Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Nghiên cứu sinh trưởng, năng suất, chất lượng của các tổ hợp lai cà chua lai quả nhỏ vụ Xuân Hè sớm 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 67 trang )

PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rau là nguồn thực phẩm không thể thiếu trong mỗi bữa ăn hàng ngày của
con người trên thế giới. Nó cung cấp vitamin (A, B, C, E, PP…) là những chất
quan trọng trong quá trình phát triển của cơ thể. Các chất khoáng trong rau chủ
yếu là Ca, P, Fe…là những chất cấu tạo nên máu và xương nó còn có tác dụng
làm tăng khả năng đồng hoá protein. Trong rau còn chứa rất nhiều chất xơ nó
làm tăng khả năng tiêu hoá và có tác dụng nhuận tràng. Ngày nay, đời sống của
con người ngày càng được nâng cao nhu cầu về chủng loại rau thì phải phong
phú và đa dạng, đầy đủ về số lượng, tốt về chất lượng, và đảm bảo sức khỏe cho
con người. Các nhà khoa học trên thế giới cũng như ở Việt Nam đang có những
công trình nghiên cứu rất thiết thực về cây rau để đáp ứng được những yêu cầu
trên. Một trong những cây rau đang được chú ý hiện nay là cây cà chua bởi
những lợi ích về sức khoẻ cũng như ý nghĩa về kinh tế.
Cây cà chua (Lycopersicon esculentum Mill) là cây thuộc họ cà
(Solanaceae) có nguồn gốc từ Nam Mỹ có giá trị dinh dưỡng cao.Trong quả cà
chua chín có các loại vitamin A, B6, C…, đường dễ tiêu, đạm, đường, các axit
hữu cơ dưới dạng muối citrat, malat, ngoài ra nó còn chứa các chất khoáng như
Ca, Fe, P, K, Mg…Quả cà chua được sử dụng ở nhiều phương thức khác nhau:
Có thể dùng ở dạng salat, chế biến các món ăn, làm quả tươi ở món tráng miệng,
cà chua đóng hộp nguyên quả, tương cà chua… Cà chua tươi và các sản phẩm
chế biến không những là các mặt hàng có giá trị, mang lại hiệu quả kinh tế và
giá trị dinh dưỡng cao mà còn có giá trị quan trọng về mặt y học. Cà chua có thể
giúp bảo vệ những người nghiện thuốc lá khỏi nguy cơ bị bệnh phổi. Lycopen

1


trong quả cà chua có tác động mạnh đến việc giảm sự phát triển nhiều loại ung
thư: tiền liệt tuyến, ung thư ruột kế, ung thư trực tràng, nhồi máu cơ tim.


Ở Việt Nam cây cà chua đã được trồng từ rất lâu đời, ngày nay cà chua
vẫn là loại rau ăn quả chủ lực được nhà nước ưu tiên phát triển. Diện tích trồng
cà chua tập trung tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng như Hà Nội, Hải Dương,
Thài Bình, Hải Phòng, Hưng Yên, Hà Tây, Nam Định… Hiện nay có một số
giống chịu nhiệt mới lai tạo chọn lọc có thể trồng tại miền Trung, Tây Nguyên
và Nam Bộ nên diện tích ngày càng được mở rộng. Nhiều giống cà chua lai ghép
chất lượng tốt được phát triển mạnh ở Đà Lạt, Lâm Đồng. Một số giống cà chua
chất lượng đã được xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Ở miền Bắc nước ta, cà chua thích hợp trồng vào vụ đông là vụ chính
trong năm. Cà chua trồng vụ Xuân hè không chỉ thỏa mãn nhu cầu cà chua trái
vụ của người tiêu dùng mà còn cung cấp nguyên liệu liên tục cho các nhà máy
chế biến, tạo công ăn việc làm cho lao động nông thôn, đem lại hiệu quả kinh tế
cao. Tuy nhiên, cà chua trồng trái vụ gặp rất nhiều khó khăn như nhiệt độ, ẩm độ
cao, mưa nhiều không thuận lợi cho cây cà chua sinh trưởng, phát triển, thụ
phấn thụ tinh gặp khó khăn, cây dễ nhiễm các loại sâu bệnh hại.
Cà chua quả nhỏ dễ trồng, trồng được nhiều vụ trong năm, sai quả với giá
bán thường cao gấp 2-3 lần cà chua thông thường, nó còn cho khả năng thu quả
kéo dài nên hiệu quả kinh tế đưa lại rất cao. Tuy nhiên những nghiên cứu về
giống cà chua quả nhỏ ở nước ta chưa nhiều, trên thị trường có một số ít các
giống tốt như: VR2, TN061, giống lai F1 TN040, giống lai F1 Thúy Hồng 1657.
Vì những lí do trên để góp phần làm phong phú thêm cho bộ giống cà chua
quả nhỏ, được sự cho phép của khoa Nông học, Bộ môn Di truyền- Chọn Giống
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Hồng Minh chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài : “Nghiên cứu sinh trưởng, năng suất, chất lượng của các tổ hợp
lai cà chua lai quả nhỏ vụ Xuân Hè sớm 2009”

2


1.2. MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU

11.2.1 Mục đích
Xác định khả năng sinh trưởng, phát triển, năng suất chất lượng của các tổ hợp
cà chua lai quả nhỏ với chu kỳ thu quả bình thường từ đó chọn ra các tổ hợp lai
có triển vọng phát triển tốt ở vụ Xuân Hè sớm
1.2.2 Yêu cầu
- Đánh giá cá giai đoạn sinh trưởng phát triển và các chỉ tiêu về cấu trúc
cây cà chua quả nhỏ
- Đánh giá khả năng đậu quả, các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
các tổ hợp lai.
- Đánh giá tình hình nhiễm một số bệnh hại trên đồng ruộng
- Đánh giá một số đặc điểm hình thái quả và chất lượng quả

3


PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. NGUỒN GỐC PHÂN LOẠI, GIÁ TRỊ CỦA CÂY CÀ CHUA
2.1.1. Nguồn gốc
Theo nhiều nghiên cứu cây cà chua ( Lycopersicon esculentum Mill ) có
nguồn gốc vùng Nam Mỹ dọc theo bờ biển Thái Bình Dương từ quần đảo
Galapagos tới Chile.[8]
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu của tác giả Decandole (1884 Muller(1940), Luck
will (1943) Jenkin (1948) thì cà chua trồng hiện nay có nguồn gốc từ Pêru,
Ecuado Bolovia. Ngoài ra cà chua còn có nguồn gốc ở quần đảo Ấn Độ,
Philippin
Hiện nay người ta tìm thấy ở các vùng núi thuộc Trung và Nam Mỹ rất
nhiều dạng cà chua dại và bán dại. Đa số tác giả cho rằng trong tiến hoá đã xẩy
ra quá trình đột biến liên quan đến sự liên kết ở noãn hình thành dạng quả lớn,
theo Leslry(1926) dạng kích thước quả lớn được kiểm tra bởi hai gen lặn. Theo

