh. 36
người trong số thành viên ấy hợp thành Hội đồng tự quản sở giao dịch chứng khoán và có
quyền hạn hết sức rộng rãi. Hội đồng quy định cứ sau 15 ngày thanh toán một lần, thường
là vào ngày thứ 3 và mỗi năm có 24 ngày thanh toán.
Trong thời gian đầu mới thành lập LS E, chứng khoán giao dịch chủ yếu là quốc trái,
công trái ngoại quốc, về sau thêm cổ phiếu ngành mỏ, tàu biển, đường sắt...Trong nước
đã bắt đầu xuất hiện nhiều thị trường chứng khoán địa phương như Manchester,
Liverpool...Sau đó các thị trường này sát nhập với LSE thành hiệp hội giao dịch chứng
khoán vào năm 1973. Sau đó, Hiệp hội này hợp nhất với sở giao dịch chứng khoán trung
ương thành thị trường chứng khoán. LSE là trung tâm giao dịch lớn nhất được chia thành
các khu độc lập: thị trường cổ phiếu nội địa, thị trường cổ phiếu nước ngoài(ISE) và thị
trường các quyền lựa chọn...
Đến thập niên 60, kinh tế Anh suy thoái làm trung tâm tiền tệ quốc tế London chuyển
sang New York. Sang thập niên 70, thị trường trái phiếu Châu Âu phát triển mạnh tạo
điều kiện thụân lợi cho thị trường London khôi phục được địa vị thị trường tiền tệ quốc tế
của mình.
Tháng 10 năm 1979, Anh huỷ bỏ chế độ kiểm soát ngoại tệ, tạo điều kiện thuận lợi thu

hút vốn đầu tư nước ngoài. Vào thời điểm này, số công ty tham gia thị trường chứng
khoán nhiều. Năm 1983 có2654 doanh nghiệp được phát hành chứng khoán trên thị
trường LS E, cùng thời điểm đó ở New York là 1550 doang nghiệp và ở Tokyo là 1452
doanh nghiệp.
Năm 1986, Anh làm cuộc cách mạng lớn về thị trường chứng khoán gọi là “big bang” với
5 nội dung:

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />1. Đến cuối năm 1986 sẽ xoá bỏ mọi quy định cũ, có tính bảo thủ, gây trở ngại cho giao
dịch chứng khoán và cho phép thực hiện tự do phí giao dịch.
2. Cho phép người không là nhà đầu tư được tham gia ban quản trị giao dịch.
3. Mở rộng quyền thẩm tra tư cách nhà đầu tư và giảm yêu cầu vốn của nhà đầu tư.
4. Cho phép người tự donh và người môi giới được thưch hiện tư cách song trùng, bãi bỏ
chế độ tư cách riêng và có thể thực hiện hai nghiệp vụ đan xen nhau.
5.Lắp đặt hệ thống báo giá tự động.
Trong năm đầu của thời kì “ big bang”, doanh thu về chứng khoán tăng gấp đôi trong
ngày, có ngày lên tới 1,1 tỉ bảng, còn phí giao dịch giảm khoảng ẳ. Sau cuộc khủng hoảng
thị trường chứng khoán quốc tế 1987, doanh thu về cổ phiếu trên thị trường nước Anh
giảm 1/2, và từ năm 1988, các công ty chứng khoán gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, nước Anh có 20 sở giao dịch chứng khoán, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là thị
trường chứng khoán london về cả lịch sử ra đời lẫn số lượng chứng khoán lưu hành.
Hàng tuần, LS E làm việc 6 ngày, giờ giao dịch từ 8h30 đến 17h, thứ bảy và chủ nhận
nghỉ giao dịch.
2.

Thuỵ Sĩ

*Dịch vụ ngân hàng
Hệ thống ngân hàng Thuỵ Sĩ nổi tiếng trên toàn thế giới bởi việc cung cấp các dịch vụ

ngân hàng tinh vi và kín đáo. Thuỵ Sĩ có khoảng 4ô ngân hàng. Các ngân hàng này đều
phục vị từ nhu cầu riêng lẻ của mỗi người dân cho tới những khách hàng đặc biệt. Hai
ngân hàng lớn nhất Thụy Sĩ, Credit Suise và UBS, có mạng lưới các chi nhánh không chỉ
tại Thuỵ Sĩ mà ở các nước trên thế giới. Các ngân hàng được cấp phép hoạt động bởi
chính phủ Liên bang Thuỵ Sĩ và Hiệp hội ngânhàng có thể hoạt động ở khắp nơi tại Thuỵ
sĩ.Một số ngân hàng có văn phòng đại diện hay chi nhánh tại nước ngoài. Trong số 400
ngân hàng được cấp phếp tại Thuỵ Sĩ, có nhiều chi nhánh có trụ sở chính tại nước ngoài.
Hệ thống cung cấp dịch vụ của hệ thống ngân hàng Thuỵ Sĩ
Một số ngân hàng tại Thuỵ Sĩ chỉ chuyên về một số loại dịch vụ chủ yếu nhưng nhiều
ngân hàng lại cung cấp hầy hết các loại dịch vụ. Tại hầu hết các nước châu Âu, người dân
thường mua và bán chứng khoán thông qua hệ thống ngân hàng của họ. Hệ thống ngân
hàng Thuỵ Sĩ nổi tiếng trong lĩnh vực quản lý các danh mục đầu tư cho khách hàng và
cung cấp một số dịch vụ khác như lập kế hoạch bất động sản, quản lý tài sản...cho các
khách hàng riêng lẻ.
Hệ thống ngân hàng tư nhân(Private banks)
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Hệ thống các ngân hàng tư nhân là hệ thống mà các ngân hàng không kết hợp thành một
tổ chức và do đó toàn bộ tài sản cá nhân của họ có thể là các khoản nợ của ngân hàng.
Những ngân hàng này có truyền thống lâu đời tại Thuỵ Sĩ. Ban đầu, các ngân hàng tư
nhân cũng hoạt động trong lĩnh vực quản lý danh mục đầu tư của các khách hàng riêng lẻ,
Thuật ngữ “ngân hàng tư nhân” thường được sử dụng để mô tả toàn bộ các dịch vụ ngân
hàng cung cấp cho khách hàng trong lĩnh vực quản lý dang mục và quản lý tài sản.
Luật bí mật dặc biệt của hệ thống ngân hàng Thuỵ Sĩ
Các ngân hàng tại hầu hết các nước bị cấm tiết lộ thông tin về các khách hàng của họ và
các điều khoản của luật pháp Thuỵ Sĩ cũng tương tự như vậy. Luật pháp Thuỵ Sĩ rất
nghiêm khắc trong việc thực hiện vấn đề này. Các ngân hàng, nhân viên và chi nhánh
hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt sẽ bị kết tội hình sự nếu như để tiết lộ bất kì thông tin
mật nào ra bên ngoài. Các bí mật đặc biệt của hệ thống ngân hàng Thuỵ Sĩ được giữ gìn
thận trọng bở nhận thức rõ rằng tính chất quan trọng về bổn phận của các ngân hàng

