Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu văn bản hát đám cưới viết bằng chữ nôm của dân tộc tày ở vùng đông bắc việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.54 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM HOÀNG GIANG
NGUYỄN KIM MĂN

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN HÁT ĐÁM CƯỚI
VIẾT BẰNG CHỮ NÔM CỦA DÂN TỘC TÀY
Ở VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: HÁN NÔM
Mã số: 62 22 01 04

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Khắc Mạnh.
Người phản biện 1: PGS.TS. Hoàng Thị Ngọ
Người phản biện 2: PGS.TS. Hà Văn Minh
Người phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Văn Thịnh

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng bảo vệ luận á cấp Học
viện họp tại: Học viện Khoa học Xã hội
Vào hồi

ngày tháng



năm

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tục hát đám cưới là một hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật có từ lâu đời
của dân tộc Tày ở các vùng miền núi phía bắc của nước ta. Tục hát được diễn ra
trong các dịp cưới xin của người Tày, và được nhân dân rất yêu thích. Hát đám cưới
mang các tên gọi khác như: Hát Quan lang, Hát Quan làng, v.v… Cũng giống như
các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật khác như Phong Slư, Lượn,... thì tục hát đám cưới
có tính chất sinh hoạt văn hóa quần chúng của đồng bào vùng cao, nhưng mặt khác
đây còn là hình thức sinh hoạt theo phong tục nghi lễ cưới xin của người Tày và
được hát lên trong những ngày vui đám cưới.
Ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, tục hát đám cưới của
người Tày ở các địa phương đã bị mai một và biến đổi đi rất nhiều, đặc biệt là sự
suy giảm về số lượng các cung, các bài hát và ngay cả lực lượng những những
người làm chủ hôn (Quan làng) theo phong tục truyền thống. Đây là một thực trạng
rất đáng lo ngại, ảnh hưởng rất nhiều đến việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
của dân tộc Tày hiện nay.
Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam,
hiện đang lưu trữ rất nhiều các văn bản được viết bằng chữ Nôm của người Tày, với
các loại như: truyện thơ, then, lượn, v.v…, trong đó có 8 văn bản về tục hát đám
cưới viết bằng chữ Nôm của người Tày. Đây là nguồn tư liệu vô cùng giá trị trong
việc bảo tồn và phát huy những nét đẹp văn hóa truyền thống đặc sắc của người Tày
nói chung, cũng như về tục hát đám cưới của người Tày nói riêng.

Từ những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Nghiên cứu văn bản hát
đám cưới viết bằng chữ Nôm của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam” làm đề
tài cho luận án Tiến sĩ chuyên ngành Hán Nôm.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu cụ thể nhằm giải quyết những các vấn đề về văn bản
hát đám cưới như: tác giả, niên đại của văn bản, số lượng cung hát và bài hát đám
cưới, chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới và giá trị của văn bản hát đám cưới.
Luận án tiến hành khảo sát 8 văn bản hát đám cưới chữ Nôm Tày, có kí hiệu lưu giữ
tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Kết quả của việc nghiên cứu này, sẽ đóng góp vào
thực tiễn sưu tầm, nghiên cứu và khai thác văn bản hát đám cưới viết bằng chữ
Nôm Tày nói riêng và văn bản chữ Nôm Tày nói chung.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận gồm các vấn đề
* Việc xác định tác giả, niên đại văn bản và tên gọi khác nhau của tục hát
đám cưới, căn cứ vào 3 nguồn cứ liệu: Thứ nhất, thể hiện bằng những ghi chép cụ
thể về niên đại, tác giả có trong 8 văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm Tày.
Thứ hai, đặc điểm của chữ Nôm Tày được chép trong các văn bản hát đám cưới.

1


Thứ ba, ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu đi trước về tên gọi của hát đám
cưới, như: Quan lang, Quan làng, v.v… Qua 3 nguồn cứ liệu đó, kết hợp với những
ghi chép về truyền thống văn hóa, con người của dân tộc Tày và thực tế nghiên cứu;
NCS đoán định rằng: các văn bản hát đám cưới ra đời sớm nhất cũng phải từ thế kỷ
XVII trở đi, hầu hết là khuyết danh và tên gọi của thể loại này có thể là Quan làng,
Quang lang, v.v… trong luận án này, NCS sử dụng tên gọi là hát đám cưới.
* Xác định số lượng các cung, bài hát đám cưới trong 8 văn bản hát đám
cưới viết bằng chữ Nôm Tày, NCS đã tiến hành khảo cứu, thống kê số lượng (lập

bảng biểu), phân loại các cung, các chặng hát khác nhau trong 8 văn bản hát đám
cưới. Từ đó, tổng hợp và đưa ra những nhận xét của mình.
* Để tìm hiểu đặc điểm chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới, NCS đã
khảo cứu 6 công trình nghiên cứu về chữ Nôm Tày của các tác giả đi trước, kế thừa,
tiếp thu thành quả của tiền bối, kết hợp tìm hiểu những đặc trưng riêng về chữ Nôm
Tày có trong văn bản hát đám cưới (bản ký hiệu ST.2195), NCS đã xác lập một mô
hình cấu trúc chữ Nôm Tày phù hợp với cấu trúc chữ Nôm có trong văn bản hát
đám cưới. Trên cơ sở đó, NCS đã tiến hành thống kê phân loại cấu trúc chữ Nôm
Tày trong một trường hợp văn bản hát đám cưới có kí hiệu tại Viện Nghiên cứu
Hán Nôm (ST.2195), nhận xét về các loại chữ Nôm về cấu trúc chữ Nôm Tày trong
văn bản hát đám cưới.
* Tìm hiểu giá trị văn bản hát đám cưới, NCS đã thực hiện các công tác như:
tìm hiểu thực trạng của tục hát đám cưới của người Tày, cũng như tình hình các văn
bản hát đám cưới ở các địa phương hiện nay ra sao; kết hợp với việc tìm hiểu đặc
điểm về chữ Nôm Tày có trong văn bản, để từ đó tập trung nghiên cứu về giá trị của
văn bản hát đám cưới trên hai vấn đề: 1. Văn bản hát đám cưới đã góp phần bảo lưu
bản sắc văn hóa của người Tày vùng Đông Bắc. 2. Văn bản hát đám cưới là nguồn
tư liệu quan trọng bổ sung cho việc nghiên cứu về tục hát đám cưới của dân tộc Tày.
Trên cơ sở đó, NCS đề xuất một số phương hướng để bảo tồn, nghiên cứu và khai
thác các văn bản hát đám cưới được viết bằng chữ Nôm của người Tày ở vùng
Đông Bắc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nhóm văn bản về hát đám cưới viết bằng chữ Nôm
của người Tày, hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các văn bản
này mang các ký hiệu: ST.2195; VNv.609; VNv.692; VNv.695; VNb.160; VNb.169;
VNb.166; VNv. 674. Đây là nhóm văn bản hát đám cưới chưa được nghiên cứu và
chưa từng được công bố. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số tư liệu khác cho việc
nghiên cứu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu vào các vấn đề văn bản học của các
văn bản hát đám cưới, cấu trúc chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới, những
giá trị của văn bản hát đám cưới Nôm Tày trong sinh hoạt văn hóa dân tộc Tày.

2


4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc sưu tầm,
bảo tồn, nghiên cứu khai thác và phát huy văn hóa truyền thống, xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Những tri thức về Ngữ văn Hán Nôm, văn bản học, văn hóa học, văn tự học
và nghiên cứu liên ngành đã được vận dụng lý thuyết nghiên cứu khoa học trong
từng chương của luận án.
Kế thừa thành quả nghiên cứu từ các công trình đi trước của giới nghiên cứu
trong và ngoài nước được công bố có liên quan đến đề tài, chúng tôi tập trung khai
thác sâu đặc điểm văn bản, đặc điểm văn tự và giá trị nội dung văn bản hát đám
cưới của dân tộc Tày, góp phần vào các kết quả nghiên cứu về giá trị văn hóa của
các dân tộc thiểu số Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp văn bản học: nghiên cứu, so sánh 8 văn bản chữ Nôm Tày, viết
về hát đám cưới, từ đó đưa ra nhận xét chung về tác giả, niên đại, số lượng các cung
hát và bài hát trong các văn bản hát đám cưới.
- Phương pháp văn tự học, được luận án sử dụng khi nghiên cứu cấu trúc về
chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới. Khi làm việc theo phương pháp này,
chúng tôi chia hệ thống chữ Nôm Tày thành các yếu tố nhỏ (tức các tiểu loại từ A1 H3, chữ đơn - chữ ghép, biểu âm - biểu ý, chức năng - hình thể,…) để xem xét mối
quan hệ giữa các yếu tố nhỏ đó với nhau và với chỉnh thể hệ thống chữ Nôm Tày.
- Phương pháp thông diễn học (hay còn gọi là thuyên thích học) được sử
dụng để giải nghĩa, hay diễn dịch các bản văn hát đám cưới, từ các vấn đề về văn

bản, ngôn ngữ, lời nói, v.v… giúp chúng ta thấu hiểu văn bản và minh giải văn bản.
- Nghiên cứu liên ngành nhằm nêu ra những giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, văn
học, tôn giáo, phong tục tập quán, v.v… được thể hiện trong các giá trị của các văn
bản hát đám cưới.
Thao tác thống kê, định lượng được sử dụng xuyên suốt luận án, các kết quả
thống kê là những số liệu cụ thể và chính xác, từ đó đưa tới những nhận định đáng tin
cậy. Ngoài ra, luận án cũng sử dụng những thao tác như phân tích, tổng hợp, quy nạp,
diễn dịch, so sánh, v.v... trước khi đưa ra những nhận xét về văn bản hát đám cưới.
5. Đóng góp mới của luận án
- Trình bày đặc điểm 8 văn bản hát đám cưới của dân tộc Tày, xác định văn
bản tin cậy để nghiên cứu, giới thiệu. Việc làm này sẽ gợi mở cho việc nghiên cứu
nhóm văn bản hát đám cưới chữ Nôm Tày hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán
Nôm.
- Thống kê, so sánh và đưa ra số liệu đáng tin cậy về số lượng cung hát, chặng hát
và các bài hát trong văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm Tày của dân tộc Tày ở
vùng Đông Bắc.