Stuble(1967) kết quả tích luỹ dần các gen đột biến (lặn) ở dạng dại L.
esc.var.pimpinellifolium đã xuất hiện cà chua trồng.
Jenkin (1948) đã đề xuất hai hướng tiến hoá về kích thước và hình dạng
quả. Một hướng liên quan đến việc phát triển kích thước ô hạt, hạt và thịt quả,
kết quả hình thành quả hình mận, hình lê và các dạng quả hình dài khác. Hướng
thứ hai ở noãn xẩy ra sự liên kết các ô hạt làm quả phát triển về đường kính,
hình thành dạng quả lớn có nhiều ô hạt.
Theo Brezhnev (1964) dạng hạt quả lớn hình thành do liên kết tiến hoá
tăng kích thước và kích thước số lượng và ô hạt ở noãn
Nguồn gốc cà chua trồng trọt đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Song nhiều
bằng chứng về khảo cổ học, thực vật học, ngôn ngữ học và lịch sử đã thừa nhận

4


Mêhicô là trung tâm thuần hoá của cà chua trồng. Ở Mêhicô người ta tìm thấy
sự đa dạng về di truyền của cà chua là lớn nhất.
2.1.2. Phân loại
Cà chua ( Lycopersicon esculentum Mill) thuộc họ cà ( Solaneceae), chi
Lycopersicon. Có bộ nhiễm sắc thể 2n=24 và gồm có 12 loài. Trên thế giới đã có
nhiều tác giả nghiên cứu về phân loại cà chua và lập thành hệ thống phân loại
theo quan điểm riêng của mình. Những công trình chủ yếu về sự phân loại cà
chua có thể thấy rõ qua các tác giả sau:
Theo H.J.Muller (1940) thì loài cà chua trồng trọt hiện nay thuộc chi phụ
Eulycopersicon C.H.Muller. Tác giả phân loại chi phụ này thành 7 loài, loài cà
chua trồng trọt hiện nay (Lycopersicon esculentum Mill) thuộc loài thứ 1.
Daskalov (1941) phân loại Lycopersicon thành 2 loài, cà chua trồng hiện
nay thuộc loài thứ 2.
Bailey- Dillingen (1956) thì phân loại (Lycopersicon Mill) thành 7 loài. Cà
chua trồng thuộc loài thứ 7, trong loài thứ 7 có 10 biến chủng khác nhau [3]

Có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân loại cà chua nhưng hiện nay hệ
thống phân loại của Breznep (1964) được sử dụng đơn giản và rộng rãi nhất. Chi
Lycopersicon Tourn được phân làm 3 loài thuộc 2 chi phụ:
Subgenus 1 - Eriopersicon
Subgenus 2 - Eulycopersicon
Chi phụ Eriopersicon: dạng cây 1 năm hoặc nhiều năm, gồm các dạng quả
có lông, màu trắng, xanh lá cây hay vàng nhạt, có các vệt màu antoxyan hay
xanh thẫm. Hạt dày không có lông, màu nâu…chi phụ này có 2 loài gồm 5 loại
hoang dại: L. cheesmanii, L. chilense, L. glandulosum, L. hirsutum, L.
peruvianum.

5


-Lycopersicun hisrutum Humb: Đây là loại cây ngày ngắn, quả chỉ hình
thành trong điều kiện chiếu sáng trong ngày 8-10 h/ngày, quả chín xanh, có mùi
đặc trưng.
- Lycopersicum peruviarum Mill: loại này thường mọc ở miền Nam Pêru,
bắc Chilê, có xu hướng thụ phấn chéo cao hơn so với loài Lycopersicon
esculentum Mill. Trong điều kiện ngày ngắn cây ra quả tốt hơn ngày dài, nó
không có đặc tính của L. hisrutum, có khả năng chống bệnh cao hơn các loài
khác.
Chi phụ Eulycopersicon: là dạng cây 1 năm, quả không có lông, màu đỏ
hoặc màu đỏ vàng, hạt mỏng, rộng… Chi phụ này có một loài là
L.Esculentum.Mill. Loài này gồm 3 loài phụ là:
- L. Esculentum. Mill. Ssp. spontaneum Brezh (cà chua hoang dại).
- L. Esculentum. Mill. Ssp. subspontaneum Brezh (cà chua bán hoang dại).
- L. Esculentum. Mill. Ssp. Cultum (cà chua trồng) : là loại lớn nhất, có
các biến chủng có khả năng thích ứng rộng, được trồng khắp thế giới. Brezhnev
đã chia loài phụ này thành biến chủng sau:

+ L. Esculentum var. Vulgare (cà chua thông thường) biến chủng này
chiếm 75% cà chua trồng trên thế giới. Bao gồm các giống có thời gian sinh
trưởng khác nhau với trọng lượng quả từ 50 đến trên 100g. Hầu hết những giống
cà chua đang được trồng ngoài sản xuất đều thuộc nhóm này.
+ L.Esculentum var. Grandifolium: Cà chua lá to, cây trung bình, lá láng
bóng, số lá trên cây từ ít đến trung bình.
+ L.Esculentum var. Validum: cà chua anh đào cà chua thân bụi, thân thấp,
thân có lông tơ, lá trung bình, cuống ngắn, mép cong.
+ L.Esculentum var.Pyriforme : cà chua hình quả lê, sinh trưởng vô hạn.
[8]

6


2.1.3. Giá trị dinh dưỡng và giá trị y học
Cà chua là loại rau ăn quả có giá trị dinh dưỡng cao, chứa nhiều gluxit,
nhiều axit hữu cơ và nhiều loại vitamin cần thiết cho cơ thể con người.
Bảng 2.1: Thành phần hoá học của 100g quả cà chua
Thành phần

Quả chín tự nhiên

Nước ép tự nhiên

Nước

93,76g

93,9g


Năng lượng

21Kcal

17Kcal

Chất béo

0,33g

0,06g

Protein

O,85g

0,76g

Carbohydrates

4,46g

4,23g

Chất xơ

1,10g

0,40g


Kali

223mg

220mg

Photpho

24mg

19mg

Magie

11mg

11mg

Canxi

5mg

9mg

Vitamin C

19mg

18,30mg


Vitamin A

623IU

556IU

Vitamin E

0,38mg

0,91mg

Niacin

0,628mg

0,67mg
Theo : USDA Nutrient Data Base

Theo Ersakov và Araximovich (1952) thành phần của cà chua như sau:
trọng lượng chất khô là 5-6% trong đó đường dễ tan chiếm 3%, axit hữu cơ
0,5%, xenlulo 0,84%, chất keo 0,13%, protein 0,95%, lipit thô 0,2%, chất
khoáng 0,6%. Hàm lượng Vitamin C trong quả tươi chiếm 17-35,7mg (dẫn theo
Tạ Thu Cúc, 1985). Mỗi ngày con người sử dụng 100-200g cà chua sẽ thoả mãn
nhu cầu về Vitamin và các chất khoáng cần thiết.[16]