trong việc duy trì lòng tin đối với khách hàng. Cả các ngân hàng và cá nhân sẽ bị khởi
kiện nếu như bị phát hiện những sai sót của họ. Điều này càng khẳng định tính chất bí
mật của các ngân hàng và vấn đề sai sót là hiếm khi xảy ra.
Luật bí mật của ngân hàng Thuỵ Sĩ ra đời năm 1934 quy định các ngân hàng Thuỵ Sĩ đều
phải thực hiện chế độ mật mã để đảm bảo giữ bí mật tuyệt đối cho khách hàng. Việc ngân
hàng làm thủ tục tiền gửi bí mật chỉ giới hạn trong phạm vi vài nhân viên cao cấp, cấm
các nhân viên khác không được can dự vào. Người để lộ bí mật khoản tiền gửi sẽ phải
chịu hình phạt nghiêm khắc: bị giam giữ sáu tháng và chịu phạt 2 vạn franc Thuỵ Sĩ hoặc
nặng hơn.Luật này còn quy định: Bờt cứ người nước nào hoăc chính phủ nước nào, thậm
chí cả nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng Chính phủ và toà án của Thuỵ Sĩ đều không có
quyền can thiệp, điều tra và xử lý tiền gửi tại ngân hàng Thuỵ Sĩ của bất cứ người nào,
Trừ khi có đủ chứng cứ chứng minh người gửi tiền có hành vi phạm tội. Nhờ có luật này,
một khối lượng tiền gửi khổng lồ đã đổ về Thuỵ Sĩ. Đặc biệt, các nhà độc tài, chính
khách và những người chạy ra nước ngoài của một số quốc gia coi ngân hàng Thuỵ Sĩ là
nơi cất giữ tiền an toàn nhất. Theo ước tính của các nhà tài chính, hiện nay số tiền gửi tại
Thuỵ Sĩ của khách hàng trên khắp thế giới có thể lên tới vài ngàh tỉ úD, đem lai cho nền
kinh tế Thuỵ Sĩ những nguồn lợi lớn.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />III.

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VIỆT

NAM
1.

Dịch vị ngân hàng

Dịch vụ ngân hàng là dịch vụ tài chính quan trọng và phát triển nhất trên thị trường dịch

vụ tài chính ở Việt Nam cho đến nay, đảm nhiệm vai trò chủ đạo trong hoạt động luân
chuyển các nguồn tài chính, các dịch vụ tài chính khác mới chỉ hình thành và phát triển
trong những năm cuối của thế kỉ XX, bao gồm:
Dịch vụ tiết kiệm do các ngân hàng, các tổ chức tín dụng cung cấp thông qua các công cụ
tiền gửi tiết kệm cung ứng cho mọi tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế với các loại kì hạn
khác nhau từ không kì hạn đến 12 tháng, tiết kiệm bằng ngoại tên, tiết kiệm có đảm bảo
bằng vàng, tiết kiệm phục vụ mục đích mua nhà, cho con đi học nước ngoài...
Dịch vụ tín dụng do các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các công ty thuê mua tài chính,
các quỹ đầu tư và hỗ trợ...cung cấp bao gồm các nghiệp vụ cho vay tín dụng, thuê mua tài
chính, cho vay thế chấp, chiết khấu giấy tờ có giá...
Dịch vụ thanh toán bao gồm các nghiệp vụ thanh toán bằng séc, chuyển khoản và một số
dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt mới được đưa vào thực hiện giữa những năm
1990 như bằng thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, tài khoản cá nhân..
Có thể đánh giá, các dịch vụ do các ngân hàng Việt Nam mới ở điểm xuất phát tiếp cận
với các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại. Hoạt động kinh doanh chủ
yếu mang lại lợi nhuận gần như duy nhất cho các ngân hàng thương mại Việt Nam là từ
dịch vụ tín dụng-cho vay khách hàng. Ngay cả các loại hình dịch vụ ngân hàng truyền
thống vẫn còn nhiều tồn tại. Hình thức huy động vốn còn đơn điệu, chưa có nhiều hình
thức huy động và nhân tiền gửi mới, phù hợp với nhu cầu của người dân và các doanh
nghiệp. Doanh số các loại hình tín dụng mới như: cho thuê tài chính, cho vay đồng tài
trợ, cho vay bảo lãnh còn thấp.
Quá trình đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng hiện đậi ở nước ta còn chậm. Các dịch vụ
thanh toán qua ngân hàng còn chậm do chưa có hệ thống và công nghệ thanh toán hiện
đại, chủ yếu vẫn là thủ công, với chứng từ bằng văn bản giấy tờ, tỉ trọng thanh toán bằng
tiền mặt còn lớn. Các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt còn nhiều hạn chế, do
tính thuận tiện, nhanh nhạy, an toàn chưa cao. Dịch vụ ngân hàng điện tử-một loại hình
dịch vụ ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán rất phát triển trên thế giới, mang lại nhiều
tiện ích cho khách hàng nhưng việc triển khai ở nước ta còn rất hạn chế. Ngoài ra, việc

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />cung cấp các dịch vụ tư vấn về thông tin, thị trường, ngiệp vụ... cho khách hàng cũng hầu
như chưa được triển khai.
2.

