Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN, TIỀM LỰC TÀI CHÍNH VÀ GIA CẢNH CÁ NHÂN ĐẾN QUYẾT ĐỊNH LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP: LÀM CHỦ HAY LÀM THUÊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.64 KB, 68 trang )

CƠNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM 2010

Tên cơng trình:
TÁC ĐỘNG CỦA TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN, TIỀM LỰC TÀI CHÍNH
VÀ GIA CẢNH CÁ NHÂN ĐẾN QUYẾT ĐỊNH LỰA CHỌN
NGHỀ NGHIỆP: LÀM CHỦ HAY LÀM THUÊ

Thuộc nhóm ngành: Khoa học xã hội


2

HÀ NỘI, 2010
MỤC LỤC
Trang


3

DANH MỤC BẢNG
Trang


4

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1.

Lý do nghiên cứu


Doanh nghiệp tư nhân đã trở thành một lực lượng chính cho sự tăng

trưởng kinh tế nhanh và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong thời gian gần
đây. Bên cạnh một số lượng lớn doanh nghiệp hộ gia đình (trong khu vực
khơng chính thức), rất nhiều doanh nghiệp đăng ký mới trong thập kỷ qua là
kết quả của sự ra đời Luật Doanh nghiệp trong năm 2000 và 2005. Theo đó,
số doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới đã tăng 160.000 doanh nghiệp trong
suốt giai đoạn 2000 – 2005 (Tô Trung Thành và cộng sự, 2009). Sự bùng nổ
của những doanh nghiệp tư nhân đã hấp thụ số lượng lớn số người thât nghiệp
trong những thành phố lớn và những nông dân dư thừa ở khu vực nơng thơn,
do đó đã có những đóng góp tuyệt vời cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
trong những năm qua (Perkins và cộng sự, 2008).
Nhận thức được tầm quan trọng của những doanh nghiệp nhỏ đối với
tăng trưởng kinh tế; chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách khuyến
khích phát triển doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, vẫn có sự thiếu hụt những
chính sách đồng bộ nhắm tới những cá nhân đang phải đối mặt với sự lựa
chọn việc trở thành doanh nhân (tự làm chủ) hay trở thành người làm công ăn
lương.
Những yếu tố quyết định sự lựa chọn nghề nghiệp giữa việc tự làm chủ
và làm thuê được đề cập nhiều trong lý thuyết nghiên cứu. Thành tựu giáo dục
và các kênh truyền dẫn mà thành tựu giáo dục tác động đến xác suất trở thành
doanh nhân, được đề cập nhiều trong những nghên cứu như Evans và
Jovanovic (1989), De Wit (1993), Bernhardt (1994) và Lee (1999). Kinh
nghiệm thị trường, tuổi tác thái độ đối với rủi ro, trạng thái hơn nhân, qui mơ
hộ gia đình, đặc điểm hộ gia đình và quá trình đào tạo… những nhân tố khác
có tác động đến sự chọn lựa nghề nghiệp vủa cá nhân (Rees và Shah (1986),


