Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Phân tích tác động của khủng hoảng kinh tế tới hoạt động của các doanh nghiệp May Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.27 KB, 48 trang )

Phân tích tác động của khủng hoảng kinh tế tới hoạt động của các
doanh nghiệp May Việt Nam hiện nay.
NHÓM : SUNFLOWERS
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : THẠC SỸ NGUYỄN THỊ HOÀI DUNG
Các thành viên của nhóm:
1. LUYỆN THỊ THẮM Quản trị nhân lực 49B
(nhóm trưởng )
2. NGUYỄN THỊ HOÀI THU Quản trị nhân lực 49B
3. NGUYỄN THỊ GẤM Quản trị nhân lực 49B
4. PHẠM THỊ KIM THOA Quản trị nhân lực 49A
5. NGUYỄN THỊ VÂN ANH Quản trị nhân lực 49B
6. NGUYỄN QUANG MINH Quản trị nhân lực 49B
7. NGUYỄN NGỌC VINH Quản trị nhân lực 49B
8. NGUYỄN THỊ THU HUYỀN Quản trị nhân lực 49B
9. NGUYỄN THỊ SƠN Quản trị nhân lực 49B
10.NGUYỄN XUÂN HOÀ Quản trị nhân lực 49B
11.NGUYỄN TUẤN HÙNG Bất động sản 49
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời nền kinh tế khủng hoảng hiện nay Việt Nam cũng như
nhiều nước trên thế giới phải đối mặt với nhiều khó khăn như khủng hoảng
tài chính, lạm phát, thiếu nhân lực có trình độ. Biểu hiện, năm 2008 tình
hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp về tài chính
- giá cả; Đầu năm một số mặt hàng thiết yếu và nguyên nhiên vật liệu đầu
vào dùng cho sản xuất bông - xơ, cước phí vận chuyển, lãi suất ngân hàng
tăng cao, thêm vào đó tình hình lạm phát kéo dài và điện lưới quốc gia
cung cấp cho sản xuất thiếu, bị cắt nhiều ngày trong quý II và III/2008;
Đến giữa năm một số nền kinh tế lớn trên thế giới rơi vào suy thoái - khủng
hoảng, giá dầu thô và bông - xơ lại giảm giá nhanh; sức mua trên thị trường
giảm theo; gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chung.
Trong đó, dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm


của nền công nghiệp Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang được xem là ngành
sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá mạnh.
Việt Nam hiện có hơn 2000 nhà máy dệt may, thu hút trên 2 triệu
lao động, chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công
nghiệp.Việc tìm hiểu thực trạng nguyên nhân khủng hoảng kinh tế thế giới
hay nền kinh tế Viêt Nam hiện nay đang phải đối mặt với những vấn đề
gì ? Từ đó , đưa ra những giải pháp giảm thiểu nhưng khó khăn và ảnh
hưởng của khủng hoảng thế giới đến Việt Nam . Đặc biệt, ngành dệt may
cần làm gì vượt qua khủng hoảng và tìm kiếm cơ hội phát triển?
Vì những lý do trên mà chúng em quyết định sẽ chọn đề tài cho bài
tập nhóm là :
“Phân tích tác động của khủng hoảng kinh tế tới hoạt động của các
doanh nghiệp May Việt Nam hiện nay.”
Với mong muốn sẽ có được một cái nhìn tổng quát về nền kinh tế
trong nước cũng như của thế giới. Đặc biệt về ngành dệt may Viêt Nam
2
hiện nay. Từ đó sẽ có những cách phản ứng , các giải pháp và những định
hướng thích hợp giúp khắc phục và tìm ra những hướng đi tích cực phát
triển ngành dệt may.
Do thời gian thực hiện, nguồn tài liệu nghiên cứu bị giới hạn, khả
năng của các thành viên trong nhóm cũng còn nhiều hạn chế nên phần thực
hiện của chúng em vẫn còn rất nhiều thiếu sót.Chúng em rất mong sẽ nhận
được nhiều ý kiến đóng góp của thầy và tất cả các bạn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn !
3
NỘI DUNG
A. BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG CHUNG CỦA NỀN KINH TẾ
HIỆN NAY.
I. BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG CHUNG CỦA NỀN KINH TẾ