Dịch vụ trên thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán(TTCK) tập trung đầu tiên ở VIệt Nam mới được khai
trương(20/7/2000) và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 28/7/2000. Vì vậy,so với các
dịch vụ tài chính khác, dịch vụ chứng khoán là một loại hình kinh doanh khá mới mẻ ở
Việt Nam. Các dịch vụ chứng khoán thường được thực hiện bởi các công ty chứng khoán.
Ngoài ra, còn có các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng có
thể tham gia triển khai loại hình dịch vụ này. Sau 3 năm chính thức đi vào hoạt động, trên
thị trường chứng khoán Việt nam đã có 11 công ty chứng khoán được cấp giấy phép hoạt
động, trong đó có 9 công ty chứng khoán đủ điều kiên toàn bộ 5 nghiệp vụ kinh doanh:
dịch vụ môi giới chứng khoán, dịch vụ tư vấn chứng khoán, dịch vụ bảo lãnh và đại lý
phát hành, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư, dịch vụ tư doanh. Trong đó, dịch vụ chứng
khoán chủ yếu là dịch vụ môi giới chứng khoán. Tính đến tháng 6-2003, đã có gần 14500
tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng mở tại các công ty chứng khoán( trong
đó có 91 nhà đầu tư có tổ chức và 35 nhà đầu tư nước ngoài). Một số công ty đã thu hút
được khách hàng đến mở tài khoản và có tổng giái trị môi giới mua bán chứng khoán cho
khách hàng cao (như: BVSC, SSI, ACBS, BSC) và là hoạt động mang lại nguồn thu nhập
chủ yếu trong tổng thu nhập của các công ty chứng khoán. Tuy nhên, trong bối cảnh thị
trường chứng khoán Việt Nam còn sơ khai và hoạt động trầm lắng, các dịch vụ chứng
khoán còn kém đa dạng, chủ yếu là dịch vụ môi giới, chưa thu hút được nhiều doanh
nghiệp và cá nhân. Các nghiệp vụ như: Bảo lãnh, đại lý phát hành, quản lý danh mục đầu
tư...chưa được phát triển mạnh mẽ. Hoạt động tư vấn đầu tư của các công ty chứng khoán
mới chỉ mang tính chất hướng dẫn người đầu tư thực hiện đúng các thủ tục mua bán
chứng khoán, chưa thực sự tư vấn cho họ biết cách lựa chọn lĩnh vực đầu tư cũng như
thời điểm mua bán chứng khoán sao cho có hiệu quả nhất...Vì vậy có thể nói rằng, trong

thời gian qua các công ty chứng khoán chưa thực hiện được chức năng của người tạo thị
trường.
3.

Dịch vụ bảo hiểm

Ngành dịch vụ bảo hiểm Việt Nam hình thành vào thập niên 60 với sự ra đời của tổng
công ty bảo hiểm Việt Nm(năm 1964). Cho đến năm 1992, Tổng công ty bảo hiểm Việt
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Nam là nha cung cấp dịch vụ độc quyền trên thị trường, dịch vụ bảo hiểm mới chỉ thực
hiện một số loại hình bảo hiểm truyền thống với khoảng gần 20 loại sản phẩm như bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm tai nạn hành khách...và mới
chỉ dừng lại ở chức năng bảo vệ tài sản mà chưc thực hiện được chức năng tiết kiệm và
đầu tư...Tuy nhiên thị trường bảo hiểm Việt Nam mới bắt đầu thực sự sôi động đóng góp
đáng kể vào thị trường vốn kể từ sau khi có nghị định 100-CP ngày 18-12-1993 về kinh
doanh bảo hiểm, tạo môi trường pháp lý thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển, gpó
phần tạo lập môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về hoạt động kinh
doanh bảo hiểm. Từ năm 1995 trở lại đây, khi Việt Nam thưch hiện đa dạng hoá thị
trường bảo hiểm, cho phép thành lập thêm nhiều doanh nghiệp bảo hiểm mới thuộc nhiều
thành phần kinh tế, ngành bảo hiểm đã phát triển mạnh trên nhiều mặt như quy mô thị
trường, số lượng doanh nghiệp bảo hiểm, số lao động, sự đa dạng về sản phẩm và việc
hoàn thiện dần cơ chế chính sách. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng đã nhanh
chóng phát triển và thích ứng với môi trường cạnh tranh mới.
Thị trường bảo hiểm đạt tốc độ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2001-2004, mức tăng
trưởng bình quân hàng năm là 43,7%.Doang thu phí bảo hiểm năm 2001 là 4.843 tỷ
đồng, năm 2002 là 6.992 tỷ đồng, năm 2003 là 10.192 tỷ đồng, năm 2004 đạt 13.044 tỷ
đồng. Cơ cấu tỷ trọng doanh thu dịch vụ bảo hiểm trong GDP cũng được nâng lên rõ rệt,
năm 2000 chiếm 0.78%, năm 2003 tăng lên 1.7%GDP.
Do số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng nhiều nên đã thu hút và tạo công ăn