5


Dewit (1993), và Lee (1999)). Một số nhân tố như là nhóm dân tộc, tơn giáo,
nhóm nhân tố nhập cư, cá nhân là người nhập cư hay người địa phương cũng
đóng vai trị quan trọng trong việc chọn lựa nghề nghiệp (Borjas và Bronars,
1989). Ngồi ra, khơng chỉ những nhân tố về vốn con người, biến vốn tài
chính cũng là những nhân tố được phân tích trong nhiều lý thuyết việc làm,
bao gồm Kidd (1993), Bernhardt (1994), Blanchower và Oswald (1998) và
Constant và Zimmermann (2006).
Đề tài này không chỉ nghiên cứu trong lý thuyết, mà còn nghiên cứu thực
nghiệm, đã có rất nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này. Tuy nhiên, hầu hết các
công việc là những vấn đề tự làm chủ công việc của dân cư trong các quốc gia
phát triển như Rees and Shah (1986), Borjas and Bronars (1989), Evans and
Leighton (1989), Constant and Zimmermann (2006). Trong khi đó, lĩnh vực
này vẫn cịn đang được nghiên cứu ở các quốc đang phát triển nói chung và
đặc biệt là ở Việt Nam.
Hiện thiếu hụt nghiêm trọng các nghiên cứu về những nhân tố đằng sau
sự lựa chọn kinh doanh ở Việt Nam. Nghiên cứu của Vijverberg và Haughton
(2002) là một trong những nghiên cứu hiếm hoi về chủ đề này, nhưng các tác
giả tập trung vào sự tồn tại và tăng trưởng của những doanh nghiệp hộ gia
đình, còn những nhà lãnh đạo doanh nghiệp hoặc các doanh nhân không phải
là trung tâm trong những nghiên cứu của họ. Do đó, các yếu tố quan trọng
đằng sau sự quyết định tự kinh doanh hay là làm công ăn lương chỉ được thảo
luận vắn tắt trong những nghiên cứu này. Sự thiếu sót trong những nghiên cứu
thực nghiệm này ở Việt Nam đã dẫn đến sự thiếu kiến thức về sự chọn lựa của
các cá nhân để trở thành doanh nhân và do đó chính sách hướng tới doanh
nhân ở Việt Nam đã bỏ lỡ một khía cạnh quan trọng cho sự phát triển của
doanh nghiệp tư nhân. Có kiến thức tốt về những yếu tố quyết định tới sự lựa
chọn của các cá nhân này, các nhà chức trách có thể cung cấp thơng tin phù


6


hợp hơn, có sức thuyết phục và tập trung hỗ trợ cho những doanh nhân tiềm
năng thực sự và do đó tạo ra nhiều cơ hội hơn cho họ để thành công trong
kinh doanh.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Xác định vai trò quan trọng của khu vực việc làm tự chủ (self-employment)
và khu vực doanh nghiệp trong thị trường lao động tại Việt Nam, nghiên cứu
này cố gắng bổ sung những khoảng trống nghiêm trọng bằng việc nghiên cứu
thực nghiệm và tập trung vào những yếu tố quyết định sự lựa chọn nghề
nghiệp của những cá nhân giữa sự tự chủ việc làm hay doanh nhân với người
làm công ăn lương. Kết quả của nghiên cứu này có thể sẽ rất hữu ích và quan
trọng cho các nhà hoạch định chính sách để thực hiện và đưa ra những chính
sách phù hợp cho sự phát triển doanh nghiệp và doanh nhân.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Với mục tiêu tổng quát ở trên, đề tài nghiên cứu này sẽ hướng vào các
mục tiêu cụ thể sau:
-

Đánh giá chung các doanh nghiệp tư nhân và thị trường lao động Việt
Nam,

-

Tìm hiều và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp
của các cá nhân giữa việc trở thành doanh nhân và đi làm thuê,

-

Những yếu tố nào là quan trọng nhất tác động đến lựa chọn nghề nghiệp,

và có mối liên hệ gì đến mơi trường kinh doanh mà chính phủ xác lập,

- Dựa trên các kết quả nghiên cứu để đề xuất các khuyến nghị chính sách
nhằm tạo điều kiện thuận lợi ban đầu cho các doanh nghiệp tư nhân phát
triển.


7

1.3 Phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và số liệu
1.3.1 Phương pháp luận
Xem xét hành vi sự lựa chọn giải thích cho việc quyết định việc làm trong
thị trường lao động tại Việt Nam để trở thành một doanh nhân. Và để đánh
giá những yếu tố tác động đến xác suất quyết định lựa chọn tự làm chủ (làm
th cho chính mình) hoặc làm th (làm cơng ăn lương) thì mơ hình logit
như của Hout M. và Rosen H. (2000) được sử dụng.
Hàm Logit sau được sử dụng :

