Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP NHẰM THAY THẾ CANH TÁC NƯƠNG RẪY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.09 KB, 12 trang )

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
NÔNG LÂM KẾT HỢP NHẰM THAY THẾ CANH TÁC NƯƠNG RẪY
Trường hợp nghiên cứu tại cộng đồng người Tày thuộc huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.
ThS. Mai Văn Thành
Đại học Nông nghiệp Hà Nội
------------------------------------------------------------------------------------------------------------Tóm tắt
Thượng nguồn Sông Đà thuộc vùng núi phía Tây Bắc Việt nam, nơi có vị trí đặc
biệt quan trọng trong bảo vệ và duy trì hoạt động của nhà máy thủy điện Hòa Bình và
vùng châu thổ sông Hồng trong đó có thủ đô Hà nội.
Trong những năm qua, việc khai thác và phá rừng làm rẫy bừa bãi của cộng đồng
các nhóm dân tộc thiểu số đã đưa độ che phủ của rừng trong vùng xuống tới mức báo
động. Mặc dù, chính phủ Việt nam đã có nhiều nỗ lực để ngăn chặn tình trạng này thông
qua các chương trình, dự án trọng điểm Quốc gia, tuy nhiên kết quả mang lại không đáp
ứng được như những gì mà chính sách mong đợi.
Sự chuyển dich từ canh tác nương rẫy sang các phương thức canh tác mới bền
vững chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố, do vậy để có sự chuyển dịch thành công này cần
phải có đầy đủ thông tin về canh tác nương rẫy trong vùng; xác định các nguyên nhân
chính mà người dân vẫn tiếp tục duy trì phương thức canh tác này, cũng như xác định các
yếu tố cản trở họ trong việc áp dụng phương thức canh tác mới, nghiên cứu này nhằm trả
lời các câu hỏi trên.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng nguyên nhân chính đẩy người dân trong vùng tiếp
tục duy trì phương thức canh tác nương rẫy là: (i) thiếu đất sản xuất nông nghiệp; (ii) hạn
chế khả năng tiếp cận với các nguồn vốn và các hoạt động khuyến nông; (iii) trình độ dân
trí thấp;(iv) quyền sử hữu đất chưa được đảm bảo, và (v) sự kém hiệu quả trong việc thực
hiện các chương trình, dự án của nhà nước trên địa bàn-- do thiếu vắng sự tham gia của
người dân trong việc lập kế hoạch và sự kém hiệu quả trong phối hợp thực hiện của các cơ
nhà nước. Tất cả các lý do trên đã ảnh hưởng đến người dân trong quyết định tiếp tục
canh tác nương rãy.
Hầu hết người dân đều có mong muốn chuyển sang phương thức canh tác mới
NLKH. Điều này chỉ trở thành hiện thực khi quyền sở hữu đất cho người dân được đảm
bảo kết hợp với sự hỗ trợ ban đầu của nhà nước và các tổ chức phi chính phủ về vốn, vật


tư, kỹ thuật và đặc biệt là thông tin thị trường.
Từ khóa: Nông lâm kết hợp, canh tác nương rẫy, bền vững.

1


I. GIỚI THIỆU
Vùng thượng nguồn sông Đà của tỉnh Hòa Bình là nơi sinh sống chủ yếu của cộng đồng
các dân tộc thiểu số, có vị trí đặc biệt quan trọng trong duy trì và bảo vệ hoạt động của nhà
máy thủy điện Hoà Bình và vùng châu thổ sông Hồng trong đó có thủ đô Hà nội, ở đó
người dân vẫn còn tiếp tục canh tác nương rẫy và chăn thả theo kiểu truyền thống, cùng
với sự gia tăng dân số, đây là một trong những nguyên nhân chính làm suy giảm tài nguyên
rừng trong vùng.
Trong hai thập kỷ qua, chính phủ Việt nam và cộng đồng Quốc tế đã có nhiều nỗ lực để
ngăn chặn tình trạng này, thông qua các chương trình, dự án trọng điểm Quốc gia. Tuy
nhiên trên thực tế hiệu quả của các chương trình, dự án này mới chỉ đáp ứng một phần rất
nhỏ so với yêu cầu mà thực tế đặt ra và chưa thực sự đi vào cuộc sống sản xuất của bà con
các dân tộc thiểu số, đời sống người dân còn gặp không ít khó khăn. Một trong những
nguyên nhân chính là thiếu thông tin về hoạt động canh tác nương rẫy của người dân trong
vùng và thiếu sự phân tích mối quan hệ của nó với vấn đề phát triển đất dốc.
Do vậy, để giảm bớt và tiến tới chấm dứt hoạt động canh tác nương rẫy trong vùng,
từng bước ổn định cuộc sống người dân hướng tới phát triển bền vững, cần phải có hướng
canh tác mới bền vững. Hệ thống nông lâm kết hợp đáp ứng được những yêu cầu này.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng về canh tác nương rẫy và nông lâm kết hợp (NLKH) trên địa bàn,
làm cơ sở đề xuất giải pháp phát triển hệ thống NLKH nhằm thay thế canh tác nương rẫy.
2. Mục tiêu cụ thể



Nghiên cứu hiện trạng canh tác nương rẫy và nông lâm kết hợp.



Tìm hiểu phương thức kiếm sống của những người canh tác nương rẫy.



Tìm hiểu nhận thức và sự tham gia của người dân vào hệ thống NLKH.



Xác định yếu tố ảnh hưởng đến người dân trong việc áp dụng hệ thống NLKH.



Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển hệ thống NLKH.

