Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Thúc đẩy chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ về nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.47 KB, 32 trang )

I. Lời mở đầu
1.1 Tính cấp thiết
Việt Nam – 1 đất nước hiện đang nổi lên là một điểm nóng của sự phát
triển. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự chuyển mình to lớn của kinh tế - văn
hóa – xã hội trong thời gian qua. Đi lên từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu
những tàn phá nặng nề của 2 cuộc chiến tranh lịch sử. Với sự nỗ lực, cố gắng của
cả 1 hệ thống thì những khó khăn ban đầu đã dần được đẩy lùi. Quá trình xây
dựng và phát triển đã nâng vị thế của Việt Nam lên một tầm cao mới . Ngày nay,
trong con mắt của bạn bè quốc tế Việt Nam hiện lên không phải chỉ là một đất
nước của những con người anh dũng, bất khuất mà còn là hiện thân của những
bước tiến, hướng đi mới.
Đi cùng với sự phát triển của kinh tế, ngành nông nghiệp nước ta trong
nhiều thập kỷ qua đã đạt được những thành tựu to lớn, làm thay đổi bộ mặt của đất
nước. Từ một nước nhập khẩu lương thực thì hiện nay Việt Nam đã trở thành một
nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Để có được những thành quả đó,
không thể phủ nhận vai trò của khoa học – công nghệ và sự vận dụng những tiến
bộ đó vào trong sản xuất.
Lịch sử ngành nông nghiệp đã cho thấy rằng, muốn giải quyết tốt vấn đề an
ninh và an toàn lương thực của một quốc gia thì đòi hỏi phải đưa khoa học - kỹ
thuật vào trong sản xuất. Trong những năm qua, quá trình chuyển giao kỹ thuật
tiến bộ (KTTB) ở nước ta đã diễn ra khá mạnh mẽ nhưng so với các nước trên thế
giới thì còn ở một tầm rất hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi đã bước chân vào sân chơi thương mại thế
giới (WTO) thì đó càng là một yêu cầu cần giải quyết. Để có thể đứng vững trước
những cạnh tranh diễn ra từ mọi phía, nông nghiệp cần phải đảm bảo được các vấn
đề về số lượng và chất lượng của sản phẩm. Điều đó đòi hỏi phải có sự đóng
1


góp to lớn của chính sách chuyển giao kỹ thuật tiến bộ vào trong sản xuất.
Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi đi đến việc tìm hiểu đề tài: “Thúc đẩy chuyển


giao tiến bộ khoa học và công nghệ về nông nghiệp” nhằm đánh giá thực trạng,
đề xuất giải pháp thực hiện hiệu quả chuyển giao, ứng dụng các kết quả nghiên
cứu vào sản xuất nông nghiệp.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về bản chất, cơ sở khoa học của chính sách
chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ về nông nghiệp - Thực tiễn chính sách
chuyển giao chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ về nông nghiệp
- Trên cơ sở đó đưa ra một số ý kiến đóng góp và định hướng cho chính
sách chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ về nông nghiệp trong giai đoạn
hiện nay.
1.3 Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Tập trung vào thảo luận những vấn đề về chuyển
giao kỹ thuật tiến bộ tại Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu: Chính sách chuyển giao kỹ thuật tiến bộ trong
nông nghiệp.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
1.4.1 Phương pháp thu thập thông tin
Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Những thông tin đã được công bố
trên các tạp chí, các trang web, ấn phẩm.
1.4.2 Phương pháp phân tích
Sử dụng một số mô hình để phân tích: thặng dư của người tiêu dùng, người
sản xuất, sự dịch chuyển của an sinh xã hội…
2


II. Cơ sở lý luận của chính sách chuyển giao KTTB trong
nông nghiệp
2.1 Khái niệm
Chính sách chuyển giao KTTB là tập hợp các chủ trương và hành động
của Chính phủ nhằm thể hiện sự tác động, can thiệp của Chính phủ vào lĩnh

vực chuyển giao KTTB, đưa các KTTB đã được khẳng định là đúng đắn trong
thực tiễn vào áp dụng trên diện rộng để đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời
sống của con người.
Như vậy có thể thấy, chuyển giao KTTB là một công đoạn tiếp theo của quá
trình nghiên cứu. Nếu một kỹ thuật được coi là tiến bộ, khi đem tiến hành chuyển
giao thử nghiệm nếu phù hợp sẽ được triển khai chuyển giao trên diện rộng.
Có một mối quan hệ khá chặt chẽ giữa chính sách chuyển giao KTTB
trong nông nghiệp và chính sách nghiên cứu. Xuất phát từ thực tiễn, những
khó khăn và yêu cầu của cộng đồng mà nghiên cứu được tiến hành. Nhưng
một nghiên cứu không thể được coi là thành công nếu không có sự chuyển
giao những thành quả đó vào thực tiễn. “Nếu nghiên cứu mà không gắn với
chuyển giao thì kết quả nghiên cứu không góp phần giải quyết các vấn đề thực
tiễn, sẽ có khoảng cách lớn giữa lý thuyết và thực tiễn. Nếu chuyển giao mà
không gắn với nghiên cứu thì công tác chuyển giao sẽ không có các kỹ thuật
tiến bộ để đưa tới người nông dân”. (Đỗ Kim Chung, 2005).
Cần phân biệt sự khác nhau giữa thuật ngữ “chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật” với “chuyển giao kỹ thuật tiến bộ” trong nông nghiệp. Chuyển giao tiến
bộ kỹ thuật là sự chuyển giao một yếu tố kỹ thuật nào đó được coi là tiến bộ
nhưng chưa thật khả thi ở thực tiễn. Còn chuyển giao kỹ thuật tiến bộ là những
thành tựu khoa học và công nghệ đã được khẳng định là phù hợp ở trong thực
tiễn, đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. (Đỗ Kim Chung, 2005).
3


2.2 Đặc điểm
- Chính sách chuyển giao KTTB thường không được thực hiện như 1
chính sách cụ thể mà nó thường được lồng ghép với các chính sách, chương
trình, dự án khác. Ví dụ như chính sách xóa đói giảm nghèo, chương trình
135... “Phần lớn các nội dung chính sách được lồng ghép với các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng và Chính phủ về phát triển nông nghiệp và nông thôn” (Đỗ