3


- Đưa ra cứ liệu về cấu trúc của chữ Nôm Tày, về sự thay đổi và bảo lưu của
chữ Nôm Tày trong một văn bản hát đám cưới trong diễn trình chung của chữ Nôm
thời trung đại.
- Việc nghiên cứu tục hát đám cưới từ các văn bản hát đám cưới chữ Nôm Tày,
có những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn cho việc sưu tầm, lưu giữ, nghiên
cứu văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm Tày nói riêng và văn bản chữ Nôm của
người Tày nói chung.
- Phiên âm, dịch nghĩa, chú thích và giới thiệu văn bản hát đám cưới viết
bằng chữ Nôm của dân tộc Tày.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài

- Phác họa được một bức tranh tổng thể về tục hát đám cưới của dân tộc Tày
ở vùng núi Đông Bắc của Việt Nam về các phương diện: số lượng các cung hát đám
cưới, chặng hát và các bài hát đám cưới ghi chép trong các văn bản được viết bằng
chữ Nôm Tày hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
- Nghiên cứu văn bản và phân tích văn bản, xác định bản đáng tin cậy để
phiên dịch, giới thiệu, công bố văn bản hát đám cưới và nghiên cứu về cấu tạo chữ
Nôm Tày dựa trên một trường hợp văn bản, đưa ra những đặc điểm nổi bật về văn
tự của loại văn bản này, giúp ích cho việc học tập và nghiên cứu chữ Nôm Tày được
thuận lợi hơn.
- Luận án tạo hướng mở cho việc nghiên cứu các văn bản hát đám cưới được
viết bằng chữ Nôm Tày vùng Đông Bắc nói riêng và các văn bản Nôm Tày nói
chung. Hy vọng đề tài sẽ có những đóng góp cho việc bảo tồn và phát huy những
giá trị tốt đẹp trong văn hóa của đồng bào dân tộc Tày ở vùng cao.
7. Bố cục của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục; luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Chương 2: Khảo sát văn bản hát đám cưới chữ Nôm Tày lưu giữ tại Viện
Nghiên cứu Hán Nôm.
Chương 3: Nghiên cứu chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới ký hiệu:
ST.2195.
Chương 4: Giá trị của văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm Tày trong
việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc Tày vùng Đông Bắc.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI.
Nhận thức được giá trị to lớn của tục hát đám cưới của người Tày, một số nhà
nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu Hán Nôm đã quan tâm khảo cứu và giới thiệu đến
loại tập tục này. Chương này, chúng tôi sẽ giới thiệu khái quát về người Tày, cùng
tổng quan tình hình nghiên cứu của các vị tiền bối, cũng như của nghiên cứu sinh
liên quan đến đề tài luận án. Để từ đó làm cơ sở cho việc triển khai đề tài ở các
chương sau:


4


1.1. Khái quát về dân tộc Tày, nguồn gốc, ngôn ngữ, văn tự, và văn
hóa truyền thống.
NCS đã có những khái quát chung về 5 vấn đề của dân tộc Tày, gồm: dân tộc,
nguồn gốc, ngôn ngữ, văn tự, và văn học nghệ thuật dân gian Tày. Trong đó, có đề
cập đến tục hát mừng đám cưới của người Tày.
1.2. Các công trình khảo cứu và giới thiệu về tục hát đám cưới
Đề cập đến tục hát đám cưới của người Tày, NCS đã thống kê được 15 công
trình khảo cứu và giới thiệu, 6 các luận văn, luận án và 6 bài viết liên quan đến chủ
đề về tục hát đám cưới của người Tày.
1.3. Các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Tày
Với 7 công trình: Ngữ pháp tiếng Tày – Nùng, Tìm hiểu ngôn ngữ các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tập 1, Từ điển Tày - Nùng - Việt, Từ điển Việt Tày - Nùng, Từ điển Tày - Việt, v.v…
1.4. Các công trình nghiên cứu chữ Nôm Tày và từ điển chữ Nôm Tày
Song song với các công trình khảo cứu và giới thiệu về tục hát đám cưới, đã
có 6 công trình nghiên cứu về chữ Nôm Tày như: Chữ Nôm, Nguồn gốc, Cấu tạo,
Diễn Biến; Văn hóa Tày Nùng; Chữ Nôm Tày qua so sánh với chữ Hán và chữ
Nôm Việt, v.v…và 1 cuốn Từ điển chữ Nôm Tày của Hoàng Triều Ân chủ biên.
1.5. Một số nhận xét về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về tục hát đám cưới vẫn chưa
nhiều, đặc biệt là các công trình chuyên khảo. Các công trình khảo cứu nêu
trên, chủ yếu là các bài viết, nằm chung trong các phần nghiên cứu chung về
văn hóa, xã hội của dân tộc Tày, còn ít các công trình nghiên cứu chuyên sâu
về tục hát đám cưới này.
1.6. Định hướng nghiên cứu của đề tài
Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài như đã mô tả ở trên, luận án đề
ra định hướng nghiên cứu sau: Tiến hành nghiên cứu, khảo sát văn bản 8 văn bản

hát đám cưới chữ Nôm Tày hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Nghiên
cứu về cấu tạo chữ Nôm Tày trên một văn bản hát đám cưới. Nghiên cứu về thực
trạng, giá trị và vấn đề bảo tồn các văn bản hát đám cưới; từ đó giới thiệu rộng rãi về
dân ca nghi lễ của dân tộc Tày, với tư cách là một loại hình nghệ thuật dân tộc Tày
đặc sắc ở vùng Đông Bắc Việt Nam.
Tiểu kết
Văn hóa và chữ viết của dân tộc Tày, tục hát đám cưới của người Tày,
đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu người Kinh và người dân
tộc thiểu số trong nhiều năm qua. Các công trình đó là khá phong phú và
đa dạng, chúng tôi tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên
3 vấn đề: 1/ Các công trình khảo cứu và giới thiệu về hát đám cưới. 2/ Các
công trình nghiên cứu chữ Nôm Tày và từ điển chữ Nôm Tày. 3/ Các công
trình nghiên cứu về ngôn ngữ Tày. Phải thừa nhận rằng, mỗi nội dung
nghiên cứu, mặc dù vẫn còn những điểm chưa toàn diện, nhưng đã đem lại

5


những tri thức chuyên sâu về văn hóa, ngôn ngữ, văn tự của người Tày nói
chung, cũng như về tục hát đám cưới nói riêng. Những tri thức này, đều có
thể làm cơ sở, nền tảng cho các nghiên cứu chuyên sâu sau này.Tuy nhiên,
nhìn chung các công trình nghiên cứu nêu trên, chưa đi sâu nghiên cứu một
cách có hệ thống văn bản hát đám cưới về số lượng cụ thể về các cung hát,
chặng hát và các bài hát được ghi chép trong các văn bản hát đám cưới của
người Tày còn lưu giữ; hay việc đi sâu nghiên cứu đặc điểm chữ Nôm Tày
ghi chép trong văn bản hát đám cưới; cũng như chưa nghiên cứu sâu về
mặt giá trị của các văn bản hát đám cưới của người Tày. Từ đó, chúng tôi
xác định rõ những nhiệm cụ thể thực hiện trong đề tài luận án của mình.
Luận án sẽ góp một phần vào việc nghiên cứu văn bản hát đám cưới viết
bằng chữ Nôm của người Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam, trên một số vấn

đề còn bỏ ngỏ nêu trên, hướng tới sự nghiên cứu một cách có hệ thống các
văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm Tày vùng Đông Bắc nói riêng và
góp phần nghiên cứu văn hóa của dân tộc Tày nói chung.
Chương 2: KHẢO SÁT VĂN BẢN HÁT ĐÁM CƯỚI CHỮ NÔM
TÀY LƯU GIỮ TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM
Trong chương này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát 8 văn bản hát đám cưới
chữ Nôm Tày có ký hiệu lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tập trung vào
4 mục chính là: tình hình văn bản; thống kê, so sánh các cung hát, bài hát
trong văn bản; vấn đề niên đại, tác giả, tên gọi của văn bản và bố cục của văn
bản hát đám cưới.
2.1. Một số các khái niệm cơ bản
NCS lần lượt trình bày một số khái niệm về các ký hiệu của các văn bản
hát đám cưới lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm: nguồn gốc, cách đặt tên
các ký hiệu VHv, VNb; VNv, và ST. Cùng khái niệm: “cung, bài hát” trong văn
bản hát đám cưới: trong các văn bản hát đám cưới, thì “cung hát” là một đoạn
(phần của chặng) hát trong tục hát đám cưới, mỗi cung có 1 bài hát và có thể
có nhiều bài hát; “bài” là 1 bài hát trong tục hát đám cưới, mỗi bài chỉ có đúng
1 bài mà thôi.
2.2. Mô tả văn bản
NCS đã lần lượt mô tả 8 văn bản hát đám cưới được viết bằng chữ Nôm
của người Tày trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm là: ST.2195;
VNv.674; VNb.160; VNb.166; VNv.609; VNv.683; VNb.692; VNv.695 theo các
tiêu chí mô tả về tác giả, tên cung, số lượng bài, giai đoạn và số trang…
2.3. Vấn đề niên đại, người sao chép và tên gọi của văn bản hát đám cưới
2.3.1. Về niên đại văn bản
Để xác định niên đại của các văn bản hát đám cưới, chúng ta phải căn
cứ vào nguồn cứ liệu có trong các văn bản. Trong 8 văn bản được lưu trữ tại
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi thấy có 2 văn là có ghi niên đại sao
chép văn bản hát đám cưới. Cụ thể, tại trang 1a văn bản ký hiệu ST.2195