III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Một số công cụ trong phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có người dân tham gia
(PRA): thảo luận nhóm, phỏng vấn bán cấu trúc, quan sát trực tiếp và điều tra nông hộ
được sử dụng để thu thập số liệu thứ cấp, trong đó phương pháp điều tra nông hộ được sử
dụng chủ yếu. Số liệu được phân tích và xử lý bằng phần mềm SPSS, phần mềm EDARD
và Arc View cũng được sử dụng để phân tích và xử lý ảnh vệ tinh Landsat TM.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Bản Tát là nơi sinh sống chủ yếu của cộng đồng người Tày họ định cư từ nhiều đời nay,
bản có vị trí tương đối thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin với bên ngoài. Toàn bản có
104 hộ bao gồm 475 nhân khẩu, 90% dân số trong độ tuổi lao động làm nghề nông, hầu hết
các hộ sống cạnh đường tỉnh lộ 433 nối thị xã Hòa Bình, thị trấn Đà Bắc và huyện Mường

Chiềng. Phương thức kiếm sống chủ yếu của người dân ở đây chủ yếu dựa vào hoạt động
sản xuất nông nghiệp và khai thác các sản phẩm rừng. Hoạt động sản xuất nông nghiệp
gồm: canh tác lúa nước, lúa nương, ngô, dong riềng, và gừng. Một số hộ đã áp dụng hệ

2


thống canh tác NLKH trên đất vườn rừng và vườn tạp, tuy nhiên hoạt động này mang tính
tự phát nên qui mô của hệ thống NLKH còn nhỏ.
2. Canh tác nương rãy tại bản Tát
Mặc dù phát rừng làm rẫy hiện nay được coi là bất hợp pháp, tuy nhiêu các hộ trong bản
vẫn duy trì phương thức canh tác này, hầu hết các hộ đều có các loại đất: (i) đất thuộc khu
vực qui hoạch để làm nương rẫy của bản, loại đất này không nhiều lại nghèo xấu, do canh
tác nhiều lần và thường xuyên bị trâu bò phá hoại, dẫn đến hiệu quả sử dụng đất không
cao; (ii) đất rừng khoán bảo vệ cho hộ gia đình theo NĐ 02/CP và NĐ 163/CP; (iii) đất
phát rừng làm rẫy ở trong rừng sâu và (iv) đất xâm canh ở Vĩnh phú nơi giáp ranh với bản.
Bình quân mỗi hộ gia đình có từ 1 đến 4 mảnh đất nằm rải rác ở những nơi khác nhau,
thường cách nhà khoảng 4-5 km (mất 3 đến 5 tiếng đi bộ), một số mảnh cách nhà khoảng
10 km (mất nửa ngày đi bộ). Cây trồng trên nương chủ yếu là lúa nương, ngô, dong riềng
và sắn. Tổng diện tích đất nương rẫy của toàn bản giảm nhanh trong hai năm qua, tuy
nhiên diện tích đất trồng dong riềng tăng lên đáng kể, diện tích lúa nương không ổn định,
trong khi đó diện tích sắn và ngô giảm. Sở dĩ có hiện tượng này là do đất bị bạc màu, giá
cả của các cây trồng trên bấp bênh và bà con vẫn sử dụng các giống địa phương với năng
suất thấp. Ngoài ra còn do một số nguyên nhân khác như việc cấm phát nương làm rẫy của
nhà nước và do trâu bò phá hoại. Diện tích dong riềng tăng lên đáng kể trong những năm
qua là do loại cây này dễ trồng và tiêu thụ dễ dàng, do đó hiện nay dong riềng là loại cây
đem lại nguồn thu đáng kể cho nông hộ.
Mặc dù hầu hết các hộ trong bản nhận thức được canh tác nương rẫy là công việc rất nặng
nhọc, tốn nhiều công sức, lại cho hiệu quả kinh tế thấp và tác động xấu đến môi trường, tuy
nhiên họ vẫn phải duy trì phương thức canh tác này là do:

• Nghèo đói
Bản Tát là một trong những bản nghèo nhất của huyện Đà Bắc thuộc đối tượng của dự án
135, hầu hết các hộ trong bản đều thiếu ăn từ 2 đến 6 tháng trong năm, bình quân 4,5
tháng. 53,8% số hộ nằm dưới ngưỡng nghèo đói Quốc gia. 95.1% số hộ phỏng vấn cho
rằng việc họ vẫn tiếp tục duy trì canh tác nương rẫy với lý do họ là những người nghèo, rất
dễ bị tổn thương khi khi tham gia các hoạt động sản xuất cần có đầu tư, do vậy con đường
tốt nhất đến với họ là canh tác nương rẫy.
• Thiếu đất sản xuất nông nghiệp
Đất bằng dành cho sản xuất nông nghiệp có vai trò rất quan trọng đảm bảo an ninh lương
thực cho cư dân vùng cao, mặc dù diện tích đất hoang hóa ở bản Tát còn khá nhiều, tuy
nhiên việc cải tạo loại đất này để trở thành đất sản xuất nông nghiệp đòi hỏi một lượng vốn
lớn, điều này lại vượt quá khả năng của người dân trong bản. Do vậy, để duy trì cuộc sống
cách tốt nhất đối với họ là khai thác các loại tài nguyên có sẵn như tài nguyên rừng và áp
dụng các phương thức canh tác đơn giản như canh tác nương rãy. 92,6% số hộ phỏng vấn
cho rằng thiếu đất để sản xuất lúa nước; 70,1% cho rằng thiếu đất bằng để trồng cây màu
đây là những lý do đẩy họ đến với nương rẫy để đảm bảo an ninh lương thực.
• Quyền sở hữu đất không rõ ràng
Trên thực tế mỗi hộ gia đình ở bản Tát có 4 loại đất kể trên đang được sử dụng để canh tác
nương rẫy, tuy nhiên chỉ có một phần đất chân đồi thuộc đất rừng được giao khoán bảo vệ
và đất thuộc khu vực qui hoạch canh tác nương rẫy của bản là được phép làm nương rẫy,
hai loại đất còn lại được coi là làm nương rẫy trái phép. Ngay cả phần đất qui hoạch để sản
xuất nương rẫy của bản cũng không được phân chia đến từng hộ, mà hàng năm các hộ tự
do phát nương rẫy theo khả năng của gia đình họ mà không có bất kỳ loại giấy chứng nhận
nào đảm bảo quyền sở hữu đất lâu dài, điều này đã ảnh hưởng đến việc quyết định đầu tư
của họ vào các phương thức canh tác mang tính lâu dài như NLKH.
3