7


Về mặt y học,cà chua có tác dụng tốt với hệ tiêu hoá, tăng cường sự tiết

dịch của dạ dày và quá trình lọc máu... ngoài ra các nghiên cứu còn cho thấy: ở
cà chua có các axit hữu cơ như axit pcoumaric, axit cholorogenic có tác dụng
ngăn ngừa bệnh ung thư.[19]
2.1.4. Giá trị kinh tế
Cà chua là cây trồng được trồng với diện tích lớn nhất trong các cây rau.
Đối với nhiều nước trên thế giới thì cây cà chua là một cây trồng mang lại hiệu
quả kinh tế rất cao và là mặt hàng xuất khẩu quan trọng.
Theo FAO (1999) Đài Loan hàng năm xuất khẩu cà chua tươi với tổng trị
giá là 952000 USD và 48000 USD cà chua chế biến. Lượng cà chua trao đổi trên
thị trường thế giới năm 1999 là 36,7 tấn trong đó cà chua được dùng ở dạng ăn
tươi chỉ 5-7%. Ở Mỹ (1997) tổng giá trị sản xuất 1ha cà chua cao hơn gấp 4 lần
so với lúa nước, 20 lần so với lúa mì.[3]
Ở Việt Nam mặc dù cà chua mới được trồng khoảng trên 100 năm nay
nhưng nó đã trở thành một loại rau phổ biến và được sử dụng rộng rãi. Theo số
liệu điều tra của phòng nghiên cứu thị trường Viện nghiên cứu rau quả, sản xuất
cà chua ở đồng bằng sông Hồng cho thu nhập bình quân 42,0 - 68,4 triệu
đồng/ha/vụ với mức lãi thuần 15-25 triệu đồng/ha, cao gấp nhiều lần so với
trồng lúa.
Trong đề án phát triển rau hoa quả và cây cảnh trong thời kỳ 1999-2010
của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, cà chua cây trồng được quan tâm
phát triển. Theo đề án thì năm 2010 diện tích trồng cà chua trong nước là 6000
ha với sản lượng 240000 tấn, cho giá trị xuất khẩu là 100 triệu USD. Do vậy
trong một tương lai thì cây cà chua sẽ trở thành một cây trồng mang lại giá trị
kinh tế cao cho người nông dân Việt Nam.[10]

8


2.2. YÊU CẦU NGOẠI CẢNH CỦA CÂY CÀ CHUA
Trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển của mình, cây cà chua chịu

rất nhiều tác động của các điều kiện ngoại cảnh như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng,
đất đai…
2.2.1. Nhiệt độ
Cà chua có nguồn gốc từ vùng núi nhiệt đới khô, thuộc nhóm cây ưa nhiệt
độ ôn hòa. Nhiệt độ ảnh hưởng suốt quá trình sinh trưởng và phát triển của cây
cà chua. Hạt cà chua có thể nảy mầm tốt ở nhiệt độ 25-30 0C, nhiệt độ đất thích
hợp là 290C.
Cà chua ưa thích khí hậu ấm áp, khả năng thích nghi rộng do vậy nó được
trồng rộng rãi trên thế giới. Cà chua chịu được nhiệt độ cao nhưng rất mẫn cảm
với nhiệt độ thấp. Cà chua có thể sinh trưởng, phát triển thuận lợi trong phạm vi
20-270C. Giới hạn nhiệt độ tối cao và tối thấp đối với cà chua là 35 0C và 120C.
Quang hợp của lá cà chua phát triển khi nhiệt độ đạt tối ưu 25-30 0C. Nhiệt độ
lớn hơn 350C làm giảm quá trình quang hợp.[3]
Nhiệt độ thích hợp cho sự nở hoa là 20-250C, nhiệt độ có ảnh hưởng đến
chất lượng hạt phấn, tỉ lệ đậu quả dẫn đến làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
năng suất và chất lượng cà chua thương phẩm cũng như cà chua giống. Trong
thời kỳ quả chín nhiệt độ và ánh sáng có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành
các sắc tố của quả, chủ yếu là lycopen và caroten.
2.2.2. Ánh sáng
Cà chua là cây trồng không phản ứng chặt chẽ với thời gian chiếu sáng trong
ngày. Vì vậy nhiều giống cà chua trồng trọt có thể ra hoa trong điều kiện thời gian
chiếu sáng dài hoặc ngắn. Nếu nhiệt độ thích hợp thì cây cà chua có thể sinh
trưởng, phát triển ở nhiều vùng sinh thái và nhiều mùa vụ khác nhau. Tuy cây cà

9


chua không phản ứng chặt chẽ với thời gian chiếu sáng nhưng cây cà chua đòi hỏi
cường độ chiếu sáng mạnh trong suốt thời kỳ sinh trưởng, nếu thiếu ánh sáng cây
sẽ sinh trưởng yếu, thời gian sinh trưởng kéo dài và sản lượng thấp, chất lượng quả

giảm. Thiếu ánh sáng nghiêm trọng dẫn đến rụng nụ, rụng hoa, rụng quả. Cường độ
ánh sáng yếu làm cho nhụy bị co rút lại, phát triển không bình thường, giảm khả
năng tiếp thu hạt phấn của núm nhụy. Somos (1971) đã chứng minh rằng: để cho cà
chua sinh trưởng bình thường ra hoa kết quả thì cần có chế độ chiếu sáng với
cường độ chiếu sáng không dưới 1000 lux, ánh sáng yếu ức chế quá trình sinh
trưởng, làm chậm giai đoạn từ sinh trưởng sinh dưỡng sang sinh trưởng sinh thực
(theo Tạ Thu Cúc, 1985)[16]. Ánh sáng đầy đủ, tốt cây con sinh trưởng tốt, ra hoa
quả thuận lợi, năng suất chất lượng quả tốt. Trong điều kiện thiếu ánh sáng có thể
điều khiển sự sinh trưởng, phát triển của cây thông qua chế độ dinh dưỡng khoáng.
Cần tăng cường bón phân kali và phân lân tùy theo đặc trưng đặc tính của từng
giống. Cần bố trí mật độ thích hợp để cây sử dụng ánh sáng có hiệu quả nhất.
2.2.3. Nước, độ ẩm
Chế độ nước trong cây là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến cường độ của
các quá trình sinh lý cơ bản: quang hợp, hô hấp, sinh trưởng và phát triển…Theo cấu
tạo của lá và hệ rễ thì cây cà chua là loại cây trồng tương đối chịu hạn nhưng không có
khả năng chịu úng. Tuy vậy do cà chua sinh trưởng trong thời gian dài, trong quá trình
phát triển hình thành khối lượng thân lá lớn, năng suất sinh vật học và năng suất kinh
tế khá cao nên yên cầu độ ẩm của cây cà chua là rất lớn.
Somos (1971) đã quan sát thấy sự tiêu hao nước của cà chua trong 1 ngày
đêm là 20-650g, sự khác nhau khá xa đó có liên quan đến sự phát triển của cây
và điều kiện thời tiết. Độ ẩm đất thích hợp cho cây sinh trưởng phát triển tốt là
70-80%. Thời kỳ khủng hoảng nước là từ khi hình thành phấn hoa, ra hoa, hình
thành quả và quả phát triển. Cà chua yêu cầu độ ẩm không khí thấp trong quá
trình sinh trưởng và phát triển, độ ẩm thích hợp là 45-55%. Nước ta là một nước

