Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Vai trò của nhà nước trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 167 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
33=/.,m

HỒNG THỊ KIM OANH

VAI TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI
N H ẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỒNG THỊ KIM OANH

VAI TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI
N H ẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số:
62 22 80 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thành



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả được sử dụng, nêu
trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo qui định.

Tác giả

Hoàng Thị Kim Oanh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
6
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Các cơng trình nghiên cứu về hội nhập kinh tế quốc tế
1.2. Những nghiên cứu về vai trị của nhà nước trong tồn cầu
hố, hội nhập kinh tế quốc tế
1.3. Các cơng trình nghiên cứu về vấn đề chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến vai trò của Nhà
nước Việt Nam trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ


6
11
18
23
28

QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM – TÍNH TẤT YẾU VÀ VAI
TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC

2.1. Tính tất yếu của chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế ở Việt Nam hiện nay
2.2. Vai trò của Nhà nước trong chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế - Một số vấn đề lý luận cơ bản
Chương 3: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG CHỦ

28
48
68

ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ –
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng vai trò của Nhà nước Việt Nam trong chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
3.2. Một số vấn đề đặt ra hiện nay đối với việc phát huy vai trị của
Nhà nước trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 4: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

68
101

113

CHỦ YẾU PHÁT HUY VAI TRỊ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Quan điểm định hướng phát huy vai trò của Nhà nước Việt
Nam trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
4.2. Một số giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của Nhà nước
trong việc chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay

113

KẾT LUẬN

149
151
152

DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

119


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

ADB


: Ngân hàng Phát triển Châu Á

AFTA

: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

APEC

: Diễn đàn kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương

ASEAN

: Hiệp hội các nước Đông Nam Á

ASEM

: Diễn đàn họp tác Á – Âu

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

EU

: Liên minh Châu Âu


FDI

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

IMF

: Quĩ Tiền tệ thế giới

LHQ

: Liên hợp quốc

ODA

: Viện trợ phát triển chính thức

USD

: Đơn vị tiền tệ Mỹ (Đô la Mỹ)

WB

: Ngân hàng Thế giới

WTO


: Tổ chức Thương mại Thế giới


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập quốc tế ngày nay đã trở thành xu thế tất yếu khách quan của
tiến trình phát triển nhân loại, trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung
cốt lõi, căn bản, cơ sở nền tảng của toàn bộ tiến trình hội nhập.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, một mặt đem lại cho các quốc gia
những cơ hội tốt cho thúc đẩy kinh tế phát triển, nhưng mặt khác cũng khiến
các quốc gia phải đối mặt với muôn vàn rủi ro, thách thức. Tuy nhiên, mỗi
quốc gia khi tham gia tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế không phải đều cùng
nhận được những cơ hội hay phải gánh chịu những rủi ro, thách thức ngang
nhau. Thực tế cho thấy, hiệu quả tiến trình hội nhập phụ thuộc rất lớn vào năng
lực nhận thức và hành động của mỗi quốc gia. Quốc gia nào chủ động và tích
cực trong hội nhập, có những chính sách hội nhập đúng đắn, phương thức hội
nhập phù hợp… sẽ tận dụng, khai thác được nhiều hơn những cơ may, vận hội,
đồng thời dễ dàng vượt qua những trở ngại, thách thức, giảm thiểu những tổn
thất, gặt hái những thành tựu phát triển ngay cả trong những điều kiện khó
khăn nhất. Ngược lại, những quốc gia nào cịn do dự, lúng túng, khơng nhanh
nhạy nắm bắt thời cơ, linh hoạt ứng phó trước những biến động của tiến trình
hội nhập… sẽ phải hứng chịu nhiều tổn thất, thiệt hại, thậm chí có thể đẩy nền
kinh tế rơi vào khủng hoảng, suy thoái nặng nề.
Đối với các nước có nền kinh tế phát triển chưa cao như Việt Nam, hội
nhập kinh tế quốc tế là lựa chọn tốt nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, rút
ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước, nâng cao vị thế kinh tế và năng lực
cạnh tranh quốc gia. Để đảm bảo hiệu quả tiến trình hội nhập, nhanh chóng gặt
hái những thành tựu phát triển kinh tế to lớn, việc chủ động và tích cực trong hội
nhập có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Chủ động và tích cực hội nhập khơng chỉ

giúp chúng ta nắm bắt, tận dụng tối đa những cơ hội, kết hợp tốt các nguồn lực
cho thúc đẩy kinh tế phát triển; ứng phó hiệu quả hơn trước những tác động, ảnh
hưởng bất lợi từ tiến trình hội nhập; né tránh, hạn chế đến mức thấp nhất những
tác động xấu từ tiến trình hội nhập, mà hơn thế cịn có thể tìm kiếm được những


2
cơ hội trong thách thức, thậm chí có thể “xoay chuyển” những tình huống bất
lợi, biến những khó khăn, thách thức thành động lực phát triển.
Để chủ động và tích cực hội nhập đòi hỏi sự nỗ lực kết hợp, tham gia của
nhiều chủ thể, trong đó nhà nước là chủ thể quan trọng nhất, có vai trị to lớn,
trực tiếp điều hành, chỉ đạo, định hướng, dẫn dắt toàn bộ tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế ở nước ta.
Những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiều chính sách định
hướng đúng đắn, đồng thời chỉ đạo triển khai nhiều biện pháp thúc đẩy nền
kinh tế hội nhập ngày càng mạnh mẽ vào thể chế kinh tế khu vực và thế giới.
Nhờ đó chúng ta đã khai thác được nhiều giá trị từ tiến trình hội nhập cho
thúc đẩy kinh tế phát triển, đem lại cho nền kinh tế Việt Nam những bước
khởi sắc tốt đẹp với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm, năng
lực cạnh tranh và vị thế kinh tế của đất nước trên trường quốc tế không ngừng
được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, hiệu quả tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta đến nay vẫn chưa thực sự như mong
đợi. Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và
lợi thế của đất nước. Nhiều nguồn lực của nền kinh tế chưa được khai thác,
phát huy tốt. Nền kinh tế cũng chưa tranh thủ được tối đa sự hỗ trợ từ bên
ngoài cho việc giải quyết, ứng phó hiệu quả trước những khó khăn, thách thức
và biến động phức tạp của tiến trình hội nhập.
Một trong những nguyên nhân căn bản của thực trạng đó là do Nhà nước
chưa thực sự phát huy tốt vai trị của mình trong chủ động và tích cực chỉ đạo,
điều hành tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; năng lực quản lý, điều tiết kinh tế