• Thiếu kiến thức kỹ thuật
Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất cần phải có các biện pháp canh tác mới phù hợp, tuy

nhiên ở bản Tát người dân vẫn sử dụng các giống địa phương với năng suất thấp, không sử
dụng phân bón và thuốc trừ sâu, phương thức canh tác chủ yếu là chọc lỗ bỏ hạt, họ chưa
quen với kỹ thuật trồng lúa nước hoặc trồng các loại giống mới. Trong khi đó lực lượng
khuyến nông/lâm của huyện quá mỏng, toàn huyện có bốn cán bộ khuyến nông, gồm
trưởng phòng và ba khuyến nông viên. Ba trong số họ là người Kinh, hiểu biết về phong
tục tập quán và các phương thức sản xuất của bà con các dân tộc thiểu số còn hạn chế. Hơn
nữa, do hạn chế về nguồn ngân sách cộng với chế độ ưu đãi cho cán bộ khuyến nông của
nhà nước cho vùng cao chưa thoả đáng, do vậy các hoạt động khuyến nông/lâm còn mang
tính hình thức chưa thực sự có hiệu quả, hầu hết các mô hình trình diễn được xây dựng
nằm ở khu vực trung tâm huyện nơi người Kinh sinh sống, việc tiếp cận với các dịch vụ
khuyến nông/lâm của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong đó có người Tày còn ít có cơ
hội tiếp cận.
• Thiếu vốn
Năng suất đất có thể được cải thiện bằng cách đầu tư vốn nhiều hơn để thâm canh, tuy
nhiên ở bản Tát người dân còn rất nghèo họ không có đủ khả năng làm việc này. Mặc dù
có rất nhiều nguồn cung cấp vốn đóng trên địa bàn huyện Đà Bắc nhưng việc tiếp cận với
các nguồn vốn này không dễ dàng. Hầu hết người dân phàn nàn về thủ tục vay vốn phức
tạp và thời hạn vay vốn quá ngắn không phù hợp với chu kỳ sản xuất của các loại cây dài
ngày. 45 trong số 82 hộ gia đình được phỏng vấn cho biết họ đã nộp đơn xin vay vốn để
đầu tư sản xuất, trong đó 35 hộ chưa một lần được chấp nhận. Do thiếu vốn, cùng với thiếu
kỹ thuật nên hầu hết người dân không sử dụng phân bón hoặc các loại thuốc bảo vệ thực
vật, đây là nguyên nhân dẫn đên năng suất cây trồng thấp.
• Thị trường kém phát triển
Việc quyết định nuôi trồng cây con gì của người dân ở bản Tát hoàn toàn phụ thuộc vào
cảm tính hoặc các loại cây trồng năm trước, trong khi đó thiếu vắng hệ thống các chợ ở địa
phương nên hầu hết các sản phẩm người dân làm ra đều nằm dưới sự kiểm soát, khống chế
của các tư thương, dẫn đến giá cả các mặt hàng nông/lâm sản rất bấp bênh, điều này đã làm
nản lòng người dân trong việc gia tăng các cây trồng vật nuôi trên mảnh đất của họ.
• Tập quán canh tác truyền thống
Canh tác nương rẫy là phương thức canh tác được người dân áp dụng từ nhiều đời nay, do

vậy việc chuyển sang phương thức canh tác mới không dễ dàng thay đổi. Mặc dù, trong
những năm qua một số dự án của nhà nước và các tổ chức phi chính phủ đã giới thiệu
những mô hình canh tác bền vững trên đất dốc, nhằm ổn định và nâng cao đời sống của
cộng đồng dân tộc vùng cao trong đó có bản Tát, tuy nhiên các chương trình này thường
chưa quan tâm nhiều đến phong tục tập quán cũng như thói quen canh tác của người dân,
do vậy họ rất thụ động với những thay đổi trong các phương thức canh tác mới mà các dự
án mang lại.
II. Các phương thức kiếm sống của người dân
Nguồn thu nhập chủ yếu của người dân ở bản Tát từ sản xuất Nông nghiệp và khai thác sản
phẩm rừng. Rất ít hộ có nguồn thu từ các hoạt động khác.
1. Hoạt động sản xuất nông nghiệp
1.1. Trồng trọt
a) Lúa nước
Lúa nước là nguồn cung cấp lương thực quan trọng cho người dân trong bản, theo số liệu
thống kê năm 2002, toàn bản có 8,4 ha đất ruộng với diện tích bình quân đầu người khoảng
4


396,7 m2. Lúa nước nằm ven theo hai bên suối Tát và một phần được trồng trên các ruộng
bậc thang. Trước đây người dân bản Tát chỉ sử dụng phân gia súc để bón ruộng, nhưng
trong những năm gần đây họ đã bắt đầu sử dụng phân hoá học. Diện tích lúa nước tăng nhẹ
trong những năm gần đây do nhà nước có chương trình khuyến khích khai hoang mở rộng
diện tích lúa nước, nên người dân đã tận dụng chân đồi và vùng đất dọc sông để làm ruộng
bậc thang. Tuy nhiên, do dân số tăng nên diện tích bình quân đầu người lại giảm. Người
dân bắt đầu có nhận thức tốt hơn trong canh tác, một số giống lúa ngắn ngày cho năng suất
cao và có khả năng chống chịu sâu bệnh cũng đã dần đưa vào trồng tại bản. Hầu hết diện
tích lúa nước không chủ động tưới tiêu mà hoàn toàn phụ thuộc vào nước trời, do vậy trong
những năm thời tiết bất hoà thường hay bị mất mùa.
Kết quả kiểm định T chỉ ra rằng nhóm hộ áp dụng NLKH có thu nhập từ lúa nước cao hơn
nhóm hộ canh tác nương rẫy ở mức ý nghĩa thống kê 99%.

