Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Tình hình phát triển và triển khai sản phẩm An Sinh Giáo Dục của tổng công ty Bảo Việt nhân thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.8 KB, 73 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Người Việt Nam chúng ta có câu: “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn
biết ngủ biết học hành là ngoan”, một đặc tính của người Việt là rất u trẻ
con, vì thế mà cha mẹ thường dành cho con cái những gì tốt đẹp nhất của
họ, mong muốn rằng con cái sau này sẽ có một tương lai được bảo đảm
vững chắc cho dù có vấn đề gì xảy ra với bản thân họ đi nữa.Vì vậy, tổng
cơng ty bảo hiểm đã cho ra đời chương trình bảo hiểm dành cho trẻ em-An
Sinh Giáo Dục và được đón nhận nồng nhiệt bởi lẽ nó khơng chỉ mang tính
tiết kiệm, bảo vệ cho đối tượng trẻ em mà cho cả phụ huynh - người chủ
hợp đồng, nếu có rủi ro xảy ra đối với chủ hợp đồng trẻ em đó vẫn được
bảo đảm. Nghĩa là sản phẩm này đã đáp ứng được nguyện vọng của nhiều
người, được thể hiện tình cảm với con cái, xây dựng quỹ tài chính độc lập
để các khoản chi không ảnh hưởng đến nhau, là hành trang để cho con
vững bước vào đời, An sinh giáo dục không chỉ mang tính kinh tế mà cịn
mang tính xã hội đó là tính nhân văn cao cả. Bảo đảm cho trẻ em đến tuổi
trưởng thành, tạo dựng cho con cái mình một tương lai vững chắc về mặt
tài chính, được thể hiện tình thương u đối với con cái đó chính là mong
muốn của các bậc cha mẹ - điều này giải thích tại sao sản phẩm An sinh
giáo dục luôn là sản phẩm được bán chạy nhất trong các công ty Bảo hiểm.
Nhận thức được tầm quan trọng của sản phẩm An Sinh Giáo Dục, em đã
tiến hành nghiên cứu đề tài “ Tình hình phát triển và triển khai sản phẩm
An Sinh Giáo Dục của tổng công ty Bảo Việt nhân thọ” và đưa ra ý kiến
nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của sản phẩm An
Sinh Giáo Dục.
Mặc dù bản thân em đã rất cố gắng nhưng do còn thiếu kinh nghiệm nên
trong chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong
nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cơ giáo trong khoa nói chung và cơ giáo
Nguyễn Ngọc Hương nói riêng để chun đề hồn chỉnh hơn về mặt lý luận và
mang tính khả thi hơn trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của công ty.
Nguyễn Tuấn Anh



1

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Phần I: Khái quát về bảo hiểm nhân thọ
I. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ:
1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ:
1.1. Trên thế giới:
BHNT là sự cam kết giữa người mua bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đó
định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm
nhất định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói
cách khác, BHNT là q trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh
mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Đối tượng tham gia BHNT rất rộng, bao gồm mọi người ở các lứa tuổi
khác nhau. Lịch sử ra đời của BHNT khá sớm.
Hợp đồng BHNT đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1583, do công dân
Ln Đơn là ơng William Gybbom tham gia. Phí bảo hiểm ơng đóng lúc đó
là 32 bảng Anh, khi ơng chết trong năm đó, người thừa kế của ơng được
hưởng 400 bảng Anh.
Năm 1759, Công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Philadelphia (Mỹ). Cơng ty
này đến nay vẫn cịn hoạt động, nhưng lúc đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các
con chiên ở nhà thờ của mình.
Năm 1762, ở Anh thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable. Đây
là công ty đầu tiên bán các hợp đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp

dụng nguyên tắc phí bảo hiểm khơng đổi trong suốt thời gian bảo hiểm.
Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa được thành lập ở Bắc
Mỹ.
Năm 1860, bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lưới đại lý bán bảo hiểm
nhân thọ.

Nguyễn Tuấn Anh

2

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ở Châu Á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 1868
công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, 2 công ty
khác: Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay.
Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985
doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 63.5 tỷ đô la, năm 1989 đã lên tới 1.210,2
tỷ và năm 1993 con số này là 1.647 tỷ, chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm.
Hiện nay có 5 thì trường BHNT lớn nhất thế giới là: Mỹ, Nhật Bản, CHLB
Đức, Anh, Pháp. Theo số liệu thống kê năm 1993, phí BHNT của 5 thị
trường thể hiện bảng sau:
Cơ cấu phí BHNT của 5 thị trường lớn nhất thế giới năm 1993:
Tổng doanh thu
Tên nước