THẾ GIỚI HIỆN NAY.
1. Mỹ đứng trước khó khăn khủng hoảng.
Tốc độ tăng GDP trong 3 tháng cuối năm 2007 của Mỹ chỉ đạt 0,6%,
so với mức dự báo vốn đã thấp 0,7% công bố trước đó; số nhà bị tịch thu
do không thể trả nợ trong tháng 1/2008 tăng tới 57% so với cùng kỳ; chỉ số
lòng tin của người tiêu dùng giảm mạnh...
Đó là những minh chứng cho thấy kinh tế Mỹ đang có biểu hiện suy
thoái. Rất nhiều ngân hàng của Mỹ sẽ bị vỡ nợ do cuộc khủng hoảng tín
dụng, cùng với tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, đã làm cho cổ phiếu tại thị trường
chứng khoán Mỹ đồng loạt sụt giảm khá mạnh . Thêm vào đó giá nhiên
liệu và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu khác tiếp tục leo thang .
Suy thoái của nền kinh tế Mỹ đã làm căng thẳng thị trường lao động.
Trong tuần lễ kết thúc ngày 23/2/2007, số công nhân Mỹ nộp đơn xin bảo
lãnh thất nghiệp tăng vọt lên 370.000 người so với mức dự kiến 350.000
người Đến ngày 16/2/2008 trên cả nước Mỹ có khoảng 2,81 triệu công
nhân bị thất nghiệp. Chỉ số giá cả hàng tiêu dùng của Mỹ trong quý 4/2007
cũng tăng tới 2,7% so với mức tăng 2% trong quý trước
Hệ quả không thể tránh khỏi của tình trạng chung này là nan thất
nghiệp tăng vọt, với tỷ lệ bị nhân lên gần gấp đôi từ 4,7% vọt lên 8,2%.
2. Châu Á bị tác động dữ dội nhất từ khủng hoảng toàn cầu.
Theo ADB, các thị trường tài chính trong vùng đã phát triển nhanh
hơn các khu vực khác trong thời gian qua. Theo một công trình nghiên cứu
vừa được công bố, thì tỷ lệ trị giá tài sản trên các thị trường tài chính của
khu vực Châu Á đang phát triển (tức là không kể đến Nhật Bản) so với
4
tổng trị giá GDP đã tăng từ 250% vào năm 2003, lên đến 370% vào năm
2007. Trong cùng thời điểm, tỷ lệ này tại vùng Châu Mỹ La Tinh chẳng
hạn, chỉ tăng 30%.
Do khủng hoảng tài chính, trị giá tài sản ''tài chính'' của châu Á đã bị
mất đi 9.600 tỷ đô la, một khoảng tiền cao hơn một năm GDP của toàn

Châu Á đang phát triển. Số tài sản bị thất thoát này tương đương với một
phần năm tổng số tiền bị tan biến trên các thị trường tài chính toàn thế giới
do cuộc khủng hoảng đang diễn ra.
3. Khủng hoảng kinh tế tại Đông Nam Á.
Theo số liệu vừa được điều chỉnh của Cơ quan thẩm định kinh tế
Anh Quốc Economist Intelligence Unit, các nước Đông Nam Á vẫn lún sâu
thêm vào khủng hoảng. Năm 2009, tăng trưởng của Singapore thụt lùi
xuống mức -7,5%, Thái Lan co thắt theo tỷ lệ -4,4%. Việt Nam vẫn tăng
trường theo số dương, nhưng với vỏn vẹn 0,3%
Vấn đề đối với khu vực Đông Nam Á, theo giới phân tích, là các
nước trong vùng chưa thể chuyển đổi trong một sớm một chiều mô hình
phát triển dựa trên xuất khẩu, do đó vẫn còn phải nhờ vào lãnh vực xuất
khẩu để vươn lên trở lại, cho dù trước mắt các quốc gia đã bắt đầu tung ra
một số kế hoạch kích cầu trong nội địa với hy vọng là hạn chế được tác hại
của việc xuất khẩu tuột dốc. Vì vẫn phải nhờ vào xuất khẩu để vực dậy nền
kinh tế, cho nên chính quyền các nước Đông Nam Á, để tăng sức cạnh
tranh, có thể bị biện pháp hạ giá đồng tiền bản xứ cám dỗ.
Về trường hợp Việt Nam, nguyên nhân khiến cho tăng trưởng năm
2009 sẽ bị mất đi gần 6 điểm so với năm 2008 chủ yếu đến từ tình trạng
xuất khẩu sụt giảm, mức tiêu thụ trong nước yếu kém và đầu tư trực tiếp
ngoại quốc khan hiếm hẳn.
Ông Justin Wood, giám đốc đặc trách Đông Nam Á của Economist
Intelligence Unit đã giải thích rõ trong buổi họp báo hôm 16/03/2009 tại Hà
Nội là trị giá hàng xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2009 sẽ mất đi
5
khoảng 31%, trong lúc đầu tư trực tiếp đến nước ngoài sẽ giảm 70% với
vỏn vẹn 2,2 tỷ đô la dự kiến được giải ngân so với gần tám tỷ vào năm
ngoái. Lượng kiều hối của người Việt hải ngoại giới về nước cũng sẽ giảm
đáng kể do tình hình kinh tế khó khăn chung trên toàn thế giới. Theo ghi
nhận của EIU, trong năm 2008, Việt Nam thu được khoảng 8 tỷ đô la kiều

hối, tương đương với 9% GDP.

II. BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNH NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.
Năm 2008, Việt Nam bị tác động của hai cú sốc liên tiếp - có
chuyên gia gọi là hai cuộc khủng hoảng.
Cũng trong cùng một năm, Việt Nam đã phải hai lần chuyển đổi
mục tiêu ưu tiên với các nhóm giải pháp phù hợp. Hai cú sốc lớn đưa đến
chỗ Việt Nam đối mặt với nguy cơ lạm phát trì trệ
Cuộc khủng hoảng thứ nhất: khủng hoảng nhiên liệu.
Đó là cuộc khủng hoảng giá nhiên liệu, giá lương thực, sắt thép...
trên thế giới. Có người cho rằng, có dầu thô xuất khẩu, có lương thực xuất
khẩu, thì Việt Nam sẽ có lợi trong cuộc khủng hoảng trên thế giới này, chứ
đâu bị tác động tiêu cực?
Đúng là Việt Nam xuất khẩu dầu thô, nhưng lại nhập khẩu xăng dầu
với kim ngạch lớn hơn; còn giá lương thực thế giới tăng sẽ kéo giá lương
thực ở trong nước lên theo. Điều quan trọng là mức lạm phát của Việt Nam
cao hơn còn do những yếu tố ở trong nước cộng hưởng với cuộc khủng
hoảng trên thế giới. Yếu tố ở trong nước xuất phát từ việc chạy theo mục
tiêu tăng trưởng cao (còn gọi là tăng trưởng nóng), kéo theo việc gia tăng
tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, tốc độ tăng dư nợ tín dụng, làm
cho các tốc độ này cao hơn nhiều so với tốc độ tăng GDP.
Chính những yếu tố đó ở trong nước, cộng hưởng với lạm phát thế
giới đã làm cho lạm phát ở nước ta cao trong năm 2007 (cả năm là 12,63%-
6
tức là bình quân 1 tháng là 1%, riêng 2 tháng cuối năm lên tới
2,07%/tháng), đã bùng phát vào các tháng đầu năm 2008 (6 tháng đầu năm
2008 tăng tới 2,86%/tháng).
Ảnh hưởng lạm phát và nhập siêu cao.
Cùng một lúc với lạm phát, Việt Nam còn bị nhập siêu cao. Nhập

siêu cao trong năm 2007 (cả năm nhập siêu 14,12 tỷ USD, bình quân 1
tháng là 1 tỷ USD, riêng 2 tháng cuối năm còn lớn hơn nhiều), bùng phát
vào 5 tháng đầu năm 2008 (bình quân 2.695 triệu USD/tháng). Đứng trước
tình hình trên, có tổ chức và chuyên gia quốc tế đã cảnh báo Việt Nam cả
năm lạm phát có thể vượt qua mốc 30% và nhập siêu có thể vượt qua mốc
30 tỷ USD, từ đó khuyến cáo Việt Nam phá giá đồng nội tệ 20- 25% và cầu
cứu IMF hỗ trợ.
Nhưng thực tế đã không đến mức như vậy mà từ tháng 6, tháng 7,
lạm phát và nhập siêu, hai vấn đề nóng nhất đã được hạ nhiệt. Lạm phát từ
tháng 7 đến tháng 11 chỉ còn 0,38%/tháng, thấp hơn nhiều so với 6 tháng
đầu năm, thấp hơn cả tốc độ tăng bình quân 1 tháng của cùng kỳ năm trước
(0,79%), thấp hơn lãi suất tiết kiệm (tức là lãi suất đã thực dương). Nhập
siêu từ tháng 6 đến tháng 11 chỉ còn ở mức dưới 1 tỷ USD (bình quân 1
tháng còn 529 triệu USD).
Đạt được kết quả trên do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân quan
trọng hàng đầu là Chính phủ đã chuyển đổi mục tiêu ưu tiên từ ưu tiên cho
mục tiêu tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên cho mục tiêu kiềm chế lạm phát.
Có nguyên nhân do thực hiện 8 nhóm giải pháp, trong đó biện pháp quan
trọng hàng đầu là thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ...
Hai vấn đề nóng nhất là lạm phát và nhập siêu vừa được hạ nhiệt, thì
cuộc khủng hoảng địa ốc, cho vay dưới chuẩn ở Mỹ được “ủ bệnh” từ hơn
một năm trước, bùng phát vào giữa tháng 9/2008, đã lan nhanh sang các
lĩnh vực tài chính, tiền tệ, kinh tế, lao động việc làm và lan nhanh sang các
khu vực, các nước.
7
Một nền kinh tế mà tăng trưởng dựa tới gần 60% vào vốn đầu tư, có
định hướng xuất khẩu (xuất khẩu so với GDP lên tới 70%), vừa mới gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được 2 năm, lại vừa trải qua
lạm phát, nhập siêu cao..., nên cuộc khủng hoảng trên thế giới đã tác động
đến Việt Nam, tuy có chậm hơn một số nước (do độ mở cửa về tài chính