việc làm cho một đội ngũ khá lớn người lao động, nhất là khi bảo hiểm nhân thọ được
triển khai. Hiện nay số cán bộ làm bảo hiển trên toàn thị trường đã lên đến con số trên
8000 người, với cả 40000 đại lý chuyên nghiệp(cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ),
trong đó số đại lý bảo hiểm nhân thọ đã chiếm tới 30000 người. Ngoài ra, ngành bảo
hiểm còn tạo việc làm cho một số lượng khá lớn cộng tác viên bảo hiểm cũng như các
ngành có liên quan.
Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh với sản phẩm ngày càng đa dạng nhưng chất lượng
hoạt động chưa cao thể hiện ở công nghệ quản lý, kinh doanh bảo hiểm còn hạn chế;
thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi đặc biệt là trong lĩnh vực phí bảo hiểm, thẩm định bảo
hiểm, quản lý rủi ro và đầu tư. Hiệu quả hoạt động thấp(tỷ suất lợi nhuận bình quân trên
vốn chu sở hữu đạt 13%), chi phí quản lý cao(trung bình 24%/năm). Hiện tượng cạnh
tranh không lành mạnh đã xuất hiện gây khó khăn cho công tác quản lý và làm tổn hại
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />đến uy tín của chính các doanh nghiệp. Tình trạng chia cắt, cát cứ trên thị trường xuất
phát từ hoạt động của các công ty bảo hiểm chuyên ngành cũng làm ảnh hưởng không
nhỏ đến sự phát triển lành mạnh của thị trường và gây thiệt hại đến quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm.
Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm còn hạn chế. Căn cứ theo các chuẩn
mực quốc tế, số vốn hiện có của các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường
mới chỉ đủ để đảm bảo giữ lại 40% phí bảo hiểm đối với các nghiệp vụ bảo hiểm có tái
bảo hiểm. Do đó, chỉ tính riêng trong năm 2001, khoảng 33% tổng số phí bảo hiểm phi
nhân thọ thu được đã được tái bảo hiểm. Tỷ lệ này ở Mĩ là vào khoảng 96% trong cùng
thời kì. Do năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là các công ty bảo
hiểm cổ phần trong nước cồn nhỏ, hàng năm thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn phải trả
từ 150-250 tỷ đồng tiền phí tái bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm ở nước ngoài. Tính
trung bình, cứ 4 đồng phí bảo hiểm gốc thu được tại Việt Nam từ những nghiệp vụ có
doanh thu lớn như bảo hiểm dầu khí và bảo hiểm hàng không thì có đến một đồng phải
tái bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm nước ngoài, chủ yếu được thanh toán bằng ngoại
tệ. Nừu có biện pháp và cơ chế thích hợp để tăng cường năng lực tài chính và trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ cho các doanh nghiệp trên thị trường, chúng ta sẽ có thể giữ lại
một phần đáng kể nguồn vốn quan trọng bằng ngoại tệ để bổ sung cho sự công nghiệp
hoá và hiện đại hoá...Tổ chức quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước chưa
đáp ứng được yêu cầu phất triển thị trường trong điều kiện hội nhập: cơ cấu tổ chức còn
chồng chéo, bộ máy chưa được chuyên môn hoá, chưa hiệu quả, công tác đào tạo và quản
lý đại lý chưa đượcquan tâm đúng mức; công nghệ khai thác và quản lý chậm đổi mới,
trình độ đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập...Nhìn chung, hoạt động kinh doanh bảo hiểm
mới chỉ tập trung vào các thành phố lớn, trung tâm dân cư và những sản phẩm truyền
thống như bảo hiểm tài sản, bảo hiểm hàng hải, hàng không...trong khi nhiều lĩnh vực
khác mà nền kinh tế và xã hội có nhu cầu nhưng vẫn bị bỏ trống như các vùng xa, vùng
sâu, các nghiệp vụ bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp trong lĩnh
vực xây dựng, thiết kế, y tế, tư vấn pháp luật...
4.

Dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính

Dịch vụ kế toán là loại hình dịch vụ mới ra đời và phát triển từ đầu thập kỷ 90, cho đến
nay, thị trường dịch vụ kế toán đã có tương đối đầy đủ các loại sản phẩm như kiểm toán,

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tư vấn kế toán, tư vấn thuế...Tuy nhiên, vấn đề chính đối với thị trường dịch vụ kế toán là
chất lượng dịch vụ. Cho gần 10 năm phát triển vừa qua, chất lượng các dịch vụ kế toán
đang được từng bước nâng lên nhờ sự phát triển của nền kinh tế, các tiêu chuẩn về kiểm
toán được xây dựng và ban hành, đội ngũ kiểm toán viên có trình độ tốt hơn, được kiểm
tra và kiểm soát chặt chẽ và có bài bản hơn...Tuy nhiên, cho tới nay dịch vụ kế toán, kiểm
toán mới đang trong giai đoạn phát triển đầu tiên, còn tương đối sơ khai( mặc dù đã ra
đời và hoạt động được gần 10 năm, song cho đén năm 2000 chúng ta mới ban hành được
4 chuẩn mực kiểm toán đầu tiên); chất lượng và giá cả dịch vụ kiểm toán của các công ty
kiểm toán trong và ngoài nước còn có khoảng cách lớn; nhu cầu, mục đích kiểm toán