b) Nương rẫy
Theo số liệu thống kê năm 2002 bản Tát có 54,2 ha đất nương rẫy, trong đó có 7,4 ha đất
trồng lúa nương chiếm 13,6%, diện tích nương rẫy liên tục giảm trong hai năm qua, một
mặt do nhà nước thực hiện chính sách giao đất giao rừng, họ không được phép phát rừng
để làm nương mới tự do như trước kia, trong khi đó khu vực qui hoạch để sản xuất nương
rẫy của bản đất đai lại nghèo xấu, thường xuyên bị trâu bò phá hoại, cỏ dại và sâu bệnh
xuất hiện ngày càng nhiều.
Người dân nhận thức được Canh tác nương rẫy là công việc rất vất vả, năng suất cây trồng
trên nương thấp hơn so với trước kia, dân số tăng dẫn đến thời gian bỏ hoá ngày càng bị rút
ngắn. Tuy nhiên, phần lớn người dân cho rằng do họ không có việc làm nào khác trong lúc
nông nhàn nên họ vẫn duy trì phương thức canh tác này, cây trồng chính trên nương là lúa
nương, sắn, dong riềng, gừng và ngô. Hầu hết các nương trồng lúa vào năm đầu tiên, năm
tiếp theo được dùng để trồng sắn hoặc dong riềng, đất nương rẫy manh mún và phân bố rải
rác đã gây nhiều khó khăn cho người dân trong việc tổ chức sản xuất. 40% số hộ có tổng
thu nhập từ nương rẫy trên 1,5 triệu đồng trong một năm chủ yếu thuộc nhóm hộ canh tác
nương rãy, còn đối với nhóm hộ áp dụng hệ thống canh tác NLKH thường có tổng thu
nhập từ nương rẫy thấp hơn (1,5 triệu đồng).
Kết quả kiểm định T cho thấy có nhóm hộ canh tác nương rẫy có thu nhập từ nương rẫy
cao hơn nhóm hộ áp dụng NLKH ở mức ý nghĩa thống kê 95%.
c) Nông lâm kết hợp
NLKH hiện chưa phổ biến ở xã Tân Minh nói chung, bản Tát nói riêng, toàn bản có 21 hộ
áp dụng canh tác NLKH ở qui mô vườn rừng, diện tích biến động từ 2.000m2 đến
25.000m2, diện tích trung bình là 15.400m2. Các loài cây trồng lâu năm chủ yếu là: xoan,
cọ, và bồ đề, trong đó xoan là cây lâu năm trồng phổ biến nhất và được trồng ngay từ đầu
với vụ lúa nương đầu tiên, khi xoan lớn và khép tán thì người dân không trồng xen cây
nông nghiệp, gỗ xoan được khai thác sau 7 hoặc 8 năm chủ yếu dùng để làm nhà và bán,
còn bồ đề chủ yếu dùng để làm củi. Bình quân thu nhập từ vườn rừng mang lại cho mỗi hộ
gia đình ở bản Tát từ 1,4 đến 4,3 triệu đồng mỗi năm.
1.2 Chăn nuôi
Chăn nuôi đóng góp một phần đáng kể vào thu nhập của nông hộ, hầu hết các hộ đều nuôi

một vài con gia súc như trâu, bò. Trâu nuôi chủ yếu đề lấy sức kéo cày và khai thác gỗ, bò
được nuôi chủ yếu để bán, hầu hết các hộ coi gia súc như là “khoản tiết kiệm sống”, chúng
được bán khi hộ có những công việc lớn trong gia đình như cưới vợ gả chồng, làm nhà. Số
hộ chăn nuôi tăng lên trong những năm gần đây, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu thị trường
dưới xuôi. Phương thức chăn nuôi chủ yếu là thả rông trong rừng hoặc trên các nương bỏ
hoá. 71% hộ gia đình trong bản chăn nuôi lợn chủ yếu để bán và lấy phân bón ruộng. Lợn
5


có vai trò quan trọng trong các nghi lễ tại địa phương, tục lệ cưới xin nhà trai phải trao cho
nhà gái một vài con lợn để xin cưới. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất mà nghề chăn nuôi bản
Tát gặp phải là dịch bệnh thường xuyên xảy ra.
Trâu bò được bán sau khi nuôi 1 đến 2 năm, bình quân thu nhập từ chăn nuôi mỗi năm cho
nông hộ khoảng 3,6 triệu đồng, số liệu này cao hơn ở nhóm hộ canh tác NLKH .
2. Hoạt động phi nông nghiệp
2.1. Khai thác lâm sản
Lâm sản có vai trò quan trọng đối với cuộc sống của người dân bản Tát, măng và rau rừng
là nguồn thực phẩm chính trong những tháng thiếu ăn. 50% các hộ trong bản tham gia vào
hoạt động khai thác gỗ, 100% hộ thường vào rừng kiếm củi và thu hái lâm sản phụ. Mặc
dù nhà nước đã có chủ trương đóng cửa rừng, nghiêm cấm việc khai thác lâm sản đặc biệt
là khai thác gỗ, tuy nhiên hoạt động này vẫn diễn ra thường xuyên ở bản Tát. Phần lớn nam
thanh niên và những người trung tuổi trong bản tham gia hoạt động này, tiền công khai
thác gỗ mỗi ngày khoảng 50,000 đồng/người ; và tre nứa là 30,000 đồng/người, trong khi
đó từ nương rẫy như sắn hoặc dong riềng chỉ được khoảng 15,000-20,000 đồng/ngày trong
những năm được mùa được giá. Trong khi đó việc quản lý lỏng lẻo của chính quyền địa
phương và các cơ quan chức năng đây chính là nguyên nhân dẫn đến tài nguyên rừng trong
bản và các vùng lân cận liên tục suy giảm.
Thu nhập trung bình từ khai thác gỗ ở bản Tát là 1,2 triệu đồng/hộ, số liệu này ở nhóm hộ
canh tác nương rẫy là 1,4 triệu đồng cao hơn nhóm hộ áp dụng NLKH (0,71 triệu
đồng/hộ/năm) ở mức ý nghĩa thống kê 99%.