vĩ mô của Nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém; hệ thống pháp luật, bộ
máy hành chính Nhà nước chưa đáp ứng tốt nhất những địi hỏi của tiến trình
hội nhập và yêu cầu phát triển đất nước, v.v…
Vì vậy, việc nâng cao vai trò của Nhà nước trong chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác được nhiều hơn nữa những lợi ích to lớn
từ hội nhập cho thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển đất nước vẫn là
nội dung cần chú trọng trong tiến trình hội nhập ở nước ta thời gian tới.


3
Hơn thế, trong bối cảnh hội nhập quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp như
hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức
nan giải (ảnh hưởng bất lợi từ cuộc khủng hoảng, suy thối kinh tế, mất ổn định
chính trị diễn ra ở nhiều quốc gia; đối phó với những âm mưu chống phá từ các
lực lượng thù địch và những toan tính xâm lược, chèn ép nước ta trên nhiều
lĩnh vực ngày càng mạnh mẽ của Trung Quốc;…), Nhà nước càng cần phải
phát huy hơn nữa vai trị của mình trong chủ động và tích cực hội nhập; chỉ đạo
khai thác, kết hợp tối đa nội lực và ngoại lực nhằm củng cố và tăng cường sức
mạnh, tiềm lực kinh tế đất nước, nâng cao khả năng ứng phó, giải quyết hiệu
quả trước những tác động, ảnh hưởng bất lợi từ tiến trình hội nhập, đảm bảo
độc lập tự chủ về kinh tế, giảm thiểu sự lệ thuộc nặng nề vào các quốc gia lớn,
đồng thời tranh thủ tối đa mọi sự hỗ trợ, ủng hộ của cộng đồng quốc tế cho
thực hiện mục tiêu vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa đảm bảo giữ vững ổn
định chính trị, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
Thực tiễn đã và đang đặt ra yêu cầu cần thiết phải nghiên cứu vấn đề vai trị
của nhà nước trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế để từ đó rút ra những bài
học cần thiết nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc chủ động và
tích cực hội nhập vào thể chế kinh tế toàn cầu nhằm gặt hái những thành tựu hội
nhập kinh tế quốc tế cao nhất cho cơng cuộc phát triển đất nước. Đó là lý do tác
giả luận án chọn vấn đề “Vai trị của nhà nước trong chủ động và tích cực hội

nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn về vai trò của Nhà nước Việt Nam
trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, luận án đề xuất quan điểm
và một số giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của Nhà nước Việt Nam trong chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận về vai trò của Nhà nước Việt Nam trong chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.


4
- Phân tích thực trạng vai trị của Nhà nước Việt Nam trong việc chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời phát hiện những vấn đề đang đặt ra
đối với việc phát huy vai trò đó của Nhà nước hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu phát huy vai trị của
nhà nước Việt Nam trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về vai trò của Nhà nước Việt Nam với
tư cách là bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng trong chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu, khảo sát vấn đề vai trò của Nhà nước Việt Nam
trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn đất nước mở
rộng hội nhập từ năm 2000 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm lý luận của chủ nghĩa

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đặc biệt là các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vấn đề hội nhập, vai trò của nhà nước trong bối cảnh hội
nhập nói chung, vai trị của Nhà nước Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế nói riêng, đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả các cơng trình nghiên
cứu của các nhà khoa học trong và ngồi nước đã cơng bố liên quan tới đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mác xít, đặc biệt là các
phương pháp lịch sử - lơgic, phân tích - tổng hợp, trừu tượng hố, khái quát
hoá, đồng thời kết hợp một số phương pháp khác như điều tra, thống kê xã
hội học… để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án phân tích, làm rõ sự cần thiết phải chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.


5
- Phân tích dưới góc độ triết học vai trị của Nhà nước Việt Nam trong
việc chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đánh giá thực trạng, đồng thời đề xuất quan điểm và một số giải pháp
cơ bản góp phần nâng cao vai trị của Nhà nước trong chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Những vấn đề mà luận án đề cập, giải quyết góp phần thiết thực vào việc
luận giải và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà
nước Việt Nam hiện nay trong chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
- Luận án sau khi hồn thiện có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục
vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về các vấn đề liên quan đến chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như vai trò của Nhà nước trong chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu thành 4 chương, 10 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng ngày nay đã
là xu thế tất yếu của nhân loại và trở thành vấn đề quen thuộc không chỉ trong
giới các học giả, các nhà khoa học mà cả trong đời sống xã hội. Do đó, cũng dễ
hiểu vì sao có khá nhiều các cơng trình, bài viết quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu
xoay quanh chủ đề này.
Trước hết, có thể thấy, nhiều học giả đã tập trung nghiên cứu, đưa ra các
quan niệm khác nhau về khái niệm hội nhập.
Trong cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam của Hội đồng Quốc gia chỉ đạo
biên soạn từ điển bách khoa, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, năm 2002, khái
niệm hội nhập được giải thích một cách ngắn gọn là sự liên kết các nền kinh tế
với nhau. Các nền kinh tế khác nhau thực hiện sự hội nhập thông qua hoạt động
mậu dịch và hợp tác chính sách và biện pháp kinh tế [69, tr.384].
Các tác giả cuốn Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế tồn cầu hố –
Vấn đề và giải pháp, Bộ Ngoại giao, Vụ hợp tác quốc tế đa phương, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2002 cho rằng, có thể tiếp cận về hội nhập theo ba cách:
cách thứ nhất, theo chủ nghĩa liên bang, tức là xem hội nhập là sản phẩm cuối
cùng chứ không phải là một quá trình, với quan tâm chủ yếu dành cho thể chế,
hướng tới sự hình thành một nhà nước liên bang kiểu Hoa Kỳ và Thụy Sỹ; cách
tiếp cận thứ hai, xem hội nhập trước hết thể hiện ở sự liên kết giữa các quốc gia
thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, thư tín, thông tin, du