Cơ cấu phí bảo hiểm (%)

phí bảo hiểm


Nhân thọ

Phi nhân thọ

(triệu USD)
1. Mỹ
522,468
41,44
58,56
2. Nhật Bản
320,143
73,86
26,14
3. Đức
107,403
39,38
60,62
4. Anh
102,360
64,57
35,43
5. Pháp
84,303
56,55
43,65
(Nguồn: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, tháng 8 năm 1996)
Sở dĩ BHNT phát triển nhanh, doanh thu phí bảo hiểm ngày càng tăng vì
loại hình bảo hiểm này có vai trị rất lớn. Vai trị của BHNT khơng chỉ thể
hiện trong từng gia đình và đối với từng cá nhân trong việc góp phần ổn định

cuộc sống, giảm bớt khó khăn về tài chính khi gặp phải rủi ro, mà cịn thể
hiện rõ trên phạm vi tồn xã hội. Trên phạm vi xã hội, BHNT góp phần thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, huy động vốn trong nước từ nguồn tiền mặt nhà
rỗi nằm trong dân cư. Nguồn vốn này khơng chỉ có tác dụng đầu tư dài hạn,
mà cịn góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo thêm công ăn
việc làm cho người lao động.
1.2 Tại Việt Nam:

Nguyễn Tuấn Anh

3

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nhân
thọ, trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát
triển nghiệp vụ này. Với sự ra đời của cơng ty bảo hiểm nhân thọ, chính
thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các
cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ
bảo hiểm nhân thọ gần ba năm, nhưng trong thực tế bảo hiểm nhân thọ đã
xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trước năm 1954, ở miền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã
được bảo hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của
các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này đều do
các công ty bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện.
Trong những năm 1970 - 1971 ở miền Nam công ty Hưng Việt bảo
hiểm đã triển khai một số loại hình bảo hiểm như “An sinh giáo dục”, “Bảo
hiểm trường sinh” (Bảo hiểm nhân thọ trọn đời), “Bảo hiểm tử kỳ thời hạn

5 - 10 - 20 năm”, nhưng công ty này chỉ hoạt động từ một đến hai năm nên
các nghiệp vụ bảo hiểm không được biết đến rộng rãi.
Năm 1987, Bảo Việt đã có đề án “Bảo hiểm nhân thọ và việc vận
dụng vào Việt Nam”, nhưng vào lúc đó điều kiện đất nước cịn gặp nhiều
khó khăn như:
- Tỷ lệ lạm phát rất cao và không ổn định.
- Thu nhập của nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối
thiểu thường ngày, phần tiết kiệm rất ít.
- Chưa có điều kiện để cơng ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực đầu
tư. Công ty bảo hiểm lúc đó chưa được phép sử dụng quỹ bảo hiểm đi đầu
tư, môi trường đầu tư chưa phát triển.
- Chưa có những qui định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối
quan hệ giá công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, bảo vệ quyền
lợi cho người được bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm.

Nguyễn Tuấn Anh

4

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Với những khó khăn trên đã không cho phép công ty Bảo Việt phát
triển nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990,
Bộ Tài chính cho phép cơng ty Bảo Việt triển khai “Bảo hiểm sinh mạng
con người thời hạn 1 năm”.Thực tế triển khai nghiệp vụ này cho thấy:
- Việc lo xa cho gia đình khi khơng may người chủ gia đình bị mất mà
chỉ tính đến trong vịng 1 năm là không hấp dẫn. Tâm lý người tham gia
loại hình bảo hiểm này cũng khơng thoải mái. Và do đó loại hình bảo hiểm

này chỉ đáp ứng được nhu cầu cho những người già.
- Mọi người tham gia bảo hiểm đều thắc mắc, nếu không gặp rủi ro có
được nhận lại gì khơng?
Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội
Việt Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, Tổng công ty bảo hiểm Việt
Nam đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu triển khai nghiệp bảo hiểm nhân thọ
với hai loại hình mang tính chất tiết kiệm từ cuối năm 1993. Đến tháng 1
năm 1994, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam mới chính thức trình Bộ Tài
chính dự án thành lập công ty Bảo hiểm nhân thọ.
Với những yêu cầu về quản lý quỹ bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính đã
ký quyết định số 568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 thành lập công ty bảo
hiểm nhân thọ trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt
mới trong sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ:
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đơng với một số ít trong số
họ phải gánh chịu những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên
được ghi vào lịch sử là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người
đã thoả thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ
bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân
thọ (BHNT).
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh hàng ngày dù đã ln chú ý ngăn ngừa và đề phịng nhưng con
Nguyễn Tuấn Anh

5

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do
nhiều nguyên nhân, ví dụ như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán...
-

Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật.