10


có khí hậu nóng ẩm, độ ẩm không khí cao nên cà chua nhiễm nhiều loại bệnh
hại, đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho năng suất và chất

lượng cà chua chưa cao.[1]
2.2.4. Đất và dinh dưỡng
Cà chua yêu cầu chế độ luân canh rất nghiêm ngặt, không được trồng cà
chua trên đất mà cây trồng trước là cây họ cà. Đất có ít nấm bệnh là điều kiện rất
cơ bản để trồng cà chua có năng suất cao và chất lượng tốt. Đất phù hợp với cây
cà chua là đất thịt nhẹ, đất thịt trung bình, đất thịt pha cát, giàu mùn, tơi xốp,
tưới tiêu thuận lợi. Độ pH từ 6,0-6,5 thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển.
Cà chua là cây có thời gian sinh trưởng dài, thân lá sinh trưởng mạnh, cành lá
sum suê, khả năng ra hoa, ra quả nhiều, tiềm năng năng suất lớn. Vì vậy cung
cấp đầy đủ chất dinh dưỡng là yếu tố có tính chất quyết định đến năng suất và
chất lượng quả. Cà chua hút nhiều nhất là kali, tiếp đến là đạm và ít nhất là lân.
Cà chua sử dụng 60% lượng đạm, 59-60% K 2O và 15-20% P2O5 tổng lượng
phân bón vào đất suốt vụ trồng.
- N: có tác dụng thúc đẩy sinh trưởng thân lá, phân hóa hoa sớm, số lượng
hoa trên cây nhiều, hoa to, tăng khối lượng quả.
- P: có tác dụng kích thích hệ rễ cà chua sinh trưởng nhất là thời kỳ cây
con. Bón P đầy đủ rút ngắn thời gian sinh trưởng, cây ra hoa sớm, tăng tỉ lệ đậu
quả, quả chín sớm, tăng chất lượng quả. P khó hòa tan nên thường bón trước khi
trồng
- K: cần thiết để hình thành thân, bầu quả. K làm cho thân cây cứng chắc,
tăng khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện bất thuận, tăng quá trình quang
hợp, tăng cường quá trình vận chuyển các chất hữu cơ và đường vào quả, đặc
biệt K có tác dụng tốt đối với hình thái quả, quả nhẵn, thịt quả chắc, do đó làm
tăng khả năng bảo quản và vận chuyển quả chín. Cây cần nhiều K nhất vào thời
kỳ ra hoa, hình thành quả.

11


- Các yếu tố vi lượng: tác dụng quan trọng đối với sự sinh trưởng và phát

triển của cây đặc biệt là cải thiện chất lượng quả. Cà chua phản ứng tốt với các
nguyên tố vi lượng B, Mn, Zn…Trên đất chua nên bón phân Mo.
2.3. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÀ CHUA Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI
2.3.1. Tình hình sản xuất cà chua trên thế giới
Cà chua là 1 loại rau ăn quả mọng, có thành phần dinh dưỡng phong phú
cân đối, năng suất cao khả năng thích ứng rộng với nhiều điều kiện sinh thái, đặc
tính di truyền tương đối ổn định. Có tác dụng lớn về mặt dinh dưỡng,y học cũng
như kinh tế. Ngày nay nó rất được ưa chuộng đã trở thành một trong những cây
trồng chính và chiếm vị trí số một trong nghành sản xuất rau của nhiều nước trên
thế giới
Bảng 2.3a: Tình hình sản xuất cà chua trên thế giới từ 2000-2005
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (tấn/ha)

Sản lượng (1000 tấn)

2000

3.750,176

27,192

101.975,637

2001

3.745,229


26,770

100.295,346

2002

3.998,219

27,005

107.972,098

2003

4.118,398

27,921

116.943,619

2005

4.570,869

27,222

124.426,995
Nguồn: FAO Database Static 2006


Thống kê của FAO cho thấy diện tích trồng cà chua trên thế giới trên thế
giới năm 2005 là 4.570,869 ha tăng gấp 1.4 lần so với năm 1995
Châu Á đứng đầu thế giới về diện tích trồng cà chua với diện tích là
2.563,991 (ha). Châu Âu đứng đầu về năng suất trồng cà chua 410,165(ta/ha)

12


Bảng 2.3b : Sản lượng cà chua trên thế giới và 10 nước đứng đầu thế giới
Quốc gia
Thế giới
Trung Quốc
Mỹ

1995
87.592,093
13.172,494
11.784,000

2000
108.339,598
22.324,767
11.558,800

2003
116.943,619
28.842,743
10.522,000

2005

124.426,995
31.644,040
11.043,300

Thổ Nhĩ Kỳ

7.250,000

8.890,000

9.820,000

9.700,000

Ấn Độ

5.260,000

7.430,000

7.600,000

7.600,000

Italy

5.182,000

7.538,100


6.651,505

7.087,016

Ai Cập

5.034,179

6.785,640

7.140,195

7.600,000

Tây Ban Nha

2.841,100

3.766,328

3.947,327

4.651,000

Braxin

2.715,016

2.982,840


3.708,600

3.396,767

Iran

2.403,367

3.190,999

4.200,000

4.200,000

Mêhico

2.309,968

2.086,030

3.148,136

2.800,115

Nguồn: FAO Database Static 2006
Qua bảng trên ta thấy : Đến năm 2005 thì Trung Quốc vẫn đứng đầu trên thế
giới vế diện tích và sản lượng, tiếp theo là Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ
2.3.2. Tình hình sản xuất cà chua tại Việt Nam
Ở Việt Nam tuy cây cà chua mới được trồng từ hơn 100 năm nay nhưng
đã trở thành loại rau phổ biến, được sử dụng rộng rãi. Nhìn chung ở nước ta sản

xuất cà chua phát triển chủ yếu vào vụ đông với diện tích khoảng 6,800-7,300 ha
tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc đồng bằng và trung du Bắc Bộ ( Hà Nội, Hải
Dương, Vĩnh Phúc…) còn ở Miền Nam tập trung ở các tỉnh An Giang, Tiền
Giang, Lâm Đồng…[20]
Trong điều tra của TS Phạm Đồng Quảng và cs, hiện nay cả nước có
khoảng 115 giống cà chua được gieo trồng, trong đó có 10 giống được gieo
trồng với diện tích lớn 6,259 ha, chiếm 55% diện tích cả nước. Giống M386
được trồng nhiều nhất (khoảng 1,432 ha), tiếp theo là các giống cà chua Pháp,
VL200, TN002, Red Crown ...
13