2.2. Lâm sản phụ
Hầu hết các hộ gia đình trong bản đều tham gia hoạt động khai thác lâm sản phụ như tre
nứa, nấm, mộc nhĩ,...Trước đây, nam giới trong bản thường vào rừng săn bắn thú rừng
nhưng hiện nay chỉ còn một số rất ít người tham gia công việc này.
Thu nhập bình quân từ lâm sản phẩm phụ trong toàn bản khoảng 1,2 triệu đồng/hộ, nhóm
hộ canh tác nương rãy là 1,55 triệu đồng/hộ cao hơn nhóm hộ canh tác NLKH (0,82 triệu
đồng) ở mức ý nghĩa thống kê 99%.
2.3. Thu nhập từ nghề phụ
Nghề phụ có vai trò quan trọng góp tạo công ăn việc làm cho người dân trong những lúc
nông nhàn, qua đó giảm áp lực lên tài nguyên rừng. Tuy nhiên ở bản Tát nghề phụ chưa
phát triển, theo số liệu điều tra thì chỉ một số ít hộ có thu nhập từ nghề phụ. Nghề phụ ở
bản Tát bao gồm: làm thuê (chiếm 12%); bán hàng (chiếm 7,3%); xe ôm (chiếm 3,4%), và
sản xuất hàng thủ công (3,0). Kết quả kiểm định cho thấy thấy không có sự khác biệt về
thu nhập từ nghề phụ giữa hai nhóm hộ.
3. Thu nhập, chi tiêu và tiết kiệm
Như phân tích ở trên, phương thức kiếm sống của người dân bản Tát sống chủ yếu yếu
dựa vào canh tác lúa nước, canh tác nương rẫy rãy, chăn nuôi, khai thác lâm sản và nghề
phụ. Nhóm nhóm hộ canh tác NLKH có thu nhập hàng năm cao hơn nhóm hộ canh tác
nương rẫy, hầu hết các hộ đều có các khoản chi tiêu giống nhau bao gồm: lương thực, thực
phẩm, đồ dùng gia đình, hoạt động xã hội, tư liệu sản xuất, giáo dục, y tế và các khoản chi
tiêu khác.
Giá trị thu nhập thuần mang giá trị dương đối với nhóm hộ áp dụng NLKH và ngược lại
mang giá trị âm đối với nhóm hộ canh tác nương rẫy. Đây cũng là một trong những lý do
giải thích tại sao những người nghèo trong bản không thể từ bỏ hình thức canh tác nương
rãy.

6


III. Nhận thức của người dân về hệ thống NLKH

1. Nhận thức về lợi ích của hệ thống NLKH
Theo Chundawat và cộng sự (1993) lợi ích mà hệ thống NLKH mang lại bao gồm (i) lợi
ích kinh tế, (ii) lợi ích môi trường và (iii) lợi ích xã hội. Phần này nhằm tìm hiểu nhận thức
của người dân về các lợi ích trên thông qua giá trị WAI ở bảng sau:
Bảng 1: Lợi ích của mô hình NLKH theo đánh giá của người dân
Nhóm
Nhóm hộ canh tác Nhóm áp dụng hệ
nương rẫy
thống NLKH
0,30
1,52
0,34
1,38
0,15
1,24
0,26
1,38
1,03
1,43
0,70
1,0
0,38
1,48
0,38
1,24
0,11
1,43
0,03
0,52
0,44

1,17
0,43
1,14
0,16
1,29
0,29
1,21

Chỉ tiêu

Xã hội

Môi trường

Kinh tế

1. Đa dạng hoá sản phẩm
2. Giảm rủi ro
3. Nâng cao thu nhập
Trung bình
4. Giảm xói mòn
5. Reduction of lose forest
6. Sử dụng đất có hiệu quả hơn
7. Giảm canh tác nương rãy
8. Tăng độ phì của đất
9. Giảm thiên tai
Trung bình
10. Định canh
11. Tạo công ăn việc làm
Trung bình

Nguồn: Số liệu điều tra 2001

WAI1
0,61
0,61
0,43
0,55
1,13
0,78
0,66
0,60
0,43
0,16
0,63
0,61
0,45
0,53

Kết quả cho thấy, hầu hết người dân bản Tát đều nhận thức được các lợi mà hệ thống
NLKH mang lại, tuy nhiên nhận thức này chỉ ở mức độ trung bình (WAI<0.67). Trong
những lợi ích trên thì họ quan tâm nhất là lợi ích về môi trường (WAI=0,63), tiếp theo là
lợi ích về kinh tế (WAI=0,55), và cuối cùng là xã hội (WAI = 0,53).
Kết quả kiểm định T cho biết nhóm hộ áp dụng NLKH có nhận thức về các lợi ích của hệ
thống NLKH cao hơn nhóm hộ canh tác nương rẫy ở mức ý nghĩa thống kê 99%.
2. Mức độ mong muốn áp dụng hệ thống NLKH của người dân
Sau khi người dân nhận thức được lợi ích hệ thống NLKH mang lại, họ cần phải tìm hiểu
xem liệu hệ thống canh tác này có phù hợp với đình họ không, chỉ tiêu WAI được áp dụng
để xác định mức độ mong muốn áp dụng hệ thống canh tác NLKH của người dân.
Bảng 2: Mức độ mong muốn áp dụng mô hình NLKH
Nhóm


