Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

L m ph t v nh ng bi n ph p kh c ph c l m ph t

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 29 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và /> và là website chia sẻ miễn phí luận văn,
đồ án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho tất
cả mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự đóng góp
của quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu xin quý
khách gửi về
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Lạm phát và những biện pháp khắc phục lạm phát

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát là một hiện tượng tất yếu và là một trong những
vấn đề kinh tế vĩ mô mà tất cả các quốc gia đều phải quan tâm giải quyết. Bởi vậy, việc
kiểm soát lạm phát như thế nào là vấn đề hàng đầu trong cuộc tranh luận về chính sách
kinh tế.Vây lạm phát là gì? do đâu có lạm phát? Tại sao người ta lại quan tâm nhiều đến
lạm phát, có những giải pháp nào để kiểm soát nó. Đây chính là những nội dung sẽ được
trình bày trong tiểu luận “ Lạm phát và những biện pháp khắc phục lạm phát”.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />CHƯƠNG MỘT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.1.Một số khái niệm chung
1.1.1.Khái niệm về lạm phát
Trong lịch sử phát triển kinh tế trên thế giới, lạm phát không chỉ xuất hiện ở những
nước kém phát triển mà ngay cả những nước phát triển cũng có lạm phát
Thực tế cho thấy, tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề nhạy cảm nhất của mỗi
nền kinh tế và được đánh giá, công bố hàng quí, thậm chí có nước hàng tháng. Vì vậy
khi đánh giá trình độ tăng trưởng nền kinh tế của quốc gia, một trong những tiêu chuẩn
đầu tiên người ta xét đến là tỉ lệ lạm phát như thế nào? điều đó nói lên một phần mối
quan hệ chặt chẽ giữa lạm phát và tăng trưởng. Nếu tỉ lệ lạm phát đang ở mức thấp hoặc
vừa phải điều đó chứng tỏ nền kinh tế nước đó có sức mạnh,nhà nước điều tiết và quản


lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả đã và đang tạo cơ hội thuận lợi cho tăng trưởng. Vậy chúng
ta phải hiểu “Lạm phát” là như thế nào?.Câu hỏi này có rất nhiều cách trả lời. Tuy nhiên
người ta vẫn thường công nhận lạm phát là sự tăng lên của giá trung bình trong một thời
kỳ. Sự “tăng lên của giá” lại do nhiều nguyên nhân hoặc do yếu tố chủ quan của các cấp
quản lý kinh tế hoặc do những điều kiện chính trị, xã hội, thiên tai...gây ra. Có thể giải
thích về lạm phát theo những cách sau:
1.
Theo thuyết tiền tệ: Lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền
2.
Theo trường phái Keynes: Lạm phát xảy ra do dư cầu về hàng hoá trong nền kinh
tế.
3.
Theo học thuyết chi phí đẩy lạm phát xảy ra do tăng chi phí sản xuất.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những luận điểm lý thuyết mang tính tương đối còn trong
thực tế lạm phát xảy ra là kết quả tác động tổng hợp của nhiều yếu tố ở những khía cạnh
khác nhau của nền kinh tế.
1.1.2. Đo lường lạm phát
Dựa vào các cách giải thích như trên, ta có thể định nghĩa lạm phát là sự gia tăng liên
tục của mức giá chung trong nền kinh tế. Như vậy sự tăng giá của một vài mặt hàng cá
biệt nào đó trong ngắn hạn ngoài thị trường thì cũng không có nghĩa là đã có lạm
phát.Các nhà kinh tế thường đo lạm phát bằng hai chỉ tiêu cơ bản là CPI(consumer price
index) và chỉ số điều chỉnh GDP(GDP deflator).Cách thứ nhất sẽ dựa trên một rổ hàng
hoá tiêu dùng và giá cả của những hàng hoá trong rổ ở hai thời điểm khác nhau.Còn
cách tính thứ hai căn cứ vào toàn bộ khối lượng hàng hoá và dich vụ cuối cùng được sản
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />xuất trong một năm và giá cả ở hai thời điểm khác nhau,thông thường theo ngôn ngữ
thống kê là giá cố định và giá hiện hành.Về cơ bản thì hai cách tính này không có sự
khác biệt lớn.Phương pháp tính theo GDP sẽ tính lạm phát chính xác hơn theo định
nghĩa của lạm phát.Tuy nhiên CPI sẽ có ưu điểm là tính được lạm phát tại bất kì thời

điểm nào căn cứ vào rổ hàng hoá,còn tính theo GDP thì chỉ tính được lạm phát của một
năm sau khi có báo cáo về GDP của năm đó.
Cách tính cụ thể như sau:
- Chỉ số giá tiêu dùng xã hội: CPI
Chỉ số giá tiêu dùng xã hội CPI được sử dụng rất phổ biến trong việc đánh giá
mức lạm phát. CPI đo lường mức giá bình quân của một nhóm hàng hoá và dịch vụ cần
cho tiêu dùng của các hộ gia đình ( được lựa chọn ) của một giai đoạn như tỷ lệ % của
mức giá giai đoạn trước gọi là năm gốc. Trên cơ sở xác định chỉ số giá tiêu dùng bình
quân , tỷ lệ lạm phát phản ánh sự thay đổi mức giá bình quân của kỳ này so với kỳ khác
được tính theo công thức sau:

Mức giá hiện tại - Mức giá năm trước
Tỷ lệ lạm phát = -------------------------------------------------- x 100%
Mức giá năm trước
Cách đo lường này cho phép so sánh sự biến động mức giá tiêu dùng theo thời gian
nhưng không phản ánh được sự thay đổi cơ cấu tiêu dùng của các hộ gia đình. Vì thế
trong nhiều trường hợp người ta sử dụng cơ cấu tiêu dùng của năm hiện tại để xác định
CPI. Bên cạnh đó CPI tăng không phải lúc nào cũng xuất phát từ nguyên nhân duy nhất
là tiền tệ mà còn do những nguyên nhân như:
+ Sự khan hiếm hàng hoá, sự ế ẩm...
+ Giá của mặt hàng thiết yếu tăng cao do các tổ chức độc quyền kiểm soát.
+ Sự thay đổi tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ - ngoại tệ.
Tuy vậy, CPI được coi là chỉ tiêu kinh tế nhạy cảm, phản ánh kịp thời quan hệ cung
cầu tiền tệ của nền kinh tế.
- Chỉ số lạm phát tính theo tổng sản phẩm quốc nội - GDP
- Chỉ số này đo lường mức giá bình quân của tất cả các hàng hoá và dịch vụ tạo nên
tổng sản phẩm quốc nội. Nó được xác định theo công thức:
GDP danh nghĩa
Chỉ số giảm phát GDP = ---------------------- x 100%
GDP thực tế