Kim Chung, 2005).
- Khi hoạch định chính sách chuyển giao KTTB trong nông nghiệp
người ta phải căn cứ vào hệ thống công cụ, tư liệu sản xuất, trình độ sản xuất,
điều kiện xã hội và trình độ áp dụng kỹ thuật tiến bộ của đất nước, địa phương
hay vùng sản xuất. (Phạm Vân Đình, 2005).
- Đối tượng sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi nên chính sách
đưa ra cần phải căn cứ vào đặc điểm sinh trưởng và phát triển của từng loại
cây trồng, vật nuôi nhất định.
- Do đối tượng tiếp nhận và phạm vi tác động của chính sách chuyển
giao KTTB rộng, trình độ của người nông dân ở các vùng không đồng đều.
Chính vì vậy, việc tiếp thu và thực hiện chính sách là không đồng đều giữa các
địa phương và ngay cả giữa những nhóm người trong cùng địa phương. (Phạm
Vân Đình, 2005).
- Nông dân là những người thiếu thông tin và bị hạn chế về trình độ tiếp cận
thị trường. Vì vậy chính sách chuyển giao KTTB đưa ra cần phải dễ hiểu, dễ áp
dụng, có hiệu quả nhanh chóng để người dân dễ làm, dễ thấy và tin tưởng.
2.3 Mục tiêu của chính sách
- Giải quyết được những vấn đề khó khăn trong quá trình phát triển của
nông nghiệp – nông thôn. Các yếu tố thuộc về đầu vào của quá trình sản xuất
4


như: đất, nước, khí hậu…đang ngày càng trở nên khan hiếm trong khi đó nhu
cầu của con người thì ngày càng cao. Có một chính sách chuyển giao KTTB
phù hợp sẽ góp phần giải quyết được những khó khăn đó.
- Đảm bảo cho một nền nông nghiệp phát triển bền vững. Khi các
KTTB được chuyển giao vào quá trình sản xuất sẽ góp phần tăng năng suất
nông nghiệp đồng thời tiết kiệm được nguồn tài nguyên của đất nước, đảm
bảo được sự bền vững trong quá trình phát triển.
- Giúp cho nông nghiệp có thể bắt kịp với xu hướng hội nhập. Một nền

kinh tế khi đã hội nhập vào kinh tế thế giới, để có thể theo kịp xu hướng chung
thì phải đảm bảo được những yêu cầu đặt ra. Trong nông nghiệp những yêu
cầu, quy tắc đó là những vấn đề về chất lượng, độ an toàn của sản phẩm.
Những KTTB như: các giống gen mới, sự tiến bộ của các yếu tố đầu vào…nếu
được chuyển giao vào sản xuất nông nghiệp sẽ giúp thực hiện được mục tiêu này.
2.4 Nhân tố ảnh hưởng
Sự thành công của một kỹ thuật tiến bộ khi tiến hành chuyển giao vào
trong sản xuất phụ thuộc vào khá nhiều nhân tố. Nhưng tựu chung lại thì có
thể xem xét trên những nhân tố chính như sau:
* Chính sách của Chính phủ
Với 1 nước xã hội chủ nghĩa thì chính sách của Chính phủ chính là định
hướng cho quá trình phát triển. Trong nông nghiệp, những chính sách về phát
triển nông nghiệp – nông thôn, về công tác chuyển giao KTTB có ảnh hưởng
lớn đến hệ thống, phương thức, kết quả và hiệu quả của việc chuyển giao. (Đỗ
Kim Chung, 2005).
Thông thường các công cụ được Chính phủ sử dụng bao gồm: chính
sách đầu tư cho khuyến nông, chính sách cán bộ chuyển giao, chính sách trợ
5


giá đầu vào (giống, phân bón, thuốc BVTV…) để nông dân tiếp thu được kỹ
thuật mới và đưa những KTTB đó vào trong sản xuất. Xu hướng chung hiện
nay là những chính sách đưa vào phải nhằm phát huy được cao độ vai trò của
các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân, nội lực của chính cộng đồng
tiếp nhận KTTB. Bên cạnh đó, cần kết hợp sự hỗ trợ hợp lý của những tác
nhân bên ngoài cộng đồng như: các cơ quan Chính phủ, tổ chức khuyến nông,
cơ quan phát triển, các viện và các trường...
* Năng lực hệ thống khuyến nông ở địa phương
Trong sản xuất nông nghiệp, vai trò của hệ thống khuyến nông chiếm
một vị trí khá quan trọng. Đặc biệt với Việt Nam - một nước mà trình độ sản xuất

còn lạc hậu thì việc đẩy mạnh công tác khuyến nông càng trở nên cần thiết.
Một kỹ thuật được coi là tiến bộ, là phù hợp để triển khai vào một vùng,
một địa phương nào đó nhưng tại đó năng lực của khuyến nông yếu kém thì
chưa chắc mức độ thành công của việc chuyển giao sẽ cao.
Năng lực khuyến nông ở đây bao gồm: sự phù hợp với điều kiện chính
trị và xã hội của hệ thống tổ chức khuyến nông cơ sở, năng lực của cán bộ
khuyến nông, phương pháp khuyến nông, khả năng về tài chính và sự kết hợp
của các cơ quan liên đới trong chuyển giao (Đỗ Kim Chung, 2005). Bên cạnh
đó, sự thành công của việc chuyển giao còn gắn liền với các yếu tố thuộc về
bản thân của cán bộ khuyến nông như: kiến thức và sự hiểu biết về KTTB mà
họ chuyển giao tới người nông dân, khả năng am hiểu nông dân - những
phong tục tập quán của họ, khả năng phân tích vấn đề và cùng nông dân xây
dựng giải pháp…Tất cả những nhân tố trên nếu được đảm bảo thì sẽ đem lại
hiệu quả cao trong việc chuyển giao KTTB vào trong sản xuất nông nghiệp.
* Công tác lập kế hoạch khuyến nông