6


chép:“成泰拾捌丙午年正月初旬日 /Thành Thái thập bát niên Bính Ngọ niên
chính nguyệt sơ tuần nhật /Tuần đầu tháng Giêng năm Bính Ngọ niên hiệu
Thành Thái thứ 18 (1906)”; tại trang 1a văn bản VNv.674 chép “啟定捌 年六
月二十日/ Khải Định bát niên, lục nguyệt, nhị thập nhật /Ngày 20 tháng 6
năm Khải Định thứ 8 (1923)”. Số văn bản còn lại (6 văn bản) không thấy ghi
niên đại. Như vậy, với nguồn cứ liệu này, cho chúng ta thấy, 2 trong số 8 văn
bản trên được sao chép vào khoảng những năm đầu của thế kỷ XX. Còn lại, 6
văn bản còn lại là không rõ niên đại văn bản.
2.3.2. Về người sao chép văn bản
Cũng giống như một số văn bản thuộc thể loại văn học, nghệ thuật
khác của dân tộc Tày, như truyện thơ, hát then, hát lượn, v.v… phần lớn đều
là khuyết danh. Hầu hết các văn bản hát đám cưới lưu giữ tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm không ghi tên người sao chép. Qua khảo sát 8 văn bản trên,
chúng tôi thấy, duy nhất có 1 văn bản mang ký hiệu VNb.160 là có ghi tên
người sao chép 農文还 Nông Văn Hoàn, số 7 văn bản còn lại, không thấy
ghi tên người chép.
2.3.3. Vấn đề tên gọi của văn bản hát đám cưới
Qua khảo sát 8 văn bản sách hát đám cưới lưu giữ tại Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, chúng tôi thấy, chỉ riêng văn bản mang ký hiệu ST.2195 là có ghi
rõ tên gọi của sách (ở tờ 1a chép: “官郎詩內外足用/Quan lang thi, nội ngoại
túc dụng/ Thơ Quan lang, dùng cho cả nhà trai nhà gái”; còn 7 văn bản còn lại
không thấy ghi. Trong thực tế, tên gọi của hát đám cưới của dân tộc Tày, có
tổng cộng 9 ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu về tên gọi của hát đám
cưới như: Nông Minh Châu, Hoàng Thị Cành, Lê Thương Huyền, v.v…
Theo ý kiến của chúng tôi, thì hát đám cưới của người Tày, đúng là có nhiều
tên gọi khác nhau như: Quan lang hay Quan làng, v.v… nhưng tựu trung,
đây là những bài hát dành riêng cho đám cưới, chỉ cất lên trong đám cưới, và

chủ yếu là người “Quan lang” hay “Quan làng” (đại diện cho nhà trai) hát
đối với người Pả mẻ (đại diện cho nhà gái) nên người ta gọi là hát “Quan
lang” hoặc “Quan làng”…
2.4. Thống kê, so sánh các cung hát trong văn bản hát đám cưới
2.4.1. Phương pháp thống kê và phân loại văn bản
Chúng tôi thống kê và phân loại số lượng các cung (mỗi cung có thể có
một hoặc nhiều bài) có trong 8 văn bản. Mỗi một cung sẽ được lần lượt mô tả
ở các khía cạnh cơ bản: chữ Nôm Tày, âm đọc, nghĩa, giai đoạn và tờ xuất
hiện của các cung, bài hát đám cưới
2.4.2. Kết quả thống kê và nhận xét, so sánh các văn bản hát đám cưới
2.4.2.1. Về tên các cung trong các văn bản hát đám cưới
Trong 8 văn bản hát đám cưới, chúng tôi đã thống kê được tổng cộng
466 cung hát. Trong đó có 341 cung là có tên, chiếm tỉ lệ 73,18% và 125
cung là không có tên, chiếm tỉ lệ 26,28%. Có 3 văn bản là ST.2195, VNv.683

7


và VNb.692 là đạt 100% số cung hát có tên trong văn bản. Có 2 văn bản là
VNb.160 và VNb.609 có số lượng cung hát có tên thấp hơn 50% tổng số cung
hát của văn bản đó lần lượt là 21,21% và 30,21%. Số văn bản còn lại là
VNv.674 và VNv.695 có số cung có tiêu đề là 73,85% và 87,88%.
2.4.2.2. Về số lượng các bài hát bên nam, bên nữ trong văn bản hát đám cưới.
Kết quả thống kê trên cho thấy, số lượng các bài hát bên nam trong cả 8
văn bản hát đám cưới luôn có số lượng vượt trội so với các bài hát bên nữ.
Trong tổng số 1063 bài, có đến 799 bài là của bên nam, chiếm tới 75,16%,
còn của bên nữ có 264 bài, chiếm tỉ lệ 24,84%. Cá biệt, ở văn bản ký hiệu
VNv.674, với tổng số bài trong văn bản là 128, tỉ lệ chênh lệch các bài hát của
nam và nữ là cao nhất với tỉ lệ 113 bài hát của bên nam, chiếm 88,28% so với
15 bài hát của bên nữ, chỉ chiếm có 11,72%.

2.4.2.3. Về số các cung trong 2 giai đoạn thử thách và thủ tục
Hát đám cưới chia ra làm 2 giai đoạn là thử thách và thủ tục, trong tất
cả 8 văn bản hát đám cưới, giai đoạn thử thách bao giờ cũng ít hơn giai đoạn
thủ tục. Điều này cho thấy, trong nghi lễ cưới xin của người Tày, thì phần thủ
tục gồm các cung như: Cung nặm chè (Cung uống chè), khay háp (mở gánh),
pái chỏ (bái lạy tổ tiên), v.v… bao giờ cũng rất quan quan trọng và chiếm số
lượng lớn hơn so với giai đoạn thử thách gồm các bài như: lụa slăy lọm tàng
(lụa nhỏ chắn đường), thư tu (giữ cửa), chút đèn (thắp đèn), pjẻ fục (trải
chiếu), v.v…
2.4.3. Số lượng các cung, bài trong tục hát đám cưới
2.4.3.1. Tiêu chí phân loại và đối chiếu
Thứ nhất: Để tiện theo dõi, tất cả những cung trong 2 bảng thống kê rút
gọn, chúng tôi đều cho thêm chữ 宮 cung vào đầu tiêu đề mỗi cung đó (nếu
không có chữ 宮 cung). Thứ hai: Các cung, bài hát trong các văn bản trùng
nhau từ 80% trở lên về tên cung, nội dung bài hát, sẽ loại trừ và chỉ lấy một
cung; đồng thời chúng tôi sẽ chọn một tên cung chung nhất để đại diện cho
các cung đó (có thống kê tần số xuất hiện và tổng số bài xuất hiện trong đó).
Thứ ba: Đối với các cung có tiêu đề và nội dung cùng xuất hiện trong 1 bài,
chúng tôi sẽ tiến hành lấy từ thứ nhất xuất hiện trước trong phần tiêu đề đó để
xếp vào phần chặng và tên cung có trong hát đám cưới. Thứ tư: Các cung có
tính chất tổng hợp (gồm nhiều bài hát, trải đều cho các chặng của giai đoạn
đó) vẫn sẽ tính là một cung, các bài hát trong các cung này sẽ được phân loại
và tính vào số lượng các bài của cung đó.
2.4.3.2. Kết quả phân loại và đối chiếu
Việc phân loại và đối chiếu đưa lại kết quả như sau:
- Giai đoạn thử thách: trong tổng số 466 cung trong 8 văn bản, có 137
cung thuộc về giai đoạn này. Sau khi phân loại và so sánh, chúng tôi thấy có
109 cung là trùng nhau. Sau khi loại trừ đi, chúng tôi rút lại tổng số các cung
có trong giai đoạn này là 28 cung, 137 lượt xuất hiện, với tổng số 319 bài hát.


8


- Giai đoạn thủ tục: trong tổng số 466 cung trong 8 văn bản, có 329 cung
thuộc về giai đoạn này. Sau khi phân loại và so sánh, chúng tôi thấy có tới 256
cung trùng nhau. Sau khi loại trừ đi, chúng tôi rút lại tổng số các cung có trong
giai đoạn này là 73 cung, 268 lượt xuất hiện và tổng số bài 674 bài hát.
2.4.3.3. Nhận xét về các cung trong tục hát đám cưới
Thứ nhất: Về số lượng các cung hát trong 8 văn bản hát đám cưới có
hiện tượng trùng nhau rất nhiều, về cả tên bài lẫn nội dung. Trong tổng số
466 cung với 1063 bài hát ghi chép trong 8 văn bản, có tới 365 cung trùng
nhau (giai đoạn thử thách là 109 cung và giai đoạn thủ tục là 256 cung). Số
lượng các cung hát sau khi loại trừ trùng còn: giai đoạn thử thách là 28 cung
và 137 lượt xuất hiện với 319 bài của; giai đoạn thủ tục là 73 cung, 268 lượt
xuất hiện, với 674 bài.
Thứ hai: Về nội dung các cung hát trong 8 văn bản hát đám cưới là rất phong
phú và đa dạng, phản ánh khá đầy đủ được tinh thần của tục hát đám cưới của người
Tày, thông qua 8 chặng của 2 giai đoạn thử thách và thủ tục trong các văn bản.
Thứ ba: Đem đối chiếu những kết quả trên với một số các công trình
phiên âm, dịch nghĩa của các nhà nghiên cứu về hát đám cưới của người Tày
như: Nguyễn Văn Huyên, Ma Văn Hướng, Nông Minh Châu, v.v… chúng tôi
thấy về nội dung các bài hát thì na ná giống nhau, nhưng cách đặt tên, số
lượng các cung, bài hát, ngữ âm là có sự khác nhau rõ rệt. Điều này được lí giải
là bởi trong các công trình nghiên cứu và giới thiệu về văn bản hát đám cưới này,
các học giả đã có sự biên tập, sắp xếp tên các cung, các bài hát theo ý kiến chủ
quan của mình (cũng có thể gọi là cung, cũng có thể là bài), hay có thể là do việc
thu thập các bài hát ở các địa phương khác nhau nên các nhà nghiên cứu cũng có
cách đọc hay cách thể hiện tên gọi của mỗi cung hát cũng khác nhau. Điều này
gây khó khăn cho việc đối chiếu về số lượng các cung, bài hát trong 8 văn bản
hát đám cưới với nhóm các văn bản đã được phiên âm dịch nghĩa này.

2.5. Vấn đề về nhan đề và bố cục trong văn bản hát đám cưới
2.5.1. Thời gian và không gian tổ chức đám cưới người Tày truyền thống
NCS đã khái quát thời gian và không gian tổ chức đám cưới người Tày
truyền thống theo 4 giai đoạn của lễ cưới của người Tày: buổi chạm ngõ đầu
tiên, lễ 堅礼 kin lẹ (ăn hỏi), lễ báo cưới, lễ cưới 堅酒 Kin lẩu (uống rượu).
Thời gian tổ chức đám cưới phải là ngày lành tháng tốt, không gian đám cưới
thì càng rộng càng vui. Đây chính là là môi trường tốt nhất để những bài hát
Quan làng đầy mầu sắc diễn ra.
2.5.2. Về nhan đề của văn bản hát đám cưới
Ở tùy từng vùng, các tác giả lại có các cách đặt tên cung hát, tên bài hát
khác nhau. Thông thường để khỏi lẫn, người ta lấy ngay tên nghi lễ diễn
xướng hoặc vài từ khái quát nhất về nội dung bài hát để làm nhan đề của các
cung, các bài hát đám cưới. Các bài hát cũng có dung lượng không giống nhau,
có bài ngắn, có bài dài. Số lượng các bài trong các cung hát cũng không giống

9


nhau. Nhìn chung, tùy từng văn bản, các cung (bài) hát đám cưới được sắp xếp
theo từng giai đoạn của một lễ cưới.
2.5.3. Bố cục của văn bản hát đám cưới
Khác với các văn bản truyện thơ Nôm Tày (thường được làm theo thể
thất ngôn trường thiên), có đoạn, có hồi được sắp xếp theo trình tự nội dung
của cốt truyện và được sắp xếp thuận theo các tờ của văn bản từ đầu cho đến
cuối; còn văn bản hát đám cưới của người Tày, lại được làm theo cung hát
khác nhau và được bố trí vào hai giai đoạn thử thách và thủ tục của một lễ
cưới. Nhưng trong thực tế, khi khảo cứu 8 văn bản hát đám cưới lưu giữ tại
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi thấy rằng, bố cục ở các văn bản đều có
hiện tượng lẫn lộn thứ tự của hai giai đoạn thử thách và thủ tục, mà không
tuân theo thứ tự lễ đón dâu của người Tày