trong nền kinh tế còn rất phức tạp( một số doanh nghiệp chỉ kiểm toán với mục đích nâng
giá trị góp vốn trong liên doanh...)
Hầu hết các công ty đều có những loại dịch vụ phổ biến như: Kiểm toán BCTC, dịch vụ
kế toán, tư vấn quản lý, tài chính, thuế...Trong những năm qua đã xuất hiện thêm một số
loại dịch vụ mới, như: Soát xét báo cáo tài chính, kiểm toán tỷ lệ nội địa hoá ô tô, xe máy,
tư vấn thuế, tư vấn tái cơ cấu doanh nghiệp, tư vấn ứng dụng công nghệ thông tin, nguồn
nhân lực, soát xét quy trình kinh doanh và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán hoạt
động để đánh giá và đề xuất xây dựng chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh cho từng
lĩnh vực và nghành nghề ở Việt Nam; tư vấn về rủi ro kinh doanh và rủi ro đầu tư, tư vấn
phục hồi và giải toả doanh nghiệp, tư vấn đầu tư ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Giá trị dịch
vụ cung cấp của các công ty kiểm toán nước ngoài rất lớn, có dịch vụ trị giá từ 1 triệu đến
6 triệu USD.
Trong các dịch vụ trên thì dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) chiếm tỷ trọng lớn
nhất vì các công ty có cổ phần đầu tư nước ngoài bắt buộc phải kiểm toán theo luật định,
đòng thời yêu cầu kiểm toán BCTC của doanh nghiệp nhà nước, chủ yếu là các tổng công
ty cũng đang tăng dần...Dịch vụ kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ
bản là quan trọng và cần thiết nhưng chưa thực sự chiếm tỉ trọng cao do chưa có quy định
bắt buộc phải kiểm toán, do giá chi phí thấp...Về các dịch vụ thuế, tư vấn tài chính, kế
toán, tư vấn quản lý,...doanh thu chiếm tỉ trọng còn thấp do khách hàng chưa có thói quen
sử dụng các dịch vụ này và các công ty kiểm toán cũng chưa quan tâm khai thác. Ngoài
ra, khả năng cung cấp các dịch vụ này của nhiều công ty kiểm toán cũng còn bị hạn
chế.Đối với các công ty kiểm toán khi kiểm toán báo cáo tài chính của công ty niêm yết,
thuyết minh BCTC còn sơ sài, các biến động lớn về tình hình tài chính như tăng giảm
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />vốn Điều lệ, các khoản lợi nhuận bất thường chưa giải thích rõ nguyên nhân; các nghiệp
vụ mới như Cổ phiếu ngân quỹ, cổ phiếu trả chậm, các nghi vấn chưa thận trọng lưu ý
người đọc báo cáo tài chính.
Tóm lại, tính đến nay, các loại hình dịch vụ tào chính đã phát triển khá đa dạng và phong
phú, chất lượng dịch vụ cũng từng bước được nâng lên, do đó đã ngày càng đáp ứng tốt

hơn nhu cầu đa dạng về sử dụng nhiều loại hình dịch vụ tài chính trong nền kinh tế. Tuy
nhiên, các loại dịch vụ truyền thống như tiết kiệm, tín dụng và một số nghiệp vụ bảo
hiểm con người, xe cơ giới...vẫn là những dịch vụ chính, chiếm tỉ trọng lớn nhất trên toàn
bộ thị trường, đa số các dịch vụ còn lại mới hình thành và phát triển trong những năm gần
đây, thậm chí một số dịch vụ mới ra đời trên giấy tờ(dịch vụ đầu tư thông qua quỹ đầu tư
chứng khoán), một số dịch vụ đang trong quá trình thử nghiệm và một số dịch vụ khác
chưa hình thành như thương phiếu..., nên mức độ đáp ứng các nhu cầu đa dạng của thị
trường còn thấp. Bên cạnh đó, các khách hàng truyền thống như khu vực doanh nghiệp
quốc doanh, dân cư đô thị vẫn là đối tượng chính, được tập trung khai thác nhiều nhất,
chính vì vậy, thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam hiện nay vẫn chưa khai thác hết mọi
tiềm năng về các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế.
IV.

CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH Ở VIỆT

NAM
1.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật và hệ thống quản lý nhà nước

Hệ thống khung pháp lý có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động và sự phát triển của
thị truờng dịch vụ tài chính, đây là cơ sở quan trọng nhất quy định nguyên tắc và tổ chức
hoạt động của thị trường. Trong khi đó theo phân tích thực trạng hệ thống khung pháp
luật của chúng ta đối với thị trường dịch vụ tài chính thì hệ thống này cồn thiếu và yếu,
chính vì vậy chúng ta cần nhanh chóng giải quyết vấn đề này để tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính.
Thứ nhất, nâng cao hiệu lực pháp lý của hệ thống khung pháp luật về thị trường dịch vụ
tài chính. Điều này có nghĩa là chúng ta cần phải nhanh chóng nâng lên thành luật đối với
các loại dịch vụ tài chính hiện nay đang được quy định ở các mức pháp lệnh, nghị
định...như dịch vụ đầu tư chứng khoán, dịch vụ kiểm toán...

Thứ hai, hoàn thiện về mặt cơ sở pháp lý đối với toàn bộ thị trường dịch vụ tài chính. Nói
cách khác là cần phải nhanh chóng xây dựng và ban hàng hệ thống văn bản pháp luật
hoàn thiện cho tất cả các lĩnh vực của thị trường dịch vụ tài chính, nhất là đối với vấn đề
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hình thành và phát triển các dịch vụ tài chính mới như: xây dựng và ban hành các chuẩn
mực kiểm toán, tiêu chuẩn công khai thông tin trên thị trường chứng khoán...
Cuối cùng, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Song song với
việc nâng cao hiệu lực pháp lý của hệ thống văn bản pháp luật hiện tại, cần nhanh chóng
xây dựng và ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn một cách đồng bộ. Thực hiện tổng rà
soát hệ thống pháp luật trong nền kinh tế để có biện pháp điều chính, sửa đổi và bổ sung
hệ thống pháp luật, bảo đảm tính thống nhất xuyên suốt toàn bộ hệ thống pháp luật.
2.

Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ tài chính

*Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng:
Các ngân hàng thương mại Việt Nam cần tiến hành đa dạng hoá dịch vụ theo hướng:
hoàn thiện, phát triển các dịch vụ hiện có, đồng thời triển khai thực hiện các dịch vụ mà
kinh tế, nền kinh tế đang cần và ngân hàng có điều kiện thực hiện ngay, đồng thời, chuẩn
bị các điều kiện để triển khai các dịch vụ mới.
Đối với các ngân hàng hiện có:
Cải tiến quy trình nghiệp vụ huy động vốn theo hướng: đơn giản, thuận tiện, an toàn cho
ngân hàng và khách hàng.
Trang bị máy móc, thiết bị, chương trình phần mềm cần thiết để mở rộng phạm vi và cải
tiến hệ thống thanh toán của ngân hàng.
Mở rộng mạng lưới giao dịch đến tận cơ sở, Nơi tập trung đông dân cư, tăng cường tuyên
truyền, khuyến khích người dân và các tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi.
Đối với nghiệp vụ sử dụng vốn: hoàn thiện quy chế, quy trình cho vay, xây dựng hê thống
thông tin quản lý tín dụng tập trung, xây dựng cơ chế phân loại nợ và trích lập quỹ dự

phòng rủi ro.
Mở rộng dịch vụ thanh toán, chuyển tiền trong dân cư, hoàn thiện hệ thống thanh toán
điện tử, hoàn thiện và mở rộng dịch vụ thanh toán- chuyển tiền quốc tế
Triển khai một số loại dịch vụ mới:
Triể khai một số dịch vụ huy đọng vốn mới như: gửi nhiều lần, rút một lần, tiết kiệm một
nơi lĩnh nhiều nơi, tiền gửi tiết kiệm theo mật mã...
Phát triển dịch vụ triết khấu thương phiếu, cho vay thấu chi, cho vay mua bán chứng
khoán, cho vay mua cổ phần, cho thuê và bán tài khoản trả góp, mở rộng cho vay tiêu
dùng...
Tăng cường cơ sở vật chất, ứng dụng tin học vào công nghệ ngân hàng, phát triển thêm
một số dịch vụ như: dịch vụ bảo quản và kí gửi, uỷ thác, dịch vụ ngân hàng thông qua
mạng Internet.
*Đa dạng hoá dịch vụ trên thị trường chứng khoán

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Các công ty chứng khoán cần chú trọng đến đào tạo nhân viên hành nghề của công ty
chứng khoán. chỉ có các nhân viên có kinh nghiệm và hiểu biết mới có thể giúp các khách
hàng kiếm được lời, tạo uy tín lớn cho công ty...Đây là yếu tố chính để mang lại sự thành
công của các công ty chứng khoán trong giai đoạn đầu còn nhiều khó khăn.
Cần mở rộng phạm vi hoạt động theo hướng chuyên môn hoá của từng nghiệp vụ: Hầu
hết các công ty chứng khoán đều được cấp phép tham gia tất cả loại hình kinh doanh
chứng khoán theo quy định hiện hành: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu
tư và quản lý danh mục đầu tư. Việc mở rộng hoạt động kinh doanh theo hướng chuyên
môn hoá sẽ từng bước tiến tới hình thành đội ngũ nhân sự có chuyên môn sâu từng lĩnh
vực.
Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách
hàng: Ngoài các dịch vụ hiện nay, tuỳ theo nhu cầu thực tế phát sinh của khách hàng,
công ty chứng khoán cần phải chủ động tìm kiếm các hình thức dịch vụ phù hợp cung
ứng cho khách hàng nhưng phải được dựa trên nguyên tắc tuân thủ các quy định của pháp

luật liên quan đến hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Tăng cường công tác quản trị công ty, tăng cường các biện pháp giám sát, kiểm soát nội
bộ và quản lý rủi ro. Đây là một trong những biện pháp rất hiệu quả trong việc triển khai
các hoạt động kinh doanh chứng khoán theo đúng những quy định của pháp luật và đảm
bảo được lòng tin cho người đầu tư đối với hoạt động kinh doanh của công ty.
* Đa dạng hoá loại hình dịch vụ bảo hiểm
Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ bảo hiểm chủ yếu được tập trung vào các sản phẩm
bảo hiểm. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt
Nam cần tiếp tục phát triển và đa dạng các loại hình dịch vụ bảo hiểm hiện nay như bảo
hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh và các dịch vụ bảo hiểm tai nạn con người như bảo
hiểm tai nạn thuỷ thủ, bảo hiểm tai nạn hành khách, bảo hiểm khách du lịch, bảo hiểm trợ
cấp nằm viện phẫu thuật...Tăng cường mở rộng và thực hiện các loại hình dịch vụ bảo
hiểm mới và những loại hình mà tỷ trọng khai thác cồn ở mức thấp như: bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tài sản cho doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp vừa
và nhỏ; các dịch vị bảo hiểm trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp; các dịch vụ bảo hiểm
cần công nghệ cao như trong lĩnh vực rủi ro tài chính...
*Đa dạng hoá dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính
Duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ của các công ty dịch vụ kiểm toán hiện
có, chấn chỉnh các tồn tại trong quá trình hoạt động…Khuyến khích và tạo điều kiện để