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
+ GDP danh nghĩa đo lường sản lượng theo giá trị tiền tệ năm hiện tại.
+ GDP thực tế đo lường sản lượng năm hiện tại theo giá năm được chọn làm gốc.
Ta có thể nhận thấy do được xác định bởi GDP danh nghĩa - thực tế nên nó đầy đủ
và hoàn thiện hơn CPI vì nó bao gồm tất cả các hàng hoá và dịch vụ.
1.1.3.Các loại lạm phát
Việc nghiên cứu các loại lạm phát giúp ta hình dung rõ những đặc điểm của từng loại
lạm phát cũng như ảnh hưởng tiềm năng của chúng từ đó mà có những giải pháp kìm
chế lạm phát thích hợp.
Căn cứ vào tốc độ lạm phát người ta chia thành 3 loại:
- Lạm phát vừa phải: Xẩy ra khi tốc độ tăng giá chậm ở mức một con số. Trong điều
kiện lạm phát vừa phải, giá cả tăng chậm thường xấp xỉ bằng mức tăng tiền lương hoặc
cao hơn chút ít do vậy giá trị tiền tề tương đối ổn định tạo thuận lợi cho môi trường kinh
tế xã hội. Tác hại của lạm phát này là không đáng kể.
- Lạm phát phi mã: là loại lạm phát xẩy ra khi giá cả bắt đầu tăng ở mức 2, 3 con
số như 20%, 10%... sự kiểm nghiệm thực tế cho thấy rằng nguyên nhân của loại lạm
phát cao và kéo dài này là do sự tăng lên của khối tiền trong lưu thông. Khi giá cả hàng
hoá biến động mạnh, giá trị tiền tệ giảm qua các thời kỳ tiền giấy bắt đầu bị từ chối trong
thanh toán. Dân chúng không giám giữ tiền dưới mọi hình thức và bắt đầu hoạt động đầu
cơ tích trữ hàng hoá. Trong thời kỳ lạm phát phi mã, sản xuất không phát triển, hệ thống
tài chính tín dụng bị tàn lụi.
- Siêu lạm phát: Xẩy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã có thể
lên tới hàng nghìn tỷ lần.
Có thể rút ra các đặc trưng cơ bản của các cuộc siêu lạm phát như sau:
+ Siêu lạm phát có sức phá huỷ toàn bộ hoạt động của nền kinh tế và thường đi kèm
với suy thoái nghiêm trọng.
+ Lạm phát thường xảy ra do các biến cố lớn dẫn đến đảo lộn trật tự xã hội như
chiến tranh, khủng hoảng chính trị.

+ Nguyên nhân duy nhất của mức tăng giá khủng khiếp là do phát hành tiền giấy
không hạn chế nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước.
1.2.Nguyên nhân gây ra lạm phát
Như vậy chúng ta hiểu một cách sơ lược về lạm phát, nhưng thật thiếu sót nếu chúng
ta không đi tìm nguồn gốc nguyên nhân của lạm phát. Đây là một phần quan trọng khi
nghiên cứu đến vấn đề lạm phát bởi biết nguyên nhân - chính phủ mới có những chính

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />sách hợp lý tác động vào nền kinh tế sao cho có hiệu quả nhất. Về cơ bản lạm phát xảy
ra do 3 nguyên nhân.
1.2.1. Lạm phát tiền tệ
Loại lạm phát này diễn ra khi tốc độ tăng cung tiền vượt quá tốc độ tăng thực sự
của nền kinh tế. Đơn giản hơn là tiền trong lưu thông tăng nhanh hơn số lượng hàng hoá
và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế.Ví dụ như tốc độ tăng cung tiền là 10%
nhưng tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế 7% thì lạm phát tiền tệ là 3%. Loại lạm
phát này thường xảy ra tại các nước đang phát triển khi các nước này theo đuổi cơ chế
áp chế tài chính hoặc trong trường hợp quốc gia đang theo đuổi chính sách tiền tệ mở
rộng, áp chế tài chính là tình trạng ngân hàng trung ương tài trợ cho thâm hụt ngân sách
chính phủ bằng cách in tiền, quá nhiều tiền trong luư thông vượt quá tốc độ tăng trưởng
thực sẽ dẫn đến lạm phát.Chính sách tiền tệ mở rộng kích thích tổng cầu hàng hoá dịch
vụ trong nền kinh tế, khi tốc độ tăng trưởng tổng cầu cao hơn tốc độ tăng trưởng tổng
cung,thì cũng dẫn đến lạm phát.
1.2.2. Lạm phát do cầu kéo.
Loại lạm phát này xuất phát từ sự thay đổi hành vi tổng cầu mang tính đột biến
trong nền kinh tế. Các nguyên nhân có thể là do chính phủ chi tiêu quá mức khi thực
hiện chính sách thu chi ngân sách mở rộng,hoặc tăng chi tiêu tiêu dùng quá mức bình
thường do khu vực hộ gia đình quá lạc quan, hoặc do khu vực hộ gia đình có nguồn thu
nhập từ trên rơi xuống như viện trợ nước ngoài, thu nhập do giá cả xuất khẩu tăng đột
biến…

Bằng cách sử dụng mô hình tổng cung,tổng cầu ta có thể thấy rõ loại lạm phát trên như
sau:
P
Tổng mức giá

AS4
AS3

cả
p4

4

AS2
3’

p3

3

AS1
2’

p2

2
AD4
1’

p1


1

AD2

AD3

AD1
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Yn

YT

Y
Tổng

sản

phẩm
Hình 1 : Mô hình lạm phát cầu kéo
Giả định, ban đầu chúng ta ở điểm 1. Nền kinh tế Y N < YT (YT mức chỉ tiêu sản phẩm).
Lúc này nhà hoạch định có một chỉ tiêu thất nghiệp (4% chẳng hạn) thấp hơn tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên (dự tính hiện giờ 6%) thì mục tiêu của họ là đạt được một chỉ tiêu sản
phẩm lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm (Yn). Để thực hiện mục tiêu các nhà
hoạch đinh chính sách có biện pháp để tăng tổng cầu (AD1) di chuyển đến AD2 khi đó
nền kinh tế ở điểm 1’, sản phẩm tại YT và đạt được mục tiêu thất nghiệp 4%.
Nhưng tại YT tỷ lệ thất nghiệp 4% nhỏ hơn mức tỷ lệ tự nhiên nên lương sẽ tăng và
đường tổng cung di chuyển AS2 đưa nền kinh tế từ 1’->2 => tỷ lệ thất nghiệp lại 6%

nhưng ở mức giá P2 >P1. Tuy nhiên mục tiêu theo dưới tỷ lệ thất nghiệp 4% nên nhà
hoạch định sẽ di chuyển AD2 -> AD3 để đạt được chỉ tiêu sản phẩm đến 2’ và toàn bộ
qúa trình sẽ tiếp tục đẩy nền kinh tế đến 3 và xa hơn nữa. Vậy kết quả đó các nhà hoạch
định không thể tiếp tục di chuyển AD ra thông qua chính sách tài chính do có những giới
hạn trong việc tăng chi tiêu của chính phủ và giảm thuế. Thay vào đó họ sẽ phải áp dụng
chính sách tiền tệ bành trướng: Liên tục tăng cung tiền tệ và vì thế tỷ lệ tăng trưởng tiền
tệ cao. Họ có thể tăng tổng cầu bằng cách kích thích chi tiêu hộ gia đình qua tăng thu
nhập thực tế hoặc giảm lãi suất, hoặc nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp tăng lên xuất
phát từ những dự đoán về những triển vọng phát triển kinh tế, về khả năng mở rộng thị
trường hoặc do lãi suất đầu tư giảm - về mặt ngắn hạn nó làm AD tăng.
1.2.3.lạm phát do chi phí đẩy.
Lạm phát chi phí đẩy là loại lạm phát do thu hẹp tổng cung hoặc do các doanh
nghiệp buộc lòng phải nâng cao giá bán sản phẩm vì những lý do bất lợi.Khác với hai
loại lạm phát trên, thì loại lạm phát này chủ yếu đến từ phía cung và nguyên nhân chủ
yếu xuất phát từ hiện tượng tăng chi phí sản xuất không mong đợi từ phía các doanh
nghiệp.Tăng chi phí không mong đợi từ doanh nghiệp tạo ra những những cú sốc tổng
cung bất lợi.Công nhân đình công đòi tăng lương ở diện rộng, giá nguyên liệu tăng đột

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />biến, thảm hoạ tự nhiên làm đình trệ hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp là
những ngòi nổ của loại lạm phát này.
Mô hình lạm phát do chi phí đẩy:

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />p
Tổng
giá
cả


mức

AS4
AS3

p4
P3

4

AS2

3

AS1

3’
2’