chưa rộng, đồng tiền chưa chuyển đổi, do có sự chủ động ứng phó...),
nhưng cũng rất lớn và khá rộng.
Xuất khẩu có tình trạng tháng sau thấp hơn tháng trước. Tăng trưởng
công nghiệp bị sụt giảm. Lượng khách quốc tế cũng tháng sau thấp hơn
tháng trước và chi tiêu bình quân một lượt khách cũng có xu hướng ít đi.
Vốn đầu tư gián tiếp đang ra nhiều hơn vào, chỉ số chứng khoán xuyên
thủng hết đáy này sang đáy khác, trở về điểm xuất phát cách đây 3- 4 năm.
Nguy cơ suy giảm kinh tế đã xuất hiện. Một lần nữa trong năm nay,
Chính phủ phải chuyển đổi mục tiêu ưu tiên, từ ưu tiên kiềm chế lạm phát,
với giải pháp hàng đầu là thắt chặt tiền tệ, sang ưu tiên ngăn chặn sự suy
giảm kinh tế, với gói 5 giải pháp cấp bách, trong đó kích cầu ngày càng trở
thành giải pháp nổi bật và gói giải pháp tài chính đang được bàn thảo nhiều
nhất.
Sự tác động của khủng hoảng tài chính
Việt Nam cần làm rõ những tác động gián tiếp của cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu lần này để chỉ ra đâu là thách thức cần vượt qua.
Thứ nhất, khả năng rút vốn của các nhà đầu tư gián tiếp. Đây là khả
năng thực tế. Một số nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài có thể sẽ rút vốn của
họ khỏi Việt Nam để củng cố các hoạt động của họ ở thị trường truyền
thống. Tuy nhiên, đây sẽ chỉ là những trường hợp bất dắc dĩ. Các nhà đầu
tư gián tiếp sẽ không dễ dàng rút đi vì họ không thể không thấy cơ hội sinh
lời trong tương lai ở thị trường chứng khoán Việt Nam cao hơn so với thị
trường chứng khoán ở các nước khác.
8
Thứ hai, vốn đầu tư trực tiếp triển khai chậm. Một số nhà đầu tư
trực tiếp có thể chậm đưa vốn vào các dự án đã cam kết với Việt Nam, tuy
nhiên, điều đó chỉ đúng với những nhà đầu tư quá phụ thuộc vào các công
ty tài chính bị sụp đổ và họ chưa thấy cơ hội sinh lời đáng kể trong tương
lai. Nếu Chính phủ đưa ra các chính sách kinh tế rõ ràng và hấp dẫn, hướng
tới sự phát triển bền vững thì sự giảm sút luồng vốn FDI sẽ không nhiều, và

trong trường hợp như thế, vẫn có nhiều nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài
khác sẵn sàng vào thay thế. Việc giải ngân hơn 60 tỉ USD vốn FDI đăng ký
năm 2008 là điều rất quan trọng.
Thứ ba, xuất khẩu có thể bị hạn chế. Điều này có thể xảy ra đối với
một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, chủ yếu là các mặt hàng có giá
trị cao. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, hàng xuất khẩu của Việt Nam đa phần
vẫn là các loại hàng hoá thiết yếu phục vụ trực tiếp cho đời sống và sản
xuất của các nước nhập khẩu như: dầu thô, than đá; gạo, cà phê, hạt tiêu,
hàng thủy sản; hàng dệt, da, may mặc, giày dép... Mức độ giảm cầu đối với
những hàng hoá này không lớn. Vì vậy, mức cung cũng chỉ bị tác động có
mức độ. Thực tế cho thấy, xuất khẩu của Việt Nam đến đầu quý IV năm
2008 vẫn tiếp tục tăng mặc dù thị trường thế giới đã giảm đáng kể so với
mấy năm trước.
Sau một năm nhìn lại có thể thấy, tuy có bị lúng túng vào cuối tháng
3-2008, nhưng ngay sau đó, Chính phủ đã đưa ra những quyết sách phù
hợp, nhất là 8 nhóm giải pháp quyết liệt chống lạm phát, trong đó coi trọng
cả công cụ tiền tệ và các công cụ khác là những hành động cụ thể đã đưa lại
hiệu quả thiết thực.
III. NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG CỦA NỀN KINH TẾ
THẾ GIỚI.
1.Sự mất cân bằng toàn cầu đã gây ra khủng hoảng kinh tế
Thời gian gần đây, nhiều nhà kinh tế học và hoạch định chính sách,
bao gồm cả những nhân vật nổi tiếng như Paul Krugman, người đoạt giải
9
Nobel kinh tế 2008, đồng thời là một nhà báo chuyên mục của tờ New
York Times, và cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ Henry Paulson, cùng có
quan điểm cho rằng, sự mất cân đối toàn cầu - có thể được hiểu là những
khoản thặng dư thương mại khổng lồ của một số quốc gia như Trung Quốc,
và thâm hụt thương mại cũng vĩ đại không kém của một số nước khác như
Mỹ - là nguyên nhân sâu xa gây ra khủng hoảng tài chính. Một lượng tiền