Tuy nhiên so với sự phát triển chung của thế giới thì cả diện tích và năng
suất ở nước ta còn rất thấp. Theo dự đoán của một số nhà chuyên môn thì trong
một vài năm tới diện tích và năng suất cà chua đều sẽ tăng nhanh do:
- Các nhà chọn giống trong những năm tới sẽ đưa ra sản xuất hàng loạt các
giống có ưu điểm cả về năng suất và chất lượng, phù hợp với từng vùng sinh
thái, từng mùa vụ nhất là các vụ trái, giải quyết rau giáp vụ.
- Các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới sẽ được hướng dẫn và phổ biến cho
nông dân các tỉnh
- Nước ta đã đưa vào một nhà máy chế biến cà chua cô đặc theo dây chuyền
hiện đại tại Hải Phòng với công suất 10 tấn nguyên liệu/ ngày. Vì vậy việc quy hoạch
vùng trồng cà chua để cung cấp nguyên liệu cho nhà máy đang trở nên cấp thiết nhất
là ở các tỉnh Hải Phòng, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, đây sẽ là những
vùng sản xuất cà chua quan trọng cho nhà máy chế biến.
Bảng 2.3c : Diện tích, năng suất và sản lượng cà chua giai đoạn 2001-1005
Diện tích

Năng suất


Sản lượng

2000

(1000ha)
13,729

(Tạ/ha)
151,260

(1000tấn)
207,658

2001

17,834

157,170

280,289

2002

18,868

165,500

312,178

2003


21,628

164,100

354,846

2004

24,644

172,100

424,126

2005

23,354

Năm

198,000
462,435
Nguồn: Số liệu của tổng cục thống kê 2006

2.4. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ CHỌN TẠO GIỐNG CÀ CHUA TRÊN
THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
2.4.1. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống cà chua trên thế giới.

14



Trong khoảng 200 năm trở lại đây tình hình chọn tạo cà chua trên thế giới
đã có nhiều tiến bộ. Lịch sử nghiên cứu chọn tạo cà chua trên thế giới bắt đầu ở
châu Âu. Người Italia là những người đầu tiên phát triển các giống cà chua mới,
họ chọn các giống có sự khác nhau về tính trạng quả, chủ yếu là màu sắc quả.
Năm 1836, 23 giống cà chua được giới thiệu. Công trình thử nghiệm của
Liberty Hyde BaiLey ở trường Nông nghiệp Michigan (Mỹ ) bắt đầu từ năm
1886 đã tiến hành chọn lọc phân loại giông cà chua trồng trọt .
A.W.Livíngton là người Mỹ đầu tiên nhận thức được việc phải chọn tạo
giống cà chua. Từ năm 1870 đến năm 1893 ông đã giới thiệu 13 giống được
chọn lọc theo phương phá chọn lọc cá thể. Năm 1900 Moor và Simon đã chọn
tạo được giống cà chua “Xẻ Khoan”. Tiếp đó 1908, G.W.Middleton chọn được
giống cà chua “Chân Thiện Mỹ” từ giống “Xẻ Khoan”. Năm 1914 Berft Croft
chọn được mẫu giống Coorper Special là giống sinh trưởng vô hạn thích hợp
cho việc trồng dày và sử dụng máy khi thu hoạch (Trích theo Tạ Thu Cúc,1985)
Theo ý kiến của Anpachev(1978), Iorganov (1971), Phiên Kỳ Mạnh
(1961)(Trích dẫn theo Kiều Thị Thư,1998) thì xu hướng chọn tạo giống cà chua
mới là :
- Tạo giống chín sớm, thích hợp cho sản xuất vụ sớm
- Tạo giống cho sản lượng cao chất lượng tốt phục vụ ăn tươi và chế biến
- Tạo giống chín đồng loạt thích hợp cho cơ giơi hoá
- Tạo giống chống chịu sâu bệnh hại
Trước năm 1925 việc cải tiến giống cà chua được thực hiện bằng cách chọn
các kiểu gen ngay từ bản thân các giống từ các đột biến tự nhiên lai tự do hoặc
tái tổ hợp bản thân các biến thể di truyền được tồn tại trong tự nhiên. Hàng loạt
các tính trạng di truyền đơn giản được chú ý trong quá trình cải tiến giống và
thay đổi kỹ thuật trồng nhờ phát hiện đột biến tự nhiên -gen sp-là gen xác định
tập tính sinh trưởng hữu hạn Floria vào năm 1914 và được dùng trong lai tạo với


15


mục đích giảm bớt công lao động cho việc tỉa cành. Vào năm 1970 hàng loạt các
giống cà chua mới có đặc điểm sinh trưởng hữu hạn, thấp cây, cây gọn, chín
sớm, chín tập trung và thích hợp cho thu hoạch bằng máy ra đời làm tăng mật
độ, diện tích và năng suất cà chua(Tigchelaa E.C).[26]
Từ năm 1970 trung tâm rau Châu Á (AVRDC) Trung tâm nghiên cứu và
phát triển rau Châu Á từ những ngày đầu thành lập (1972) đã bắt đầu chương trình
chọn tạo nhằm tăng cường khả năng thích ứng của cà chua với vùng điều kiện nóng
ẩm. Và hầu hết các giống AVRDC lai tạo và các giống đã được cải thiện trong tập
đoàn từ năm 1974 đến nay đều có khả năng chịu nhiệt cũng như chống chịu sâu bệnh
tốt. Viện nghiên cứu và phát triển nông nghiệp Malaysia (MARDI) đã phối hợp với
AVRDC và trung tâm nghiên cứu nông nghiệp nhiệt đới (TARC) ở Nhật Bản để xúc
tiến chương trình cải tiến giống cà chua triển vọng. Đã chọn được 6 dòng có khả
năng chịu nhiệt và chống chịu vi khuẩn: MT1, MT2, MT3, MT4, MT5, MT6,
MT10.[21]
Nhiều thử nghiệm về các giống cà chua được tiến hành ở AVRDC- TOP,
trường đại học Kasestart, phân viện Kamphaeng Thái Lan chọn tạo nhiều giống
được đánh giá là chất lượng tốt kết hợp với tính chịu nóng, năng suất cao và chống
bệnh cụ thể là các giống cà chua anh đào CHT104, CHT92, CHT105 có năng suất
cao, chống chịu bệnh tốt, màu sắc quả đẹp, hương vị ngon, quả chắc. Các giống
PT225, PT3027, PT4165, PT446, PT4121 cho năng suất cao, chất lượng tốt, chống
bệnh và chống nứt quả (Chu Jinping, 1994)
Trung tâm nghiên cứu và phát triển rau Châu Á còn phát triển chương
trình về các dòng tự phối hữu hạn và vô hạn có khả năng đậu quả cho phép ở
giới hạn nhiệt độ cực đại 32-34 0C và cực tiểu 22-240C đã đưa được nhiều giống
lai có triển vọng, được phát triển ở một số nước nhiệt đới như CLN 161L, CLN
2001C, CL5915-204DH, CL143… ( Morris 1998)[22]