P2
P1’
P1

2
AD4
1’
1

AD2


AD3

AD1
Y’

Yn

Y
Tổng

sản

phẩm
Mô hình 2 : Lạm phát chi phí đẩy
Ảnh hưởng của việc tăng như vậy làm cho việc tổng cung dịch chuyển sang AS 2 (do sức
ép đối với doanh nghiệp nên thu hẹp sản xuất) nếu chính sách tài chính và tiền tệ của
chính phủ vẫn không thay đổi thì nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm 1 sang điểm 1’. Sản
phẩm sẽ giảm xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên của nó (Y’) trong khi mức giá cả tăng lên
P’1. Do sản phẩm giảm, thất nghiệp tăng, chính phủ sẽ thực hiện chính sách tăng đường
tổng cầu lên AD2 do đó nền kinh tế trở lại mức tự nhiên của sản phẩm tại điểm 2 nhưng
mức giá tăng ở P2. Những công nhân được tăng lương sẽ không sống kham khổ. Chính
phủ đã can thiệp để chắc chắn rằng không có thất nghiệp qúa nhiều và công nhân đã đạt
được mục tiêu tăng lương của họ.
Các công nhân được tăng lương rồi nay lại được tăng lương nữa có thể được khuyến
khích được tăng lương lần nưã. Thêm vào đó, các công nhân khác bây giờ có thể thấy
rằng lương của mình đã sụt xuống so với những bạn công nhân khác và do họ không
muốn tụt hậu lại đằng sau nên lại đòi tăng lương lần nữa. Kết quả đường tổng cung dịch
đến AS3. Thất nghiệp lại phát triển khi chúng ta chuyển đến 2’ và các chính sách năng
động sẽ lại một lần nữa việc sử dụng để di chuyển đường tổng cầu ra đến AD 3 và đưa

nền kinh tế trở lại tình hình công ăn đầy đủ với mức giá cả P 3. Nếu qúa trình này tiếp tục
xẩy ra thì kết quả là việc tăng liên tục của mức giá cả nghĩa là một tình trạng lạm phát.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />1.3. Hậu quả của lạm phát
Trên thực tế, không thể triệt tiêu được lạm phát trong kinh tế thị trường dù đạt trình độ
phát triển rất cao của lực lượng sản xuất . Nếu giữ được lạm phát ở mức độ nền kinh tế
chịu được, cho phép có thể mở thêm việc làm, huy động thêm các nguồn lực phục vụ
cho sự tăng trưởng kinh tế, thì cũng là một thành công trong công cuộc chống lạm phát ở
nhiều nước. Nhưng mức độ lạm phát là bao nhiêu thì phù hợp? Nếu tỷ lệ tăng trưởng
cao, tỷ lệ lạm phát quá thấp thì dẫn tới tình trạng các ngân hàng ứ đọng vốn, làm ảnh
hưởng tới sự phát triển của đất nước. Vì thế trong trường hợp đó người ta phải cố gắng
tăng tỷ lệ lạm phát lên. Khi chính phủ kiểm soát lạm phát ở mức độ mà nền kinh tế chịu
được (tỷ lệ lạm phát dưới 10%) thì vừa không gây đảo lộn lớn, các hệ quả của lạm phát
được kiểm soát, vừa với sức che chắn hoặc chịu đựng được của nền kinh tế và của các
tầng lớp xã hội. Hơn nữa, một sự hy sinh nào đó do mức lạm phát được kiểm soát đó
mang lại được đánh đổi bằng sự tăng trưởng , phát triển kinh tế mở ra nhiều việc làm
hơn, thu nhập danh nghĩa có thể được tăng lên cho mỗi người lao động nhờ có đủ việc
làm hơn trong tuần, trong tháng hoặc tăng thêm người có việc làm, có thu nhập trong gia
đình và cả tầng lớp lao động do giảm thất nghiệp . Đến lượt nó, thu nhập bằng tiền tăng
lên thì tăng thêm sức kích thích của nhu cầu của tiền tệ và sức mua đối với đầu tư, tăng
trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP). Nhưng khi tỷ lệ lạm phát đến 2 con số trở lên
(lạm phát phi mã hoặc siêu lạm phát) thì hầu như tác động rất xấu tới nền kinh tế như sự
phân phối và phân phối lại một cách bất hợp lý giữa các nhóm dân cư hoặc các tầng lớp
trong xã hội và các chủ thể trong các quan hệ về mặt tiền tệ trên các chỉ tiêu mang tính
chất danh nghĩa (chỉ tiêu không tính đến yếu tố lạm phát, không tính đến sự trượt giá của
đồng tiền). Mặt khác tỷ lệ lạm phát cao phá hoại và đình đốn nền sản xuất xã hội do lúc
đó độ rủi ro cao, không ai dám tính toán đầu tư lâu dài, những hoạt động kinh tế ngắn
hạn từng thương vụ, từng đợt, từng chuyến diễn ra phổ biến, Trong xã hội xuất hiện tình

trạng đầu cơ tích trữ, dẫn tới khan hiếm hàng hoá . Điều đó lại làm giá càng tăng, và xã
hội rơi vào vòng luẩn quẩn, lạm phát càng tăng dẫn tới mất ổn định về chính trị xã hội.
Tỷ lệ lạm phát cao còn có ảnh hưởng xấu tới quan hệ kinh tế quốc tế. Tóm lại khi lạm
phát cao tới mức hai con số (ở Việt nam giữa những năm 80 đã xảy ra tình trạng lạm
phát tới mức 3 con số) trở lên, thì có ảnh hưởng xấu tới xã hội. Do đó chính phủ phải có
giải pháp khắc phục, kiềm chế, và kiểm soát lạm phát.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Tác động kinh tế xã hội của lạm phát rất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ lạm phát và
khả năng dự đoán chính xác sự biến động của mức lạm phát.
Đối với loại lạm phát vừa phải, do đây là lạm phát tính trước nên không gây ảnh hưởng
đến sản lượng, hiệu quả và phân phối thu nhập. Nhưng khi lạm phát tăng lên kéo theo sự
biến động mạnh về giá cả hàng hoá thì ảnh hưởng của lạm phát bắt đầu bộc lộ. ở mức
lạm phát phi mã người ta không thể kiểm soát được nó, tạo nên sự biến động bất thường
về giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá trị, ảnh hưởng đến mọi
kinh tế xã hội cụ thể.
Tóm lại, lạm phát có thể tạo ra những ảnh hưởng chủ yếu như sau:
1.3.1. Lạm phát tạo sự bất ổn cho môi trường kinh tế xã hội:
Sự biến động của lạm phát trong một khoảng thời gian làm cho người ta khó xác định
mức sinh lời chính xác của các khoản đầu tư,do vậy co xu hướng
thích đầu tư vào các tài sản hơn là vào các dự án. Kết quả là nguồn lực xã hội bị phân bổ
một cách thiếu hiệu quả và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, nó còn tác
động đến nhiều mặt khác như các quyết định tài chính bị bóp méo, ảnh hưởng đến thị
trường lao động khi công đoàn đòi tăng lương, đe doạ đình công...
1.3.2.Phân phối lại thu nhập quốc dân và của cả xã hội:
Khi lạm phát tăng lên, tổng thu nhập danh nghĩa tăng lên nhưng trong đó có chứa đựng
sự phân phối lại giữa các nhóm dân cư với nhau: Giữa chủ - thợ,giữa người đi vay – cho
vay, giữa chính phủ với người đóng thuế.
Tóm lại, tác động chính của lạm phát về mặt phân phối lại nảy sinh từ những tác động

không thể đoán trước đối vơí giá trị thực tế của thu nhập và của cải của nhân dân.
1.3.3. Lạm phát tác động đến giá cả, sản lượng, việc làm
Lạm phát kéo dài làm cho lượng tiền cung ứng tăng lên liên tục, tổng cung tiền tăng
nhanh hơn tổng cầu tiền, lượng tiền danh nghĩa tăng, lãi suất danh nghĩa tăng giá trị
đồng tiền giảm giá cả hàng hoá tăng nhanh với tỷ lệ không đều nhau và tăng nhanh hơn
cả là giá các mặt hàng thiết yếu cho tiêu dùng và cho sản xuất. Khi hàng hoá khan hiếm
nạn đầu cơ phát triển mạnh làm giá cả càng hỗn loạn, chính phủ rất khó kiểm soát các
hoạt động kinh tế ngầm... lạm phát cao kéo dài làm cho hàng loạt doanh nghiệp vừa và