Thông qua công tác văn bản học khi nghiên cứu 8 văn bản hát đám cưới
lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, từ những tiêu chí đã đặt ra, cùng
những kết qua thu được, bước đầu đưa ra một bố cục về lịch trình của một lễ
cưới của người Tày. Theo chúng tôi, cách sắp xếp này cũng khá phù hợp với
số lượng 466 cung (101 cung không bị trùng lặp) hát có trong 8 văn bản. Có
thể hình dung thành 2 giai đoạn chính, với 8 chặng được đánh lần lượt số thứ
tự từ một đến tám là :
Giai đoạn thứ nhất: Được gọi là giai đoạn thử thách, gồm 28 cung, với 3
chặng sau: Chặng thứ nhất (gồm 6 cung): lụa slăy lọm tàng (lụa nhỏ chắn
đường). Chặng thứ hai (gồm 11 cung): thư tu (giữ cửa), thử thách từ cổng vào
đến cửa nhà. Chặng thứ ba (11 cung): 拜服 pjái fục (chải chiếu).
Giai đoạn thứ hai: Được gọi là giai đoạn thủ tục, gồm 73 cung, với 5 chặng:
Chặng thứ tư (gồm 14 cung): Mởi nặm kin mjầu (Mời nước và ăn trầu). Chặng
thứ năm (gồm 15 cung): Lẹ chiềng chỏ, nạp háp (Lễ trình tổ tiên và nộp
gánh). Chặng thứ sáu (gồm 11 cung): Sli bôm (thơ mâm). Chặng thứ bảy (gồm
21 cung): Lẹ pái chỏ, lạy pỏ mẻ mìa, lẹ táng (Lễ bái tổ tiên, lạy bố mẹ vợ và
họ hàng). Chặng thứ tám (12 cung): Nạp khươi lùa (nộp dâu rể). Lễ xin đón
dâu và căn dặn con dâu.
Tiểu kết
Với mục đích nghiên cứu 8 văn bản hát đám cưới, viết bằng chữ Nôm
Tày, hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trong chương này,
chúng tôi đã tập trung vào các vấn đề chính của các văn bản đó là:
Thứ nhất: tiến hành khảo kỹ sát 8 văn bản hát đám cưới trên các phương
diện như đặc điểm văn bản, thống kê về số lượng các cung, các bài hát, giai
đoạn có trong từng văn bản. Cụ thể trong 8 văn bản thống kê được 466 cung với
1063 bài hát; sau khi đối chiếu so sánh, chúng tôi thấy có 365 cung trùng nhau
và 70 bài hát trùng nhau, còn lại là 101 cung với 993 bài hát.
Thứ hai: về tên các cung hát trong các văn bản, về số lượng các bài hát,
và về số các cung trong 2 giai đoạn thử thách và thủ tục. Kết quả thống kê như


10


sau: Giai đoạn thử thách có 3 chặng với 28 cung (319 bài). Giai đoạn thủ tục
có 5 chặng với 73 cung (674 bài). Từ đó, làm cơ sở đáng tin cậy cho việc phân
tích văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm Tày.
Thứ ba: Về niên đại và tác giả, cho đến nay vẫn chưa thể xác định được
chính xác thời điểm ra đời của các bài hát đám cưới, cũng như tác giả của các
văn bản này. Chúng ta chỉ có thể đoán định rằng các văn bản hát đám cưới ra
đời sớm nhất cũng phải từ thời kỳ đó có chế độ hôn nhân một vợ một chồng
đó trở đi và đã được lưu truyền nhiều đời trong dân gian. Về tên gọi của văn
bản hát đám cưới, chúng tôi cho rằng dù có nhiều cách gọi khác nhau như
Quan lang, hay Quan làng, v.v… nhưng về cơ bản đây là những bài hát dành
riêng cho đám cưới của người Tày và chủ yếu là người “Quan lang” hay
“Quan làng” (đại diện cho nhà trai) hát đối với người Pả mẻ (đại diện cho nhà
gái) nên người ta gọi là hát “Quan lang” hoặc “Quan làng”. Chúng tôi sẽ sử
dụng cách gọi chung là hát đám cưới cho việc nghiên cứu của mình, đồng thời
vẫn sử dụng từ “Quan làng” khi phiên âm, dịch nghĩa và chú thích văn bản.
Thứ tư: Từ thực tế văn bản, kết hợp với những tài liệu ghi chép về thời
gian và không gian tổ chức của một đám cưới người Tày truyền thống, các vấn
đề về nhan đề, nhịp điệu và bố cục của văn bản hát đám cưới đã chúng tôi đã
nghiên cứu kỹ lưỡng và nhận xét như sau: Về không gian và thời gian để tổ
chức đám cưới của người Tày xưa là khá dài, từ buổi chạm ngõ, đến lễ ăn hỏi,
báo cưới và ngày diễn ra lễ cưới (thường là hai ngày). Về nhan đề và nhịp điệu
cũng cho thấy, không phải cung hát, bài hát nào cũng có nhan đề riêng, các bài
hát cũng có dung lượng không giống nhau, có bài ngắn, có bài dài và nhìn
chung được sắp xếp theo từng giai đoạn của một lễ cưới. Về nhịp điệu của các
bài hát đám cưới ở những câu 7 chữ hát theo nhịp 3/4, những câu 5 chữ theo
nhịp 3/2. Về bố cục trong các văn bản hát đáp cưới, đều có hiện tượng lẫn lộn
thứ tự của hai giai đoạn thử thách và thủ tục này, mà không tuân theo thứ tự rõ

ràng lễ đón dâu của người Tày; cách sắp xếp này, bố cục cũng giống các công
trình giới thiệu về hát đám cưới của các nhà nghiên cứu như Nông Minh Châu,
Ma Văn Hướng, v.v…
Những nhận xét về đặc điểm, số cung hát, niên đại và tác giả, nhan đề
và nhịp điệu,… của văn bản hát đám cưới ở chương này; là cơ sở lý luận, thực
tiễn cho việc nghiên cứu văn bản hát đám cưới của dân tộc Tày ở những
chương sau.
Chương 3: NGHIÊN CỨU CHỮ NÔM TÀY TRONG VĂN BẢN
HÁT ĐÁM CƯỚI KÝ HIỆU ST.2195
3.1. Cơ sở vay mượn và việc lựa chọn bản nền ký hiệu ST.2195
3.1.1. Cơ sở vay mượn của chữ Nôm Tày
Chữ Nôm Tày là một sáng tạo tập thể của nhiều thế hệ trí thức người Tày,
được ra đời từ khoảng thế kỷ XVI - XVII. Về loại hình, chữ Nôm Tày là chữ
khối vuông, thuộc thể loại chữ tượng hình, được kế tục và phát triển từ chữ Hán

11


của người Trung Quốc và chữ Nôm của người Kinh, cũng có ý kiến là ảnh
hưởng chữ Nôm Choang. Đây chính là những cơ sở vay mượn cơ bản để hình
thành nên các phép cấu tạo của chữ Nôm Tày.
3.1.2. Bản nền ký hiệu ST.2195
Trên cơ sở đưa ra những tiêu chí lựa chọn bản nền rất cụ thể, NCS chọn
được văn bản kí hiệu ST.2195 làm đối tượng cho việc nghiên cứu về cấu trúc
chữ Nôm trong văn bản hát đám cưới của dân tộc Tày.
3.2. Nghiên cứu chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới ký hiệu ST.2195
3.2.1. Vấn đề sử dụng phương ngữ trong văn bản hát đám cưới ST.2195
Trong luận án này, chúng tôi sẽ dựa vào cách đọc thường thấy trong báo
chí, sách vở của Khu tự trị Việt Bắc (trước đây), cách làm này, cũng là cách làm
của 2 cuốn Từ điển: Từ điển Tày - Nùng - Việt. Nxb. KHXH. 1974 và Từ điển

Việt - Tày - Nùng, Nxb. KHXH. 1984 của Viện Ngôn ngữ học.
3.2.2. Cấu trúc chữ Nôm Tày trong văn bản ký hiệu ST.2195
Để nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới ký
hiệu ST.2195, chúng tôi đã phân loại chữ Nôm Tày trong văn bản theo hướng
lưỡng phân (phân loại rõ ràng giữa hai loại: vay mượn và sáng tạo, cố gắng
tìm hiểu đặc điểm của từng loại chữ Nôm để đưa ra được những cách phân
loại rõ ràng và dễ hiểu nhất). Trên cơ sơ đó, chúng tôi chia thành các loại sau:
Chữ vay mượn gồm 2 loại lớn: vay mượn chữ Hán và vay mượn chữ Nôm
Việt. Chữ sáng tạo gồm 2 loại lớn: chữ dị thể và chữ ghép. Trên cơ sở đó,
chúng tôi đưa ra mô hình phân loại chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới,
kí hiệu ST. 2195, gồm 17 tiểu loại. Từ đó, NCS đã từng bước đi sâu tìm hiểu
từng tiểu loại đó.
3.2.3. Tiêu chí và kết quả thống kê phân loại cấu trúc chữ Nôm trong
văn bản hát đám cưới, ký hiệu ST.2195
NCS đã xây dựng lên 1 số các tiêu chí thống kê, phân loại chữ Nôm
trong văn bản hát đám cưới, ký hiệu ST.2195, để từ đó đưa ra được những kết
quả thống kê là: toàn văn bản ST.2195 có 2064 chữ với 13950 lượt xuất hiện.
3.2.4. Nhận xét về các loại chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới,
ký hiệu ST.2195
3.2.4.1 Loại chữ Nôm Tày vay mượn
Chữ Nôm Tày vay mượn trong văn bản hát đám cưới gồm 10 loại: A1,
A2, A3, B1, B2, B3, C1, C2, D1, D2 chiếm tỉ lệ khá cao trong toàn văn bản.
Bao gồm hai loại lớn: mượn chữ Hán và mượn Nôm Việt.
Trong tổng số 10 loại cấu tạo của chữ Nôm Tày nhóm vay mượn này,
thấy sự phân chia là không đều nhau, nhiều nhất vẫn là vay mượn nguyên của
chữ Hán về cả hình, âm, nghĩa (A1). Tiếp đến là các loại loại C1 (mượn âm
Việt), loại B3 (vay mượn chữ Hán, đọc chệch âm Hán Việt.
3.2.4.2. Loại chữ Nôm Tày sáng tạo