dư thừa từ những quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao, như Trung Quốc và các
nước xuất khẩu dầu lửa, đã chảy vào nước Mỹ. Những dòng tiền này khiến
lãi suất tại Mỹ được duy trì ở mức thấp và tạo ra sự bùng nổ trong lĩnh vực
cho vay tín dụng, tiếp đó là sự tăng vọt của giá các loại tài sản như nhà đất
và chứng khoán. Rốt cục, khi những bong bóng này vỡ, khủng hoảng tài
chính nổ ra theo.
2. Sự buông lỏng quản lý đã gây ra khủng hoảng kinh tế.
IMF cho rằng , "thủ phạm" chính gây ra khủng hoảng chính là tình
trạng buông lỏng quản lý hệ thống tài chính, cùng với việc không tuân thủ
kỷ luật thị trường. Do các tập đoàn tài chính không có khả năng sáng tạo
quá cao trong việc phát triển những cơ cấu là công cụ mới để phục vụ cho
nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận cao của giới đầu tư.
Những công cụ này mang tính rủi ro cao hơn những gì người ta có
thể hình dung về chúng. Quá lạc quan về sự gia tăng tiếp theo của giá tài
sản, các nhà đầu tư không chịu nhìn gần vào bản chất của loại tài sản mà họ
đã mua. Thay vào đó, họ dựa vào những phân tích mà các tổ chức xếp hạng
tín nhiệm cung cấp. Trong khi đó, trong một số trường hợp, các tổ chức
đánh giá này thậm chí còn bán lời khuyên về việc làm thế nào để có thể
“bịt mắt” hệ thống xếp hạng tín nhiệm.
Cũng theo IMF, một vấn đề lớn nữa là hệ thống giám sát tài chính tỏ
ra lỏng lẻo, bất lực và có quy mô quá hạn chế. Cơ quan này cho rằng, hệ
thống tài chính phi ngân hàng (shadow banking system) - một mạng lưới có
độ ràng buộc lẫn nhau cực cao, gồm các ngân hàng đầu tư, các quỹ đầu cơ,
10
các tổ chức cho vay địa ốc… - lại không nằm dưới sự giám sát của các quy
chế chặt chẽ (chẳng hạn các quy định về mức độ đủ vốn) thường được áp
dụng cho các ngân hàng thương mại.
Theo lập luận của IMF, một phần lý do dẫn tới tình trạng này là tầm
quan trọng trong hệ thống của các tổ chức thuộc mạng lưới trên đã không
được đánh giá đúng mức như các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, việc

các tổ chức trên ở trong tình trạng quản lý lỏng lẻo lại khuyến khích các
ngân hàng thương mại (có các chi nhánh là các tổ chức phi ngân hàng như
đề cập ở trên) trốn tránh các quy định về mức vốn bằng cách đẩy rủi ro vào
những tổ chức này.
Dần dần, hệ thống các tổ chức tài chính này phình to tới nỗi chúng
đóng một vai trò thực sự quan trọng trong hệ thống. Nói như cách mà
người ta thường nói lúc này, chúng đã “quá lớn” hoặc “quá ràng buộc” để
rơi vào cảnh đổ vỡ. Cuối năm 2007, một số tính toán về tài sản của những
tổ chức dạng ngân hàng (bank-like institution) nằm ngoài vòng kiểm soát
của các quy định chặt chẽ ở Mỹ đã lên tới gần 10.000 tỷ USD, lớn ngang
với giá trị tài sản của hệ thống ngân hàng thương mại có kiểm soát của
nước này.
3. Một nguyên nhân khác là nền kinh tế Mỹ rơi vào khủng hoảng
Một trong những nguyên nhân khiến nền kinh tế rơi vào khủng
hoảng là từ chính cơ cấu và động lực tăng trưởng bất hợp lý của nước Mỹ
trong thời gian qua.
Trong khi hầu hết các quốc gia trên thế giới thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thông qua đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu thì nước Mỹ đã chọn cho
mình một con đường riêng để duy trì đà tăng trưởng kinh tế đó là khuyến
khích và đẩy mạnh tiêu dùng nội địa. Trong nhưng năm qua tiêu dùng của
người dân luôn chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP của nước
này và hiện đang tỷ trọng lớn đến 70% GDP. Chiến lược này trong một
thời gian đã tỏ ra rất hiệu quả khi lòng tin của người tiêu dùng vào triển
11
vọng của nền kinh tế đang ở mức cao nhưng nó đã tạo nên một lỗ hổng to
lớn trong nền kinh tế đó chính là làm cho nền kinh tế trở nên mất cân bằng.
Để tài trợ cho khoản thâm hụt thương mại cực lớn của mình nước
Mỹ đã sử dụng biện pháp vay nợ nước ngoài bằng cách phát hành trái
phiếu ra toàn thế giới và các nước đã hăng hái mua các trái phiếu này đặc
biệt là Trung Quốc và các nước Châu Á. Tính chung cho 5 năm trở lại đây