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />nhỏ bị phá sản hoặc sản xuất cầm chừng, một bộ phận công nhân bị mất việc, tỷ lệ thất
nghiệp tăng, nền kinh tế sa sút.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />CHƯƠNG 2
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000- 2006
2.1.Diễn biến lạm phát của Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến đời sống kinh tế – xã
hội.
Trong lịch sử quản lý kinh tế vĩ mô của Việt Nam,kiểm soát lạm phát là một trong
những thành công được ghi nhận.Lạm phát của Việt Nam đã giảm từ 70% vào năm 1986
xuống còn 35% vào năm 1989 và trong mức kiểm soát ở những năm sau này. Kết quả
này có được đã phản ảnh tổng hợp nhiều yếu tố như tự do hoá nền kinh tế, áp dụng tỷ
giá hối đoái thực tế hơn,người dân không còn tồn trữ hàng hoá,vàng đô la,mà bắt đầu
tích luỹ bằng đồng tiền trong nước
Tỷ lệ lạm phát giảm từ giai đoạn 1988 đến năm 2000, đặc biệt năm 2000 tỷ lệ lạm phát
là 0,1% và năm 2001 là - 0.6%.Thế nhưng lạm phát bắt đầu tăng lại từ năm 2002 và trở
nên mạnh hơn vào đầu năm 2004. Nhìn về xu hướng, tỷ lệ lạm phát giảm trong thời kỳ
1998 – 2001 là do tác động của khủng hoảng Châu á làm cho nền kinh tế lâm vào suy

thoái cùng với giảm phát.Vào giai đoạn này chính phủ thực hiện chính sách kích cầu để
ổn định nền kinh tế. Chính sách này cùng với chính sách tín dụng mềm đối với những
công trình đầu tư lớn của chính phủ đã làm cho lượng cung tín dụng tăng kéo theo sự
tăng giá vào năm 2002.
Số liệu tiền tệ cũng cho thấy điều này, tốc độ tăng trưởng hàng năm của lưọng cung
tiền M2 trong năm 1999 và 2000 cao hơn nhiều so với những năm trước và sau đó, ở
múc là 56% vào năm 2000. Mức tăng M2 từ sau năm 2000 trở đi đã trở lại mức giá trung
bình của giai đoạn trước năm 2000 là dao động trên dưới 20%
Nếu lạm phát của năm 2003 chỉ là 3% thì bắt đầu đến tháng 2 của năm 2004 chỉ số lạm
phát được tính bằng CPI đã là 4,1%. Cho đến tháng 8 năm 2004 thì chỉ số này đã vọt lên
đến 8,3%.Đây là con số cao nhất kể từ năm 1995 cho đến nay.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />NHểM HÀNG HOÁ, DỊCH VỤ

2004

2005

2006

Chỉ số giỏ tiờu dựng

109,5

108,4

106,6


I. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống

115,6

110,8

107,9

Trong đó: 1. Lương thực

114,3

107,8

114,1

2. Thực phẩm

117,1

112,0

105,5

II. Đồ uống và thuốc lá

103,6

104,9


105,2

III. May mặc, mũ nún, giày dộp

104,1

105,0

105,8

IV. Nhà ở và vật liệu xõy dựng

107,4

109,8

105,9

V. Thiết bị và đồ dùng gia đỡnh

103,6

104,8

106,2

VI. Dược phẩm, y tế

109,1


104,9

104,3

VII. Phương tiện đi lại, bưu điện

105,9

109,1

104,0

VIII. Giỏo dục

98,2

105,0

103,6

IX. Văn hoá, thể thao giải trí

102,2

102,7

103,5

X. Hàng hoỏ và dịch vụ khỏc


105,2

106,0

106,5

Nguồn : Tin từ tổng cục Thống kê năm 2006
Những nhà kinh tế trọng tiền cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến mức giá chung tăng
đột ngột tại Việt Nam là do tăng trưởng tín dụng và dẫn đến tăng cung tiền.Đó là nguyên
nhân gây ra sự tăng giá đến mức báo động của giá vào năm 2003 và người ta cũng dự
kiến mức giá chung sẽ vượt mức 10% ( mốc dự đoán năm 2003)
Cụ thể lương thực tăng 12,1%, thực phẩm tăng 16,3%, đồ uống và thuốc lá tăng
2,9%,dệt may tăng 2,7%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 5,4%, đồ dùng gia đình tăng
2,5%, tân dược tăng 8,6%, phương tiện đi lại tăng 4%, dịch vụ văn hoá giải trí tăng
2,6%. Riêng nhóm vật phẩm giáo dục giảm 2,3%. Như vậy, lương thưc, thực phẩm, tân
dược và vật liệu xây dựng là những nhóm hàng có mức giá tăng cao nhất trong năm
2003
Những tháng đầu năm 2004 mức giá chung cũng tăng mạnh chủ yếu là do những cú sốc
về phía cung mà nó bắt nguồn từ các yếu tố tự định như sự gia tăng một số hàng hoá
nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn của Việt Nam, như giá thép , giá xăng dầu. Trong nước giá
thực phẩm tăng chủ yếu do những yếu tố về phía cung như dịch cúm gia cầm cũng góp

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />phần vào sự tăng giá chung. Đi kèm sự tăng lên của chỉ số giá tiêu dùng CPI thì chỉ số
giá nhập khẩu tăng cao. Tuy nhiên sự biến động của chỉ số giá nhập khẩu được phản ánh
lại trong CPI thường trễ hơn một năm. Điều này cũng phù hợp với thực tế của nền kinh
tế. Cũng chính vì có độ trễ này mà chỉ số giá tiêu dùng của chỉ bắt đầu tăng từ tháng 2
năm 2004, trễ hơn một năm so với biến động của chỉ số giá nhập khẩu. Chỉ số giá nhập
khẩu của năm 2003 đã tăng rất cao so với năm 2001 và 2002. Nếu năm 2001 và 2002 là