12



Loại chữ Nôm Tày sáng tạo gồm 2 loại lớn là chữ Nôm Tày dị thể và
chữ Nôm Tày ghép, được chia thành 7 loại: E1, E2, G1, G2, H1, H2, H3.
Qua thống kê thấy, số lượng chữ ít hơn hẳn so với loại vay mượn và sự
chênh lệch giữa cách loại chữ là không nhiều như loại vay mượn, nhiều
nhất chỉ là loại H3 (chữ Nôm Tày ghép một thành tố biểu âm và một thành
tố biểu nghĩa) có 162 chữ, với 1615 lượt chữ xuất hiện.
3.2.5. Nhận xét về cấu trúc chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới
Theo các cách phân chia theo phương diện chữ vay mượn và chữ tự tạo,
chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới, NCS đã có một số nhận xét sau: Số
lượng chữ vay mượn trong văn bản hát đám cưới là khá nhiều, trong tổng số
2064 chữ của toàn văn bản, thì số lượng chữ vay mượn là 1743 chữ chiếm tới
84,45%, so với 321 chữ, chiếm tỉ lệ 15,55% của loại chữ sáng tạo. Điều này
cho thấy, sự ảnh hưởng rất lớn của chữ Hán và chữ Nôm Việt đối với cấu tạo
và cách viết của chữ Nôm Tày trong văn bản này.
- Trong tổng số 17 tiểu loại cấu tạo của chữ Nôm Tày, có 7 loại gồm (A1,
A2, E1, E2, H3) là có tỉ lệ % số chữ xuất hiện nhiều hơn so với tỉ lệ % số lượt
chữ của 10 loại còn lại (A3, B1, B2, B3, C1, C2, D1, D2, G1, G2, H1, H2).
Ngoài ra, trong 17 loại cấu tạo chữ chữ Nôm Tày trong văn bản, có 5
tiểu loại rất đáng chú ý, thể hiện được những nét đặc trưng riêng mà mà loại
chữ Nôm Kinh không có được, như: tiểu loại: A2, (vay mượn chữ Hán hoàn
toàn, nhưng bị đọc chệch âm do bị biến đổi phụ âm đầu và thanh điệu của
người Tày), E1, E2, G1, G2 trong loại chữ Nôm Tày dị thể cũng cho thấy
những những đặc điểm rất riêng của chữ Nôm Tày.
3.3. So sánh cấu trúc chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới kí
hiệu ST.2195 và công trình nghiên cứu chữ Nôm Tày của Nguyễn Văn
Huyên năm 1941.
3.3.1. Tiêu chí và kết quả thống kê phân loại cấu trúc chữ Nôm Tày
trong công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Huyên

3.3.1.1. Phương pháp và tiêu chí thống kê
- Đối với công trình của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên, căn cứ
vào cách sắp xếp thứ tự lần lượt của tác giả về các tiểu loại chữ được dẫn
trong các bảng, chúng tôi sẽ lần lượt đánh thêm số thứ tự theo các số như A1,
A2, B1, B2, v.v... để thuận lợi cho việc đối chiếu so sánh.
- Đối với các dạng thức cấu tạo tương đồng của 2 công trình (mặc dù tên
gọi có thể khác nhau), chúng tôi vẫn xếp vào cùng một nhóm để tiện so sánh.
3.3.1.2. Kết quả thống kê
Trong công trình của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên, có tổng cộng
451 chữ được dẫn, chia làm 9 các tiểu loại. Có 3 loại lớn: (A) - những vốn từ
thuần Tày (302 chữ); (B) - những từ thuần Việt giữ nguyên trạng, hoặc có
biến âm, hoặc có biến dạng sâu sắc hơn (78 chữ); (C) - những từ Hán Việt,
nghĩa là các từ Hán, có cách đọc gần với tiếng Việt (71 chữ).

13


* 3.3.1.3. Nhận xét
Qua bảng thống kê và biểu đồ trên, chúng tôi có một số nhận xét về cấu trúc
chữ Nôm Tày trong công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Huyên như sau:
- Kiểu chữ thuần Tày (gồm 4 tiểu loại: A1, A2, A3, A4) chiếm tỉ lệ lớn
nhất trong công trình này. Trong tổng số 451 chữ thống kê của 9 bảng thống
kê, thì số lượng chữ thuần Tày này là 313 chữ chiếm 69,40%. Điều này cho
thấy, trong công trình này, Nguyễn Văn Huyên tập trung khai thác, miêu tả
sâu vào loại chữ Nôm thuần Tày.
- Kiểu chữ thuần Việt giữ nguyên trạng, hoặc có biến âm, hoặc có biến
dạng (gồm 3 loại: B1, B2, B3) với số lượng là 78 chữ, chiếm tỉ lệ 17,30%
tổng số chữ 451 chữ trong 9 bảng thống kê. Đây là kiểu vay mượn chữ Nôm
Việt của người Tày, một mặt giữ nguyên trạng cả về hình, âm đọc, nhưng
một mặt, lại cũng tự biến đổi ít nhiều để hợp hơn với dân tộc mình.

- Kiểu những từ Hán Việt, nghĩa là các từ Hán, hay còn gọi là loại vay
mượn chữ Hán (gồm 2 loại: C1 và C2) với 71 chữ, chiếm 15,74%. Đây là 2 tiểu
loại ít nhất trong tổng số 9 kiểu cấu tạo chữ Nôm Tày trong công trình này.
3.3.2. So sánh cấu trúc chữ Nôm Tày trong 2 văn bản
Với những bảng thống kê về số lượng chữ, cấu trúc chữ Nôm Tày trong
văn bản hát đám cưới kí hiệu ST.2195 và công trình nghiên cứu chữ Nôm Tày
của Nguyễn Văn Huyên cho thấy, rõ ràng số lượng các tiểu loại trong văn bản
hát đám cưới ký hiệu ST.2195 là nhiều hơn rất nhiều so với công trình của
Nguyễn Văn Huyên. Mặc dù vậy, ở hai công trình này, cũng có những điểm
tương đồng về cấu trúc chữ Nôm Tày rất đáng quan tâm:
3.2.2.1. Những điểm tương đồng của 2 công trình
Trước hết, có thể thấy rằng cả 2 công trình này đều đặt đối tượng
nghiên cứu chữ Nôm là các bài hát đám cưới của dân tộc Tày ở vùng cao. Vì
vậy, với các từ ngữ, ví dụ được miêu tả trong 2 công trình này thường chỉ
xoay quanh nội dung của các bài hát đám cưới, rất thuận lợi cho việc nghiên
cứu về ngôn ngữ, văn tự của 2 công trình này. Đây cũng là lí do chính để
chúng tôi chọn công trình nghiên cứu chữ Nôm Tày của Nguyễn Văn Huyên
làm đối tượng để so sánh về văn tự.
Đối chiếu với số liệu nghiên cứu trong văn bản ST.2195 và công
trình của Nguyễn Văn Huyên, chúng tôi thấy mặc dù tên gọi, số lượng
chữ, cũng như cách sắp xếp thứ tự khác nhau, nhưng khi so sánh các dạng
cấu tạo, có thể thấy tất cả 9 loại trong công trình của Nguyễn Văn Huyên
là giống () với các phương thức cấu tạo trong văn bản ST.2195.
Ở đây, về cơ bản 9 cách cấu tạo nêu trên là giống nhau, đây cũng là
những dạng thức cấu tạo cơ bản để xây dựng cấu trúc chữ Nôm trong các văn
bản được viết bằng chữ Nôm Tày nói chung, cũng như ở 2 công trình nghiên
cứu chữ Nôm Tày nói riêng như trong văn bản ST.2195 và công trình nghiên
cứu của Nguyễn Văn Huyên.

14



3.2.2.2. Những điểm khác biệt của 2 công trình
Qua các bảng thống kê, phân loại về cấu tạo chữ Nôm Tày trong văn bản
ST.2195 và công trình nghiên cứu chữ Nôm Tày của Nguyễn Văn Huyên, chúng
tôi có nhận thấy sự khác nhau giữa 2 công trình này thể hiện ở các mặt sau:
- Đối với cách sắp xếp phân loại cấu trúc chữ Nôm Tày:
Ở công trình của Nguyễn Văn Huyên, việc phân loại các loại cấu trúc
chữ Nôm Tày thành 9 tiểu loại, được sắp xếp theo 3 nhóm là: 1/ Những vốn từ
thuần Tày. 2/ Những từ thuần Việt giữ nguyên trạng, hoặc có biến âm, hoặc có
biến dạng sâu sắc hơn. 3/ Những từ Hán Việt, nghĩa là các từ Hán, có cách đọc
gần với tiếng Việt. Trong đó, Nguyễn Văn Huyên tập trung miêu tả về nhóm
những chữ thuần Tày, với 302 trên tổng số 415 chữ Nôm được nêu ra ở 9 bảng
thống kê. Điều này cho thấy dường như tác giả đã rất quan tâm, nhấn mạnh đến
các phương thức cấu tạo và cách đọc chữ Nôm Tày của nhóm này. Còn 2 nhóm
còn lại, có vẻ ít được quan tâm hơn, chỉ có 113 chữ được nêu. Cách phân loại
này, thực ra tương đối phức tạp, chồng chéo, dễ dẫn đến sự nhầm lẫn giữa các
tiểu loại với nhau.
Còn trong công trình nghiên cứu văn bản hát đám cưới ST.2195, chúng
tôi đã phân loại chữ Nôm Tày theo hướng lưỡng phân, cố gắng tìm hiểu đặc
điểm của từng loại chữ Nôm để đưa ra được những cách phân loại rõ ràng và
dễ hiểu nhất đối với cấu tạo chữ Nôm Tày. Vì vậy số lượng các tiểu loại chữ
Nôm Tày trong công trình của chúng tôi có 17 tiểu loại, được phân chia là rõ
ràng giữa loại vay mượn và sáng tạo. Mặt khác, chính vì việc bám sát vào văn
bản cụ thể, thống kê được số lượng chữ chính xác, xây dựng được mô hình
phù hợp với đặc điểm của các loại chữ Nôm Tày có trong văn bản, đã giúp
cho việc phân loại các tiểu loại chữ Nôm Tày trong văn bản được rõ ràng và
rất thuận lợi cho công việc tìm ra những đặc điểm nổi bật về cấu trúc chữ
Nôm Tày.
- Về cấu trúc chữ Nôm: chúng ta có thể thấy, 8 trên 17 tiểu loại cấu tạo

trong văn bản ST.2195 không có trong công trình nghiên cứu của Nguyễn
Văn Huyên, gồm các tiểu loại: Tiền Hán Việt (A3); âm Tày, lấy nghĩa (B1);
âm Việt, bỏ nghĩa (D1); chệch âm Việt, bỏ nghĩa (D2); viết tắt không
nguyên khối (E2); loại thêm dấu phụ bên phải (G1); thêm vào bên trái (G2),
chữ ghép âm âm (H1). Trong 8 tiểu loại đó, lại chia ra làm 2 nhóm:
+ Nhóm 1: Có 7 tiểu loại dù không có trong công trình nghiên cứu của
Nguyễn Văn Huyên, nhưng đã được giới thiệu ở các công trình nghiên cứu chữ
Nôm Tày khác, gồm các tiểu loại: Tiền Hán Việt (A3); âm Tày, lấy nghĩa (B1);
âm Việt, bỏ nghĩa (D1); chệch âm Việt, bỏ nghĩa (D2); chữ ghép âm âm (H1).
Chúng ta có thể bắt gặp những tiểu loại này trong các công trình của các nhà
nghiên cứu như Cung Khắc Lược hay Nguyễn Văn Tuân v.v…
+ Nhóm 2: Có 3 tiểu loại vừa không có trong công trình nghiên cứu của
Nguyễn Văn Huyên, cũng chưa được giới thiệu (E2) hoặc đã xuất hiện trong các
công trình nghiên cứu về chữ Nôm Tày khác, nhưng chưa được đi sâu tìm hiểu