6


Một hoạt động trước khi bắt đầu đưa vào triển khai nếu được lập kế
hoạch cụ thể thì khả năng thành công sẽ cao hơn. Kế hoạch trong khuyến nông
bao gồm những công việc như: xác định đúng nhu cầu của nông dân cần giải
quyết; các giải pháp phù hợp với người dân; tổ chức tốt nguồn lực để thực
hiện, đánh giá, rà soát và hoàn thiện quy trình kỹ thuật và công nghệ. Trong
những năm gần đây, các nước đang phát triển có xu hướng chung là áp dụng
phương pháp kế hoạch khuyến nông có sự tham gia của người dân vào các hoạt
động chuyển giao. (Đỗ Kim Chung, 2005). Đây được coi là một phương pháp đem
lại hiệu quả khá cao, phù hợp với nhu cầu, điều kiện của địa phương.
* Bản chất của KTTB được chuyển giao tới nông dân
Một KTTB khi tiến hành chuyển giao vào trong sản xuất nếu xuất phát

từ những khó khăn, yêu cầu của thực tiễn thì mức độ ứng dụng sẽ cao hơn.
Bên cạnh đó, những yếu tố như: khả năng chia nhỏ của KTTB (tức là nó có
thể áp dụng được ở mọi cơ sở sản xuất lớn cũng như nhỏ), mức độ phù hợp
với trình độ và khả năng của người nông dân được đảm bảo thì công tác
chuyển giao sẽ dễ đi đến thành công hơn.
* Các nhân tố thuộc về nông dân
Nông dân - những người trực tiếp hưởng lợi từ chính sách có ảnh hưởng
khá lớn đến sự thành công của việc chuyển giao một KTTB vào trong sản
xuất. Các nhân tố này bao gồm khả năng về vốn đầu tư, kỹ năng và kiến thức
của nông dân, hình thức tổ chức sản xuất (quy mô lớn hay nhỏ), trình độ văn
hoá, giới tính, lứa tuổi, kinh nghiệm và sự tiếp xúc xã hội (việc tham gia vào
các tổ chức xã hội như: CLB khuyến nông, hội nông dân…). Khả năng giao
tiếp xã hội và cộng đồng của người nông dân như: sự tiếp xúc với cán bộ
khuyến nông, tiếp cận các nguồn thông tin đại chúng, với hàng xóm và bạn bè
cũng ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả của công tác chuyển giao.
7


* Đặc điểm cộng đồng mà KTTB được chuyển giao tới
Các yếu tố về văn hoá, tập tục có ảnh hưởng khá lớn tới sự thành công
của một KTTB được chuyển giao vào trong sản xuất nông nghiệp. Tại nhiều
vùng, nhiều địa phương chính những đặc điểm này đã làm cho một KT được
coi là tiến bộ nhưng cũng không thể được người nông dân áp dụng vào sản
xuất. Bên cạnh đó là các yếu tố như: cấu trúc làng xã, họ tộc, sự phân bố dân
cư, sự tiện lợi của thị trường… cũng có những ảnh hưởng nhất định tới kết quả
của quá trình chuyển giao KTTB tới nông dân. (Đỗ Kim Chung, 2005).
2.5 Tác động của chính sách
* Đứng trên góc độ kỹ thuật
Một kỹ thuật tiến bộ khi được chuyển giao vào trong sản xuất sẽ gây ra
những tác động đến quá trình sản xuất nông nghiệp của người nông dân.

Những tác động đó được biểu hiện ở 3 trường hợp cụ thể sau:
a. Thay đổi công nghệ ảnh hưởng

Q

đến quan hệ giữa yếu tố sản xuất và sản
phẩm

CN 2
Q2

Với cùng một lượng yếu tố sản
xuất X1 nhưng sản lượng tăng từ Q1 →

CN 1

Q1

Q2 khi sử dụng công nghệ 2 thay cho
công nghệ 1. Như vậy, quá trình chuyển

0

X1

X

giao kỹ thuật tiến bộ đã góp phần làm
X


tăng sản lượng khi sử dụng cùng một lượng các yếu2tố đầu vào.

8

Q =250


b. Thay đổi công nghệ ảnh hưởng đến quan hệ giữa 2 yếu tố sản xuất
Lấy một ví dụ trong sản xuất lúa, khi có một công nghệ mới được áp
dụng vào trong sản xuất. Khi đó, chi phí để sản xuất ra một sản lượng là
Q =250

250kg đã giảm đi nghĩa là đường
cong đồng lượng đã bị dịch chuyển
về phía bên trái, làm tiết kiệm được




X’2



(X 1 – X 1) lượng yếu tố X1 và (X 2 –

X”2



X 2) lượng yếu tố X2. Nói cách khác,

cần một lượng yếu tố đầu vào ít hơn

0

để sản xuất ra một lượng đầu ra như

X”1

X’1

X
1

cũ.
* Đứng trên góc độ kinh tế - xã hội

Khi chuyển giao KTTB vào sản xuất nông nghiệp làm cho đường cung
dịch chuyển theo chiều hướng tăng (S1 → S2)
khi đó, lượng cung sản phẩm trên thị trường

P

S1
S2

sẽ tăng lên. Dẫn đến thặng dư người sản xuất
tăng từ a đến: a + b + c.
a

Phần người sản xuất phải chi thêm để

có được lượng sản phẩm Q2 là: d

b
c
d

Lượng sản phẩm tăng thêm khi chuyển
giao KTTB là: b = Q2 – Q1

0
Q1

Phần tiết kiệm chi phí: c

Q2

Lợi ích người sản xuất tăng lên là: b + c nhưng ta chưa thể khẳng định
được b + c lớn hơn hay nhỏ hơn d. Điều này còn phụ thuộc vào độ co dãn theo giá.
* Xem xét trên tổng thể nền kinh tế:
9

Q


Ta thấy: Khi áp dụng chính sách chuyển giao KTTB vào sản xuất làm
cho lượng cung sản phẩm tăng lên. Lúc này, đường cung sẽ dịch chuyển theo
chiều hướng tăng từ S1 → S2
Tại S1 (trước khi áp dụng KTTB):
CS: a


P

S1

PS: b + f

S2

TD xã hội: a + b + f
a

Tại S2 (sau khi áp dụng KTTB):

b

CS: a + b + c + d

c

d
e

f
g

PS: (f + g + e)