con số âm thì năm 2003 tăng lên là 3,4%. Trong khi đó giá tính bằng GDP thì phản ánh
rõ biến động này, năm 2003 là 5,4%.
Biến động của chỉ số giá nhập khẩu phản ánh sự thay đổi mức giá thế giới. Nghĩa là
nền kinh tế có thể nhập khẩu lạm phát từ bên ngoài vào. Thực vậy hầu hết các danh mục
hàng hoá nhập khẩu chính của Việt Nam đều tăng rất cao trong năm 2003. Cụ thể trong
năm 2003 giá thép đã tăng 32,5%, phôi thép tăng 30,4%,phân bón tăng 20,5% chất dẻo
tăng 15,4%…Điều đáng lưu ý là xu hướng này còn diễn ra mạnh mẽ trong năm 2004 cú
sốc tăng giá dầu thô dẫn đến tăng giá xăng dầu và các chế phẩm từ dầu mỏ. Theo báo
cáo của bộ thương mại chỉ riêng giá của nhóm hàng nhập khẩu xăng dầu , nhựa.. trong
năm 2004 tăng 23,7% so với năm 2003.
Đến năm 2005 lạm phát tiếp tục tăng cao, ở mức 8,4% so với 9,5% năm 2004. Lạm
phát tăng cao trong thời gian này không phải do giá xăng dầu tăng do giá xăng dầu vẫn
tăng trong năm 2005(21%) nhưng ở mức thấp hơn năm 2004 (55%). Thế nhưng giá cả ở
Việt Nam vẫn tăng cao là do chính sách kích cầu.Theo nguồn tin báo chí kinh tế trong
nước tốc độ tăng tín dụng vẫn cao như mức năm trước.
Lạm phát cao, khi đồng đô la Mỹ không tăng giá, đưa giá trị của đồng Việt Nam tăng,
làm tăng giá hàng nội địa ( tăng giá do lạm phát) khi tính bằng đô la và do đó làm giảm
sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Chính điều này đã góp phần làm cán cân thương mại
với nước ngoài tiếp tục thiếu hụt lớn. Năm 2005 thiếu hụt là 4,6 tỷ đô la Mỹ (9%
GDP),so với năm 2005 là 5,5 tỷ đô la Mỹ(12% GDP). Xuất khẩu năm 2005 tăng 29% và
nhập khẩu tăng ở mức thấp hơn là 15%. Mặt khác lạm phát cao tạo thành một cuộc chạy
đua nâng lãi suất ngân hàng để thu tiền gửi. Dù chạy đua như vậy nhưng hiện nay lãi
suất ở mức 8,25% vẫn còn thấp hơn lạm phát một chút. Cuộc chạy đua nâng lãi suất sẽ
tiếp tục vì người dân đã giảm số tiết kiệm trong ngân hàng khi lãi suất thực tế âm. Điều
này tiếp tục sẽ đưa đến những vấn đề sau: Thay vì tiết kiệm dân sẽ mua hàng(đặc biệt là
vàng ) và đẩy giá hàng lên.Giá hàng hoá tăng làm đời sống của công nhân giảm đưa đến

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />đòi hỏi tăng lương. Việc tăng lương lại đổ thêm vào vòng xoáy lạm phát.Đối với doanh

nghiệp tư nhân lãi suất cao sẽ làm tăng rủi ro,đưa đến giảm mức tăng đầu tư. Đối với
nhà nước thì việc giảm mức tăng hoạt độngcủa kinh tế tư nhân và lượng tiền tiết kiệm
thấp có thể dẫn tới việc bơm tiền và tín dụng nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng cao theo
kế hoạch và như thế lạm phát sẽ lại càng tăng.
Các chỉ số thống kê được trình bày dưới đây cho thấy chỉ số lạm phát ở Việt Nam năm
2006 có hướng giảm.
Các chỉ số thống kê về giá tiêu dùng tháng 3 giảm 0,5% so với tháng 2. Trong 10 nhóm
hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng, có 5 nhóm giá giảm,trong đó giảm nhiều nhất là giá lương
thực – thực phẩm giảm 0,9%, riêng thực phẩm giảm 1,9%,tiếp đến là văn hoá giảm 0,7%
phương tiện đi lại và bưu điện giảm 0,6%, đồ uống và thuốc lá giảm 0,5%, đồ dùng khác
giảm 0,4%
Đây là những nhóm chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng giá trị hàng hoá,dịch vụ tiêu
dùng thông qua thị trường của dân cư. Năm nhóm hàng hoá, dịch vụ khác chiếm tỷ trọng
ít hơn nhiều và tăng với mức tuyệt đối thấp hơn, trong đó cao nhất là dược phẩm y tế
tăng 0,5%, thiết bị đồ dùng tăng 0,4%, may mặc mũ nón giày dép tăng 0,3%, nhà ở vật
liệu xây dựng tăng 0,1%, giáo dục tăng 0,1%.
Đây là điều chưa từng xảy ra trong cùng kỳ của 2 năm trước đó và theo dự đoán diễn
biến tiêu dùng có thể lặp lại tình hình của cùng kỳ trong các năm từ 2003 trở về trước
( từ năm 2003 trở về trước,giá tiêu dùng tăng cao vào tháng 1, tháng 2, sau đó giảm từ
tháng 3, còn theo năm 2004,2005, giá tháng 3 và các tháng tiếp theo vẫn tiếp tục tăng).
Sự giảm xuống trong 3 tháng và xu hướng có thể giảm tiếp trong những tháng tới có
nguyên nhân trực tiếp đến việc tính toán tốc độ tăng giá của tháng 3 là giá cả đã tăng
cao, tăng gần như liên tục trong 28 tháng trước đó ( tính từ tháng11.2002 đến tháng 2.
2006 đã tăng 3,3%). Khi số gốc so sánh đã ở mức cao thì giá của các tháng so với số gốc
so sánh sẽ khó mà cao được. Có nguyên nhân quan trọng là nhu cầu tiêu dùng của dân
cư sau Tết Nguyên Đán đã trở lại bình thường, giảm nhiều so với trong Tết. Mặt khác là
do lượng tiền phát ra trước và sau Tết đã thu hút vào tiết kiệm ( với mức lãi suất được
duy trì ở mức cao, thậm chí đối với một số ngân hàng còn cao hơn trước Tết, lại có
thêm chương trình khuyến mãi hấp dẫn thưởng vàng, ôtô, du lịch quốc tế…), hay mua
vàng nữ trang vào mùa cưới xin…,hay đầu tư vào thị tường chứng khoán khi khối lượng

giao dịch , khối lượng khớp lệnh và chỉ số chứng khoán VN- Index tăng cao… Khi một

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />lượng tiền lớn được thu hút vào những hoạt động trên thì lượng tiền mua hàng hoá, dịch
vụ tiêu dùng sẽ giảm xuống một cách tương đối,kéo theo sẽ giảm sức ép đối với việc
tăng giá hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng. Còn nguyên nhân khác là do giá cả thế giới
không còn tăng, thậm chí một số mặt hàng còn giảm so với cùng kỳ năm trước…
Cùng với sự giảm giá tiêu dùng là sự giảm giá của đô la Mỹ.Tháng 3 giảm 0,1% làm
cho 3 tháng tốc độ tăng bằng 0. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn USD từ đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài , kiều hối đến Việt Nam, xuất khẩu lao động gửi về khá nhiều …Dự
báo giá USD sẽ tiếp tục tăng thấp thậm chí còn thấp hơn cả 2 năm trước, chỉ có giá vàng
tiếp tục tăng, tính chung 3 tháng đã tăng tới 11,6% và tăng cao hơn gấp đôi năm 2000
đó là do giá ở nước ngoài tăng cao, còn ở trong nước ảnh hưởng đến nền kinh tế không
lớn.
Từ những số liệu trên có thể thấy lạm phát đang trở thành một vấn đề bức xúc, gây ảnh
hưởng lớn đến đời sống kinh tế xã hội . Trong giai đoạn từ năm 2000 đến tháng 3 năm
2006 , chỉ số CPI đã tăng 33%, bào mòn mức lương thực tế. Để ổn định mức lạm phát đi
cùng với tăng trưởng kinh tế, nhà nước đang tìm những giải pháp tốt nhất nhằm thực
hiện mục tiêu đó.
2.2 Một số giải pháp kiểm soát lạm phát của Việt Nam.
Do lạm phát tăng cao và kéo dài đã gây ra những hậu quả lớn trong đời sống của nhân
dân lao động và tăng trưởng kiinh tế. Vì vậy chính phủ cần phải có những giải pháp hữu
hiệu để phòng ngừa và khắc phục lạm phát. Về phương diện kinh tế các quyết sách kinh
tế thường có hiệu quả không lâu dài, tác động của nó trong thời gian trước mắt thường
khác với tác động kinh tế-xã hội lâu dài. Vì vậy để giữ vững những thành quả đạt được
và tiếp tục đẩy mạnh lạm phát xuống chúng ta cần thực hiện đồng bộ một hệ thống trước
mắt và lâu dài. Đó là những biện pháp cơ bản sau:
a. Tập chung sức mạnh của sản xuất trên cơ sở sắp xếp lại các ngành sản xuất và bố trí
lại cơ cấu đâù tư, cơ cấu tiêu dùng.

Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển tạo ra nhiều loại hàng hoá cho xã hội, cần áp dụng
hàng loạt các chủ trương chính sách nhằm giải phóng sức lao động, khai thác mọi khả
năng tiềm tàng, khuyến khích các tầng lớp dân cư, các thành phần phát triển sản xuất.
Thực hiện ba chương trình về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Trên cơ sở phát huy ưu thế trong nước, mạnh dạn mở rộng quan hệ kinh tế với nước
ngoài để khắc phục tình trạng kém phát triển. của nền kinh tế nước ta.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế của Việt Nam thời gian qua trên thực tế chưa có sự
chuyển biến rõ rệt. Cơ cấu đầu tư , vốn vật tư, kỹ thuật, lao động về cơ bản vẫn theo nếp
cũ. Nhà nước cần có những biện pháp kiên quyết kịp thời, mạnh dạn cắt những công
trình xét thấy không cần thiết, hạn chế hoặc không cấp vốn cho những xí nghiệp sản xuất
kém, ưu tiên vốn, vật tư cho những đơn vị sản xuất có hiệu quả. Đối với những xí nghiệp
quốc doanh làm ăn thua lỗ kéo dài cần nhanh chóng chuyển hướng kinh doanh, cổ phần
hoá hoặc giải thể để giảm gánh nặng cho nền tài chính quốc gia. Trong điều kiện lạm
phát như hiện nay, nhà nước cần có chính sách huy động vốn thích hợp làm cho các
thành phần kinh tế yên tâm, được bảo đảm quyền sở hữu về vốn bỏ ra, được hưởng lợi
ích chính đáng do lao động và vốn của họ mang lại.
b. Phấn đấu giảm mức thâm hụt ngân sách
Bộ tài chính cần thông báo chính xác mức chênh lệch thu chi ngân sách. Tách các khoản
vay của nhà nước ra khỏi ngân sách và chuyển thành các nguồn vốn đi vay, nếu ngân
sách vay cũng phải trả lãi. Ngân sách có 4 nguồn thu: Huy động trong nước, vay nợ
nước ngoài, vay ngân hàng và vay của dân. trước mắt vay nợ nước ngoài có khó khăn do
đó cần hướng vào các nguồn thu trong nước để tăng thu, chủ yếu là thu thuế, thực hiện
thuế VAT, thuế vốn, thuế thu nhập...khai thác, bồi dưỡng các nguồn thu khác, hình thành
bộ máy chống thất thu thuế tạo mọi điều kiện để bộ máy này hoạt động có hiệu quả.
Kiểm kê tài sản, kể cả bất động sản, ấn định giá đất, giá nhà để bán và cho thuê, tăng
nguồn thu cho ngân sách.
- Giảm chi: Rà soát lại các nguồn chi, thực hiện một chính sách chi tiêu nghiêm ngặt.Có

thể giảm một tỷ lệ lệ nhất định các khoản chi tiêu chưa thật cần thiết của các cơ quan
nhà nước, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi của các cơ quan này. Đồng thời có biện pháp
dự phòng nhằm đối phó với những khoản chi tiêu ngân sách đột biến lớn có khả năng
dẫn đến tái lạm phát. Hạn chế đến mức thấp nhất việc cung cấp tài chính cho các xí
nghiệp quốc doanh dưới bất kỳ hình thức nào. Thực hiện chính sách triệt để tiết kiệm
gắn liền với chống tham ô lãng phí ngay từ các cơ quan nhà nước.
- Vay vốn trong dân: Theo các tài liệu tính toán thì tiềm năng vốn trong dân còn khá lớn,
khoảng 6 triệu đến 10 triệu lạng vàng. Vì vậy nhà nước cần có chính sách thực tế để tạo
lòng tin trong dân, hay nói cách khác nhà nước cần có cơ chế khuyến khích thoả đáng để
thu hút vốn trong dân. Đây là nguồn lực lớn cần khai thác bởi vì vay dân và trả lãi cho
dân là điều dễ làm hơn vay nước ngoài
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Tăng cường chức năng quản lý vĩ mô của ngân hàng nhà nước. Trước hết là sử dụng có
hiệu quả các công cụ như lãi suất, tỷ giá, kiểm soát chặt chẽ việc phát hành trái phiếu,
công trái, trái khoán, nâng cao hiệu suất kinh tế của vốn tín dụng – NHTW sẽ qui định
lãi suất và quyết định điều chỉnh mức lãi suất khi có lạm phát. NHTW quản lý điều tiết
hoạt động của các NHTM bằng pháp luật.cho các NHTM tự do hoạt dộng và mở rộng
phạm vi cho vay. Việc qui định mức lãi suất phải căn cứ vào nhu cầu vốn. Vấn đề quan
trọng nhất hiện nay là NHNN phải giúp chính phủ tăng cường khả năng dự trữ vàng và
ngoại tệ để khi cần thiết có thể tung ra chặn những cơn sốt đột biến, đồng thời có biện
pháp kiềm chế không cho giá vàng và đô la hạ xuống dưới mức cần thiết gây khó khăn
cho xuất nhập khẩu.
c. Chấn chỉnh hệ thống tài chính
- Thực hiện nhất quán chính sách tạo vốn của ngân sách là phải dựa trên cơ sở bồi dưỡng
và phát triển các nguồn thu đồng thời thực hiện phân phối hợp lý các nguồn thu, xoá bỏ
thói quen dựa vào phát hành để chi tiêu ngân sách, nếu ngân sách thiếu hụt phải dùng
nguồn vay để bù đắp. Ngân sách nhà nước chia thành 2 quĩ, quĩ tích luỹ và quĩ tiêu
dùng. Phần dành cho tiêu dùng thì quản lý theo đơn vị dự toán từ Trung Ương đến tỉnh
và cơ sở. Phần cấp ngân sách phải tuân theo nguyên tắc chủ yếu là dựa vào nguồn thu.

Trước mắt cần phải sửa đổi và hoàn thiện chính sách thuế thương nghiệp kịp thời điều
chỉnh mức thuế của các đối tượng nộp thuế cho phù hợp với sự biến động của giá cả thị
trường chống thất thu thuế dưới bất kỳ hình thức nào. Đặc biệt việc thực hành tốt chính
sách đối với hàng XNK là rất cần thiết. Nhà nước cũng cần ban hành một số chính sách
thuế mới như thuế khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, thuế tồn kho đối với các
tổ chức thương nghiệp quốc doanh và các hộ kinh doanh cá thể.
d. Chủ động điều tiết cung cầu, giá cả và cải tiến chế độ tiền lương
Sự phù hợp có tính chất qui luật giữa cung và cầu, tiền và hàng quyết định sự ổn định
giá cả thị trường. Do vậy muốn ổn định giá cả, giảm lạm phát biện pháp tác động qua
điều tiết cung - cầu, tiền – hàng là rất quan trọng. Trước hết trên giác ngộ quản lý vĩ mô
phải tính toán tổng cung và tổng cầu để điều tiết nó một cách chủ động. Để đảm bảo sự
an toàn và ổn định giá cả thị trường, lương thực nhất thiết phải cân đối đủ cho nhu cầu
trong nước, bao gồm cả tiêu dùng và dự trữ cần thiết, còn dư thừa mới xuất khẩu. Do đó,