trung bình mỗi ngày nước Mỹ vay nợ thêm 2 tỷ USD.
Bởi lẽ khi thâm hụt thương mại của một quốc gia tăng lên liên tục
trong nhiều năm thi nghiễm nhiên đồng tiền của quốc gia đó nhiều khả
năng sẽ phải giảm giá do ngân hàng trung ương có thể phải in thêm tiền
nhằm tài trợ cho khoản thâm hụt này. Ngoài ra nếu nước Mỹ tiếp tục sử
dụng các khoản nợ nước ngoài nhằm tài trợ cho tiêu dùng thì khi các khoản
nợ này đáo hạn đồng USD sẽ được in ra để trả nợ với khối lượng lớn do đó
không còn hấp dẫn giới đầu tư. Xu hướng này nếu xảy ra sẽ tiếp tục kích
thích giới đầu cơ thực hiện một cuộc tấn công tiền tệ chống lại đồng USD
và do đó trong hoàn cảnh xấu nhất có thể gây ra khủ nghiêm trọng. Đồng
USD mất giá, lòng tin của công chúng vào triển vọng kinh tế xấu đi lập tức
sẽ dẫn tới người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu và nước Mỹ mất đi động lực
chính của mình cho tăng trưởng và chìm vào suy thoái toàn diện.
Các tổ chức tín dụng phải gánh chịu hậu quả đầu tiên bởi các khoản
cho vay dễ dãi của họ không có khả năng thu hồi. Các khoản vay này lại
được chứng khoán hóa và bán cho giới đầu tư khiến cho tình hình càng trở
nên tồi tệ hơn khi giới đầu tư bị thiệt hại nặng nề. Đến lượt mình giới đầu
tư lại bán tháo các khoản đầu tư đang nắm trong tay khiến chúng rớt giá
thảm hại gây thiệt hại nặng cho các ngân hàng đầu tư. Các ngân hàng đầu
tư sụp đổ khiến các khoản ủy thác đầu tư của công chúng bốc hơi và đẩy
hàng trăm ngàn người vào cảnh khánh kiệt. Bên cạnh đó các tổ chức kinh
tế lớn phá sản sẽ khiến hàng triệu người khác lâm vào cảnh mất việc và đến
12
lượt họ lại cắt giảm chi tiêu tối đa hoặc không thanh toán được các khoản
nợ của mình.
B. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TÁC ĐỘNG TỚI NGÀNH DỆT
MAY VIỆT NAM HIÊN NAY.
I. Thực trạng về tình hình xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam
hiện nay.
1. Khối lượng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may.

Việt Nam là một trong những nước có kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may khá lớn trong những năm gần đây. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may ước đạt 9,1 tỷ USD. So với các nước trên thế giới thì đây là
con số cũng khá cao. Điều này đã làm cho hàng dệt may của Việt Nam
chiếm được thị phần lớn trên các thị trường ở nước ngoài. Và hàng dệt may
cũng được đứng trong Top 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam không ngừng
được gia tăng qua các năm. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này
mới chỉ dừng ở 3,6 tỷ USD; thì sang năm 2004 đạt 4,3 tỷ USD và cho đến
năm 2008 mục tiêu kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam đặt ra là
9,5 tỷ USD. 9 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của
nước ta đạt 6,8 tỷ, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái.
Việt Nam: Xuất khẩu hàng dệt may tăng mạnh. Tính đến hết tháng
4/2008, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt khoảng 700 triệu USD, tăng
11,8% so với tháng 3, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả
nước trong 4 tháng qua lên 2,6 tỷ USD, tăng 24,5% so với cùng kỳ năm
ngoái.
Trong tháng 9/2008 kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam đạt
831 triệu USD, giảm 9,28% so với tháng 8/2008 và tăng tới hàng 29,54%
so với tháng 8 năm ngoái. Theo dõi tình hình xuất khẩu hàng dệt may của
nước ta trong suốt thời gian qua, nếu xét về định lượng nhiều tháng qua,
tháng 9/2008 là tháng có mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao thứ hai.
13
Và đây cũng có thể coi là điểm sáng trong bối cảnh xuất khẩu những tháng
tới sẽ gặp nhiều khó khăn, do tăng trưởng kinh tế thế giới suy giảm.
Biểu đồ 1: Diễn biến kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam (ĐVT: Triệu USD)
Qua biểu đồ này có thể nhận thấy rằng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may của Việt Nam năm 2007 và 2008 là khá lớn. Từ năm 2007 đến năm
2008 thì số lượng này không ngừng gia tăng qua các tháng. So sánh kim

ngạch xuất khẩu của năm 2008 với năm 2007 thì đã có sự đi lên rõ rệt, cao
nhất là tháng 7 năm 2008.
Tính đến tháng 9 năm 2008 thì kim ngạch xuất khẩu đã chiếm một
con số khá lớn đều này có thể thấy được sự tăng trưởng của hàng dệt may
Việt Nam. Trong tháng này, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam sang hầu hết các thị trường chính đều giảm. Kết quả xuất khẩu cụ thể
của một vài thị trường như sau:
+ Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may sang Mỹ đạt 469 triệu
USD, giảm 9,85% so với tháng 8 và tăng 23,53% so với cùng kỳ năm
ngoái.
14
+ Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU đạt 125 triệu USD,
giảm mạnh - 20,95% so với tháng trước và chỉ tăng 12,59% so với cùng kỳ
năm 2007.
+ Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản giảm 8,74%
nhưng vẫn tăng 17,9% so với tháng 9/2007, đạt 74,8 triệu USD.
+ Kim ngạch xuất khẩu sang Hàn Quốc giảm 10%;
+ Kim ngạch xuất khẩu sang Canada giảm 25%;
+ Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường ASEAN giảm 9,71%
Đáng chú ý sau thời gian khá dài đạt thấp và giảm sâu, xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam sang Đài Loan đã tăng trưởng khá vững. Trong
khi xuất khẩu sang hầu hết các thị trường chính giảm thì kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may sang Đài Loan lại tăng trưởng khá. Trong tháng 9, kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Đài Loan tăng 13,8% so
với tháng 8 và tăng 107% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 33,8 triệu USD.
Tương tự, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Ucraina cũng
tăng trưởng khá trong tháng 9, với mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
74,62% so với tháng 8 và tăng 151% so với tháng 9/2007.
- Tính chung, 9 tháng năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam đạt 6,842 tỷ USD, tăng 20,24% so với cùng kỳ năm 2007 và