D

TD xã hội: a + b + c + d + e + f + g

→ Khi KTTB được chuyển giao vào

0

Q1

Q2

sản xuất thì thặng dư xã hội tăng:
(a + b + c + d + e + f + g) – (a + b + f) = c + d + e + g
Vậy có thể thấy chính sách chuyển giao KTTB đã làm cho thặng dư hay an
sinh xã hội tăng lên. Đảm bảo cho một nền nông nghiệp phát triển bền vững.
2.6 Kinh nghiệm của các nước trên thế giới về chính sách chuyển giao kỹ
thuật tiến bộ trong nông thôn
Trong lịch sử phát triển kinh tế của các nước đi lên từ nông nghiệp, việc
tìm tòi các hình thức tổ chức và cơ chế chính sách để đẩy nhanh quá trình ứng
dụng các kỹ thuật tiến bộ và các loại hình tổ chức sản xuất có hiệu quả vào địa
bàn nông thôn và miền núi luôn luôn được Nhà nước coi trọng. Đây cũng là
một trong những hướng ưu tiên tài trợ của nhiều tổ chức quốc tế, khu vực và

10

Q


các tổ chức phi chính phủ. Có thể kể đến một số chương trình lớn của các
nước trong khu vực như:
Chương trình Đốm lửa, chương trình được mùa, giúp đỡ vùng nghèo
(xóa đói giảm nghèo) của Trung Quốc.
Chương trình đa dạng hoá nông nghiệp của Thái Lan, trung tâm trình

diễn kỹ thuật tiến bộ tại địa bàn nông thôn của Ấn Độ... Đây là những chương
trình có mục đích thử nghiệm và tìm ra các hình thức hỗ trợ chuyển giao công
nghệ vào địa bàn nông thôn.
Từ thực tiễn tình hình chuyển giao kỹ thuật tiến bộ của các nước trên
thế giới có thể rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau:
- Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật là cần thiết trong chiến lược phát triển
nông nghiệp nông thôn, chuyển giao cần được coi là trọng tâm trong hệ thống
nghiên cứu và phát triển nông nghiệp nông thôn.
- Trợ cấp cho chuyển giao chỉ nên tiến hành ở thời kỳ đầu để khuyến
khích sự ứng dụng kỹ thuật mới và sẽ giảm dần trong chuyển giao. Đồng thời
chuyển giao kỹ thuật tiến bộ phải đạm bảo phát huy được nguồn lực của nông
dân, người nhận chuyển giao phải trả công tác phí cho công tác chuyển giao.
- Chuyển giao phải lấy chiến lược hướng cầu là chính, tức là dựa vào
nhu cầu của người dân và trị trường để xác định kỹ thuật cần chuyển giao cho
người dân (Đỗ Kim Chung, 2005).

11


III. Đặc điểm thực tiễn về chính sách chuyển giao kỹ thuật
tiến bộ tại Việt Nam
3.1 Đặc điểm ở Việt Nam
- Ở Việt Nam, dân cư tập trung phần lớn ở nông thôn và nông nghiệp là
nguồn sống chủ yếu (gần 80% dân số sống ở nông thôn và hơn 70% lao động
làm nông nghiệp). Các vấn đề về nghèo đói, việc làm, sự gia tăng dân số vẫn
còn là một câu hỏi lớn chưa tìm ra lời giải đáp.
Sản xuất nông nghiệp hiện nay chưa có sự tương xứng so với điều kiện
của ngành, nguồn lực chưa thực sự tập trung vào những ngành đem lại hiệu
quả cao (chủ yếu mới chỉ chú trọng vào trồng trọt). Vì vậy, các chính sách
chuyển giao KTTB thường tập trung nhiều hơn vào việc nâng cao hiệu quả

sản xuất ngành trồng trọt, cải thiện đời sống người nông dân.
- Là một nước chịu ảnh hưởng sâu sắc của khí hậu nhiệt đới gió mùa
(bên cạnh những thuận lợi là những biến đổi bất thường khó dự đoán), với
diện tích trải dài qua 3 miền thì chính sách chuyển giao KTTB trong nông
nghiệp ở Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện tự nhiên. Cùng với đó,
việc hoạch định chính sách phải cụ thể và phù hợp cho từng vùng, miền.
- Là một nước với trình độ sản xuất nông nghiệp còn khá lạc hậu,
chuyên môn hóa thấp, quy mô sản xuất phân tán…Thêm vào đó, trình độ dân
trí của người nông dân còn kém và không đồng đều giữa các vùng nên chính
sách chuyển giao KTTB trong nông nghiệp tại Việt Nam thường được hướng
dẫn chi tiết, cụ thể. Hiện nay, chính sách chuyển giao KTTB tại các địa
phương được các cán bộ khuyến nông cơ sở đảm nhận. Những KTTB mới đưa
về thường được hướng dẫn bằng việc xây dựng các mô hình trình diễn cụ thể.
- Với việc là thành viên của WTO thì các chính sách chuyển giao KTTB
trong nông nghiệp hiện nay cũng phải có những điều chỉnh nhất định, cần phải
12


phù hợp với những quy định chung của WTO như việc cam kết cắt giảm hỗ
trợ, trợ cấp đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp.
3.2 Thực tiễn chính sách chuyển giao KTTB ở Việt Nam
Chính sách chuyển giao KTTB ở Việt Nam hiện nay được thực hiện chủ
yếu thông qua các chính sách: Chính sách tổ chức chuyển giao, chính sách hỗ
trợ trong chuyển giao, đào tạo bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực, xây dựng
các chương trình chuyển giao, và chính sách tài chính cho chuyển giao.
3.2.1 Hình thành hệ thống chuyển giao KTTB
Các tổ chức chuyển giao KTTB được hình thành thành các hệ thống tổ
chức: hệ thống khuyến nông của nhà nước, các viện nghiên cứu, các trường,
các doanh nghiệp.
Nghị định 13 CP của chính phủ về công tác khuyến nông đã mở đầu cho

chính sách chuyển giao KTTB trong nông nghiệp thông qua hệ thống khuyến
nông từ Trung ương tới các địa phương và cơ sở.
Trung tâm khuyến
nông quốc gia