Khoa học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai
nạn bất ngờ như tai nạn ôtô, hàng không , tai nạn lao động...
-

Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những

nguyên nhân gây ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con
người càng có nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm
phát...
Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con
người những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn
tài chính gia đình... làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó
với những rủi ro con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm
soát cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện
pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
+ Nhóm biện pháp kiểm sốt rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi
ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được
sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là
biện pháp này đã giúp chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro
trong cuộc sống nhưng khi rủi ro xảy ra chúng ta khơng ngăn ngừa hết
được hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận

rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy
ra với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi
chấp nhận rủi ro thì con người phải đối phó với những khó khăn khơng
những cho bản thân mà cịn về mặt tài chính của gia đình nữa cho nên bảo
hiểm là phương pháp tốt hơn để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là một phần
Nguyễn Tuấn Anh

6

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như
cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển
giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo hiểm khơng chỉ
chuyển giao rủi ro mà cịn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn
các rủi ro cho phép có thể tiên đốn về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo
hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả
nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống
con người.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần khơng nhỏ
vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT
trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như
các nước đang phát triển. ở châu á, những năm gần đây BHNT phát triển
hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong
dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt
tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Theo số liệu của Thời báo
kinh tế thì trong năm 2008 doanh thu phí BHNT đạt 10.339 tỷ đồng, chiếm
0,88% GDP. BHNT giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần

giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo
dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT
nhằm duy trì hoạt động của cơng ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong
trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương
tật toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện
đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi
cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ
mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội văn minh".
Nguyễn Tuấn Anh

7

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ
tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ
khơng ngừng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với
người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít
khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Như vậy cùng với việc tăng
nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có giải
pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho
đầu tư phát triển.
BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang
tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng

vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm
chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều,
nhưng đã mở ra thêm cho người dân một cách thức tiết kiệm mới đồng thời
góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư cho đất nước.
II. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản:
BHNT đáp ứng đước rất nhiều mục đích khác nhau. Đối với những
người tham gia mục đích chính của họ hoặc là để bảo vệ con cái và những
người ăn theo tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất ngờ của họ
hoặc tiết kiệm để đáp ứng các nhu cầu về tài chính trong tương lai...Do vậy,
người được bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm BHNT, thực
chất đa dạng hoá các loại hợp đồng nhằm đáp ứng và thoả mãn mọi nhu
cầu của người tham gia bảo hiểm. Trong thực tế, có 3 loại BHNT cơ bản:
- Bảo hiểm trong trường hợp tử vong
- Bảo hiểm trong trường hợp sống
- BHNT hỗn hợp
Ngoài ra, người được bảo hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung
cho các loại hợp đồng BHNT cơ bản như:
- Bảo hiểm tai nạn
- Bảo hiểm sức khoẻ
Nguyễn Tuấn Anh

8

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Bảo hiểm không nộp phí khi thương tật
- Bảo hiểm cho người đóng phí v.v...
Thực chất, các điều khoản bổ sung không phải là BHNT, vì khơng

phụ thuộc vào sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người, mà là bảo
hiểm các rủi ro khác có liên quan đến con người. Tuy nhiên, đôi khi người
tham gia bảo hiểm vẫn thấy rất cần thiết phải tham gia để bổ sung cho hợp
đồng cơ bản (hợp đồng tiêu chuẩn)
1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong:
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành 2
nhóm.
a, Bảo hiểm tử kỳ (cịn được gọi là bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm
sinh mạng có thời hạn)
loại hình bảo hiểm này được ký kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra
trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong
thời gian đó thì người được bảo hiểm khơng nhận được bất kỳ một khoản
hồn phí nào từ số phí bảo hiểm đã đóng. Điều đó cũng có nghĩa là người
bảo hiểm khơng phải thanh tốn STBH cho người được bảo hiểm. Ngược
lại, nếu cái chết xảy ra trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, thì người
bảo hiểm phải có trách nhiệm thanh tốn STBH cho người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm được chỉ định.
Đặc điểm:
- Thời hạn bảo hiểm xác định
- Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời
- mức phí bảo hiểm thấp vì khơng phải lập nên quỹ tiết kiệm cho
người được bảo hiểm
Mục đích:
- Đảm bảo các chi phí mai táng chơn cất
- Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn

Nguyễn Tuấn Anh

9


Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của
người được bảo hiểm
Bảo hiểm tử kỳ còn được đa dạng hố thành các loại hình sau:
- Bảo hiểm tử kỳ cố định: Có mức phí bảo hiểm và STBH cố định,
khơng thay đổi trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Mức phí thấp
nhất và người được bảo hiểm khơng thanh tốn khi hết hạn hợp đơng. Hợp
đồng hết hiệu lực nếu sau ngày gia hạn hợp đồng khơng nộp phí bảo hiểm.
Loại này chủ yếu nhằm thanh toán cho các khoản nợ tồn đọng trong trường
hợp người được bảo hiểm bị tử vong.
- Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục: Loại này có thể được tái tục vào ngày
kết thúc hợp đồng và không yêu cầu có thêm bằng chứng nào về sức khoẻ
của người được bảo hiểm, nhưng có sự giới hạn về độ tuổi (thường độ tuổi
tối đa là 65). Tại lúc tái tục, phí bảo hiểm tăng lên vì độ tuổi của người
được bảo hiểm lúc này tăng lên.
Ví dụ: Anh A có độ tuổi là 45, anh không tham gia HĐBH tử kỳ với
thời hạn 20 năm, mà chỉ tham gia với thời hạn 5 năm sau đó tái tục, sau
mỗi thời kỳ là 5 năm. Nhưng sau mỗi lần tái tục phí sẽ tăng lên vì độ tuổi
của anh ta tăng dần.
- Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi: Đây là loại hình bảo hiểm tử kỳ
cố định nhưng cho phép người được bảo hiểm có sự lựa chọn chuyển đổi
một phần hay toàn bộ hợp đồng thành một hợp đồng BHNT trọn đời hay
BHNT hỗn hợp tại một thời điểm nào đó khi hợp đồng đang cịn hiệu lực.
Phí bảo hiểm được tính dựa trên hợp đồng BHNT trọn đời hay hỗn hợp mới
theo đọ tuổi của người có hợp đồng.
Loại hợp đồng này phát hành như một sự bảo chứng cho khoản tiền
vay. Đồng thời nó cịn nhằm thực hiện yếu tố tiết kiệm trong tương lai của

người được bảo hiểm.

Nguyễn Tuấn Anh

10

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Bảo hiểm tử kỳ giảm dần: Đây là loại hình bảo hiểm mà có một bộ
phận của STBH giảm dần hàng năm theo một mực quy định. Bộ phận này
giảm tới 0 vào cuối kỳ hạn hợp đồng.
Đặc điểm của loại này là:
+ Phí bảo hiểm giữ ở mức cố định
+ Phí thấp hơn bảo hiểm tử kỳ cố định
+ Giai đoạn nộp phí ngắn hơn toàn bộ thời hạn hợp đồng để tránh việc
thanh toán vào cuối thời hạn của hợp đồng khi mà số tiền bảo hiểm cịn rất
nhỏ.
Loại hình bảo hiểm này đáp ứng nhu cầu của người tham gia, khi họ
phải nợ một khoản tiền phải tra dần chẳng hạn: Anh C ở độ tuổi 31, anh
mua 1 chiếc ô tơ theo phương thức trả góp 10 năm. Đơn giá chiếc xe mua
theo phương thức này là 100.000.000 VND, mỗi năm anh phải trả người
bán ô tô 10.000.000 VND. Anh lựa chọn mua bảo hiểm ?
+ Loại hình bảo hiểm tử kỳ giảm dần
+ Số tiền bảo hiểm: 120.000.000 VND
Trong đó có: 100.000.000 VND giảm dần hàng năm.
+ Thời hạn hợp đồng là 10 năm.
Như vậy, mỗi năm STBH giảm 10.000.000 VND tương ứng với số nợ
giảm đi 10.000.000 mà anh C đã trả . Nếu chẳng may năm 35 tuổi anh bị

chết, quyền lợi bảo hiểm mà gia đình anh được nhận từ công ty bảo hiểm
là: 70.000.0000 VND. Với số tiền này, gia đình anh vẫn đủ để trả nợ và có
tiền chi mai táng, khắc phục khó khăn sau cái chết của anh.
- Bảo hiểm tử kỳ tăng dần: Loại này được phát hành nhằm giúp người
tham gia bảo hiểm có thể ngăn chặn được yếu tố lạm phát của đồng tiền.
Có nghĩa STBH thực trong hợp đồng bị giảm do đồng tiền sụt giá trong 1
khoảng thời gian. Để ngăn chặn có thể:
+ Tăng số tiền bảo hiểm theo 1 tỷ lệ % được lập hàng năm