lịch, di trú, đào tạo... trong một cộng đồng an ninh hợp nhất như Hoa Kỳ, hay
cộng đồng an ninh đa nguyên như Liên minh châu Âu (EU); cách tiếp cận thứ
ba, của những người theo phái tân chức năng, xem hội nhập dưới góc độ là hành
vi mở rộng và làm sâu sắc quan hệ hợp tác giữa các chủ thể với nhau trong việc
hoạch định chính sách [29, tr.53-54].
Theo tác giả Nguyễn Vũ Tùng trong bài viết “Quan hệ giữa độc lập tự chủ
và hội nhập quốc tế” đăng trên Tạp chí Kinh tế và Chính trị thế giới, số 2, năm


7
2009, hội nhập chính là q trình chủ động tham gia ngày càng sâu rộng vào đời
sống mọi mặt (kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội) của quan hệ quốc tế. Tác giả
cũng nhấn mạnh, ở mức độ trừu tượng hơn, hội nhập cịn là q trình chấp nhận
những qui tắc ứng xử mới đối với hành vi quốc gia trong thời kỳ tồn cầu hố và
hậu chiến tranh lạnh. Hội nhập là một tiến trình chủ quan, phụ thuộc vào sự lựa
chọn của từng nước [122].
Trong cuốn Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối
cảnh mới do GS.TS Nguyễn Xuân Thắng chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, năm 2011, các tác giả cho rằng, khái niệm hội nhập là một cách diễn đạt
khác về tồn cầu hố. Nếu tồn cầu hố (nhìn từ góc độ thể chế) là q trình tạo
ra khung khổ phát triển chung, lôi cuốn các quốc gia đi theo thì hội nhập quốc tế
tự nó là q trình hố thân một cách chủ động của mỗi nước, mỗi khu vực vào
trong các thực thể khu vực, toàn cầu để một mặt, thể hiện được vị thế và tính tự
cường quốc gia, dân tộc, và mặt khác, tham gia loại trừ những khác biệt để mình
là một bộ phận hợp thành trong các chỉnh thể khu vực và tồn cầu đó. Hội nhập
quốc tế là q trình liên kết có mục tiêu, định hướng cụ thể gắn với phạm vi, cấp
độ cũng như điều kiện cụ thể của mỗi nước. Hội nhập quốc tế là quá trình chủ
quan do hai xu thế khách quan là toàn cầu hố và cuộc cách mạng khoa học cơng
nghệ mới qui định [109, tr.49, 50].
Tác giả Hoàng Anh Tuấn với bài viết Môi trường quốc tế và chiến lược ngoại

giao của Việt Nam đăng trên Báo Thế giới và Việt Nam, ,
ngày 16/12/2013 đã đưa ra quan niệm, hội nhập quốc tế là tiến trình các nước chủ
động tăng cường các hoạt động gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ chung về lợi
ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các luật chơi chung trong
khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế [121].
Theo tác giả Đặng Đình Quý trong bài viết Bàn thêm về khái niệm “hội nhập
quốc tế” của Việt Nam trong giai đoạn mới, đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử,
, ngày 4/12/2012, hội nhập quốc tế là hình thức
phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng và
tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích
quốc gia, dân tộc. Tác giả cịn phân tích rõ, từ góc độ nhà nước, hội nhập quốc tế


8
là quá trình một quốc gia tham gia các hoạt động chung của cộng đồng quốc tế
theo các nguyên tắc, chuẩn mực mà cộng đồng quốc tế thừa nhận. Hội nhập
quốc tế là u cầu có tính khách quan do tác động của q trình tồn cầu hóa
ngày càng sâu rộng, nhưng việc lựa chọn lĩnh vực, mức độ và lộ trình hội nhập
lại là quyết định chủ quan của từng quốc gia phù hợp với lợi ích và hồn cảnh cụ
thể. Bên cạnh đó, từ thực tiễn và lý luận về hội nhập quốc tế trên thế giới, tác giả
đã khái quát một số điểm chung nổi bật về hội nhập quốc tế như: hội nhập quốc
tế bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, nhưng không giới hạn ở đó, mà có thể diễn ra trên
nhiều lĩnh vực; hội nhập quốc tế là q trình khơng có giới hạn về thời gian; hội
nhập quốc tế không chỉ diễn ra thông qua việc tham gia các cơ chế hợp tác đa
phương mà cịn trên nhiều bình diện; bản chất của hội nhập quốc tế là quá trình
xây dựng và áp dụng các luật lệ và chuẩn mực chung [100].
Nguyên Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm trong
bài viết Bàn về hội nhập quốc tế đăng trên Báo Thế giới và Việt Nam,
ngày 16/12/2013 cho rằng, hội nhập quốc tế thực chất
là hợp tác kinh tế nhưng ở trình độ cao hơn, đáp ứng những địi hỏi chặt chẽ