16


Tháng 8/2005, AVRDC giới thiệu 3 giống cà chua triển vọng là
CLN2026D, CLN2116B, CLN2123A. Cả 3 giống này đều sinh trưởng hữu hạn,
có khả năng chịu nhiều loại bệnh như héo xanh vi khuẩn, héo rũ do nấm,
virus…. trong đó giống CLN2026D quả có thể dùng ăn tươi hoặc chế biến,
giống CLN2116B có quả tròn, chịu nóng tốt, thích hợp trồng nửa cuối mùa khô;
giống CLN2123A là giống có khả năng chịu nóng cao, quả thuôn dài phục vụ
cho cả ăn tươi và chế biến.[27]
Trong chọn tạo giống cà chua, người ta chú ý nhiều đến ưu thế lai. Ở Nhật
Bản ưu thế lai được sử dụng rộng rãi trên cà chua từ năm 1930. Khi lai thử giữa
giống Rutgres với 5 giống khác nhau cho thấy ưu thế lai về tổng trọng lượng quả
cao hơn bố mẹ nhưng về số quả trên cây và trọng lượng quả phần lớn là trung
gian giữa bố và mẹ ( T rích theo Kiều Thị Thư, 1998)
Gần đây, nhiều nước trên thế giới đặc biệt là Mỹ, các nhà khoa học đã tạo
ra những giống cây trồng biến đổi gen trong đó có cà chua. Những giống cây
trồng này ngoài khả năng chống chịu được sâu bệnh, tuyến trùng, khô hạn,
sương muối mà còn có khả năng cất giữ bảo quản lâu, chất lượng cao, mang
nhiều dược tính, năng suất cao. Các nhà nghiên cứu tại đại học bang Oregon
(Mỹ) đang hoàn thiện một giống cà chua tím, đây là một sự kết hợp giữa màu
sắc và chất dinh dưỡng. Màu tím trong quả cà chua do có chứa chất
Phytochemical, có khả năng giảm nguy cơ ung thư và bệnh tim. Loại cà chua
này có nguồn gốc từ dạng dại ở Nam Mỹ. Hàng trăm năm trước các nhà khoa
học đã phát hiện cà chua màu tím trong thiên nhiên nhưng loài cây này nhỏ và
có độc. Vào thập niên 1960-1970, các nhà khoa học đã thu nhặt hạt giống từ cà
chua tím và lai với loài hiện đại để cho ra loại quả an toàn với mọi người hơn
dạng ban đầu của nó.
Hiện nay với nền khoa học kỹ thuật hiện đại các nhà khoa học trên thế
giới vẫn đang tiếp tục những công trình nghiên cứu về chọn tạo giống cà chua để


17


đáp ứng nhu cầu của con người đặc biệt là cà chua quả nhỏ phục vụ ăn tươi và
chế biến.
2.4.2. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống cà chua ở Việt Nam
Kể từ khi cây cà chua xuất hiện ở nước ta cho đến nay, cây cà chua ngày
càng được ưa chuộng và sử dụng rộng rãi khắp cả nước. Nhu cầu sử dụng ngày
càng được nâng cao, cà chua chính vụ dần dần đã không đáp ứng được nhu cầu
của người tiêu dùng. Chính vì vậy những nghiên cứu cà chua trong nước tập
trung chủ yếu chọn tạo giống cà chua có phổ thích ứng rộng để có thể kéo dài
thời gian sử dụng trong năm. Công tác nghiên cứu chọn tạo giống cà chua đã
được tiến hành ở nước ta từ những năm 60 của thế kỷ trước. Có thể khái quát 3
giai đoạn cho đến thời điểm này:
- Giai đoạn 1968-1985 tập trung chủ yếu vào việc nhập nội, khảo nghiệm
và tuyển chọn giống từ nguồn vật liệu này. Các giống cà chua nhập từ Pháp,
Nhật Bản, Trung Quốc…được Viện cây lương thực và thực phẩm phối hợp với
các cơ quan nghiên cứu khác như Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt
Nam, Viện di truyền nông nghiệp, trường đại học Nông nghiệp Hà Nội…tiến
hành nghiên cứu.
Từ năm 1973-1984, tác giả Tạ Thu Cúc đã nghiên cứu khảo sát tập đoàn cà
chua nhập nội ở các vụ Xuân hè trên đất Gia Lâm- Hà Nội và đã cho kết quả cà chua
hoang dại L.racemigeum có khả năng chống bệnh cao nhất, tiếp đó là giống Pháp số
7, BeA-5, CuBa chịu bệnh khá; các giống BCA-5, Nhật số 2, BCA1, Ruko 3, BCA3
cho năng suất cao nhất; các giống có phẩm chất tốt nhất là các giống Pháp số 7,
Rutgers, Saintpierre, Nhật số 2, Ogorta và Triumph .
Năm 1974-1976, trại giống rau An Hải, Hải Phòng đã chọn lọc cá thể liên
tục từ tập đoàn giống cà chua từ Nhật Bản và đưa ra giống HP1, HP2, Hp3,
HP5… Trong đó giống HP5 có năng suất cao nhất, chịu sâu bệnh khá, thích hợp