Trung tâm khuyến
nông tỉnh

Trạm khuyến nông
huyện

Khuyến nông cơ sở

13


Các trung tâm khuyến nông đã được thành lập ở tất cả các tỉnh, 80% ở
các huyện, nhưng chưa thực sự vươn tới cấp xã và cơ sở, có khoảng 60% số
xã là có khuyến nông cơ sở. Các dự án khuyến nông được tổ chức từ Trung
ương tới cấp cơ sở, và các khuyến nông cơ sở là những người trực tiếp làm
việc với nông dân, đóng vai trò quan trọng trong thành công của chính sách
chuyển giao KTTB. “Tuyên truyền chủ trương đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, thông tin thị
trường, giá cả, phổ biến điển hình tiên tiến trong sản xuất, quản lý, kinh
doanh, phát triển nông nghiệp, thuỷ sản” (Nghị định số 56/2005/NĐ-CP của
Chính phủ về khuyến nông, khuyến ngư). “Tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao
trong các chương trình, dự án khuyến nông, khuyến ngư là những tiến bộ kỹ
thuật tiên tiến được các cấp có thẩm quyền công nhận và phê duyệt theo quy
định của pháp luật” (Quyết định số 37/2008/QĐ-BNN ngày 22/02/2008 - Ban
hành Quy chế quản lý chương trình, dự án khuyến nông, khuyến ngư quốc

gia). Thông qua hệ thống khuyến nông, các kỹ thuật tiến bộ sẽ được chuyển
đến tay người nông dân. Dự án sản xuất giống lúa nguyên chủng và giống xác
nhận được UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu giao cho Trung tâm Khuyến nông và
Giống nông nghiệp tỉnh thực hiện bước đầu đã mang lại hiệu quả; Phổ biến
rộng việc dùng đèn COMPACT trồng thanh long ở Bình Thuận; Nuôi cá đối
mục ở Nam Định - Hướng đi cho người dân vùng ven biển có thu nhập
thấp.v.v.. Các câu lạc bộ khuyến nông cũng được thành lập và hoạt động khá
hiệu quả như câu lạc bộ khuyến nông Châu Cầu, xã Châu Phong, huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh.v.v..
Hệ thống các viện, trường được phân công phụ trách và chuyển giao
theo các vùng trọng điểm. Vùng đồng bằng sông Hồng có Viện cây lương thực
thực phẩm và ĐHNN Hà Nội. Vùng ĐBSCL có Viện lúa ĐBSCL, ĐH Cần
Thơ, ĐH An Giang. Vùng miền núi và trung du phía Bắc có Viện khoa học kỹ
14


thuật nông nghiệp Việt Nam, ĐH Thái Nguyên,. Vùng Đông Nam Bộ có Viện
khoa học nông nghiệp miền Nam và ĐH Nông lâm Thủ Đức. Vùng Tây
Nguyên có Viện nông lâm Tây Nguyên. Vùng Duyên hải miền Trung Bộ có
Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam và ĐH Nông lâm Huế. Vùng
Trung du Bắc Bộ có Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam (Bộ
NNPTNT, 2002).
3.2.2 Chính sách hỗ trợ và miễn giảm thuế trong chuyển giao KTTB
Chuyển giao KTTB có tác động tích cực đến sản xuất của người nông
dân nên việc hỗ trợ kinh phí và miễn giảm thuế trong chuyển giao là một việc
làm cần thiết. Nghị định 63 CT – TƯ đã nêu rõ “đối với nông dân, hộ nông
dân và trang trại, doanh nghiệp được hỗ trợ kinh phí hoặc trợ giá một phần
cho việc đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong sản
xuất nông nghiệp, không điều tiết thuế thu nhập trong những năm đầu đối với
nguồn thu do ứng dụng thành công KTTB, miễn giảm thuế cho các hoạt động

ứng dụng KTTB. Cung cấp tín dụng để nông dân có điều kiện ứng dụng
KTTB”. Tuy nhiên, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết chỉ hỗ trợ
10% sản lượng nông nghiệp, vì vậy mà dần dần, các khoản trợ hỗ trợ sẽ dần ít đi.
3.2.3 Đào tạo bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho chuyển giao
Chỉ thị 63 nêu rõ nhà nước tăng cường bồi dưỡng các chủ thể trong
nông nghiệp (cán bộ, các doanh nghiệp, cá nhân) được bồi dưỡng miễn phí
từng phần hay toàn phần khi triển khai ứng dụng KTTB vào nông nghiệp (Đỗ
Kim Chung, 2005). Nghị định số 56/2005/NĐ-CP của Chính phủ về khuyến
nông, khuyến ngư đã chỉ rõ bồi dưỡng, đào tạo cán bộ khuyến nông:
- Bồi dưỡng, tập huấn và truyền nghề cho người sản xuất để nâng cao
kiến thức, kỹ năng sản xuất, quản lý kinh tế trong nông nghiệp, thuỷ sản.

15


- Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho người hoạt
động khuyến nông, khuyến ngư.
- Tổ chức tham quan, khảo sát, học tập trong và ngoài nước.
3.2.4 Xây dựng các chương trình chuyển giao
Xuất phát từ tình hình thực tế, trong giai đoạn hiện nay Chính phủ chủ
yếu tập trung vào có 9 chương trình trọng điểm sau: 1. Chương trình khuyến
nông vùng xâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người; 2. Chương trình
khuyến nông kích thích sản xuất hàng hóa có lợi thế xuất khẩu; 3. Chương
trình khuyến nông khuyến khích xuất khẩu hàng hóa thay thế nhập khẩu; 4.
Chương trình ứng dụng TBKT công nghệ cao; 5. Chương trình khuyến nông
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phát triển nông nghiệp bền vững; 6.
Chương trình khuyến nông chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp; 7. Chương trình
khuyến nông về thông tin, huấn luyện, tăng cường năng lực hoạt động khuyến
nông cơ sở; 8. Chương trình khuyến nông xây dựng mô hình kinh tế hợp tác;
9. Chương trình khuyến nông về thị trường và xúc tiến thương mại.