bằng 72% kế hoạch xuất khẩu của cả năm. Có nhiều khả năng ngành dệt
may khó hoàn thành được kế hoạch do:
+Xuất khẩu sang Mỹ đã tăng trưởng chậm trong 9 tháng đầu năm -
17,81% và trong 3 tháng cuối năm, dù xuất khẩu có tăng mạnh cũng không
thể bù đắp được cho các tháng đầu năm.
+Xuất khẩu sang EU cũng đang chậm lại. Kim ngạch xuất khẩu 9
tháng chỉ tăng 17,72%.
+Xuất khẩu sang Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc. . . tăng trưởng khá,
nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam.
15
+Các doanh nghiệp vẫn thiếu vốn. Lãi suất cho vay cao…
Qua đó cho ta thấy được kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam
tăng khá mạnh.
- Dệt may Việt Nam xuất khẩu 9,5 tỷ USD năm 2008. Đóng góp
chính cho mức tăng trưởng ấn tượng này là thị trường Mỹ với giá trị kim
ngạch đạt 4,4- 4,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 55% tổng giá trị xuất khẩu dệt
may, dù xuất khẩu sang thị trường này gặp khá nhiều khó khăn do chính
sách bảo hộ không rõ ràng.Chương trình giám sát hàng nhập khẩu từ VN
của Mỹ mới dừng ở việc theo dõi số liệu xuất khẩu và cứ 6 tháng một lần
đánh giá số liệu, song cũng làm ảnh hưởng đáng kể tới tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu vào thị trường này và cản trở các kế hoạch đầu tư nâng cao năng
lực các doanh nghiệp dệt may trong nước và nước ngoài. Đáng chú ý là các
khách hàng lớn của Mỹ, EU đã tín nhiệm và mở rộng đơn hàng đối với
hàng đệt may VN như: Gap, United Brands, Liz Claibone, Mast Industies
hay Seidensticker...
Trong tuần đầu tháng 12-2008, xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam tăng trưởng nhanh, kim ngạch ước đạt gần 200 triệu USD, tăng gần
50 triệu so với cùng kỳ tháng 11 (trong đó, kim ngạch xuất khẩu (KNXK)
sang thị trường Mỹ đạt hơn 95 triệu USD, EU đạt gần 50 triệu USD, Nhật

Bản gần 22 triệu USD; KNXK áo thun đạt hơn 50 triệu USD, tương đương
với khoảng hơn 15 triệu chiếc
- Về sản xuất kinh doanh năm 2009, có lẽ do ảnh hưởng suy giảm
của kinh tế toàn cầu, nhất là thị trưởng Mỹ, EU và Nhật Bản sẽ dẫn đến
đơn hàng may sẽ giảm 20% trong quí 1 và 15% trong quí 2; thị trường sợi
giá bán tiếp tục thấp do giá vật liệu thấp và cạnh tranh gay gắt; các doanh
nghiệp phân phối, ngoài sức mua giảm còn chịu áp lực cạnh tranh trực tiếp
của việc mở cửa thị trường bán lẻ tại Việt Nam.
Nói tóm lại kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam giai
đoạn 2007-2008 tăng khá mạnh so với những năm trước. Đều này đã làm
16
cho mặt hàng dệt may có ưu thế trong những mặt hàng xuất khẩu có kim
ngạch lớn của Việt Nam và đã có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển
kinh tế của Việt Nam. Kỳ vọng của năm 2009 và thời gian sắp tới mặt hàng
dệt may của Việt Nam sẽ có kim ngạch xuất khẩu cao hơn và đạt được một
con ấn tượng.
2. Biến động giá cả hàng dệt may xuất khẩu.
Trong giai đoạn 2007-2008 vừa qua , tình hình xuất khẩu hàng dệt
may ở nước ta đã có những biến động đáng kể về mặt giá cả .Điều này đã
có 1 tác động lớn và đặt ra nhiều thách thức cũng như khó khăn đối với
hoạt động xuất khẩu này.
Theo thống kê của thế giới, các sản phẩm dệt may của VN vào Mỹ
đang bán với giá bình quân 3,8 USD/m2 (giá bình quân của các nước bán
vào Mỹ là 1,7 USD/m2), như vậy sản phẩm dệt may của VN không lo về
quy định chống bán phá giá. Tuy nhiên, cái khó hiện nay của ngành dệt
may trong nước là phụ thuộc quá nhiều vào một vài thị trường như Mỹ
(chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu), EU (17%), Nhật (8%)... nên dễ bị
tác động khi các thị trường trên gặp sự cố. Đặc biệt là vừa qua tình hình
khủng hoảng trên toàn thế giới cũng đã gây ảnh hưởng khá lớn đến hoạt
động xuất khẩu dệt may của nước ta. Giới chuyên môn trong ngành dệt