18


trồng trong vụ Xuân hè nhưng khi chín về kinh tế vai quả vẫn có màu xanh. HP5
được công nhận là giống quốc gia năm 1988.
- Giai đoạn từ 1986-1990: Viện cây lương thực và thực phẩm phối hợp với
một số cơ quan có liên quan đã nghiên cứu chọn tạo được một số giống rau
trong đó có 2 giống cà chua là giống cà chua số 7 và giống 214.
Chu Ngọc Viên, Vũ Tuyên Hoàng vào năm 1987 bằng cách chọn lọc các
dòng nhập nội từ Hungari đã đưa ra giống cà chua số 7 là giống được công nhận
giống quốc gia, giống cà chua này có trọng lượng quả trung bình từ 80100g/quả, chín đỏ, sinh trưởng mạnh có khả năng trồng trong vụ xuân hè (Vũ
Tuyên Hoàng, Chu Ngọc Viên, 1987).
Giống 214 do Viện cây lương thực thực phẩm chọn từ tổ hợp lai giữa giống
VC1 và giống American (Mỹ), hạt lai F1 được xử lý đột biến nhân tạo và chọn lọc
cá thể liên tục, giống có thời gian sinh trưởng trung bình, chín tập trung, năng suất
cao, chất lượng quả tốt, có khả năng chống bệnh khá, thích hợp trồng trong vụ
đông sớm và vụ xuân hè. Giống được công nhận là giống quốc gia năm 1989 ( Vũ
Tuyên Hoàng, Chu Thị Viên, Lê Thanh Thuận, 1989).
Bắt đầu từ năm 1991, từ một số mẫu giống cà chua quả nhỏ, màu vàng
mang mã số 2 trong vườn tập đoàn (nguồn gốc Nhật, Đài Loan), GS.VS Vũ
Tuyên Hoàng, Đào Xuân Cảnh, Đào Xuân Thảng và cộng sự đã áp dụng phương
pháp chọn dòng để phân lập và chọn lọc đến năm 1994 thu được dòng cà chua
vàng ổn định về các đặc tính sinh học- kinh tế, có khả năng chống chịu bệnh tốt,
thích hợp gieo trồng vụ đông, đặt tên là cà chua vàng [17].
- Giai đoạn 1991-1995: kết quả của đề tài “ Nghiên cứu chọn tạo giống và
xây dựng quy trình thâm canh một số loại rau” thuộc chương trình KN-01-02
“Phát triển cây lương thực và cây thực phẩm” đã đưa ra một số giống rau có chất
lượng trong đó có một số giống cà chua như Hồng Lan, SB2, SB3…


19


GS.VS Vũ Tuyên Hoàng và cộng sự đã đưa ra giống Hồng Lan được chọn
từ một dạng đột biến khi xử lý lạnh cây con giống cà chua Ba Lan trắng. Giống
thuộc nhóm sinh trưởng hữu hạn, thích ứng rộng về thời vụ và khu vực trồng,
năng suất cao, ổn định. Năm 1991, giống được khu vực hóa và năm 1993 được
công nhận là giống quốc gia.
Giống SB2 được Viện khoa học nông nghiệp miền nam chọn lọc từ tổ hợp
lai Star x Balan. Cây sinh trưởng hữu hạn, thời gian sinh trưởng ngắn.
Giống SB3 cũng có nguồn gốc với giống SB2, có khả năng thích ứng rộng,
sinh trưởng ổn định, phẩm chất quả tốt, năng suất cao, có khả năng kháng bệnh
Fusarium.
Giống Red Crown 250 do công ty cây trồng Miền nam nhập từ Đài Loan và
tiến hành chọn lọc. Cây cao, sinh trưởng vô hạn, thân lá sinh trưởng mạnh, quả
thuôn dài, nhẵn, khi chín có màu đỏ đẹp, thịt quả dày, chịu vận chuyển và bảo
quản tốt. Khối lượng quả trung bình đạt 70-80g. Thời gian bắt đầu cho thu hoạch
là 60-65 ngày sau trồng.
- Giai đoạn từ 1996 đến nay: giai đoạn này nhiều nghiên cứu đi vào chiều sâu,
nhiều giống lai F1 cùng quy trình sản xuất hạt lai đã được xây dựng.
Giống MV1 do PGS.TS Nguyễn Hồng Minh, bộ môn di truyền giống
trường đại học Nông nghiệp Hà Nội chọn lọc từ tập đoàn giống từ Mondavi.
Đây là giống ngắn ngày (90-100 ngày), từ trồng đến thu hoạch 50-63 ngày, chịu
được nhiệt độ cao, độ ẩm khác nhau, trồng trái vụ vẫn cho năng suất cao. Tỷ lệ
đậu quả cao, quả có kích thước vừa phải, ít dập nát khi vận chuyển, quả màu đỏ
tươi phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, chống chịu bệnh xoăn lá. Giống được
công nhận là giống quốc gia năm 1998 [4].
Từ năm 1994-1997, Vũ Thị Tình (Viện nghiên cứu rau quả) chọn lọc thành
công giống cà chua chịu nhiệt VR2. Giống có những đặc điểm quả đỏ, đều,


20


chắc, chất lượng tốt, chịu nhiệt và chống chịu bênh tốt. Giống được khu vực hóa
năm 1998.[5]
Bằng phương pháp ưu thế lai, PGS.TS Nguyễn Hồng Minh bộ môn Di
truyền giống trường đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tiếp tục nghiên cứu và cho
ra đời giống cà chua lai đầu tiên của Việt Nam cạnh tranh được với các giống cà
chua lai trên thế giới đó là giống cà chua HT7. Giống có năng suất cao, có khả
năng chịu nóng, độ ẩm cao nên có thể trồng sớm, muộn hay chính vụ, chất lượng
quả cao, khả năng bảo quản lâu. Giống được công nhận là giống quốc gia năm
2000. Sau HT7 là giống cà chua HT21 cũng có những đặc điểm ưu thế thích hợp
cho chế biến, cây ra quả tập trung, màu đỏ đẹp, năng suất chất lượng tốt, có khả
năng chống chịu bệnh sương mai và virus tốt. Giống được công nhận là giống
tạm thời năm 2004.
Giống XH2 là giống chịu nhiệt, thích hợp trồng trong vụ hè do Viện nghiên
cứu rau quả chọn tạo. Cây thuộc nhóm sinh trưởng hữu hạn, có khả năng chống
bệnh sương mai tốt, quả tròn, dùng để ăn tươi.
Vụ đông xuân năm 1999, từ vườn đánh giá con lai F1, các tác giả Đào
Xuân Thảng, Nguyễn Tấn Hinh, Đoàn Xuân Cảnh của Viện cây lương thực thực
phẩm đã chọn tạo thành công giống VT3. Cây sinh trưởng phát triển khỏe, trồng
vụ sớm và chính vụ cho năng suất cao, chống chịu sương mai, héo xanh khá.
Giống được công nhận là giống tạm thời năm 2004.
Gần đây, PGS.TS Nguyễn Hồng Minh bộ môn Di truyền giống trường đại
học Nông nghiệp Hà Nội còn đưa ra một số giống cà chua triển vọng như giống
HT160, HT42…Giống HT160 được tạo ra với dạng sinh trưởng trung bình, dạng
quả hơi thuôn dài, chịu bệnh héo xanh khá, chất lượng tiêu dùng cao, thơm ngon,
ngọt dịu, bảo quản tốt. Giống HT42 dạng cây ngắn ngày, thấp cây, chắc khỏe, bộ
lá dày, khả năng phân nhánh mạnh, ra hoa rộ, nhiều hoa, sai quả, quả chín đỏ đẹp,
thịt quả dày, thơm ngon, bảo quản tốt. HT42 sinh trưởng khỏe, khả năng chịu