Nguyễn Tuấn Anh

11

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Hoặc đưa ra các loại hợp đồng ngắn hạn và sau đó tái tục với một số
tiền bảo hiểm tăng dần.
Như vậy, loại hợp đồng này có đặc điểm là phí bảo hiểm sẽ tăng dần
theo STBH và phải dựa trên tuổi tác của người được bảo hiểm khai tái tục
hợp đồng.
- Bảo hiểm thu nhập gia đình: Loại hình bảo hiểm này nhằm đảm bảo
thu nhập cho 1 gia đình khi khơng may người trụ cột trong gia đình bị chết.
Quyền lợi bảo hiểm mà gia đình nhận được sau cái chết của người trụ cột
có thể:
+ Nhận được tồn bộ (trọn gói)
+ Nhận được từng phần dần dần cho đến khi hết hạn hợp đồng
Nếu người được bảo hiểm còn sống đến hết hạn hợp đồng, gia đình sẽ
khơng nhận được bất kỳ một khoản thanh tốn nào từ cơng ty bảo hiểm.

- Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên: Loại hình bảo hiểm này cũng
nhằm tránh yếu tố lạm phát của đồng tiền. Đảm bảo các khoản thanh tốn
của cơng ty bảo hiểm cho gia đình khơng may có người được bảo hiểm bị
chết, tương ứng với STBH khi mới ký hợp đồng.
- Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện: Điều kiện ở đây là: việc thanh toán trợ
cấp chỉ được thực hiện khi người được bảo hiểm bị chết, đông thời người
thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định trong hợp đồng phải còn sống.
b, Bảo hiểm nhâm thọ trọn đời (Bảo hiểm trường sinh)
Loại hình bảo hiểm này cam kết chi tra cho người thụ hưởng bảo hiểm
một STBH đã được ấn định trên hợp đồng, khi người được bảo hiểm chết
vào bất cứ lúc nào kể từ ngày ký hợp đồng. Phương châm của người bảo
hiểm ở đây là: “ bảo hiểm đến khi chết”. Ngoài ra, có một số trường hợp
loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay
cả khi họ sống đến 100 tuổi.
Đặc điểm:
- STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết
Nguyễn Tuấn Anh

12

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Thời hạn bảo hiểm khơng xác định
- Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và khơng thay
đổi trong suốt q trình bảo hiểm
- Phí bảo hiểm cao hơn so với bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, vì rủi
ro chết chắc chắn sẽ xảy ra, nên STBH chắc chắn phải chi trả.
- BHNT trọn đời là loại hình bảo hiểm dài hạn, phí đóng định kỳ và

khơng thay đổi trong suốt q trình bảo hiểm, do đó đã tạo nên một khoản
tiết kiệm cho người thụ hưởng bảo hiểm vì chắc chắn người bảo hiểm sẽ
chi trả STBH.
Mục đích:
- Đảm bảo các chi phí mai táng, chơn cất
- Bảo đảm thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình
- Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau.
Hiện nay, loại hình bảo hiểm này thường có các loại hợp đồng sau:
- BHNT trọn đời phi lợi nhuận: loại này có mức phí và số tiền bảo
hiểm cố định suốt cuộc đời. Vì vậy, khi thanh toán số tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng khơng có khoản lợi nhuận được chia.
- BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhuận: Loại hợp đồng này cũng
tương tự như loại trên, nhưng khi thanh toán số tiền bảo hiểm cho người
thụ hưởng quyền lợi, họ được chia một phần lợi nhuận như đã thoả thuận
trong hợp đồng.
- BHNT trọn đời đóng phí liên tục: Loại này u cầu người được bảo
hiểm phải đóng phí liên tục cho tới khi chết. Vì đóng phí liên tục nên số phí
phải đóng phí liên tục cho tới khi chết. Vì đóng phí liên tục nên số phí phải
đóng hàng năm sẽ thấp hơn so với các loại hợp đồng khác và mức phí này
là bằng nhau giữa các năm
Với mực phí phải đóng bằng nhau giữa các năm thì thời kỳ đầu, người
bảo hiểm thu được số phí lớn hơn mực cần thiết để chi trả cho những người
chết sớm. Sau một khoảng thời gian, xác suất tử vong của những người
Nguyễn Tuấn Anh