Tổn
g

Nhóm canh tác nương rẫy
61
Nhóm áp dụng NLKH
21
Tổng
82
Nguồn: Số liệu điều tra 2002

1

%
100
100
100

Mức độ mong muốn áp dụng
hệ thống NLKH
Cao
Trung bình
Thấp
N
%
N
%
N
%

29 47,5
25
40,9
7 11,5
20 95,2
1
4,7
0
0
49 59,7
26
31,7
7
8,5

WAI (Weighted Average Index): Chỉ số tổng hợp

7

WAI
0,78
0,98
0,84


Giá trị của WAI bảng trên cho thấy hầu hết các hộ đều có mong muốn áp dụng hệ thống
NLKH ở mức độ cao (WAI>0.67)
3. Phân tích các yếu tố lý sinh, kinh tế, xã hội và thể chế ảnh hưởng đến người dân trong
việc áp dụng mô hình NLKH
Tổng hợp kết quả điều tra cho thấy có 30 nhân tố mà người dân nhận thức cho là có ảnh

hưởng đến họ trong việc ra áp dụng hệ thống canh tác NLKH. Phần này nhằm xác định
nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến việc áp dụng hệ thống canh tác NLKH của người dân
phương pháp phân tích nhân tố đã được áp dụng.
Bảng 3: Ma trận xác định nhóm nhân tố ảnh hưởng đến người
dân áp dụng hệ thống NLKH
Biến số
HYBRID
FARMER
OPPORT
TRAIN
LABOR
RE_RISK
FO_SECURI
KNOW_EXP
TT_INCOM
FRE_CATT
LAND
INCOM
INPUT
FAR_INST
SOIL
MARKET
INFORM
NU_CATTL
TT_EXPEN
WATER
INFRAC
PADDY
CAPITA
IN_SUPPO

HH_MEMBE
HH_ACTI
SWIDDEN
HH-EDUCA
FOR_AREA
HOM_GA
Eigenvalue
% Độ biến động
% Cộng dồn

1
.843
.815
.811
.789
.691
.630
.619
.545

2

Nhân tố
4

3

5

6


7

.891
.874
.871
.468
-.831
.810
.767
.718
.706
-.538
.706
.701
-.694
.625
.603
-.571
.886
.737
.775
-.736
110
17,7
17,7

4,573
15,2
32,9


4,065
13,5
46,5

3,902
13,0
59,5

2,286
7,6
67,1

1,831
6,1
73,2

.847
.432
1,636
5,5
78,7

Cum*
0,883
0,900
0,873
0,896
0,779
0,819

0,840
0,751
0,749
0,908
0,860
0,899
0,796
0,883
0,860
0,845
0,829
0,753
0,546
0,904
0,613
0,849
0,835
0,720
0,849
0,777
0,668
0,606
0,698
0,405

Ghi chú: Những hệ số tương quan có giá trị nằm trong khoảng từ -0,4 đến 0,4 được bỏ qua

8



Kết quả phân tích nhân tố đã nhóm 30 nhân tố trên thành 7 nhóm nhân tố và giải thích
78,7% tổng độ biến động của toàn số liệu. Trong đó, nhóm nhân tố thứ nhất giải thích
17,7%, nhóm nhân tố thứ hai giải thích 15,2%; nhóm nhân tố thứ ba giải thích 13,5%;
nhóm nhân tố thích 13,0%, nhóm nhân tố thứ năm giải thích 7,6%; nhóm nhân tố thứ sáu
giải thích 6,1% và nhóm nhân tố thứ bảy giải thích 5,5%.
Nhóm nhân tố thứ nhất bao gồm các nhân tố: giống mới; học hỏi từ nông hộ thành công;
cơ hội tham gia các khoá tập huấn; lao động gia đình; giảm rủi ro; an toàn lương thực, kiến
thức và kinh nghiệm. Nhóm nhân tố này giải thích 17,7% độ biến động và có độ biến động
lớn nhất trong các nhóm trên.
Sau khi xác định được nhóm nhân tố ảnh hưởng đến người dân áp dụng hệ thống canh tác
NLKH, phương pháp phân tích hồi qui đa biến được áp dụng để xác định mức độ ảnh
hưởng cũng như chiều hướng ảnh hưởng của từng nhân tố thông qua hệ số tương quan và
dấu của chúng.
Bảng 4: Nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng mô hình NLKH
Biến số
Hộ gia đình năng động
Diện tích đất lúa
Thu nhập từ NLKH
An ninh lương thực
Tiếp cận thị trường
Chương trình tập huấn khuyến nông
Phổ biến thông tin
Kiến thức và kinh nghiệm
Quyền sử dụng đất rõ ràng

Hệ số tương quan
0,368**2
0,323**
0,706**
0,330**

0,503**
0,319**
0,403**
0,611**
0,805**

Mức độ
Trung bình
Trung bình
Cao
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Trung bình
Cao

Ghi chú: <0,3: tương quan yếu; từ 0,3 - 0,7: tương quan trung bình; >0,7: tương quan mạnh