15


kỹ (G1, G2), gồm các tiểu loại trong nhóm chữ Nôm Tày dị thể mà chúng tôi đã
nêu ra. Đây cũng là những đặc điểm nổi bật mà chúng tôi thấy cần được giới
thiệu khi nghiên cứu văn bản hát đám cưới ký hiệu ST.2195. Ba loại này có một
số đặc điểm sau:
Loại E2 (chữ Nôm Tày viết tắt), là một trong hai loại chữ Nôm Tày có
trong văn bản ký hiệu ST.2195. Đây là loại chữ viết tắt không nguyên khối.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, trong văn bản hát đám cưới, loại này gồm 2
trường hợp sau: kiểu viết tắt bộ phận bên trái của chữ Nôm bằng kí hiệu ( )
và kiểu viết tắt một chữ Hán, rồi thêm 2 dấu chấm ở 2 bên 1 chữ đã được viết
giản đến mức tố đa (trong khi đó loại E1 là loại chữ thuần túy là khối vuông
nguyên khối, được viết giản thể đến mức tối đa, đã thấy có trong công trình
của Nguyễn Văn Huyên (B2) cũng như ở một số công trình khác). Những

kiểu viết tắt như vậy, có khá nhiều trong văn bản, và trở thành một nét rất đặc
trưng của chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới này.
Loại G1, G2 (chữ Nôm thêm dấu phụ): Đặc điểm chủ yếu của các chữ
thuộc kiểu loại thêm dấu phụ này là trên cơ sở vẫn giữ nguyên dạng chữ Hán
đã có sẵn, ghi thêm vào một số yếu tố phụ để làm sản sinh ra một lại chữ mới.
Những chữ mới này không hề có trong văn tự Hán. Trong đó, loại G1 (chữ
Nôm Tày thêm dấu phụ bên phải) và + loại G2 (chữ Nôm Tày thêm dấu phụ
bên trái). Hai kiểu viết tắt này, không chỉ có ở các văn bản hát đám cưới nói
riêng, mà còn có ở rất nhiều các văn bản viết bằng chữ Nôm Tày khác như:
truyện thơ, sli lượn v.v…Mặc dù vậy, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào
đi sâu tìm hiểu và phân tách rõ ràng về các trường hợp đó.
Tiểu kết
Sau khi khảo sát, phân loại chữ Nôm Tày có trong văn bản hát đám
cưới ký hiệu ST.2915, chúng tôi nhận thấy:
- Tổng số chữ trong văn bản là 2064 chữ với 13.950 lượt chữ xuất hiện,
được chia làm 2 loại lớn: là vay mượn và sáng tạo, gồm tổng cộng 17 các tiểu
loại khác nhau. Trong đó loại vay mượn gồm 10 tiểu loại: A1, A2, A3, B1,
B2, B3, C1, C2, C3, D1, D2 với 1743 chữ. Loại sáng tạo gồm 7 tiểu loại: E1,
E2, G1, G2, H1, H2, H3 với 321 chữ. Từ kết quả đó chúng tôi cho rằng: 1/ Tỉ
lệ chữ Nôm Tày vay mượn chữ Hán và chữ Nôm Kinh trong văn bản hát đám
cưới chiếm tỷ lệ áp đảo với 84,45% tổng số chữ và chiếm đến 75,58% lượt
xuất hiện, tương đương với quá trình phát triển của văn bản chữ Nôm Kinh ở
các thế kỉ XVIII - XX. Điều này nằm trong quy luật phát triển chung của các
văn bản Nôm lịch đại. 2/ Những chữ Nôm Tày xuất hiện ít trong văn bản hát
đám cưới như ở các tiểu loại: A3, C2, D1, D2 của loại vay mượn và E1, E2,
G1, G2, H1, H2 của loại sáng tạo có chung một lý do là bởi phần các tiểu loại
này có từ giai đoạn phát triển đầu của chữ Nôm, khó đọc và khó giải nghĩa.
Càng về sau các loại chữ này càng ít đi và chữ Nôm trở nên dễ đọc và dễ hiểu
hơn này, đây cũng là bước phát triển chung của chữ Nôm Tày trong quá trình
phát triển chung.


16


- Chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới có sự vận động từ cấu trúc
vay mượn đến cấu trúc tự tạo. Một số chữ Nôm vay mượn đã gia thêm các
yếu tố khác để trở thành chữ Nôm tự tạo. Con đường tự tạo cũng phát triển
dần và ổn định hơn, trong đó luôn có sự gia thêm của các thành tố phụ tham
gia vào việc biểu âm/biểu ý cho chữ.
- Ngoài ra, trong 17 loại cấu tạo chữ chữ Nôm Tày trong văn bản ký
hiệu ST.2195, có 5 tiểu loại rất đáng chú ý, thể hiện được những nét đặc trưng
riêng mà mà loại chữ Nôm Kinh không có được, như: loại: A2 (vay mượn
chữ Hán hoàn toàn, nhưng bị đọc chệch âm do bị biến đổi phụ âm đầu và
thanh điệu của người Tày). Tiểu loại này phản ánh nét đặc trưng riêng trong
ngữ âm của người Tày khi đọc chữ Hán về các mặt phụ âm đầu, thanh điệu.
Và 4 tiểu loại E1, E2, G1, G2 trong loại chữ Nôm Tày dị thể cho chúng ta đã
có thể phân biệt rõ hơn bản chất của thứ chữ Nôm đó là Nôm của người Việt
tạo ra hay là Nôm của người Tày tạo ra.
- Việc so sánh kết quả nghiên cứu văn bản ký hiệu ST.2195 và công
trình nghiên cứu chữ Nôm của Nguyễn Văn Huyên, cho thấy sự phát triển
trong việc nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm Tày qua từng thời kỳ. Đặc biệt, thông
qua việc so sánh này, một số đặc điểm nổi bật về cấu tạo chữ Nôm Tày cũng
đã được đề cập và nghiên cứu một cách khá kỹ càng.
- Việc nghiên cứu chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới ký hiệu
ST.2195, cũng cho ra được một sơ đồ phân loại chữ Nôm Tày. Nếu đem so sánh
với những phương thức phân loại của Nguyễn Văn Huyên, thì rõ ràng, sơ đồ này
có khả năng bao quát được các dạng thức cấu tạo của chữ Nôm Tày.
Chương 4: GIÁ TRỊ CỦA VĂN BẢN HÁT ĐÁM CƯỚI VIẾT
BẰNG CHỮ NÔM TÀY TRONG VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ
TRỊ VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC TÀY VÙNG ĐÔNG BẮC

4.1. Thực trạng tục hát đám cưới và vấn đề bảo lưu các văn bản hát
đám cưới viết bằng chữ Nôm của người Tày hiện nay
4.1.1. Về thực trạng tục hát đám cưới ở các địa phương hiện nay
Đất nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong xu thế phát triển đó, các
những giá trị về văn hóa truyền thống ngày bị mai một. Điều này xuất phát từ
những yếu tố văn hóa mới, sự ảnh hưởng, du nhập của văn hóa nước ngoài. Sự
ảnh hưởng này đã tác động, làm thay đổi nhận thức của các tộc người, làm cho
các phong tục tập quán văn hóa cổ truyền của các tộc người ngày càng bị biến
đổi. Tục hát đám cưới của người Tày ở các địa phương, cũng không nằm
ngoài sự ảnh hưởng đó. Qua việc hành khảo sát các ý kiến của các nhà nghiên
cứu đi trước về tình hình thực tế tục hát đám cưới của người Tày ở các địa
phương cho thấy, đúng là tục hát đám cưới của người Tày ở các địa phương đã
có sự biến đổi nhiều theo chiều hướng mai một cả về số lượng và chất lượng
của các bài hát, cũng như đội ngũ những người làm Quan làng
4.1.2. Về vấn đề bảo lưu các văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm của người Tày

17


Các văn bản hát đám cưới được viết bằng chữ Nôm của dân tộc Tày ở
các địa phương cũng đang đứng trước nhiều thách thức trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị của nó. Phần lớn các văn bản chữ Nôm Tày này được chép
trên trên chất liệu giấy dó và đã tồn tại trong thời gian hàng trăm năm, nên
hiện nay rất nhiều văn bản bị mục nát, vì thế nội dung trong các văn bản này
cũng dần bị mất đi. Hơn nữa, số người đọc được các văn bản chữ Nôm Tày
nói chung, cũng như ở văn bản hát đám cưới nói riêng ở các địa phương đồng
bào Tày sinh sống giờ đây là rất hạn chế, chủ yếu là ở gia đình các nghệ nhân,
thầy cúng, thầy lang ở những bản làng. Điều đó khiến nguồn tư liệu này vốn
đã không còn nhiều, lại không được quan tâm khai thác một cách hiệu quả.