3.2.5 Chuyển giao qua các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ
Chỉ thị số: 3524/CT-BNN-TC đã nêu rõ về việc chấn chỉnh và tăng
cường công tác quản lý tài chính nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của các
chỉnh phủ, tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ nước ngoài thuộc nguồn
thu ngân sách nhà nước trong ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Trong hơn 10 năm qua (1994-2006), số lượng các tổ chức có quan hệ
với Việt Nam đã tăng từ 210 tổ chức vào năm 1994 lên khoảng 650 tổ chức
vào năm 2006. Trong số đó, có trên 500 tổ chức có hoạt động thường xuyên,
có dự án và đối tác Việt Nam. Giá trị viện trợ năm 1993 là 40 triệu USD, đến

16


năm 2002 là 85 triệu USD, năm 2004 là 140 triệu USD, năm 2005 là 175 triệu
USD, năm 2006 là 217 triệu USD.
Chương trình viện trợ của các NGOs được triển khai ở 61 tỉnh thành
trong cả nước, đặc biệt tập trung vào những vùng còn nghèo, vùng sâu, vùng
xa và ngày càng tập trung hơn vào các lĩnh vực phù hợp với các ưu tiên và
định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là xoá đói giảm
nghèo và phát triển bền vững. Thông qua sự hỗ trợ đó, chính sách nghiên cứu
những kỹ thuật tiến bộ đã được triển khai, nhiều KTTB đã được chuyển giao
đến người nông dân.
3.3 Tác động của chính sách chuyển giao KTTB
3.3.1 Tác động tích cực
Chính sách chuyển giao KTTB ở
Việt Nam trong những năm qua đã có
tác động đến toàn ngành nông nghiệp,
nhiều giống cây trồng – vật nuôi năng
suất cao, chất lượng tốt được đưa vào
sản xuất; nhiều quy trình sản xuất được

đưa vào áp dụng như: biện pháp quản
lý dịch hại tổng hợp (IPM), áp dụng kỹ
thuật bón phân hợp lý…từ đó góp phần
nâng cao đời sống của người dân, thực hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Từ năm 2000 đến nay, tổng kinh phí đầu tư cho các đề tài nghiên cứu
khoa học, công nghệ về giống do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
quản lý là 141,5 tỷ đồng. Với mức đầu tư này, trong 5 năm qua, chương trình
giống cây trồng và vật nuôi đã thu được nhiều kết quả trong lĩnh vực nghiên
cứu khoa học về giống.
17


* Trong lĩnh vực trồng trọt:
Về giống cây trồng, chương
trình đã chọn tạo, khảo nghiệm công
nhận 45 giống lúa với diện tích gieo
trồng gần 2 triệu ha, năng suất tăng
trên 10%; chọn tạo được 1 giống ngô
cao sản, công nhận 3 tổ hợp giống
ngô lai năng suất cao, thời gian sinh
trưởng ngắn, thích nghi rộng; công
nhận 4 giống rau mới; thu thập 36 chủng loại cây ăn quả của 613 dòng; hoàn
thiện quy trình nhân giống điều ghép; khảo nghiệm và công nhận được 67
dòng, giống cây lâm nghiệp...
Việc đưa các giống lúa lai vào sản xuất đã đem lại nhiều thành tựu mới
đưa năng suất lúa tăng lên rõ rệt. Năm 2007, sản lượng lúa tính chung ba vụ
đạt 35,87 triệu tấn, tăng 0,1% so với năm 2006, trong đó sản lượng lúa đông
xuân 17,03 triệu tấn, giảm 3,2% (diện tích giảm 0,2%, năng suất giảm 3%);
lúa hè thu 10,11 triệu tấn, tăng 4,3% (năng suất tăng 9,6% bù lại diện tích
giảm; lúa mùa 8,73 triệu tấn, tăng 1,9% (năng suất tăng 2,1%, diện tích giảm

nhẹ). Năm 2004, sản lượng hạt giống lúa lai sản xuất trong nước đạt 3.200 tấn,
đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu sử dụng giống.
Năm 2007 cũng là năm được mùa ngô với sản lượng 4,11 triệu tấn, tăng
tới 8,2% so với năm trước. Tính chung cả lúa và ngô thì sản lượng lương thực
có hạt năm nay đạt gần 40 triệu tấn, tăng 0,8% so với năm 2006.
Sản lượng nhiều loại cây công nghiệp hàng năm như đay, mía, lạc đậu
tương đều tăng so với năm trước, do tăng cả diện tích và năng suất. Sản lượng

18


hầu hết cây có giá trị xuất khẩu cao như cao su, hồ tiêu, điều chè tăng từ 8,3
đến 14,4% do mở rộng diện tích và tăng năng suất.
Ngày càng xuất hiện nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp cho thu nhập
cao ở các tỉnh thành phố như: Mô hình trồng rau, trồng hoa (Thanh Trì, Hà
Nội), Mô hình trồng Hoa Hồng, Hành tây ở Mê Linh (Vĩnh Phúc); Luân canh
3 vụ ở các huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Thái Thụy (Thái Bình). Các mô hình
này đã đạt mang lại hiệu quả kinh tế từ 50 - 200 triệu đồng/ha.
Hiện nay, đã xuất hiện nhiều ký kết quan trọng giữa Doanh nghiệp và
người nông dân, liên kết “bốn nhà” trong sản xuất và tiêu thụ nông sản đem lại
kết quả tốt như: Công Ty Cổ Phần Nhà Máy Đường Lam Sơn (Thanh Hoá),
tiêu thụ Lúa Gạo ở An Giang.
* Trong lĩnh vực chăn nuôi:
Về giống vật nuôi, chương trình đã nghiên cứu và áp dụng trong sản
xuất công thức lợn lai 3 máu cho năng suất thịt cao hơn từ 10 - 15% so với các
công thức lai khác; hoàn thiện công nghệ cấy truyền phôi tươi và phôi đông
lạnh trong nhân giống bò sữa; hoàn thiện quy trình vỗ béo bò thịt; hoàn thiện
quy trình nuôi dưỡng thích nghi một số giống gà chăn thả, gà lông màu nhập
nội; chọn lọc được 2 dòng vịt siêu thịt.
Nhiều kỹ thuật tiến bộ được áp dụng, từ việc nhập nuôi dưỡng và việc

thuần dưỡng giống Lợn ngoại vào việc cải tạo đàn giống, tạo lợn lai cho tỷ lệ
nạc cao. Chương trình cải tạo và phát triển đàn Bò theo hướng Shin hoá trên
khắp đất nước…
Nhiều khu vực chăn nuôi đã đạt được hiệu quả nhất định: 50 - 60 triệu
đồng/hộ
Nuôi trồng Thuỷ Sản đã thu hút nhiều hộ nông dân tham gia: Nuôi tôm,
Cá, Ốc…đạt được từ 150-300 triệu/ha.