hơn như gắn kết với nhau, chia sẻ với nhau lợi ích, nguồn lực, quyền lực; tuân
thủ các quy tắc chung, luật chơi và chuẩn mực chung theo một quá trình phát
triển liên tục từ thấp đến cao, với những hình thức đa dạng, phong phú, phù
hợp với điều kiện cụ thể của từng khu vực hoặc từng cơ chế hội nhập. Theo
ông, hội nhập bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, từ đó mở rộng sang các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội. Cũng có một số trường hợp hội nhập không bắt đầu từ
kinh tế, mà bắt đầu từ chính trị hay văn hóa như trường hợp các nước gia nhập
LHQ, hay trường hợp Việt Nam gia nhập ASEAN, nhưng trong quá trình phát
triển, kinh tế vẫn chiếm vị trí trọng tâm. Hội nhập quốc tế diễn ra khơng chỉ
trên cấp độ tồn cầu, mà cịn ở nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao dưới
danh nghĩa "liên kết" hoặc "nhất thể hóa" như liên kết tiểu khu vực, liên kết
khu vực, liên kết liên khu vực, liên kết liên châu lục, liên kết trên bình diện
song phương hoặc đa phương [33].
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về hội nhập quốc tế, song từ quan
niệm của các học giả có thể thấy, hội nhập quốc tế là quá trình các nước gia tăng


9
các hoạt động gắn kết, hợp tác với nhau trên những lĩnh vực cụ thể theo những
nguyên tắc nhất định, phù hợp với mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia.
Ngoài việc đưa ra các quan niệm về hội nhập quốc tế, các tác giả cũng tập
trung phân tích một số đặc điểm, cũng như những tác động của quá trình hội
nhập quốc tế đối với đời sống kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội tồn cầu nói
chung, đồng thời chỉ ra những thời cơ, thách thức, cũng như những u cầu, địi
hỏi của q trình hội nhập đối với Việt Nam nói riêng.
Bên cạnh các nghiên cứu về chủ đề hội nhập quốc tế, nhiều học giả đã dành
sự quan tâm, tìm hiểu sâu hơn về vấn đề hội nhập trong lĩnh vực kinh tế (hội
nhập kinh tế quốc tế) trên tinh thần xác định đây là lĩnh vực, nội dung trọng tâm
của tồn bộ tiến trình hội nhập.
Trong cuốn Tồn cầu hố kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến

trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam do GS.TS Nguyễn Xuân Thắng
chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2007, trước hết, các tác giả tập
trung phân tích khái niệm tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở
trình bày khái qt và có hệ thống các quan niệm khác nhau về tồn cầu hố
kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, các tác giả đã đưa ra quan niệm tương đối
phổ quát và sát thực với diễn tiến của xu hướng tồn cầu hố kinh tế và tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Theo các tác giả, hội nhập kinh tế quốc tế chỉ là cách
tiếp cận khác của tồn cầu hố kinh tế, nhìn tồn cầu hố kinh tế từ góc độ tham
gia liên kết của các chủ thể kinh tế vào một chỉnh thể kinh tế thị trường toàn cầu.
Hội nhập kinh tế quốc tế tự nó là một q trình “hoá thân” của mỗi quốc gia, khu
vực vào trong các thực thể khu vực, tồn cầu; là q trình liên kết kinh tế có mục
tiêu, định hướng cụ thể của mỗi quốc gia; là tiến trình nhất thể hố nền kinh tế
thế giới… [108, tr.21-23]. Bên cạnh đó, các tác giả cũng chỉ ra những đặc trưng,
biểu hiện mới của tồn cầu hố kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế; những tác
động và đặc biệt là các hệ luỵ của tồn cầu hố kinh tế và hội nhập kinh tế quốc
tế đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung, đến q trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố ở Việt Nam nói riêng. Các tác giả tiếp tục đi sâu phân
tích q trình Việt Nam tham gia vào tiến trình tồn cầu hố kinh tế và thúc đẩy
hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó tập trung nhiều vào ba lĩnh vực mà nước ta đạt


10
được những thành tựu đáng kể là thu hút FDI, thương mại quốc tế và vấn đề đổi
mới và phát triển hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Từ đó, các tác giả đề xuất hệ
thống giải pháp mang tính chiến lược cho q trình phát triển cơng nghiệp hố
rút ngắn của Việt Nam từ góc độ xem xét những tác động của tiến trình tồn cầu
hố, hội nhập kinh tế quốc tế trên ba đột phá chính: tiếp cận và triển khai chiến
lược thích ứng với tự do hố và phát triển bền vững; điều chỉnh cơ cấu kinh tế;
xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường.
Tác giả Nguyễn Thị Hiền, trong cuốn Hội nhập kinh tế khu vực của một số

nước ASEAN, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2002 cũng tập trung nghiên
cứu những vấn đề lý luận cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế, đưa ra quan niệm
riêng về vấn đề hội nhập trên cơ sở khái quát các quan niệm khác nhau về hội
nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, tác giả tiếp tục phân tích q trình hội nhập kinh tế
khu vực của các nước ASEAN, triển vọng hội nhập kinh tế khu vực và một số
kinh nghiệm hội nhập của các nước này... Những nội dung nghiên cứu của tác giả
có giá trị nhất định cả về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho công cuộc hội
nhập quốc tế nói chung, hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng ở nước ta.
Trong cuốn Phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế do PGS.TS Nguyễn Văn Nam chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 2006, trước khi đi vào những nội dung nghiên cứu chính, các tác
giả cũng tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về tồn cầu hố, hội nhập
kinh tế quốc tế. Cũng như nhiều học giả khác, các tác giả của cơng trình này quan
niệm, hội nhập thực chất là sự chủ động tham gia vào q trình tồn cầu hố, khu
vực hố. Hội nhập kinh tế quốc tế chính là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế
và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thơng qua các nỗ lực
tự do hố và mở cửa trên các cấp độ [87, tr.19, 20]. Tiếp đó, các tác giả phân tích
vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong
bối cảnh tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế, khẳng định, chỉ có phát triển kinh
tế thị trường, Việt Nam mới khai thác được các nguồn lực để xây dựng chủ nghĩa
xã hội, mới hội nhập được với nền kinh tế thế giới hiện đại, tránh tụt hậu và đưa
đất nước phát triển với nhịp độ nhanh hơn, tiến tới phồn thịnh và phát triển bền
vững. Các tác giả cũng dành thời gian phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia


11
như Trung Quốc, Thái Lan và một số nước Đông Âu nhằm rút ra những bài học
cho Việt Nam trong việc chuyển đổi nền kinh tế tham gia hội nhập. Trên cơ sở
đánh giá những thành tựu cũng như những hạn chế của Việt Nam trong chính sách
hội nhập kinh tế quốc tế, các tác giả đưa ra những quan điểm, giải pháp mang tính

định hướng đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta như xây dựng đồng bộ các yếu tố
thị trường, cải cách doanh nghiệp nhà nước, nâng cao năng lực cạnh tranh,…
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan trong bài viết “Nâng cao khả năng cạnh
tranh để hội nhập thành công” đăng trong sách Việt Nam 20 năm đổi mới và phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Lao động, Hà Nội, năm 2006 cho
rằng, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là quá trình gắn kết nền kinh tế của nước
mình với nền kinh tế khu vực và thế giới, tham gia vào sự phân công lao động quốc
tế, gia nhập các tổ chức kinh tế đa phương, chấp nhận tuân thủ những qui định
chung được hình thành trong quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các nước thành
viên của các tổ chức ấy. Trên cơ sở phân tích những đặc điểm của q trình hội
nhập, tác giả khẳng định sự cần thiết phải tiến hành hội nhập của nền kinh tế nước
ta, đồng thời nêu ra những nguyên tắc cần thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ở Việt Nam trong đó chú trọng nhiều đến nâng cao khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế, thể hiện trên ba góc độ có liên quan mật thiết với nhau như: khả năng
cạnh tranh của các mặt hàng và các loại hình dịch vụ, khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của quốc gia (môi trường cạnh tranh) [73].
Từ những quan niệm khác nhau của các học giả, có thể hiểu, về thực chất, hội
nhập kinh tế quốc tế chính là quá trình các quốc gia tự nguyện tham gia, gắn kết nền
kinh tế trong nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiệc
mở cửa và thúc đẩy tự do hoá kinh tế theo những mục tiêu nhất định, ở những phạm
vi, cấp độ khác nhau dựa trên những điều kiện cụ thể của từng quốc gia.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG TỒN
CẦU HỐ, HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Những năm qua, một chủ đề cũng thu hút sự quan tâm của đông đảo các
nhà nghiên cứu trong và ngồi nước là về vai trị của nhà nước trong bối cảnh
tồn cầu hố, hội nhập quốc tế.



12
Các cơng trình nghiên cứu của các học giả quốc tế tập trung chủ yếu phân
tích, nhận định về sự thay đổi, “biến dạng” của nhà nước trong kỷ nguyên tồn
cầu hố, hội nhập quốc tế.
Trong các cơng trình như “Q trình tồn cầu hóa và Nhà nước: Cái mới
trong việc điều chỉnh kinh tế ở các nước phát triển” của Osadchaja I, Viện Thông
tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003; “Tồn cầu hố kinh tế và chức năng của nhà
nước”của Lei Da, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 2003; Tồn cầu hố:
Những xu hướng biến đổi lớn do TS Phạm Thái Việt chủ biên, Viện Thơng tin
KHXH, Hà Nội, 2004; Tồn cầu hóa và sự tồn vong của nhà nước của Nguyễn
Vân Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, Vấn đề điều chỉnh chức
năng và thể chế của nhà nước dưới tác động của tồn cầu hóa của Phạm Thái
Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, các tác giả đã cho thấy những quan
điểm khơng thống nhất, thậm chí là trái ngược nhau của nhiều học giả quốc tế
khi bàn luận về vai trò và xu hướng biến đổi của nhà nước trong thời đại mới.
Tựu chung lại có thể thấy hai luồng ý kiến khác nhau:
Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng, tham gia vào tiến trình tồn cầu hố, hội
nhập quốc tế, vai trò của nhà nước ở các quốc gia sẽ giảm đi và ngày càng trở
nên không còn cần thiết nữa. Theo các học giả, quyền lực nhà nước đang bị phân
mảnh. Sự tiêu vong của nhà nước là tất yếu để thay bằng phương thức cai trị mới
tương hợp hơn. Bởi lẽ, tiến trình tồn cầu hoá gắn liền với cơ chế mở cửa, tự do
hoá trên nhiều lĩnh vực với sự hoạt động và gia tăng mạnh mẽ các qui luật khách
quan của kinh tế thị trường, các qui tắc, hiệp ước, điều lệ quốc tế, cùng với sự
chi phối, điều hành của các định chế, tổ chức tài chính kinh tế quốc tế lớn buộc
các quốc gia phải tuân thủ, chấp hành khi gia nhập “cuộc chơi tồn cầu”. Q
trình đó tự nó tất yếu sẽ thu hẹp vai trò của nhà nước. Nhà nước sẽ dần mất đi
năng lực điều hành, quản lý xã hội hoặc khơng có khả năng tác động hữu hiệu
đến sự phát triển kinh tế xã hội trong kỷ ngun tồn cầu hố. Quyền lực tưởng
chừng là cố hữu, độc tôn của nhà nước trong lịch sử (tổ chức, quản lý, chỉ đạo,
điều hành, quyết định mọi vấn đề của đời sống kinh tế - xã hội) sẽ ngày càng bị

các nhân tố mới của tồn cầu hóa (các tổ chức, định chế tồn cầu, các cơng ty
xun quốc gia, các tổ chức phi chính phủ) cạnh tranh, lấn át, v.v…