21


nhiệt độ cao, thích ứng trồng nhiều vụ trên nhiều chân đất khác nhau, thuận lợi
cho bố trí luân canh cây trồng. HT42 đáp ứng được mục tiêu cà chua trái vụ và cà
chua chất lượng cao.
Hiện nay nhiều nghiên cứu về việc sử dụng gốc ghép cà tím cho cà chua
nhằm tăng khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện bất thuận của vụ Xuân hè.
Theo Trần Văn Lài và cs (2003) tỉ lệ sống sau ghép của cây cà chua khi được
ghép lên gốc cà tím là 92% cao hơn so với khi ghép lên gốc cà pháo (60%), cà
bát (55%). Cà chua không bị héo xanh vi khuẩn, năng suất và phẩm chất cà chua
ghép tương đương với cà chua không ghép
Công tác chọn tạo giống cà chua ở nước ta đã bước đầu thu được nhiều
thành tựu đáng kể. Chúng ta cần chú ý đầu tư hơn nữa để có thể chọn tạo được
nhiều giống cà chua có chất lượng tốt hơn phục vụ nhu cầu sử dụng cà chua
ngày càng nhiều của người dân đặc biệt là cà chua trồng trái vụ và cà chua quả
nhỏ phục vụ cho ăn tươi và đóng hộp nguyên quả.

22


PHẦN III
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. VẬT LIỆU,THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
3.1.1. Vật liệu nghiên cứu
Gồm 21 tổ hợp lai cà chua quả nhỏ và trong đó có giống đối chứng là
D018, 21 tổ hợp lai thí nghiệm do Trung tâm nghiên cứu và phát triển giống rau
chất lượng cao trường Đại Học Nông Nghiệp đưa ra gồm 2 nhóm:
Nhóm quả dài: D318, D319, D320, D324, D328, D329, D330, D331.

Nhóm quả tròn: D310, D312, D313, D316, D332, D333, D301, D302
D303, D304, D307, D308.
3.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Khu thí nghiệm bộ môn Di truyền giống- khoa Nông học- trường đại học
Nông nghiệp Hà Nội.
3.1.3. Thời gian nghiên cứu
Tiến hành từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 7 năm 2009
3.2. PHƯƠNG PHÁP BỐ TRÍ THÍ NGHIỆM
Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp khảo sát không nhắc lại.
(Mỗi ô thí nghiệm trồng 7,5 m2, trồng 22 cây/ô).
3.3. KỸ THUẬT TRỒNG TRỌT
3.3.1. Thời vụ trồng
5/01/2009: Gieo ươm hạt
5/02/2009: Trồng ra ruộng sản xuất
3.3.2. Khoảng cách mật độ
Luống rộng: 1,45m
cao: 25-30 cm
Trồng 2 hàng/luống: cây cách cây: 45cm

23


hàng cách hàng: 55cm

3.3.3. Kỹ thuật trồng trong vườn ươm
- Chọn đất: đất vườn ươm cao ráo, tiêu nước tốt, tốt nhất là đất thịt nhẹ,
nhiều chất hữu cơ, vụ trước không trồng cây họ cà, đầy đủ ánh sáng, pH trung
tính (6 - 6,5)
- Cách làm đất: đất được cày xới, tơi xốp, dọn sạch cỏ dại, lên luống cao
25 - 30 cm, rộng 1m.

- Chuẩn bị gieo hạt: Hạt mẫu giống có tỉ lệ nảy mầm cao, gieo với lượng
2g/m2
Kỹ thuật làm vườn ươm theo phương pháp thông dụng.
3.3.4. Kỹ thuật trồng ra ruộng sản xuất
- Thời vụ trồng: Vụ Xuân Hè sớm
- Làm đất: Thí nghiệm được trồng trên đất thịt nhẹ, cày bừa kỹ, làm sạch
cỏ dại, lên luống cao 30cm, rộng 1,4m, rãnh rộng 35cm.
- Bón phân: Quy trình bón phân trong thí nghiệm (tính cho 1ha) như sau:
Lượng bón: + Phân chuồng hoai mục: 12 tấn
+ Đạm urê: 400kg
+ Supe lân: 600kg
+ Kali: 380kg
Cách bón:
+ Bón lót: toàn bộ phân chuồng và 50% lân
+ Bón thúc: Chia làm 4 thời kỳ bón:
Lần 1: Khi cây đã hồi xanh (sau trồng 8 ngày) bón 10% lân, 10% đạm.
Lần 2: Khi cây ra hoa (sau trồng 20 ngày) bón 30% đạm, 40% lân, 30% ka li.
Lần 3: Sau trồng 46 ngày, khi quả rộ, bón 30% đạm, 40% kali.

24


Lần 4: Sau khi thu lứa quả thứ nhất bón 30% đạm, 30% kali.
- Tưới nước: Sau khi trồng cần tưới nước ngày 2 lần trong3 ngày đầu
đảm bảo cho cây hồi xanh trong tuần đầu. Sau đó tuỳ theo điều kiện thời tiết mà
có lượng tưới và cách tưới khác nhau cho phù hợp.
- Vun xới và làm cỏ: Chia 3 lần
Lần 1: vun xới và làm cỏ sau khi cây hồi xanh
Lần 2: làm cỏ vun gốc kết hợp bón phân lần 2
Sau 2 lần vun xới thì tiến hành làm cỏ bằng tay, không xới xáo làm ảnh

hưởng tới bộ rễ tạo điều kiện cho sâu bệnh hại xâm nhập và phát triển.
- Làm dàn, buộc dây, tỉa cành:
+ Làm dàn: sau khi bón thúc lần 2, cây đạt chiều cao 30-40 cm thì làm
giàn, tốt nhất là làm giàn kiểu chữ A
+ Buộc cây: dùng dây mềm buộc nhẹ cây dựa vào giàn.
+ Tỉa cành: cần thường xuyên tỉa nhánh để cây có độ thông thoáng
thích hợp và tập trung dinh dưỡng nuôi cây.
-

Sâu bệnh hại và phòng trừ: Vấn đề phòng trừ sâu bệnh hại cho cà chua

trong vụ xuân hè rất quan trọng do điều kiện vụ xuân hè rất thuận lợi cho một số
sâu bệnh hại phát triển.
Các kỹ thuật trên tiến hành theo quy trình của Trung tâm nghiên cứu và
phát triển giống rau chất lượng cao trường đại học Nông nghiệp - Hà Nội
3.4. CÁC CHỈ TIÊU THEO DÕI
3.4.1. Các giai đoạn phát triển trên đồng ruộng
- Thời gian từ trồng đến ra hoa: Khi 70-80% số cây trong ô thí nghiệm nở
chùm hoa thứ nhất.
- Thời gian từ trồng đến đậu quả: Khi 70-80% số cây trong ô thí nghiệm
đậu quả ở chùm hoa thứ nhất.

25


×