19


* Đối với lĩnh vực cơ khí hoá nông nghiệp, nông thôn và chế biến nông
lâm sản:
Nhiều cơ sở chế biến nông lâm thuỷ sản đã chủ động đổi mới công
nghệ, quy hoạch và xây dựng được nhiều khu nguyên liệu tập trung phục vụ
cho công nghiệp chế biến hàng hoá và nông sản.
Các thiết bị mới như Máy cắt Lúa, máy cày đa chức năng, các chế phẩm
sinh học EM, hầm khí Bioga, máy bóc lá Mía.. đã được đưa vào ứng dụng
phục vụ thúc đẩy nông dân sử dụng và ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản
xuất, đời sống tăng năng suất lao động.
Hiệu quả kinh tế mang lại:
Cùng với nhiều yếu tố khác, việc chuyển giao kỹ thuật công nghệ trong
nông nghịêp đã góp phần thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp: Tỷ trọng
trồng trọt giảm từ 61.8% (2000) xuống còn 51% (2007), tương ứng là tỷ lệ
ngành chăn nuôi tăng dần từ 17% đến 20% (2007).
Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản từ năm 2000 - 2007 đạt 49.6 tỷ
USD, bình quân 7.1 tỷ USD/năm. Năm 2007 con số này là 12.5 tỷ USD, tăng
gấp 3 lần so với năm 2000. Đến nay đã có 5 mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch
trên 1 tỷ USD/năm đó là: Thuỷ Sản, Cà Phê, Gạo, Cao Su, đồ gỗ. (Đào Thế
Tuấn, 2007, “Giải quyết vấn đề tam nông trong thời kỳ mới”, tạp chí Nông

thôn ngày nay, tháng 8/2007, Trang 15 - 17).
Theo kết quả điều tra chăn nuôi tại thời điểm 01/8/2007, cả nước có
gần 3 triệu con trâu, tăng 2,6% so với năm 2006; 6,7 triệu con bò, tăng
3,3%; 226 triệu gia cầm, tăng 5,3%. Giá trị sản xuất thủy sản năm 2007
theo giá so sánh năm 1994 ước tính đạt 46,7 nghìn tỷ đồng, tăng 11% so
với năm 2006, trong đó nuôi trồng tăng 16,5%; khai thác tăng 2,1%. Sản
lượng thủy sản cả năm ước tính đạt 4,15 triệu tấn, tăng 11,5% so với năm
2006, trong đó nuôi trồng 2,09 triệu tấn, tăng 23,1%, do tăng cả diện tích
20


và năng suất (nhất là các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long); sản
lượng khai thác 2,06 triệu tấn, tăng 1,8%. Trong tổng số, sản lượng cá
chiếm tỷ trọng 74%, tương đương với 3,1 triệu tấn và tăng tới 13,5%, sản
lượng tôm đạt khoảng 500 ngàn tấn và chỉ tăng ở mức 7,6%.
Báo cáo với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ NN &PTNT Cao Đức
Phát khẳng định, trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu cũng như
ứng dụng KHCN trong nông nghiệp của Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn. Nhờ các thành tựu nghiên cứu KHCN, đến nay năng suất
lúa của nước ta đã thuộc hạng cao. Năng suất cà phê, hồ tiêu cũng thuộc
"top" đầu thế giới. Năng suất điều từ chỗ chỉ đạt có 5-7 tạ /ha đến nay đã
tăng lên 2 tấn /ha. Năng suất cá tra thuộc hàng cao nhất thế giới. Tuy
nhiên, Bộ trưởng Cao Đức Phát cũng thừa nhận, hoạt động nghiên cứu và
ứng dụng KHCN ở nước ta còn chậm, mức đầu tư thấp, các nhà khoa học
chưa được quan tâm, hỗ trợ kịp thời. Hiện nay, mức đầu tư KHCN cho
nông nghiệp mỗi năm tăng từ 10-15%. Thế nhưng, mức đầu tư này mới chỉ
chiếm khoảng 0,1% GDP và so với các nước như Australia (1% GDP),
Canada (1,3% GDP)... thì mức đầu tư của nước ta vẫn còn quá thấp.
3.3.2 Tác động tiêu cực
Chuyển giao KTTB vào trong nông nghiệp cũng có những mặt trái của

nó. Khi cung tăng lên mà nhu cầu ít thay đổi thì sẽ dẫn đến tình trạng giá hàng
hoá nông sản giảm xuống. Với xu hướng hiện nay, khi mà giá các yếu tố đầu
vào ngày càng có xu hướng gia tăng thì đây sẽ là một trong những nguyên
nhân làm cho tình trạng nghèo đói ở nông thôn gia tăng.
Với việc áp dụng những KTTB tiết kiệm lao động, khi những kỹ thuật
này được đưa vào trong sản xuất thì sẽ gây ra hiện tượng dư thừa lao động
trong nông thôn.
21