13

Lớp: Bảo hiểm 47B



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tham gia sẽ ngày càng cao hơn, số tiền chi trả tất yếu sẽ tăng thêm. Như
vậy, khoản tiền dôi ra trong thời kỳ đầu cùng với số lãi thu được sẽ bù đắp
để chi trả cho giai đoạn sau và hợp đồng được duy trì ổn định, an tồn.
- BHNT trọn đời phí đóng một lần: Đây là loại hình bảo hiểm mà
người được bảo hiểm chỉ đóng phí một lần khi ký hợp đồng, còn người bảo
hiểm phải đảm bảo chi trả bất cứ lúc nào khi cái chết của người được bảo
hiểm xuất hiện. Khoản phí đóng một lần là khá lớn nên người tham gia hạn
chế.
Loại hợp đồng này rất cổ điển, tuy nhiên nó vẫn được sử dụng để đáp
ứng những nhu cầu của những người có thu nhập cao trong xã hội.
Ví dụ: khi người thanh niên 25 tuổi ở Mỹ, mua bảo hiểm loại này với
số tiền bảo hiểm là 1.000 USD, anh ta phải đóng phí 1 lần khi ký hợp đồng
là 350 USD. Tương ứng với số tiền bảo hiểm 100.000 USD, anh ta phải
đóng phí 35.000 USD.
- BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí bảo hiểm: Loại này khơng
địi hỏi người được bảo hiểm phải đóng phí liên tục hay 1 lần, mà quy định
rõ số năm đóng phí bảo hiểm. Ví dụ, đóng làm 5 lần, 10 lần, 15 lần, hoặc
đóng đến một độ tuổi quy định, chẳng hạn đến 60 hoặc 65 tuổi. Tổng số phí
đóng mỗi lần phụ thuộc vào số lần đóng phí. Nếu người được bảo hiểm
chết trước khi hết thời hạn đóng phí thì quyền lợi bảo hiểm sẽ được thanh
toán cho người thụ hưởng bảo hiểm và khơng phải trả thêm các khoản phí
cịn chưa trả hết.
Loại hợp đồng này rất phù hợp với những người sau khi nghỉ hưu, thu
nhập giảm, việc tiếp tục đóng phí bảo hiểm là một gánh nặng đối với họ,
trong khi họ vẫn có nhu cầu được bảo hiểm.
2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ):
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người được bảo hiểm cam kết
chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc
trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm

Nguyễn Tuấn Anh

14

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chết trước ngày đến hạn thanh tốn thì sẽ khơng được chi trả bất kỳ một
khoản tiền nào.
Đặc điểm:
- Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định
hoặc cho đến khi chết
- Phí bảo hiểm đóng 1 lần
- Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian khơng xác định
Mục đích:
- Đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay tuổi cao sức yếu
- Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi
tuổi già
- Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời
Như vậy, với một khoản phí bảo hiểm phải nộp khi ký hợp đồng mà
người tham gia lựa chọn, người bảo hiểm sẽ thanh toán một khoản trợ cấp
định kỳ hàng tháng cho người được bảo hiểm. Nếu khoản trợ cấp này thanh
toán định kỳ cho đến hết đời, người ta gọi là “ Bảo hiểm niên kim nhân thọ
trọn đời”. Nếu chỉ được thanh toán trong một thời kỳ nhất định người ta gọi
là “bảo hiểm niên kinh nhân thọ tạm thời”.
Loại hình bảo hiểm này rất phù hợp với những người khi về hưu hoặc
những người không được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ BHXH đến độ tuổi
tương ứng với độ tuổi về hưu đăng ký tham gia, để được hưởng những
khoản trợ cấp định kỳ hàng tháng. Vì vậy, tên gọi “bảo hiểm tiền trợ cấp

hưu trí”, “bảo hiểm tiền hưu”, “niên kim nhân thọ” v.v... được các công ty
bảo hiểm vận dụng linh hoạt.
3. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp:
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cả trong trường hợp
người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro
đang xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế
giới.
Nguyễn Tuấn Anh

15

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đặc điểm:
- STBH được trả khi: hết hạn hợp đồng hoặc người được bảo hiểm tử
vong trong thời hạn bảo hiểm
- Thời hạn bảo hiểm xác định (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm....)
- Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và khơng thay đổi trong suốt thời
hạn bảo hiểm.
- Có thể chia lãi thơng qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được
hồn phí khi khơng có điều kiện tiếp tục tham gia.
Mục đích:
- Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân
- Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ
- Dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc khỏi nghiệp kinh doanh..
Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các cơng ty bảo hiểm có thể đa dạng
hố loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng
phi lợi nhuận, có lợi nhuận và các loại hợp đồng khác tuỳ theo tình hình

thực tế.
4. Các điều khoản bảo hiểm bổ sung:
Khi triển khai các loại hình BHNT, nhà bảo hiểm cịn nghiên cứu, đưa
ra các điểu khoản bổ sung để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân. Có
các điều khoản bổ sung sau đây thường hay được vận dụng:
- Điều khoản bổ sung bảo hiểm nằm viện và phẫu thuật : có nghĩa là
nhà bảo hiểm cam kết trả các chi phí nằm viện và phẫu thuật cho người
được bảo hiểm khi họ bị ốm đau, thương tích. Tuy nhiên, nếu người được
bảo hiểm tự gây thương tích, tự tử, mang thai và sinh nở...thì khơng được
hưởng quyền lợi bảo hiểm. Mục đích của điều khoản này nhằm trợ giúp
người tham gia giảm nhẹ gánh nặng chi phí trong điều trị phẫu thuật, đặc
biệt là trong các trưởng hợp ốm đau, thương tích bất ngờ.
- Điều khoản bổ sung bảo hiểm tai nạn: Nhằm trợ giúp thanh tốn chi
phí trong điều trị thương tật, từ đó bù đắp sự mất mát hoặc giảm thu nhập
Nguyễn Tuấn Anh