may cũng lưu ý, từ nay đến cuối năm, các doanh nghiệp nên chuẩn bị đối
phó với kịch bản giá dầu thế giới tăng cao sẽ kéo theo giá sản phẩm tăng,
việc tiêu thụ các sản phẩm dệt may cũng sẽ chậm lại.
Hơn thế nữa,sự biến động về tỷ giá USD đang tác động rõ rệt tới
hoạt động sản xuất,kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt
may, gây khó khăn cho doanh nghiệp ,khiến sản xuất bị ngừng trệ.Biểu đồ
2 thể hiện biến động về giá cả xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam sang thị
trường Mỹ trong năm 2008
17
Biểu đồ 2:Biến động giá cả xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường
Mỹ trong năm 2008 (đơn vị: USD/tá).
Trong hoạt động giao dịch xuất khẩu của ngành dệt may, đồng tiền
thanh toán chủ yếu là USD, kể cả khi xuất khẩu sang các thị trường EU,
Nhật Bản. Tỷ trọng thanh toán bằng USD chiếm đến hơn 90% trong các
giao dịch thanh toán. Từ đầu năm đến nay, tỷ giá đồng USD diễn biến theo
hai chiều hướng ngược nhau. Khi thì đồng USD giảm giá, sau đó lại tăng
cao, cả hai chiều hướng này đều gây khó khăn cho doanh nghiệp. Phó Tổng
Giám đốc Tập đoàn dệt-may Việt Nam Lê Tiến Trường cho biết, các doanh
nghiệp dệt càng sản xuất càng lỗ nặng, nhiều doanh nghiệp đã phải đóng
máy từng bộ phận. Nếu như quý I, tỷ giá đồng USD giảm, các ngân hàng
hạn chế mua USD, cho nên USD thu được từ xuất khẩu dệt may khó
chuyển đổi ra VNÐ dẫn tới việc thanh toán các khoản chi và tiền lương cho
người lao động gặp khó khăn, trong khi giá cả đầu vào như xăng, dầu, than
và các nguyên liệu vật tư khác đều tăng cao, dẫn đến nhiều doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, một số đơn vị thua lỗ. Có
doanh nghiệp đã ký hợp đồng mở L/C bằng USD để nhập nguyên phụ liệu,
nhưng ngân hàng không đáp ứng được ngoại tệ để thanh toán, hoặc nếu
thanh toán thì các doanh nghiệp phải nhận nợ bằng đồng VNÐ với lãi suất
cao càng khiến doanh nghiệp điêu đứng.
18

Từ quý II-2008, tỷ giá đồng USD tăng vọt, đồng thời giá nguyên liệu
nhập khẩu như bông, xơ, phụ liệu, hóa chất thuốc nhuộm... tăng mạnh làm
cho giá thành sản phẩm sợi vải tăng đột biến đã làm cho sản phẩm của
doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong
nước, sản phẩm làm ra bị tồn kho. Nhiều doanh nghiệp cần USD để trả nợ
ngân hàng hoặc đến hạn thanh toán L/C phải mua USD của ngân hàng bán
ra với giá cao hơn nhiều so với tỷ giá niêm yết của ngân hàng. Phó Tổng
Giám đốc Lê Tiến Trường lấy dẫn chứng, khi tỷ giá ngân hàng niêm yết là
16.250 đồng/USD nhưng thực chất doanh nghiệp phải mua với giá 17.500-
19.500 đồng/USD. Như vậy doanh nghiệp cần đồng USD để thanh toán
đều phải mua bằng với giá tại thị trường tự do, làm cho doanh nghiệp phát
sinh khoản chênh lệch tỷ giá khá lớn...
Lãi suất cho vay tăng cao ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các
doanh nghiệp dệt may có nhu cầu vay vốn lưu động, nhiều dự án đầu tư bị
chậm tiến độ. Nhiều trường hợp doanh nghiệp đã ký hợp đồng mở L/C
bằng USD để nhập khẩu nguyên phụ liệu với mức lãi suất 7%/năm, khi
hàng về nhận nợ, ngân hàng thương mại cắt ngang lãi suất chuyển nhận nợ
bằng VNÐ với mức lãi suất từ 14 đến 18%/năm, gây bất bình đẳng trong
quan hệ tín dụng. Mặt khác, khi lãi suất cho vay VNÐ tăng lên 21%/năm,
dẫn đến giá thành sản phẩm tăng cao, không có khả năng tiêu thụ sản
phẩm, nhiều dự án đang trong quá trình thực hiện không có khả năng đầu
tư tiếp.
3. Thị trường hàng dệt may xuất khẩu.
Trong năm 2008 xuất khẩu hàng dệt may những tháng đầu năm đã đạt
được sự gia tăng ở hầu hết các thị trường chính, trong đó xuất khẩu vào
một số thị trường tăng cao như Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraine, Brazil,
Achentina. Cụ thể như sau:
- Đối với Thổ Nhĩ Kỳ: Theo số liệu thống kê của cơ quan Hải quan,
trong tháng 8 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị
19

×