Từ những tác động đó có thể thấy chính sách chuyển giao KTTB vào nông
nghiệp cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng thêm sự phân hoá giàu
nghèo trong nông thôn.
Để giải quyết vấn đề này cần đẩy mạnh việc phát triển ngành nghề, dịch vụ
để thu hút lao động tại nông thôn. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến “công nghệ sau
thu hoạch”: sản phẩm của người nông dân sản xuất ra cần phải tạo được sự gia
tăng về giá trị có như vậy mới góp phần làm cho giá bán nông sản tăng lên.
Trong những năm qua, một số KTTB chuyển giao vào sản xuất nông
nghiệp không phù hợp như: việc đưa giống táo Isarel vào trồng tại Hà
Giang không hiệu quả đã tiêu tốn ngân sách nhà nước 5 – 6 tỷ đồng, một
số vật nuôi như: cá chim trắng, Hải ly…khi đưa vào nuôi trồng đã gây ra
một số tác động tiêu cực, lấy đi một phần khá lớn ngân sách nhà nước và
nguồn lực của nông dân.
3.4 Phân tích và nhận xét chính sách chuyển giao kỹ thuật tiến bộ trong
nông nghiệp
3.4.1 Một số thành tựu chính sách đã đạt được
- Đã hình thành được hệ thống chuyển giao kỹ thuật tiến bộ rộng khắp cả
nước. Bao gồm hệ thống khuyến nông từ Trung ương tới địa phương; Các viện,
trường, cơ quan nghiên cứu; Các tổ chức cá nhân, các doanh nghiệp; Các tồ chức
quốc tế và các tổ chức phi chính phủ. Từ đó, các kỹ thuật tiến bộ được chuyển giao

tới người nông dân một cách dễ dàng, hiệu quả hơn.
- Chính sách chuyển giao kỹ thuật tiến bộ đã đem lại cho người nông dân
cách thức sản xuất, các giống cây trồng, vật nuôi mới. Từ đó làm tăng thu nhập
của người nông dân, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo,

22


nâng cao thu nhập cho người nông dân, tiến tới phát triển nông nghiệp bền vững,
phù hợp với xu hướng hội nhập.
3.4.2 Một số hạn chế của chính sách chuyển giao kỹ thuật tiến bộ
* Về tổ chức hệ thống
- Hệ thống và lực lượng cán bộ khuyến nông tuy rộng lớn song còn
phân tán cả về tổ chức, mục tiêu, nội dung khuyến nông, thiếu vai trò quản lý
chung để hướng công tác khuyến nông phục vụ chiến lược phát triển ngành,
địa phương.
- Hệ thống khuyến nông yếu cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người.
- Mục tiêu, nội dung khuyến nông còn hẹp, phân tán chủ yếu mới tập
trung vào hướng dẫn kỹ thuật đơn thuần, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển
nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao, chưa gắn với xây dựng mô hình gắn
trồng trọt với chăn nuôi, chế biến và tiêu thụ.
- Phương pháp tiếp cận khuyến nông còn nặng về xây dựng mô hình
trình diễn, theo kiểu dội từ trên xuống, chưa phù hợp với dân trí và tâm lý của
nông dân ở các vùng sinh thái.
- Chưa có mô hình và phương thức chuyển giao phù hợp, chưa có sự kết
hợp hài hòa giữa các hệ thống khuyến nông nhà nước, các viện, các doanh
nghiệp và các tổ chức phát triển.
- Kinh phí cho khuyến nông còn hạn chế, quá tập trung vào kinh phí từ
trên cấp, chưa huy động được nguồn lực từ địa phương và nhất là của nhân

dân. Một số nơi chưa huy động được nguồn lực của nông dân và cộng đồng
tham gia.

23


- cơ chế chính sách khuyến nông tương đối đồng bộ, nhưng chính sách
cho khuyến nông cơ sở vẫn chưa rõ ràng và chưa được thống nhất.
* Về cách thức thực hiện
Các chương trình chuyển giao nặng từ trên xuống, tập trung quá ở
Trung ương và cấp tỉnh. Chưa có sự chủ động tại các cơ sở, địa phương. Các
địa phương chính là những nơi triển khai các kỹ thuật tiến bộ đó, nhưng các
kỹ thuật tiến bộ đó lại được điều hành từ trên xuống, chứ không phải xuất phát
từ nhu cầu thực tiễn của người dân địa phương.
* Về chính sách tài chính trong chuyển giao
Chính sách tài chính trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ còn nhiều điểm chưa phù hợp.
- Định mức chi tiêu trong hoạt động chuyển giao chỉ quy định chung
cho tất cả các đề tài, dự án, không có định mức riêng cho từng vùng, từng
khu vực cụ thể. Dẫn đến sự không linh hoạt trong khi áp dụng cho nhiều
địa phương trong cả nước.
- Cách tính chi tiêu và định mức chi tiêu quá lỗi thời, thấp hơn so
với tình hình thực tế khi tiến hành chuyển giao KTTB tới nông dân, không
phù hợp với đặc điểm nông nghiệp và nông thôn.
- Kinh phí cho chuyển giao, hỗ trợ cho xây dựng mô hình chuyển
giao KTTB không chuyển trực tiếp cho cơ quan chuyển giao từ Bộ Tài
chính về Sở Tài chính, đến Sở Khoa học công nghệ hay Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, sau đó mới đến cơ quan chuyển giao. Kinh phí đến
các cơ quan chuyển giao thường bị chậm, quá thời vụ sản xuất nông nghiệp.


24


- Kinh phí cho chuyển giao ở một số tỉnh thường do nhiều cơ quan
nắm giữ. Điều này dẫn đến đầu tư lãng phí, chồng chéo và kém hiệu quả.
- Cộng đồng, thôn, bản, làng xã và huyện thường không nắm được
việc chi tiêu tài chính. Tình trạng này làm chi kinh phí sử dụng không
được hiệu quả vì phải chịu sự chỉ đạo từ cấp trên.
- Chính sách tài chính cho chuyển giao hiện hành không quy định
các khoản chi tiêu cho các cơ quan quản lý các chương trình chuyển giao
KTTB ở địa phương. Điều này dẫn đến việc thiếu kinh phí giám sát và
kiểm tra việc thực hiện các chương trình chuyển giao KTTB tới nông dân.
- Cơ chế tài chính hiện hành chỉ cho phép chi cho nông dân đi dự tập
huấn, không cho phép đi vào việc làm tiêu bản, vật mẫu, thực hành, còn đầu tư
vào tài liệu tập huấn rất ít.
* Về chính sách cho các bộ chuyển giao
Chính sách cho cán bộ chuyển giao chưa thực sự hấp dẫn. Lương và trợ
cấp cho cán bộ chuyển giao còn hạn chế, chế độ ưu đãi chưa thực sự thỏa
đáng, tiêu chí tuyển dụng chưa hợp lý, điều kiện làm việc còn chưa đầy đủ.
Điều này khiến cho việc thu hút đội ngũ nguồn nhân lực tốt tham gia vào các
chương trình chuyển giao kỹ thuật tiến bộ chưa nhiều.

25


×