16

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
do bị chết hoặc thương tích của người được bảo hiểm. Đìêu khoản bảo
hiểm này có đặc điểm là bảo hiểm khá tồn diện các hậu quả tai nạn như:
Người được bảo hiểm bị tàn phế, thương tật tồn bộ, thương tích tạm thời
và bị tai nạn sau đó bị chết. Nhưng trường hợp tự thương, tai nạn do nghiện
rượu, ma tuý, tự tử...sẽ không được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
- Điều khoản bổ sung bảo hiểm sức khoẻ: Thực chất của điều khoản
này là nhà bảo hiểm sẽ cam kết thanh toán khi người được bảo hiểm bị các
chứng bệnh hiểm nghèo như:

+ Đau tim
+ Ung thư
+ Suy gan
+ Suy thận
+ Suy hô hấp...
Mục đích tham gia bảo hiểm ở đây nhằm có được những khoản tài
chính nhất định để trợ giúp thanh tốn các khoản chi phí y tế lớn và góp
phần giải quyết, lo liệu các nhu cầu sinh hoạt ngay trong thời gian điều trị.
Ngoài ra, trong một số hợp đồng BHNT, các cơng ty bảo hiểm cịn
đưa ra những điểm bổ sung khác nhau như: Hồn phí bảo hiểm, miễn thanh
tốn phí khi bị tai nạn, thương tật v.v... nhằm tăng tính hấp dẫn để thu hút
người tham gia.
Mặc dù có mức phí cao hơn, nhưng các HĐBH nhân thọ có các điều
khoản bổ sung đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo
hiểm.

Nguyễn Tuấn Anh

17

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Phần II
Những nội dung cơ bản về sản phẩm An Sinh Giáo Dục
I. Quá trình hình thành và phát triển của sản phẩm An Sinh Giáo
Dục:
Theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài

chính, khi bước vào triển khai loại hình BHNT Bảo Việt đã tiến hành triển
khai hai loại hình BH đó là BHNT có thời hạn 5, 10 năm (BVNA1,
BVNA2/1996) và bảo hiểm trẻ em-chương trình đảm bảo cho trẻ em đến
tuổi trưởng thành (BVNA3/1996).
Sản phẩm “chương trình bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành”,
đây là tên ban đầu của sản phẩm An Sinh giáo dục (BVNA3/1996) khi mới
đưa vào triển khai. Về bản chất sản phẩm này thuộc nhóm bảo hiểm hỗn
hợp, nghĩa là loại hình được bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo
hiểm bị tử vong hay còn sống yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen lẫn nhau.
Vì thế nó rất phù hợp với đối tượng trẻ em, bởi lẽ khi mua sản phẩm bảo
hiểm này các bậc phụ huynh hồn tồn khơng mong muốn rủi ro xảy ra đối
với con em mình mà chỉ mong muốn đó là một khoản tiết kiệm dành cho
những kế hoạch trung hay dài hạn cho con cái sau này. Đối tượng được bảo
hiểm ở đây là trẻ em cho nên tính tiết kiệm được đề cao hơn tính rủi ro.
Trong sản phẩm bảo hiểm này có một số đặc tính sau:
- Khi trẻ em được bảo hiểm đến tuổi trưởng thành (năm 18 tuổi) Bảo
Việt Nhân Thọ sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng.
- Nếu trẻ em khơng may bị thương tật tồn bộ vĩnh viễn do tai nạn,
Bảo Việt ngừng thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm
cho đến năm trẻ em trịn 18 tuổi.
- Nếu trẻ em khơng may bị chết, Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 %
số phí đã nộp.