13
Luồng ý kiến thứ hai khẳng định, mặc dù đang phải chịu áp lực nặng nề từ
những tác động của tiến trình tồn cầu hố, hội nhập, song nhà nước vẫn có vai
trị quan trọng đối với các quốc gia. Các học giả cũng chỉ ra những thách thức
đối với vai trị của nhà nước trong điều kiện tồn cầu hóa khiến cho chức năng
của nhà nước dường như khơng còn quan trọng nữa đồng thời khẳng định, trong
kỷ nguyên tồn cầu hố, vai trị của nhà nước có thể có những biến đổi những
nó vẫn là phương thức cai trị chính yếu, bởi lẽ, tồn cầu hố, hội nhập quốc tế, đi
kèm với nó là hàng loạt những vấn đề phức tạp nảy sinh như khủng hoảng, suy
thoái kinh tế, phân hố giàu nghèo, tệ nạn xã hội, ơ nhiễm môi trường… mà bản
thân cơ chế tự điều tiết của thị trường tồn cầu khơng thể hoặc khơng “quan
tâm” giải quyết, đòi hỏi nhà nước ở các quốc gia phải đứng ra can thiệp, điều
hành. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng thừa nhận khả năng chia sẻ quyền lực
của nhà nước cho các lực lượng toàn cầu mới như các định chế, thể chế quốc tế,
các tập đoàn xuyên quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, đồng thời chỉ ra yêu cầu
phải điều chỉnh vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước thông qua các công cụ
quản lý vĩ mô, tăng cường năng lực kinh tế của nhà nước, bổ sung các phương
pháp, phương tiện, chức năng mới của nhà nước cho phù hợp với bối cảnh thời
đại mới nhằm thích ứng với những biến động của xu thế tồn cầu hóa, hội nhập.
Trong khi các học giả nước ngoài quan tâm nhiều vào việc đưa ra những
quan điểm trái chiều về vai trò của nhà nước trong xu thế hội nhập thì các học
giả trong nước phần lớn đều thừa nhận và khẳng định vai trị quan trọng, cần
thiết của nhà nước nói chung, Nhà nước Việt Nam nói riêng đối với tồn bộ q
trình vận động, phát triển của nền kinh tế. Các công trình chủ yếu tập trung phân
tích vai trị của Nhà nước đối với việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển; vai trò của
Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường; hay vai trò của Nhà nước trong bối

cảnh tồn cầu hố, hội nhập quốc tế; lý giải sự cần thiết phải phát huy vai trò
quản lý, điều hành của Nhà nước trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc
biệt đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; chỉ ra sự thay đổi vai trò của Nhà nước
từ khi đất nước thực hiện đổi mới mơ hình phát triển kinh tế, đồng thời khẳng
định vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước cần phải được điều chỉnh, đổi mới
cho phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong xu thế thời đại mới.


14
Trong cuốn Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam do GS.TS Lương Xuân Quỳ (chủ biên), Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2006, các tác giả đã tập trung phân tích cơ sở lý luận và kinh nghiệm
quốc tế về vai trò quản lý nhà nước về kinh tế; đánh giá thực trạng những thành
tựu cũng như những hạn chế của quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta trong
khoảng mười năm kể từ đổi mới năm 1986; từ đó, các tác giả đề xuất quan điểm
định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta trong thời gian tiếp theo.
Tác giả Phạm Ngọc Quang với bài viết “Vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” đăng trên
Tạp chí Cộng sản, số 8, năm 2009 đã khẳng định, phát huy vai trò của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
chính là cách thiết thực góp phần bảo đảm cơng bằng xã hội, vì sự phát triển dân
chủ, văn minh của đất nước, đồng thời vẫn giữ được bản sắc chính trị - xã hội
của dân tộc trong thời kỳ hội nhập. Tác giả nhấn mạnh, ở Việt Nam hiện nay, vai
trò của Nhà nước đối với kinh tế không chỉ xuất phát từ yêu cầu phổ biến của
q trình phát triển kinh tế thị trường, mà cịn xuất phát từ tính đặc thù của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước có vai trị to lớn đối với việc bảo đảm sự
ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế; cân đối, hài hòa các quan hệ
nhu cầu, lợi ích giữa người và người; tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành

động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của
việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ mơ do
Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất tạo ra sự tăng trưởng kinh tế
và sự đồng thuận xã hội. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định, Nhà nước có vai
trị quan trọng trong việc chỉ đạo thực hiện thắng lợi mục tiêu to lớn của đất
nước: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong bài viết “Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 9,
năm 2000, tác giả Chu Văn Cấp đã phân tích, chỉ ra vai trò của Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Nhà nước tạo môi


15
trường hoạt động hiệu quả cho các cá nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế; Nhà nước tạo môi trường ổn định về kinh tế - xã hội; Nhà nước soạn
thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và ban
hành chính sách, pháp luật, tạo hành lang thực hiện các kế hoạch, quy hoạch
đó,… Tác giả đồng thời đưa ra những kiến nghị nâng cao hơn nữa vai trò của
Nhà nước trong chỉ đạo phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hồng về Vai trò định hướng xã hội
chủ nghĩa của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay,
Học viện CTQG Hồ Chí Minh, năm 2001 đã tập trung nghiên cứu vai trò của
Nhà nước Việt Nam đối với q trình phát triển kinh tế nói chung, trong quản lý,
định hướng, điều tiết nền kinh tế thị trường đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa từ khi tiến hành đổi mới đến những năm đầu thế kỷ XXI nói riêng. Tác giả
cho rằng, “Nhà nước – nhân tố chính trị cơ bản trực tiếp định hướng XHCN sự
phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay” [70, tr.77-80], hoạt động cơ bản của Nhà
nước là nhằm giữ vững định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường ở nước
ta. Trên cơ sở làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với vai trò định
hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, tác giả đã đề

xuất các giải pháp phát huy vai trò này của Nhà nước: Hồn thiện và nâng cao
hiệu lực các cơng cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước; nâng cao vai trò của
kinh tế Nhà nước như là tiền đề vật chất để Nhà nước giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa phát triển nền kinh tế Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
nâng cao năng lực, phẩm chất của các cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế nhằm
đáp ứng yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong cuốn Thể chế kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam do GS.TSKH Lương Xuân Quỳ và GS.TS
Đỗ Đức Bình đồng chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, các tác giả
đã phân tích những vấn đề lý luận quan trọng về vai trò của Nhà nước Việt Nam
đối với sự phát triển nền kinh tế đất nước khi bước vào xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa như: Nhà nước can thiệp, điều tiết, quản lý
nền kinh tế như thế nào; Nhà nước cần phải làm gì để hoàn thành chức năng
quản lý kinh tế thị trường; những cơng cụ nào có thể và cần phải được sử dụng