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />thành lập các công ty kiểm toán mới dưới các hình thức: Đầu tư nước ngoài( 100% vốn
và liên doanh); công ty hợp danh; doanh nghiệp tư nhân, các văn phòng kiểm toán ở các
tỉnh, thành phố; Hướng dẫn ngay về việc thành lập, hoạt động và quản lý công ty hợp
danh kiểm toán mới để có cơ sở thành lập mới các công ty hợp danh kiểm toán.
Hình thành các chức danh mới về nghề nghiệp kế toán, kiểm toám phù hợp với thông lệ
quốc tế và phù hợp với yêu cầu phát triển nghề nghiệp kế toán, kiểm toán như: chuyên
gia kế toán, kiểm toán, kiểm toán viên…
Xác định rõ vai trò và tầm quan trọng của công tác đào tạo kiểm toán trong các trường

đậi học và cập nhật kiến thức hàng năm cho kiểm toán viên hành nghề. Hoàn chỉnh và
nâng cao chất lượng giáo trình, đội ngũ giảng viên, chất lượng đào tạo và cập nhật kiến
thức cho kiểm toán viên phù hợp với hệ thống quy định mới về kế toán, kiểm toán… Hơn
nữa, cần nâng cao chất lượng các cuộc thi tuyển kiểm toán viên cấp nhà nước, tăng cường
đào tạo, thi tuyển, cấp chứng chỉ kiểm toán viên và chứng chỉ hành nghề kế toán. Tổ chức
các cuộc thi phối hợp giữa bộ tài chính với tổ chức ACCA để nâng cao chất lượng kiểm
toán viên người Việt Nam.
3.

Một số giải pháp tài chính phát triển thi trường dịch vụ tài chính

* Sử dụng công cụ ngân sách nhà nước thúc đẩy phát triển thị trường dịch vụ tài chính
Việt Nam
Ngân sách nhà nước là vấn đề cốt lõi của chính sách tài chính quốc gia, có tác động
mạnh, trực tiếp và toàn diện đến mọi mặt đời sống kinh tế xã hội, chính vì vậy, ngân sách
nhà nước có tác động rất lớn đến sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính. Tuy nhiên,
để phát huy vai trò, tác dụng của công cụ ngân sách nhà nước thúc đẩy phát triển thị
trường dịch vụ tài chính Việt Nam trong tương lai, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hai
giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng chủ trương xã hội hoá ngân sách ra toàn bộ nền
kinh tế theo hướng giảm tỉ lệ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước một cách thích hợp đối
với các công trình xã hội hoá, đồng thời mở rộng các ngành, lĩnh vực, công trình hiện vẫn
đang còn thuộc diện được sử dụng vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước đưa vào diện phải
xã hội hoá. Đây còn được xem là giải pháp quan trọng để tiết kiệm chi nhân sách nhà
nước trong mõi công trình, trên cơ sở đó nâng cao khả năng đầu tư nguồn vốn NSNN cho
nhiều công trình của nền kinh tế. Việc thực hiện giải pháp trên sẽ nâng cao khả năng tham

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />gia của các dịch vụ tài chính vào từng công trình thuộc diện xã hội hoá, đồng thời tăng số

lượng các công trình xã hội hoá mà các dịch vụ tài chính có thể tham gia.
Thứ hai, đẩy mạnh đầu tư nguồn vốn NSNN vào việc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng
kinh tế- xã hội nhằm tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, mạnh và bền vững nhằm
nhanh chóng bắt kịp khu vực và thế giới. Việc đẩy mạnh dầu tư vốn NSNN phải quán triệt
nguyên tắc xã hội hoá đầu tư NSNN, nguồn vốn đầu tư từ NSNN chỉ mang tính chất khơi
mào, giảm chi phí đầu tư và chi phí sử dụng vốn cho công trình. Với giải pháp này thì khả
năng tham gia của các dịch vụ tài chính cũng tăng lên do số lượng các công trình xã hội hoá
tăng lên.
* Đẩy mạnh việc sử dụng công cụ thuế nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường dịch
vụ tài chính
Ta biết thuế là một nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, đồng thời cũng là một
công cụ quản lý vĩ mô chủ chốt của chính phủ. Đối với Việt Nam, công cụ thuế còn quan
trọng hơn rất nhiều do thuế là nguồn thu chính của ngân sách nhà nước, mỗi sự thay đổi
về thuế đều có tác động lớn đến nguồn NSNN hạn hẹp của quốc gia. Tuy nhiên, với mục
tiêu thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và toàn diện, đồng thời cũng nhằm bồi
dưỡng nguồn thu của NSNN trong tương lai, chúng ta cũng cần đẩy mạnh giải pháp
khuyến khích để phát triển thị trường dịch vụ tài chính, nhất là đối với việc hình thành và
phát triển các loại hình dụch vụ tài chính mới.
* Tiếp tục túc đẩy việc xây dựng và hoàn thiện thị trường tiền tệ và TTCK nhằm tạo môi
trường thuận lợi cho sự phát triển dịch vụ tài chính
Thị trường tiền tệ và TTCK là hai thị trường bộ phận rất quan trọng và có tác dụng tạo
môi trường cho một số dịch vụ tài chính hoạt động như dịch vụ môi giới đầu tư chứng
khoán, môi giới mua bán tiền tệ…Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại chúng ta mới chỉ
có thị trường nội, ngoại tệ liên ngân hàng mà chưa thực sự có thị trường tiền tệ hoàn
chỉnh; thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động từ cuối tháng7/2000. Chính vì vậy,
để thúc đẩy sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính, cần phải:
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế pháp lý của hai thị trường, đặc biệt là thị trường tiền
tệ; cơ chế tổ chức của thị trường chứng khoán đã tương đối rõ ràng nhưng một số bộ phận
quan trọng như giám sát thị trường, công khai thông tin…vẫn còn thiếu hoặc chưa rõ
ràng. Đặc biệt, hệ thống pháp lý cần phải nhanh chống xây dựng và hoàn thiện, đồng thời

đảm bảo hiệu lực pháp lý của hệ thống pháp luật này.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Tăng cung và tăng cầu hàng hoá cho hai thị trường này, trong đó trước hết chủ yếu nhằm
vào việc tăng cung hàng hoá thông qua việc dẩy mạnh tiến trình cổ phần DNNN; tăng
cường phát hành các loại trái phiếu chính phủ, mở rộng thị trường đấu thầu tín phiếu kho
bạc, tín phiếu NHNN, hoạt động chiết khấu thương phiếu…Đồng thời nhanh chóng hình
thành và phát triển hệ thống quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam…Từng bước ổn định
đồng nội tệ và tiến tới đưa đồng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi.
4.