Nguyễn Tuấn Anh

18

Lớp: Bảo hiểm 47B



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Nếu người chủ hợp đồng bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ
vĩnh viễn do tai nạn, cơng ty sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn
tiếp tục có hiệu lực.
- Ngoài số tiền bảo hiểm, tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo
hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh
doanh tại nghiệp vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng được gọi là bảo tức.
-Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên,
người tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền
gọi là giá trị giải ước.
Kể từ ngày 15/5/1998, công ty Bảo Việt nhân thọ dừng bán sản phẩm
(BVNA3/1996). Tuy nhiên, công ty vẫn duy trì hiệu lực hợp đồng cho đến
hết thời hạn bảo hiểm. Thế vào đó cơng ty triển khai sản phẩm mới Bảo
hiểm An Sinh Giáo Dục (BVNA6/1998).Thực chất đây là một bước cải tiến
hồn thiện sản phẩm của cơng ty BHNT bởi vì sản phẩm mới này về căn
bản dựa trên cơ sở sản phẩm BHNT cũ có sửa đổi và hồn thiện.
Sang năm 2001, đứng trước bối cảnh đó là việc nhà nước mở cửa thị
trường BHNT nên công ty BHNT phải đối mặt với những thử thách mới,
sự canh tranh của các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài, nhất là trong
lĩnh vực bảo hiểm dành cho trẻ em, do đó địi hỏi cơng ty khơng ngừng đổi
mới và phát triển sản phẩm. Vì vậy, dựa trên cơ sở sản phẩm bảo hiểm cũ
(BVNA6/1999) công ty đã cho ra đời sản phẩm mới bảo hiểm An Sinh
Giáo Dục (BVNA9/2001) thay thế cho cho sản phẩm (BVNA6/1999).
Không ngừng đổi mới và hoàn thiện sản phẩm đến đầu năm 2007 công
ty ngừng triển khai sản phẩm (BVNA6/1999) và cho ra đời sản phẩm An
Sinh Giáo Dục (BVNV23P/2007) thay thế cho sản phẩm cũ. Đây là sản
phẩm bảo hiểm An Sinh Giáo Dục mới nhất của công ty hiện nay, với
những tính năng ưu việt hơn sản phẩm cũ, hiện nay sản phẩm An Sinh Giáo
Dục (BVNT23P/207) đang thu hút được số lượng lớn người tham gia, làm
một trong những sản phẩm chiến lược của công ty.

Nguyễn Tuấn Anh

19

Lớp: Bảo hiểm 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
II. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm An Sinh Giáo Dục:
1. Ý nghĩa của sản phẩm:
Sản phẩm An sinh giáo dục là bảo đảm cho trẻ em tới tuổi trưởng
thành. Chương trình này là một loại hình thuộc BHNT hỗn hợp nên nó
mang rất nhiều ý nghĩa:
- An sinh giáo dục: một giải pháp đầu tư cho tương lai, giúp con nhà
nghèo có thể học đại học.
Hiện nay có nhiều sinh viên phải bỏ dở việc học đại học hay đỗ đại
học mà không được đi học, một trong những nguyên nhân là do chi phí
phải nộp cùng các khoản đóng góp q cao. Chi phí cho học hành trở thành
vấn đề bức xúc đối với toàn xã hội cũng như các bậc phụ huynh mà phần
lớn họ có mức thu nhập thấp. Nhà nước chủ trương khơng bao cấp mà thu
học phí của sinh viên là thể hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân
cùng làm” trong giáo dục. Nhiều gia đình ở nông thôn đã phải bán đất bán
ruộng để đổi lấy một chỗ ngồi trên giảng đường cho con cái (đây là vấn đề
đã được nêu ở trên một tờ báo). Làm sao để con em mình có tiền đi học đại
học? Bạn có biết rằng chỉ với một vài ngàn đồng tiết kiệm mỗi ngày, con
bạn có thể ngẩng cao đầu trong tương lai. Vậy giải pháp có tính khả thi và
phù hợp với tất cả mọi người hiện nay là gì? Đó là An sinh giáo dục.
- Sản phẩm An sinh giáo dục giúp cho mọi người thực hiện được
mong ước cho tương lai và đảm bảo quyền lợi cho chính con cái và gia
đình.

- An sinh giáo dục mang ý nghĩa nhân văn, giáo dục sâu sắc
Là một loại hình của BHNT hỗn hợp, nên người tham gia chương
trình An sinh giáo dục chắc chắn sẽ nhận được số tiền vào một thời điểm
nhất định trong tương lai dù rủi ro không xảy ra và nhận được một khoản
lãi được gọi là bảo tức tích luỹ mà khơng phải chi ra một khoản tiền lớn
cùng một lúc, chỉ tích luỹ dần dần. Hơn nữa sản phẩm này lại thể hiện tính
nhân văn cao cả mà các loại hình bảo hiểm khác khơng thể hiện được. Có
Nguyễn Tuấn Anh

20

Lớp: Bảo hiểm 47B



×