Hiện nay, tại các địa phương, nhất là ở các tỉnh phía Bắc của nước ta như Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, v.v… là những nơi có đông đồng bào người Tày
sinh sống, chưa có sự thống kê cụ thể về số lượng các văn bản được viết bằng
chữ Nôm Tày nói chung, cũng như ở loại hình văn bản hát đám cưới nói riêng.
Tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được vài trăm đầu sách được viết
bằng chữ Nôm của dân tộc Tày, như: truyện thơ, lượn tứ quý, lượn cọi, then,
v.v… trong đó có 8 văn bản hát đám cưới. Các văn bản này được thu thập về
từ các địa phương khác nhau và đã được phân loại, phục chế phần nào những
hư hỏng, rách nát của văn bản. Đây chính là cơ sở, là nguồn tư liệu vô cùng
quý báu cho những nhà nghiên cứu về văn hóa của dân tộc Tày tìm hiểu
những giá trị mà mảng văn bản này đem lại.
4.2. Giá trị của các văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm của dân tộc Tày
4.2.1. Văn bản hát đám cưới đã góp phần bảo lưu bản sắc văn hóa của
người Tày vùng Đông Bắc
Văn bản hát đám cưới của người Tày ở vùng núi phía Bắc nước ta chính
là một di sản văn hóa phi vật thể. Từ xa xưa, các bài hát này đã có trong cộng
đồng người Tày. Đây là một phong tục đẹp trong đám cưới truyền thống của
người Tày, với hệ thống các bài thơ, bài hát nằm trong các cung đoạn cụ thể.
Trải qua năm tháng, các bài hát đám cưới được đồng dân tộc bào sử dụng rộng
rãi, từ truyền miệng, ghi chép và giờ đây tồn tại như một sản phẩm văn học
nghệ thuật. Vì vậy mà việc nghiên cứu 8 văn bản hát đám cưới của người Tày
có ký hiệu lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm là một việc làm hết sức cần
thiết. Thông qua việc nghiên cứu này, đã góp phần dù nhỏ bé vào công việc bảo
lưu bản sắc văn hóa của người Tày ở các địa phương. Với 1063 bài hát có trong
8 văn bản (đã được nêu ở chương 2), đã thể hiện những giá trị văn hóa, những
chuẩn mực đạo đức được chắt lọc từ nhiều thế hệ của người Tày. Ngoài ra,
những giá trị về văn hóa có trong các văn này còn được thể hiện ở 4 mặt sau: giá
trị gắn bó và biểu dương sức mạnh cộng đồng, giá trị hướng về cội nguồn, giá
trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, giá trị bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.
4.2.2. Văn bản hát đám cưới là nguồn tư liệu quan trọng bổ sung cho

việc nghiên cứu về tục hát đám cưới của dân tộc Tày

18


Qua công tác thống kê, phân loại, so sánh và loại trừ trong 8 văn bản hát
đám cưới có ký hiệu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi đã rút ra được
số lượng cụ thể các bài hát có trong 2 giai đoạn của tục hát đám cưới của
người Tày, đó là 993 bài hát (giai đoạn thử thách là 319 bài và giai đoạn thủ
tục là 674 bài). Đem đối chiếu với các công trình khảo cứu, giới thiệu về tục
hát đám cưới của người Tày do các nhà nghiên cứu đi trước đã thực hiện, cho
thấy sự vượt trội hơn rất nhiều về số lượng các bài hát.
4.2.3. Văn bản hát đám cưới đã góp phần nghiên cứu về ngôn ngữ, văn
tự cổ truyền của dân tộc Tày.
4.2.3.1. Về ngôn ngữ của dân tộc Tày
Thông qua việc nghiên cứu 8 văn bản hát đám cưới của dân tộc Tày có
ký hiệu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mà ở đây chúng tôi đã lựa chọn cách
đọc thường thấy trong báo chí, sách vở của Khu tự trị Việt Bắc (trước đây), kết
hợp với cách đọc của 2 cuốn từ điển: Từ điển Tày - Nùng - Việt. Nxb. KHXH.
1974 và Từ điển Việt - Tày - Nùng, Nxb. KHXH. 1984 của Viện Ngôn ngữ học,
làm cơ sở cho việc đọc các văn bản này. Mặc dù cách đọc này vẫn không làm
thỏa mãn, hay không tránh được hết những bất cập về thực tế ngôn ngữ Tày ở các
địa phương, biểu hiện ở các mặt như: phụ âm đầu, thanh điệu, quy định chính tả,
v.v… nhưng với phương ngữ được lựa chọn để áp dụng đọc những bài hát đám
cưới đó, sẽ làm tiền đề, làm cơ sở cho những nhà nghiên cứu về ngôn ngữ của
người Tày trong công tác nghiên cứu, so sánh và lựa chọn các phương ngữ khác
nhau của người Tày ở các địa phương cho công trình của mình, để tiến tới mục
tiêu xa hơn là làm sao xây dựng được bộ ngôn ngữ chuẩn của tiếng Tày ở nước ta.
4.2.3.2. Về nghiên cứu văn tự cổ truyền của dân tộc Tày
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, thì sự mai một của

chữ Nôm Tày là một tất yếu không thể tránh khỏi. Vì thế, hơn bao giờ hết,
người ta cần được biết đến nhiều hơn nữa những giá trị của chữ Nôm Tày gắn
liền với cuộc sống, con người và cả nền văn hóa của dân tộc Tày xưa kia. Vì
thế việc nghiên cứu chữ Nôm cổ truyền của người Tày là vô cùng quan trọng.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu chữ Nôm Tày có trong trường hợp văn
bản hát đám cưới ký hiệu ST.2195 lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm
không chỉ cho chúng ta thấy được những giá trị trong việc nghiên cứu về cấu
trúc của chữ Nôm Tày, mà còn cung cấp thêm cho chúng ta hiểu biết thêm về
giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Tày ở nước ta.
Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có sự quan tâm nhất định tới
nguồn tư liệu Hán Nôm của các dân tộc thiểu số Việt Nam, trong đó có dân
tộc Tày. Với vài trăm đầu sách được viết bằng chữ Nôm của dân tộc Tày, như:
truyện thơ, lượn tứ quý, lượn cọi, then v.v…, Viện đã và đang tiếp tục thực
hiện “Chương trình về sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, khai thác chữ viết cổ
truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam”. Chương trình này do PGS.TS. Trịnh
Khắc Mạnh làm chủ nhiệm đề tài. Từng bước, chương trình đã đạt được nhiều
thành tựu, với nhiều công trình sách khác nhau đã được xuất bản, mà tiêu biểu

19


là bộ: Tổng tập Truyện thơ Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb. KHXH,
đến nay đã xuất bản được 19 tập và chủ yếu trong bộ Tổng tập này là về các
truyện thơ được viết bằng chữ Nôm Tày. Đây cũng là công việc đem lại giá trị
thực tiễn rất lớn trong nghiên cứu và giải mã các văn tự cổ truyền của dân tộc
Tày. Với những kết quả nghiên cứu đó, có đóng góp về mặt khoa học và thực
tiễn rất lớn cho việc nghiên cứu về chữ Nôm của dân tộc Tày ở nước ta.
4.3. Các vấn đề đặt ra với việc bảo tồn, khai thác và nghiên cứu các
văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm của người Tày
Đất nước ta đang ngày một phát triển, xu hướng toàn cầu hóa đã và đang

diễn ra. Toàn cầu hóa có thể tạo ra nhiều điều kiện để phát triển kinh tế, giao lưu
văn hóa, nhưng đồng thời quá trình này, lại tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc văn
hóa dân tộc, làm phai nhạt những giá trị về văn hóa, tinh thần của mỗi một tộc
người trong sự phát triển đó. Chính vì vậy, việc các văn bản hát đám cưới viết
bằng chữ Nôm của dân tộc Tày đang rất cần được bảo tồn, khai thác và nghiên
cứu một cách nghiêm túc là hết sức cần thiết. NCS đề xuất ra 5 phương hướng
nhằm thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy giá trị của các văn bản hát đám cưới được
viết bằng chữ Nôm của dân tộc Tày như sau: 1.Tiến hành thống kê và tiếp tục sưu
tầm các văn bản chữ Nôm Tày chép về tục hát này trong dân gian. 2. Xây dựng
các loại từ điển chữ Nôm Tày. 3. Áp dụng công nghệ vào việc nhân bản các văn
bản hát đám cưới. 4. Đào tạo đội ngũ chuyên viên biết sử dụng chữ Nôm Tày. 5.
Tổ chức các hoạt động văn hóa, khuyến khích các lễ cưới của người Tày được
tiến hành theo các nghi thức truyền thống ở các địa phương.
Tiểu kết
Thông qua việc nghiên cứu về thực trạng, giá trị và các vấn đề bảo tồn,
nghiên cứu văn bản hát đám cưới của dân tộc Tày, chúng tôi thấy có một số
vấn đề sau:
- Về thực trạng lưu truyền tục hát đám cưới và vấn đề bảo lưu các văn
bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm của người Tày hiện nay, cho thấy một
thực trạng rất đáng lo ngại trong việc gìn giữ tục hát đám cưới của người Tày
ở các địa phương. Bên cạnh đó, vấn đề bảo lưu các văn bản hát đám cưới viết
bằng chữ Nôm của người Tày ở các địa phương hiện nay cũng đặt ra những vấn
đề cần suy nghĩ, bởi các yếu tố như: tình trạng văn bản, đội ngũ chuyên gia trong
việc phiên dịch văn bản đều không tốt, dẫn đến hiệu quả công việc không cao.
Không những thế, ở các địa phương lại chưa có sự thống kê cụ thể về số lượng
các văn bản hát đám cưới. Hiện tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ
được khá nhiều văn bản chữ Nôm Tày, trong đó có 8 văn bản hát đám cưới.
Đây chính là cơ sở, là nguồn tư liệu vô cùng quý báu cho những nhà nghiên
cứu về văn hóa của dân tộc Tày.
- Về giá trị của các văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm của dân

tộc Tày, cho chúng ta thấy được 3 giá trị cơ bản của các văn bản hát đám cưới
này là: văn bản hát đám cưới đã góp phần bảo lưu bản sắc văn hóa của người
Tày vùng Đông Bắc; văn bản hát đám cưới là nguồn tư liệu quan trọng bổ