16
để Nhà nước hoàn thành được chức năng quản lý điều tiết nền kinh tế. Các tác
giả cũng đánh giá vai trò của Nhà nước ta đối với sự phát triển kinh tế đất nước
hiện nay, đó là vai trị quản lý, điều tiết kinh tế chứ không can thiệp, điều khiển
thị trường, đồng thời cho rằng nhờ có vai trò kinh tế của Nhà nước mà nền kinh
tế nước ta đã có sự tăng trưởng nổi bật, các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản
được giữ ổn định, tạo môi trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, các tác giả cũng chỉ ra những hạn chế của Nhà nước trong việc thực
hiện vai trò quản lý, chỉ đạo, điều hành kinh tế ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện
những mục tiêu đã đề ra của đất nước. Từ đó, các tác giả đề xuất một số quan
điểm và các giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế của Nhà nước phù hợp với đặc
thù nền kinh tế chuyển đổi và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Văn Mạnh với bài viết “Nhận thức mới về vai trò, chức
năng của Nhà nước ta trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa và mở cửa” đăng trong sách Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý
luận của Đảng 1986 - 2005, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005 đã phân tích,
chỉ ra vai trị, chức năng chủ yếu của Nhà nước Việt Nam hiện nay: tạo môi
trường pháp lý và khuôn khổ, giới hạn cho các hoạt động kinh tế; thực hiện chức
năng quản lý kinh tế vĩ mơ; bảo đảm quốc phịng, an ninh, cung cấp các dịch vụ
hàng hóa cơng cộng; xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội, đảm bảo cơng
bằng xã hội; đối ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh
việc khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của Nhà nước, bao phủ toàn diện
các mặt, các lĩnh vực trong sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, tác giả cũng lưu
ý, Nhà nước chỉ nên phát huy vai trò quản lý, điều hành vĩ mô chứ không can
thiệp trực tiếp vào sự vận động khách quan của nền kinh tế trên các lĩnh vực.
Trong luận án Tiến sĩ Triết học Vai trò Nhà nước đối với việc xây dựng nền
kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
của Trần Thị Thu Hường, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh, 2011, trên cơ sở
chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập đến sự phát
triển của các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam, phân tích một số vấn
đề lý luận căn bản về vai trò của Nhà nước đối với việc xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả đánh giá thực trạng


17
những tác động của tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế đến sự phát triển kinh tế và
nguy cơ đe dọa việc phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam hiện
nay, đồng thời đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của Nhà nước trong việc
đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập hiệu quả với nền kinh tế
thế giới như: coi trọng việc xây dựng, hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô của
Nhà nước nhằm khai thác các nguồn lực trong nước và quốc tế; đổi mới tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước; nâng cao vai trò kinh tế của Nhà nước…
Tác giả Vy Thị Hương Lan với luận án Tiến sĩ Triết học Vai trò của Nhà
nước trong việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế,

Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2012 đã tập trung phân tích những
vấn đề lý luận xung quanh vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng
xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế; đánh giá những thành tựu và một số hạn
chế của Nhà nước Việt Nam đối với việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta.
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của
Nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập quốc tế như: nâng cao vai trò quản lý điều tiết của Nhà nước đối với nền
kinh tế; hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc thực hiện cơng bằng xã hội; tiếp tục
xây dựng và hồn thiện hệ thống chính sách xã hội để thực hiện công bằng xã
hội; tăng cường hiệu quả của công tác phịng, chống quan liêu, tham nhũng trong
bộ máy Nhà nước.
Thơng qua những cơng trình nghiên cứu của các học giả có thể thấy, Nhà
nước Việt Nam vẫn có vai trị quan trọng trong việc chỉ đạo, điều tiết, quản lý
toàn bộ nền kinh tế; là nhân tố lãnh đạo quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi
những nhiệm vụ phát triển đất nước theo định hướng của Đảng và ý chí của nhân
dân. Trong bối cảnh thời đại mới, thời đại kinh tế thị trường, tồn cầu hố, hội
nhập quốc tế thì vai trị ấy của Nhà nước càng phải được tăng cường và phát huy
để có thể đảm trách nhiều nhiệm vụ hơn, đối phó, giải quyết nhiều vấn đề nan
giải của đời sống kinh tế, chính, trị, văn hoá, xã hội hơn.
Tuy nhiên, các học giả cũng nhận thấy, so với yêu cầu phát triển của đất
nước trong bối cảnh mới, vai trò quản lý, điều hành nền kinh tế của Nhà nước
Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như: hệ thống luật pháp còn thiếu và


18
chưa đồng bộ so với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường; một số chính sách
ban hành chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa mục tiêu phát triển kinh tế với các
mục tiêu bảo đảm công bằng xã hội; sự quản lý của Nhà nước ở một số lĩnh vực
cịn lúng túng, chưa hiệu quả… Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến
cho tốc độ phát triển của nền kinh tế nước ta còn thấp và chưa tương xứng với

tiềm năng, lợi thế của đất nước; nhiều mục tiêu lớn của nền kinh tế chưa được
hoàn thành theo đúng yêu cầu đề ra, đáp ứng nguyện vọng của đơng đảo tầng lớp
nhân dân. Đó là lý do các cơng trình tập trung đưa ra những kiến nghị quan trọng
nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong tổ chức điều hành nền kinh tế phát
triển hơn nữa phù hợp với xu thế vận động, phát triển chung của kinh tế tồn cầu.
1.3. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VẤN ĐỀ CHỦ ĐỘNG, TÍCH
CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM

Trong khoảng hơn 10 năm gần đây, kể từ Đại hội IX, theo tinh thần chỉ
đạo của Đảng về thúc đẩy nền kinh tế chủ động, tích cực hội nhập mạnh mẽ
vào thể chế kinh tế tồn cầu, đã có nhiều các cơng trình, bài viết của các nhà
khoa học, các nhà nghiên cứu và cả những nhà hoạch định chính sách quan
tâm phân tích, lý giải các vấn đề xung quanh chủ đề này.
Trong cuốn Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006, tác giả Lương Văn Tự với bài viết “Chủ động hội nhập kinh tế, những thành
tựu quan trọng” đã phân tích, đánh giá một cách khái quát những thành tựu mà
Việt Nam đã đạt được trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế, mở rộng quan hệ
kinh tế thương mại với các quốc gia như gia tăng quan hệ kinh tế thương mại, kim
ngạch xuất khẩu, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế; thu hút được nhiều
nguồn vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý; thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước
phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế…, đồng thời cũng chỉ
ra những hạn chế của nền kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
như chỉ số năng lực cạnh tranh còn thấp, kim ngạch xuất khẩu chưa cao…. Từ đó,
tác giả cũng đưa ra quan điểm cần phải thực hiện đổi mới hơn nữa để nền kinh tế
không bị tụt hậu, vững vàng cạnh tranh và phát triển trong hội nhập.
Tác giả Nguyễn Thanh với bài viết “Vấn đề chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế ở Việt Nam hiện nay” đăng


19

trên Tạp chí Triết học, số 8(195), 2007 đã tập trung phân tích và khẳng định tính
đúng đắn trong quan điểm của Đảng ta về chủ trương chủ động và hơn nữa, tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hố kinh tế đã trở thành một
xu thế khách quan, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Bài viết cũng khẳng định, để thực hiện
thắng lợi chủ trương này, một mặt, chúng ta cần phải chủ động và tích cực hội
nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song
phương; đồng thời thực hiện hội nhập có trọng điểm, theo lộ trình phù hợp với
chiến lược phát triển đất nước. Mặt khác, chúng ta phải bảo đảm xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải gắn
liền với chủ trương chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực
với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp theo phương châm lấy nội lực làm cái có
ý nghĩa quyết định, lấy ngoại lực làm cái có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển
đất nước theo những mục tiêu đã đề ra.
Cuốn sách Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa do GS.TS Hồng Ngọc Hồ chủ biên, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007 đã phân tích một số vấn đề lý luận về hội nhập
kinh tế quốc tế, những nội dung, đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa quan trọng đối với các nước
đang phát triển trong đó có Việt Nam, nhất là khi chúng ta đang thực hiện xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các tác giả cũng phân
tích chủ trương đúng đắn của Đảng về vấn đề chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
gắn liền với cơng cuộc đổi mới nền kinh tế, nhờ đó, nền kinh tế đã hội nhập ngày
càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, thu được nhiều thành tựu kinh tế quan
trọng. Bên cạnh đó, các tác giả cũng tập trung đánh giá những tác động của quá
trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đến công cuộc phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam, chỉ ra những thành tựu và hạn chế yếu
kém của q trình đó, từ đó đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm
đẩy mạnh tiến trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế góp phần phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như xây dựng chiến lược

tổng thể về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; xây dựng, phát triển, hoàn thiện


20
hệ thống thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư; nâng cao năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế. Ngoài những nội dung cơ bản có giá trị tham khảo tốt nói trên, các
tác giả cuốn sách cũng bước đầu đưa ra quan niệm khái quát về vấn đề chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là sự chủ động mở
cửa nền kinh tế phù hợp với xu thế vận động khách quan của kinh tế thế giới và
điều kiện cụ thể cùng với sự nỗ lực phát triển về mọi mặt để tận dụng thời cơ,
vận hội nhằm thu hút, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong phát
triển kinh tế [65, tr.143].
Tác giả Trần Minh Châu với bài viết “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ đồng thời tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần đại
hội XI của Đảng” đăng trong cuốn Văn kiện ĐH XI của Đảng – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, 2013 đã khẳng định, xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là nội
dung chỉ đạo trọng tâm của Đảng trong cả Cương lĩnh 2011 lẫn trong Chiến lược
2011-2020; đường lối xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đơi với tích cực và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại Đại hội XI khơng những là cần thiết mà
cịn bao hàm cả sự phát triển về lý luận và nhận thức. Tác giả cũng chỉ rõ mối
quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế, trong đó hội nhập quốc tế tạo nguồn lực và môi trường để tăng
tiềm lực cho nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập quốc tế là cách thức thực hiện
độc lập tự chủ tốt nhất trong điều kiện tồn cầu hóa. Sau khi đưa ra những quan
điểm của Đảng về kết hợp giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế, tác giả cũng nhận định, việc xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ trong điều kiện một nước nghèo, ít nhiều cịn chậm phát triển
như Việt Nam là cơng việc khó khăn và phức tạp, đặc biệt là trong một thế giới
tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế với tốc độ nhanh như hiện nay. Tuy nhiên, theo

tác giả, trong khó khăn, thách thức ấy cũng tiềm ẩn rất nhiều cơ hội để nước ta
có thể tranh thủ tận dụng, khai thác ngoại lực kết hợp phát huy cao độ nội lực
nhằm gặt hái nhiều thành công trên con đường xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ đi đôi với hội nhập quốc tế.


×