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />cần phải làm tốt công tác điều hoà lương thực từ nơi thừa đến nơi thiếu, giải quyết hợp
lý cơ chế xuất khẩu lương thực.
Nhà nước tổng hợp và cân đối thu , chi ngoại tệ của toàn bộ nền kinh tế, xem xét và sửa
đổi cơ chế mua bán ngoại tệ. Mở rộng các trung tâm mua bán ngoại tệ công khai như đã
làm ở TP Hồ Chí Minh và thủ đô Hà nội. Điều quan trọng là giá cả và thể thức giao dịch
thuận lợi có tác dụng chi phối tiền tệ, ngoại tệ. Việc điều tiết và ổn định giá vàng và đô
la trong nhiều năm tới là biện pháp quan trong nhất để chống lại lạm phát, có tác động
tích cực tới tâm lý kinh doanh, tiêu dùng và giá cả thị trường. Do vậy, nhà nước cần sớm
có cơ chế quản lý thích hợp để có thể nhận giữ vàng và đôla có lãi suất, hoặc mở rộng
mạng lưới kinh doanh vàng, bạc, ngoại tệ của ngân hàng...thu hút vàng và ngoại tệ vào
ngân hàng, tính toán nhu cầu và nguồn vàng, ngoại tệ để xây dựng phương án điều tiết.
Phấn đấu có tích trữ vàng và ngoại tệ của các quốc gia đủ mức xử lý các đột biến xấu đã
và đang xảy ra.
Nước ta đã phát triển nền kinh tế thị trường, do đó cần để cho thị trường định giá. Nhà

nước chỉ khống chế mặt bằng giá một vài mặt hàng thật thiết yếu. Trong những trường
hợp nhất định nâng giá là cần thiết, vì đây là là thứ thuế vô hình đánh vào mọi người.
Vấn đề là phải chú ý để việc nâng giá khỏi ảnh hưởng tới việc bảo đảm mức sống cơ bản
của người lao động. Đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa giá tư liệu sản xuất và giá nông
sản. Tăng sức mua cho nông dân cũng là một biện pháp kích thích sản xuất công nghiệp
phát triển.
Về tiền lương, chúng ta cần phải tiến hành cải tiến chế độ tiền lương một cách mạnh
bạo, khẩn trương, và ít nhất phải bảo đảm cho được yêu cầu về tái sản xuất giản đơn, sức
lao động gắn liền việc cải tiến chế độ tiền lương với giải quyết việc làm. Trước mắt cần
phải tách phần bảo hiểm xã hội ra khỏi tiền lương.
Trên đây là những biện pháp cơ bản chống lạm phát, ngoài ra chúng ta cũng phải tiến
hành những biện pháp như quan tâm đến kim ngạch xuất XNK, chấm dứt tình trạng
XNK lộn xộn, nhà nước cần có chính sách khuyến khích xuất khẩu, đồng thời đánh thuế
mạnh những mặt hàng nhập khẩu. Chúng ta cần chuẩn bị một lượng tiền mặt phù hợp
với sự đầu tư nước ngoài để tránh rơi vào tình trạng lạm phát, gấp rút xây dựng và sửa
đổi hệ thống pháp luật phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tiếp tục đổi
mới cách quản lý theo hướng chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường. Tổ chức lại bộ

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />máy quản lý nhà nước nâng cao trình độ quản lý phù hợp với yêu cầu mới của nền kinh
tế thị trường.
Trên thực thế trong những năm vừa qua để ổn định mức lạm phát vừa phải chính phủ đã
đưa ra và thực hiện một số chính sách . Và trên thực tế những chính sách này đã đem lại
kết quả nhất định trong việc kiểm soát lạm phát tại Việt Nam.
Cụ thể , với chính sách kích cầu mà Việt Nam đã thực hiện, đầu tư trong nền kinh tế
tăng khá nhanh, tỷ lệ phần trăm so với GPD từ 27,6% vào năm 1999 lên tới 32,1% vằo
năm 2003. Trong đó nguồn vốn đầu tư từ ngân sách là 40% và vay nước ngoài khonảg
30%, phần còn lại là vốn doanh nghiệp mà chủ yếu là vay từ ngân hàng thương mại.
Chính sách đầu tư của chính phủ hướng vào phát triển ngành sản xuất thay thế nhập

khẩu và bảo vệ thị trường trong nước ( sắt thép , xi măng, đường, xe hơi, xe gắn máy).
Do hiệu suất đầu tư quá thấp từ khu vực nhà nước cùng với sự thất thoát vốn quá lớn và
giới hạn của ngân sách , lúc này ngân hàng thương mại quốc doanh phải rót tín dụng cho
các dự án đầu tư này của nhà nước. Chính sách tín dụng mềm dẫn đến lượng cung tín
dụng trên thị trường tăng ngày càng mạnh đã đưa lạm phát đến mức báo động.
Về phương diện chính sách, chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Trong
tháng 7 – 2004 Ngân hàng Nhà nước đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 2% đến 5% đối với
VNĐ và từ 4% đến 8% đối với ngoại tệ nhằm kiểm soát tín dụng trong nền kinh tế. Tuy
nhiên tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong điều kiện lãi suất tín dụng cũng như lãi suất tiền
gửi chậm thay đổi sẽ làm tăng chi phí của hệ thống ngân hàng thương mại. Chưa kể sức
ép của dân chúng yêu cầu một mức lãi suất tiền gửi danh nghĩa cao hơn khi họ nghĩ rằng
có lạm phát trong nền kinh tế. Hiện nay tốc độ tăng trưởng tín dụng đã cao hơn tốc độ
huy động tiền gửi. Lúc này hệ thống ngân hàng thương mại đứng trước nguy cơ tính về
mặt hiệu quả vì lái suất tín dụng không tăng được và chi phí cho tỷ lệ dự trữ bắt buộc và
lãi suất tiền gửi tăng lên. Giả thuyết rằng Ngân hàng thương mại gia tăng lãi suất tín
dụng theo thị trường thì điều này sẽ làm cản trở đầu tư của khu vực doanh nghiệp. Như
vậy , thắt chặt tiền tệ có thể bình ổn được lạm phát nhưng nguy cơ về sự phát triển bền
vững hệ thống tài chính cũng như cản trở đàu tư khu vực là cái giá phải trả. Thắt chặt
tiền tệ ngoài ra cũng làm tăng lãi suất trong nền kinh tế .
Ngoài ra chính phủ kết hợp thực hiện chính sách giảm thuế suất nhập khẩu một cách
phù hợp, lâu nay Ngân hàng nhà nước đã có những phản ứng cần thiết để góp phần ngăn
chặn sự tăng giá và mức độ lạm phát. Biện pháp đã làm là tăng dự trữ bắt buộc. Tuy