20


sung cho việc nghiên cứu về tục hát đám cưới của dân tộc Tày; và văn bản hát
đám cưới đã góp phần nghiên cứu về ngôn ngữ, văn tự cổ của dân tộc Tày. Cả
3 giá trị này đều đi đến một mục đích chung là góp phần nghiên cứu về bản
sắc văn hóa, xã hội và phong tục nghi lễ của đồng bào dân tộc Tày ở vùng
Đông Bắc của nước ta.
- Về những vấn đề đặt ra với việc bảo tồn, khai thác và nghiên cứu các
văn bản hát đám cưới được viết bằng chữ Nôm của người Tày, cho thấy tầm
quan trọng của việc tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, mà
ở đây là trường hợp các văn bản hát đám cưới của người Tày, đang là một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ hội nhập. Từ đó chúng tôi đề xuất 5
phương hướng cụ thể nhằm thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy giá trị của các văn
bản hát đám cưới được viết bằng chữ Nôm của dân tộc Tày. Kết hợp với sự
quan tâm của nhà nước, những người làm quản lý văn hóa, mở rộng phạm vi
ứng dụng khoa học kỹ thuật để bảo tồn lưu giữ các văn bản hát đám cưới.
KẾT LUẬN
Hát đám cưới hay còn được biết đến với những cái tên như: Hát Quan
lang, Hát Quan làng, v.v… từ lâu vẫn được coi là nét văn hoá rất đặc sắc
trong các đám cưới của người Tày. Đó là những bài hát dân ca nghi lễ, phong
tục độc đáo, chỉ được cất lên trong đám cưới của đồng bào vùng cao. Kết quả
nghiên cứu trong luận án này, đem lại những kết quả như sau:
1. Luận án đã phác thảo được một bức tranh toàn cảnh về tình hình
nghiên cứu về tục hát đám cưới của người Tày, thông qua việc tìm hiểu về các
tư liệu liên quan như: các công trình khảo cứu và giới thiệu về tục hát đám

cưới của người Tày, các công trình nghiên cứu chữ Nôm Tày và từ điển chữ
Nôm Tày, đến các công trình nghiên cứu về ngữ âm tiếng Tày. Ở mỗi một
công trình được nêu, luận án đã cố gắng tìm hiểu, miêu tả được những đặc
điểm nổi bật của các công trình đó, từ những ưu điểm, nhược điểm mà các
công trình đó thể hiện, cho đến những nhận xét và quan điểm của NCS khi
thực hiện luận án này. Từ đó, đi đến một nhận xét chung về các công trình là:
ở các công trình nghiên cứu liên qua đến tục hát đám cưới của người Tày, mặc
dù vẫn còn những điểm chưa toàn diện, và còn có những nhược điểm, nhưng
đã đem lại những tri thức chuyên sâu về văn hóa, ngôn ngữ, văn tự của người
Tày nói chung, cũng như về tục hát đám cưới nói riêng. Những tri thức này,
đều có thể làm cơ sở, nền tảng cho các nghiên cứu chuyên sâu sau này. Trên
cơ sở những kiến thức có được về tình hình nghiên cứu của các công trình
nghiên cứu về tục hát đám cưới của người Tày nêu trên, luận án đã từng bước
xác định nhiệm vụ của mình trong việc nghiên cứu 8 văn bản hát đám cưới
hiện đang lưu trữ tại của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Để từ đó góp phần vào
việc nghiên cứu văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm của người Tày ở
vùng Đông Bắc Việt Nam, hướng tới mục tiêu nghiên cứu một cách có hệ
thống văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm Tày nói riêng và góp phần
nghiên cứu văn hóa của dân tộc Tày nói chung.

21


2. Về khảo sát văn bản hát đám cưới chữ Nôm Tày trong kho sách của
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, luận án đã lần lượt nghiên cứu 4 vấn đề chính của
các văn bản đó là: 1/Khảo sát 8 văn bản hát đám cưới trên các phương diện
như đặc điểm văn bản, thống kê về số lượng các cung, các bài hát, giai đoạn
có trong từng văn bản. 2/ Trên cơ sở kết quả có được, luận án đã tiến hành
thống kê, so sánh các cung trong các văn bản hát đám cưới. Kết quả thu được
từ công việc đó như sau: Giai đoạn thử thách có 3 chặng với 28 cung (319

bài). Giai đoạn thủ tục có 5 chặng với 73 cung (674 bài). 3/ Luận án đã tiến
hành nghiên cứu vấn đề về niên đại, tác giả và tên gọi của các văn bản hát đám
cưới, trên cơ sở những cứ liệu có trong văn bản, kết hợp với những ý kiến
khác nhau của các nhà nghiên cứu văn hóa Tày, để từ đó đưa ra được những
kết luận như: Về niên đại và tác giả, cho đến nay vẫn chưa thể xác định được
chính xác thời điểm ra đời của các bài hát đám cưới, cũng như tác giả của các
văn bản này, chỉ có thể đoán định rằng các văn bản hát đám cưới ra đời sớm
nhất cũng phải từ thời kỳ đó có chế độ hôn nhân một vợ một chồng đó trở đi
và đã được lưu truyền nhiều đời trong dân gian. Về tên gọi của văn bản hát
đám cưới, dù có nhiều cách gọi khác nhau như Quan lang, hay Quan làng,
v.v… nhưng về cơ bản đây là những bài hát giành riêng cho đám cưới của
người Tày, và chủ yếu là người “Quan lang” hay “Quan làng” (đại diện cho
nhà trai) hát đối với người Pả mẻ (đại diện cho nhà gái) nên người ta gọi là hát
“Quan lang” hoặc “Quan làng”. 4/ Luận án đã có những nghiên cứu về vấn đề
nhan đề và bố cục trong các văn bản hát đám cưới, từ thời gian và không gian tổ
chức của một đám cưới người Tày truyền thống: Về không gian và thời gian để
tổ chức đám cưới của người Tày xưa thường là 2 ngày. Về nhan đề cũng cho
thấy, không phải cung hát, bài hát nào cũng có nhan đề riêng, các bài hát cũng
có dung lượng không giống nhau, có bài ngắn, có bài dài; và nhìn chung được
sắp xếp theo từng giai đoạn của một lễ cưới. Về bố cục bài hát trong các văn bản
hát đáp cưới, đều có hiện tượng lẫn lộn thứ tự của hai giai đoạn thử thách và thủ
tục.
3. Về nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới ký
hiệu ST.2195. Thực hiện công việc này, luận án đã tiến hành khảo sát, phân
loại chữ Nôm Tày có trong văn bản hát đám cưới ký hiệu ST.2915. Kết quả
thu được đưa đến một số nhận xét như sau: tỷ lệ chữ Nôm Tày vay mượn chữ
Hán và chữ Nôm Kinh trong văn bản hát đám cưới chiếm tỷ lệ áp đảo với
84,45% tổng số chữ và chiếm đến 75,58% lượt xuất hiện, tương đương với
quá trình phát triển của văn bản chữ Nôm Kinh ở các thế kỉ XVIII - XX. Điều
này nằm trong quy luật phát triển chung của các văn bản Nôm lịch đại. Những

chữ Nôm Tày xuất hiện ít trong văn bản hát đám cưới là bởi vì các tiểu loại
này là có từ giai đoạn phát triển đầu của chữ Nôm, khó đọc và khó giải nghĩa.
Càng về sau các loại chữ này càng ít đi, và chữ Nôm trở nên dễ đọc và dễ hiểu
hơn. Đây cũng là bước phát triển chung của của chữ Nôm Tày trong quá trình
phát triển chung của mình.

22


- Thông qua việc nghiên cứu cấu tạo chữ chữ Nôm Tày trong văn bản
ký hiệu ST.2195, cũng cho thấy 5 tiểu loại rất đáng chú ý, thể hiện được
những nét đặc trưng riêng mà mà loại chữ Nôm Kinh không có được, như:
loại: A2 (vay mượn chữ Hán hoàn toàn, nhưng bị đọc chệch âm do bị biến
đổi phụ âm đầu và thanh điệu của người Tày). Tiểu loại này phản ánh nét đặc
trưng riêng trong ngữ âm của người Tày khi đọc chữ Hán về các mặt phụ âm
đầu, thanh điệu. Và 4 tiểu loại E1, E2, G1, G2 trong loại Chữ Nôm Tày dị thể
cho chúng ta đã có thể phân biệt rõ hơn bản chất của thứ chữ Nôm đó là Nôm
của người Việt tạo ra hay là Nôm của người Tày tạo ra.
Trên cơ sở kết quả thu được về việc nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm Tày
trong văn bản hát đám cưới ký hiệu ST.2195, luận án đã tiến hành so sánh kết
quả nghiên cứu văn bản ký hiệu ST.2195 và công trình nghiên cứu chữ Nôm
của Nguyễn Văn Huyên. Việc so sánh này cho thấy sự phát triển trong việc
nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm Tày qua từng thời kỳ. Ngoài ra, việc nghiên cứu
chữ Nôm Tày trong văn bản hát đám cưới ký hiệu ST.2195, cũng cho ra được
một sơ đồ phân loại chữ Nôm Tày. Đây là thành quả, là điều kiện thuận lợi để
tham khảo cho việc nghiên cứu chữ Nôm Tày.
4. Về giá trị của văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm Tày trong
việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc Tày vùng Đông Bắc, luận
án đã lần lượt nghiên cứu các vấn đề và thực trạng cho thấy: 1/ Một thực trạng
rất đáng lo ngại trong việc việc gìn giữ tục hát đám cưới của người Tày ở các

địa phương, cả về lực lượng những người làm Quan làng và cả về số lượng
các bài hát. Bên cạnh đó, vấn đề bảo lưu các văn bản hát đám cưới viết bằng chữ
Nôm của người Tày ở các địa phương hiện nay cũng đặt ra những vấn đề cần suy
nghĩ; hơn nữa, lại chưa có sự thống kê cụ thể về số lượng các văn bản hát đám
cưới. Những yếu tố đó, tạo ra những khó khăn cho các nhà nghiên cứu trong
việc tìm hiểu về loại hình văn hóa nghi lễ truyền thống của dân tộc này. 2/ Về
giá trị của các văn bản hát đám cưới viết bằng chữ Nôm của dân tộc Tày, luận
án đã đi sâu tìm hiểu về 3 vấn đề, kết quả của công việc này cho thấy: Các văn
bản hát đám cưới quả thật đã có đóng góp rất lớn trong việc giữ gìn bản sắc
của người Tày, bởi nhẽ với tư cách là một di sản văn hóa phi vật thể của người
Tày, nội dung của các bài hát đám cưới đã phản ánh được một phong tục đẹp
trong đám cưới truyền thống của đồng bào dân tộc Tày. Bên cạnh đó, kết quả
nghiên cứu các văn bản hát đám cưới còn cho thấy đây là nguồn tư liệu quan
trọng bổ sung cho việc nghiên cứu về tục hát đám cưới của người Tày, đặc
biệt là ở số lượng các cung hát, bài hát có trong tục hát này. Ngoài ra, việc
nghiên cứu các văn bản hát đám cưới cũng đem lại giá trị to lớn trong việc góp
phần nghiên cứu về ngôn ngữ, văn tự cổ của dân tộc Tày. Các giá trị này có
tác dụng rất thiết thực, giúp cho các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hóa
truyền thống của người Tày định hướng tiếp cận, lựa chọn được cách xử lí phù
hợp về mặt phương ngữ Tày trong các công trình nghiên cứu của mình. 3/ Về
các vấn đề đặt ra với việc bảo tồn, khai thác và nghiên cứu các văn bản hát
đám cưới được viết bằng chữ Nôm của người Tày, luận án đã xác định được

23


×