Tất cả các nhân tố ở bảng 4 đều có tương quan hồi qui với mức độ mong muốn áp dụng hệ
thống NLKH ở mức độ tương quan từ trung bình đến cao. Phương pháp Stepwise được áp
dụng để xác định nhân tố chính ảnh hưởng đến người dân áp dụng NLKH
Bảng 5: Hệ số tương quan hồi quy về mức độ áp dụng mô hình NLKH
Nhân tố
Hệ số tương quan
(Hằng số)
-0,03637
Quyền sử dụng đất rõ ràng
.764
Diện tích đất lúa

-0,0000131
Tiếp cận thị trường
.125

T-value
-.541
9,274
2,891
2,497

Mức ý nghĩa
.000
.000
.005
.015

Y (Mức độ áp dụng) = -0,036 + 0,764 *(Quyền sử dụng) + 0,000013*(Diện tích đất lúa)
+ 0.125* (Tiếp cận thị trường)
R2 = 69,8
Qua mô hình trên cho biết nhân tố quan trọng ảnh hưởng lớn nhất đến việc áp dụng hệ
thống canh tác NLKH của người dân là “quyền sử dụng đất”,

2

** Có ý nghĩa thống kê ở mức độ tin cậy 99%
9


IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận

1. Canh tác nương rẫy hiện vẫn là phương thức canh tác phổ biến ở bản Tát, thời gian bỏ
hóa ngày càng bị rút ngắn, người dân thường sản xuất độc canh với các giống địa
phương cho năng suất thấp, không sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu và không có bất kỳ
biện pháp kỹ thuật bảo vệ đất nào.
2. Nguyên nhân chính đẩy người dân vẫn duy trì canh tác nương rẫy là do: nghèo đói; áp
lực dân số; thiếu đất bằng sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đất lúa nước; thủ tục tiếp
cận với các nguồn vốn còn rườm rà; hạn chế về số và chất lượng của các dịch vụ
khuyến nông; thiếu sự tham gia của người dân trong các dự án phát triển; thiếu sự phối
kết hợp giữa các tổ chức nhà nước ở địa phương trong quá trình thực hiện các chủ
trương chính sách của nhà nước; và thị trường kém phát triển, tất cả là những nguyên
nhân đẩy người dân vẫn tiếp tục duy trì phương thức canh tác nương rẫy và khai thác
các sản phẩm rừng.
3. Hệ thống NLKH đã được khuyến khích phát triến trên địa bàn, nhưng số hộ áp dụng
vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân chính là họ thiếu có kỹ thuật và thông tin thị trường.
4. Phương thức kiếm sống chủ yếu của người dân ở bản Tát chủ yếu từ sản xuất nông
nghiệp và khai thác lâm sản. Nghề phụ chưa phát triển. Người dân thường chú trọng
vào phát triển chăn nuôi chăn nuôi đại gia súc hơn là trồng trọt. Thu nhập chính của
nhóm hộ canh tác nương rãy và nhóm canh tác NLKH chủ yếu từ chăn nuôi, nhóm hộ
áp dụng canh tác NLKH có thu nhập từ chăn nuôi và lúa nước cao hơn nhiều so với
nhóm canh tác nương rãy. Ngược lại, nhóm hộ canh tác NLKH lại có thu nhập từ lâm
sản phụ và nương rãy thấp hơn hơn nhiều so với nhóm hộ canh tác nương rãy. Không
có sự khác nhau về thu nhập từ nghề phụ giữa hai nhóm.
5. Nguồn thông tin chủ yếu mà người dân nhận được về NLKH chủ yếu từ các tổ chức địa
phương như Hội phụ nữ và Hội cựu chiến binh. Phần lớn các hộ dân tại địa bàn nghiên
cứu hài lòng với các lợi ích mà hệ thống NLKH mang lại. Trong đó lợi ích về môi
trường được đánh giá là cao hơn cả, tiếp theo là lợi ích về kinh tế và lợi ích xã hội.
6. Nhân tố “an toàn trong sử dụng đất” là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến người
dân trong việc ra quyết định áp dụng hệ thống NLKH.
2. Kiến nghị
Dựa trên các kết quả nghiên cứu chúng tôi có một số khuyến nghị sau:

1. Sử dụng đất
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cần đuợc cấp kịp thời cho người dân để cho họ yên
tâm đầu tư sản xuất, quá trình này cần dựa trên sự tham gia của người dân.
2. Hỗ trợ vốn
Hỗ trợ ban đầu để xây dựng các mô hình NLKH cần được hỗ trợ cả về vốn và vật tư, cần
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc tiếp cận các nguồn vốn, lượng vốn vay,
lãi xuất và thời gian hoàn vốn. Hệ thống tín dụng cần phải linh hoạt hơn, đơn giản hoá thủ
tục vay vốn. Thời gian vay vốn phải phù hợp với chu kỳ cây trồng sao cho khi hết hạn vay
vốn thì người dân có đủ tiền để trả.
Đối với hỗ trợ bằng hiện vật, cần hỗ trợ vật tư đầu vào cần thiết như cây giống, con giống
cho người dân đặc biệt là những nông dân điển hình họ sẵn sàng áp dụng những tiến bộ kỹ
thuật mới để xây dựng mô hình NLKH.

10


4. Tăng cường các hoạt động khuyến nông
Chương trình khuyến nông cần chú ý các điểm sau:
• Tăng cường sự thăm hỏi của cán bộ khuyến nông
Nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động khuyến nông, các tổ chức khuyến nông cần phải
tăng cường cán bộ, cần phải ưu tiên người dân tộc thiểu số trong tuyển dụng lực lượng
khuyến nông, trang bị kiến thức cho họ đồng thời mở rộng mạng lưới nhằm tạo điều kiện
cho cộng đồng dân tộc thiểu số tiếp cận tốt hơn với dịch vụ khuyến nông.
Thành công của các mô hình trình diễn có vai trò quan trọng trong đó cần phải chú trọng
việc xây dựng thành công các mô hình này
• Tập huấn và hỗ trợ kỹ thuật
Phòng khuyến nông cần chú trọng phổ biến kiến thức kỹ thuật nhằm nâng cao lợi ích của
mô hình NLKH. Các mô hình thành công góp phần khuyến khích các nông hộ mở rộng
phạm vi áp dụng mô hình NLKH. Khi thiết kế chương trình tập huấn, cần chú trọng đến
khía cạnh thị trường, giống cây, con và vườn ươm.