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />nhiên tình trạng lạm phát của Việt Nam vẫn có thể kiểm soát được nên không đáng lo
ngại.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TRONG THỜI
GIAN TỚI
3.1.Dự báo
Lạm phát đang trở thành một vấn đề bức xúc. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến tháng 3
năm 2006, chỉ số CPI đã tăng 33%, bào mòn mức lương thực tế.Năm 2005 áp lực nhằm
đạt mục tiêu tăng trưởng của kế hoạch 5 năm đã khiến lạm phát vượt mức 6,5% chính
phủ đề ra. Năm nay, trọng tâm chính sách sẽ đảo ngược, chính phủ sẽ tập trung vào ổn
định giá cả vì áp lực tăng trưởng đã giảm đáng kể trong năm đầu tiên của kế hoạch năm
năm 2006 – 2010.
So sánh mức lạm phát của quý 1 với những năm trước, tình hình kiểm soát giá năm nay
có những dấu hiệu tốt đẹp. Giá nhóm lương thực- thực phẩm , yếu tố ảnh hưởng đến CPI
mạnh nhất đã giảm đáng kể do việc thành công giải quyết ảnh hưởng của dịch cúm gia
cầm. Giá lương thực phẩm giảm 0,9%trong tháng 3 và chỉ tăng 4% kể từ tháng 12 năm
ngoái ( so với mức tăng 6,1% cùng kỳ năm 2005)
Tỷ lệ lạm phát của quý 1 thường bằng một nửa giá cả năm, cụ thể là 51%năm 2004 và
44% năm 2005. Hiện tại lạm phát quý 1 mới chỉ ở mức 40% so với kế hoạch cả năm do
đó hoàn toàn có thể lạc quan mục tiêu kiềm chế giá cả năm nay sẽ thành công trong điều
kiện bình thường.
Tuy nhiên trong những tháng tới vẫn có những yếu tố gây áp lực lên mặt bằng giá thị
trường.
Trước hết là việc EVN có kế hoạch tăng giá điện lên trên 8% trong năm nay ( và tiếp
tục tăng trong năm sau). Mặc dù có nhiều khả năng giá điện sản xuất sẽ không tăng
nhưng việc điều chỉnh này vẫn sẽ ảnh hưởng đáng kể đến mặt bằng giá chung.
Tiếp đó là ảnh hưởng của việc tăng giá dầu trên thị trường quốc tế. Việt Nam hiện đang
phải nhập khẩu 100% các sản phẩm xăng dầu do đó mức giá trong nước sẽ bám sát tình
hình dao động giá thế giới. Năm 2005 giá xăng trong nước đã phải điều chỉnh 6 lần, và
sẽ nhạy cảm hơn trong năm nay.
Tình hình thời tiết bất thường , hạn hán , lũ lụt và nguy cơ trở lại của dịch cúm gia cầm
vào cuối năm sẽ là những nhân tố tiềm ẩn có thể gây nên cơn sốc giá , đặc biệt là mặt

hàng lương thực , lương thực , thực phẩm( hiện chiếm hơn một nửa giá hàng hoá để tính
CPI)

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Mặt khác , chương trình cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ AFTA sẽ giúp giá nhập
khẩu giảm mạnh đặc biệt là các mặt hàng tiêu dùng phần nào giúp giảm áp lực tăng giá
trong nước.
Nhìn chung, tuy mặt bằng giá phụ thuộc nhiều vào diễn biến thị trường quốc tế,
chính phủ năm nay có cam kết kiềm chế lạm phát, kể cả nếu phải kìm hãm tốc độ tăng
trưởng. Do đó chính sách của NHNN sẽ điều chỉnh lãi suất linh hoạt và quản lý chặt hoạt
động cho vay tín dụng. Trong tuần đầu của tháng 4 thông đốc NHNN dự báo nếu không
có yếu tố bất ngờ , chỉ số CPI sẽ dừng lại ở mức 7% . Giá vàng trong tháng 3 tăng 1,8%
đưa tổng mức tăng đầu năm lên 11,6%. Tỷ giá VNĐ/ USD vẫn tiếp tục ổn định, giảm
nhẹ ở mức 0,1% trong tháng 3 xuống mức của tháng 12 năm 2005. Trong khoảng thời
gian 12 tháng đến tháng 3/3006, tỷ giá chỉ tăng 0,8%.
Ngân hàng Standard Chartered cho rằng lạm phát vẫn là một vấn đề lớn của Việt Nam
năm 2006, mức lạm phát năm 2006 có thể lên tới 7,7% . Tuy nhiên theo ngân hàng quốc
tế hàng đầu thế giới với 1200 chi nhánh hoạt động tại 56 quốc gia này mức lạm phát có
thể giảm trong năm 2007, khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới ( WTO) có
thể tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể đạt 8,2% năm 2006 và tăng lên 8,8% năm 2007.
3.2 Giải pháp và kiến nghị
Lạm phát luôn là đề tài và là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận và nghiên cứu của các
nhà kinh tế. Theo quan điểm của một số nhà kinh tế thì lạm phát là một hiện tượng tất
yếu của nền kinh tế đang tăng trưởng. Theo quan điểm của một số nhà kinh tế khác thì
chính phủ có thể sử dụng lạm phát như một biện pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
tuy nhiên, ngày nay lạm phát không phải là một hiện tượng hoàn toàn xấu, khi nền kinh
tế phát triển có hiệu quả, tiến bộ kỹ thuật được áp dụng tích cực, cơ cấu kinh tế đổi mới
nhanh và đúng hướng thì lạm phát là một công cụ để tăng trưởng kinh tế chống suy
thoái. Vì vậy, chúng ta cần phải kiềm chế lạm phát ở mức có thể chấp nhận được hay là

lạm phát cân bằng có dự tính tạo điều kiện trở thành động lực thúc đẩy quá trình sản
xuất.
Trước hết chúng ta phải nâng lãi suất tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng trên mức lạm phát
vì lãi suất ngân hàng thực chất là giá cả tiền tệ. Nếu mức lãi suất bằng mức lạm phát thì
trên thực tế giá cả tiền tệ bằng 0. Tiền tệ chỉ có mức lãi suất trên mức lạm phát nghĩa là
có lãi thực tế. Khi lãi suất tăng dù mức lạm phát có tăng lên bao nhiêu thì người có tiền

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />gửi tiết kiệm vẫn không bị mất giá trị, hơn nữa biện pháp này đã gây được niềm tin của
quần chúng nhân dân vào giá trị ổn định đồng tiền. Chính lợi ích thiết thực do lãi suất
cao hơn mức lạm phát mang lại đã thúc đẩy nhân dân gởi tiết kiệm. Trên kênh lưu thông
các đồng tiền thừa đã gây ra lạm phát nay chúng đưa nhau chạy vào quĩ tiết kiệm. Khi
nhà nước nâng lãi suất lên cao hơn lạm phát thì những doanh nghiệp vay tiền ngân hàng
để mua hàng tích trữ rơi vào nguy cơ phá sản, cái lợi do giá tăng không bù đắp nổi lãi
suất phải trả cho ngân hàng. Vì vậy tất cả các hàng hoá tồn kho sẽ đưa ra thị trường làm
cho cung lớn hơn cầu và như vậy giá cả sẽ từ từ giảm xuống.
Tiếp theo là phải tăng thu giảm chi, cân bằng ngân sách chấm dứt phát hành tiền để chi
ngân sách. Để giảm và tiến tới chấm dứt phát hành tiền theo yêu cầu chi của NSNN nhất
thiết phải lấy qua thu thuế là giới hạn tối ưu của chi. Chỉ phát hành tiền phù hợp với nhu
cầu của lưu thông tiền tệ chứ không phát hành tiền bù cho việc bội chi ngân sách. Nhà
nước cần chi phải vay của dân để chi. Thu hút vốn nước ngoài dưới mọi hình thức: viện
trợ, vay, đầu tư. Về giá cả nhà nước chỉ khống chế mặt bằng giá một vài mặt hàng thiết
yếu. Chỉ có thị trường mới xác định được lao động xã hội cần thiết để làm ra một hàng
hoá. Vì vậy nên để giá cả hình thành trên thị trường thông qua thoả thuận giữa người
mua và người bán bởi vì qua thị trường người kinh doanh sẽ tìm ra giá cả hợp lý để có
thể mua được, bán được và kinh doanh có lãi.
Giải phóng mọi năng lực sản xuất: Trong giai đoạn hiện nay, bất kỳ thành phần, cá nhân
nào làm ra những sản phẩm có giá trị cũng cần được khuyến khích, cần đối xử ưu ái với
các nhân tài trong nước, kêu gọi lòng yêu nước và tài năng của các nhà khoa học Việt

nam đang sống ở nước ngoài đưa khoa học kỹ thuật vào việc phát triển kinh tế đất nước

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×