Chủ động trong hội nhập quốc tế

Ngày nay, hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Mỗi nền kinh tế không thể đứng ngoài nền kinh tế thế giới và buộc phải có
các quan hệ với nền kinh tế thế giới trên các khía cạnh khác nhau. Trong đó thị trường
dịch vụ tài chính là một bộ phần đang rất được thế giới chú trọng và mong muốn đi đầu
trong quá trình toàn cầu hoá. Mục tiêu hội nhập là khai thác các lợi thế phục vụ cho phát
triển kinh tế đất nước nói chung và thị trường dịch vụ tài chính nói riêng, hạn chế các tác
động tiêu cực từ quá trình này.Do đó, chúng ta có thể áp dụng các giải pháp để giải quyết
vấn đề này bao gồm:
Thứ nhất, thực hiện hội nhập từng bước tren cơ sở tiến trình hội nhập chung nền kinh tế,
theo các cam kết về hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước. Nhanh chóng củng cố và
phát triển thị trường dịch vụ tài chính trong nước nối chung, khả năng cạnh tranh của các
chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước nói riêng nhằm đảm bảo khả năng cạnh
tranh với nước ngoài trong quá trình hội nhập.
Thứ hai, về hình thức hội nhập quốc tế. Các phương thức hội nhập được thể hiện trên
khía cạnh: cho phép sự hiện diện của nước ngoài dưới hình thức mở chi nhánh, văn
phòng đại diện, đại lý, lập các chủ thể 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh…để cung

cấp dịch vụ tài chính trên thị trường Việt Nam; cung cấp các dịch vụ tài chính qua biên
giới; các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính của Việt Nam cung cấp dịch vụ qua biên giới
ra nước ngoài hoặc ra nước ngoài kinh doanh.
Thứ ba, một vấn đề rất quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế là kiểm soát số lượng
các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài tham gia trên thị trường nội địa. Bởi vì
các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài có tiềm lực về tài chính, công nghệ, kĩ
thuật so với các chủ thể cung cáp dịch vụ tài chính trong nước, do đó khả năng cạnh tranh
của họ sẽ mạnh hơn nên chúng ta cần phải khống chế số lượng các chủ thể nước ngoài,
nói cách khác hạn chế bớt tính cạnh tranh trên thị trường để các chủ thể trong nước có đủ
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />khả năng bắt kịp được sự phát triển của thị trường. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần
kiểm soát hoạt động cấp giấy phép hoạt động kinh doanh dịch vụ tài chính cho các chủ
thể nước ngoài một cách chặt chẽ theo sự phát triển của thị trường nội địa. Có nghĩa là
việc cấp giấy phép hoạt động phải căn cứ vào một số điều kiện sau: nhu cầu và khả năng
cung cấp của thị trường, số lượng các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước tại
thời điểm đó trên thị trường, môi trường cạnh tranh hiện tại…

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />C. KẾT LUẬN
Qua hơn 15 năm đổi mới, các loại hình thị trường dịch vụ tài chính cơ bản đã được hình
thành ở Việt Nam: dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ trên thị trường chứng
khoán, dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính. Các loại hình dịch vụ tài chính trên
đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế nói chung và nâng cao hiệu quả hiệu
quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng.
Tuy nhiên, về cơ bản, thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam vẫn còn đang trong giai đoạn
hình thành sơ khai. Do đó, nó còn nhiều hạn chế: Các loại hình dịch vụ tài chính kém đa
dạng về chủng loại và hạn chế chất lượng, các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính còn
thiếu và yếu, môi trường pháp lý còn nhiều bất cập; mức độ tự do hoá giá cả dịch vụ tài

chính còn thấp, còn tồn tại sự can thiệp mang tính hành chính của cơ quan quản lý nhà
nước. Việc tiếp cận các dịch vụ tài chính của doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn gặp
nhiều khó khăn…
Chính vì vậy, cần có hệ thống giải pháp đồng bộ để phát triển thị trường dịch vụ tài chính
nhằm hỗ trợ các hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm các giải pháp: Hoàn thiện môi
trường pháp lý. đa dạng hoá dịch vụ tài chính, hoàn thiện cơ chế quản lý giá cả dịch vụ
tài chính theo nguyên tắc thị trường, chủ động hội nhập về thị trường dịch vụ tài chính…
Với hệ thống thị trường dịch vụ tài chính phát triển đồng bộ và các loại hình dịch vụ tài
chính đa dạng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn, sử dụng các
dịch vụ tài chính để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh
trong quá trình hội nhập.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />MỤC LỤC
Trang

và là website chia sẻ
miễn phí luận văn, đồ án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo
án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho tất cả mọi
người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong
có sự đóng góp của quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm
phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu xin quý khách gửi về

A. LỜI MỞ ĐẦU..........................................................3
B. NỘI DUNG.............................................................4
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH..4
II. THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH TẠI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI...............................................................................5
III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH

VIỆT NAM...............................................................................9
IV. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
Ở VIỆT NAM.........................................................................14
C. KẾT LUẬN............................................................21

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


×