• Thông tin thị trường
Thông tin thị trường là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến người dân trong việc áp dụng
mô hình NLKH tại địa bàn nghiên cứu. Do đó, phòng khuyến nông cần phải kết hợp với
Sở Thương mại của tỉnh nhằm cung cấp thông tin kịp thời về giá cả sản phẩm, nơi họp chợ,
cung cầu các loại sản phẩm, và khả năng xuất khẩu.
• Tăng cường mạng lưới kết hợp giữa các tổ chức nhà nước và hội nông dân địa phương
Để phát triển mô hình NLKH tại địa phương cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa hội
nông dân và các tổ chức phi chính phủ nhằm tổ chức các chương trình tập huấn nâng cao
kiến thức về NLKH cho người dân. Phòng khuyến nông cần củng cố và tăng cường mạng
lưới kết hợp với hội nông dân cũng như các tổ chức phi chính phủ nhằm phổ biến kiến thức
và kỹ thuật để phát triển mô hình.
Tài liệu tham khảo
1. Chun, K.L. and D.P. Garrity (1998). 'People's Participation in Mountainous
Agroforestry Systems in Asia: Toward community-based landscape approaches', paper
prepared for International Symposium on Highland Ecosystem Management, Royal
Angkhang Agricultural Station, Chiangmai, Thailand, 26-31 May.
2. Chundawat B.S and Gautam S.K (1993).Textbook of Agro-forestry; Oxford & IBH
publishing Co.Pvt.Ltd, New Dethi
3. Cuc, Le Trong and A.Terry Ramboo. Northwest mountain of Vietnam: some problem
on environmental and socio-economic; Political Publishing House, Vietnam.
4. Cuc,Le Trong, Vien,Tran Duc (1995) .Farming System Adjustment to Natural
Resources Degradation in the Mountainous Areas of Vietnam. Ha Noi, Viet Nam:
Center for Natural Resources and Environmental Studies, Hanoi National University/
FAO.
5. Current, D., E. Lutz and S.J. Scherr (1995). 'The costs and benefits of agro-forestry to
farmers', The World Bank Research Observer vol 10 no 2: 151-180.
6. Grandstaff, T. (1978).'The Development of Swidden Agriculture (Shifting
Cultivation)', Development and Change vol 9, no 4: 547-579.
7. Greenland D. J. and B.N. Okigbo (1985) Cop Production under Shifting Cultivation
8. Gregersen, H., S. Draper, D. Elz (1989).People and Trees: The Role of Social Forestry

in Sustainable Development, EDI Seminar Series. Washington, D.C., USA: The World
Bank.
11


9. Ha,Nguyen Minh (1997).'Determinants of agroforestry system adoption in Binh Phuoc
Province - Viet Nam'. Unpublished M.A. dissertation, Vietnam - The Netherlands
Project on Development Economics, Ho Chi Minh City, Viet Nam.
10. Hieu,Luu Trong and Cai, Hoang Huu (1997).'Community-Based Natural Resource;
Political Publishing House, Vietnam
11. accessed on 21 December 2002.
12. accessed on 27
December 2002.
13. Jae-on kim and Charles W.Mueller (1986). Introduction to Factor Analysis, university
of Iowa
14. Jae-on Kim, Charles W. Mueller (1986), Factor Analysis: Statistical Methods and
Practical Issue, University of Iowa
15. Linh,Vu Biet and Binh,Nguyen Ngoc (1995). Agroforestry Systems in Viet Nam. Ha
Noi: Agricultural Publishing House.
16. Md.Abdul Quader Miah. Applied Statistics, A course Handbook for Human Settlement
Planning, Bangkok Thailand, Asian Institute of Technology. Division of Human
Settlement Development. 1993
17. Ministry of Agriculture and Rural Development (1996). 'Summary Report on
Allocation of Labour Force, Implementation of Fixed Cultivation and Sedentarization
Programme, period 1996-2000-2010'. Unpublished document, MARD, Hanoi, Viet
Nam.
18. Rummel. R. J. (1970). Applied Factor Analysis, University of Hawaii, printed in the
United State of Ameriaca
19. Reidar Dale (2000). Organization and Development, Strategy, structure and process
20. Reidar Dale (2002). People Development through People's Institutions, the social

Mobilization Progrram Hambantota, Sri Lanka
21. Sam, Do Dinh (1994). Shifting Cultivation in Viet Nam: Its social, economic and
environmental values relative to alternative land use, llED Forestry and Land Use
Series No. 3. London, UK: Intemational Institute for Environment and Development.
22. Sam,Do Dinh, Hoang Xuan Ty, Tran Van Con, An Van Bay (1998). Shifting
cultivation in some provinces of Viet Nam and community collaboration in forest
conservationChances in Shifting Cultivation in Africa. Rome: FAO, Forestry
Department.
23. Vien,Tran Duc (1998). Shifting cultivation: environmental issues and sustainable
agricultural development in slopes in Agricultural University I (1996) (Selection of
agricultural scientific and technological researches 1956-1996, in
Vietnamese),
pp. 87-93. Ha Noi: Agricultural Publishing House.
24. Vien,Tran Duc and collaborators. Mountainous Rural of Vietnam, some study toward
Sustainable Development’

12



×