P
Ln( i ) = Z i = β1 + β 2C2i + β 3 E3i + β 4 F4i + β 5 H i
1 − pi
i

Trong đó, biến phụ thuộc: SE (SE = 1, nếu cá nhân quyết định tự làm chủ;
SE = 0, nếu cá nhân quyết định làm cơng ăn lương). Nhóm các biến điều
chỉnh trong mơ hình (C); nhóm các biến đại diện cho trình độ học vấn (E);
nhóm các biến đại diện cho tiềm lực tài chính (F); và nhóm biến đại diện cho
gia cảnh cá nhân (H).
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu.
Để có được kết quả ước lượng thuyêt phục nhất, chúng tôi sẽ cố gắng để

thiết lập các mẫu là th̀n nhất có thể. Vì vậy, chúng tôi tập trung vào hành vi
tiền lương nhân viên toàn thời gian hoặc doanh nhân trong tất cả các khu vực
đô thị, và do vậy loại trừ thu nhập từ tiền lương bán thời gian, cá nhân trong
những khu vực nông thôn hoặc hoạt động trong nông nghiệp. Trên cơ sở mẫu


8

đó, nghiên cứu sẽ tập trung vào hành vi của những cá nhân trong khu vực
thành thị trong việc quyết định trở thành người làm công ăn lương (hưởng
tiền lương toàn thời gian) hay là một doanh nhân (kinh doanh tự chủ).

1.3.3 Số liệu
Nguồn dữ liệu chính cho nghiên cứu này là cuộc khảo sát mức sống chuẩn
hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) tiến hành năm 2008 bởi tổng cục thống kê
(GSO) với sự hỗ trợ kỹ thuật bởi Ngân hàng Thế Giới (WB). VHLSS bao
gồm mẫu đại diện là 9189 hộ gia đình tại tám khu vực địa lý của đất nước.
Khảo sát này bao gồm một loạt các cá nhân và thuộc tính của các hộ gia đình
như tuổi tác, giáo dục, tình trạng việc làm, ngề nghiệp, y tế, thu nhập và chi
tiêu, tiết kiệm, nhà ở, tiếp cận với các dịch vụ công,... cũng như các đặc tính
vật lý và nhân khẩu học cơ bản, hoạt động kinh tế, cơ sở hạ tầng,… ở mức độ
chung. Giữ liệu lấy từ cuộc khảo sát này thực sự là đầy đủ và rất hữu ích cho
việc phân tích ước lượng.
1.3.4 Biến
Những biến được sử dụng trong nghiên cứu này được chọn dựa trên các
đề xuất từ các nghiên cứu tổng quan như Bernhardt (1994), Evans và
Jovanovic (1989), và Blanch_ower và Oswald (1998), Hout M. và Rosen H.
(2000) và các dữ liệu có sẵn trong nguồn mà chúng tơi lựa chọn.
Các biến này có thể là cấp độ học vấn, kinh nghiệm làm việc trong thị
trường lao động, vị trí, hoạt động kinh tế, trạng thái hơn nhân, số lượng và độ

tuổi của trẻ em, giới tính, các nguồn tài chính (sở hữu nhà, những thu nhập từ
lương, những thu nhập từ vốn, và thu nhập khác).
1.3.5 Cấu trúc của bài nghiên cứu


9

Cấu trúc của bài nghiên cứu theo như 7 chương sau:
Chương 1: Chương này sẽ cung cấp những lý do cho việc nghiên cứu.
chương này cũng đề cập đến mục tiêu, phạm vi của bài nghiên cứu và mô tả
ngắn gọn phương pháp luận và dữ liệu cho nghiên cứu. Một vài giả thuyết
cũng sẽ được đề cập đến.
Chương 2: Chương này sẽ cung cấp hình ảnh về thị trường lao động Việt
Nam, cả trong lĩnh vực tiền lương nhân viên và trong khu vực tự kinh doanh
và khu vực doanh nghiệp. Chương này cũng sẽ cung cấp bối cảnh chung cho
các nghiên cứu.
Chương 3: Lý thuyết và nhận xét phân tích thực nghiệm sẽ được đề cập
đến trong chương này. Việc xem xét sẽ kiểm tra những thiếu sót trong lý
thuyết và phân tích thực nghiệm sẽ được bổ xung trong nghiên cứu này.
Ngoài ra, chương cũng khuyến cáo một số kỹ thuật, phương pháp luận và các
biến ứng dụng trong nghiên cứu này.
Chương 4: Chương này được dành cho mô tả cẩn thận phương pháp luận,
dữ liệu, biến đo lường cụ thể cho việc phân tích và kết quả ước lượng.
Chương 5: Chương này trình bày tóm tắt các kết quả ước lượng và khuyến
nghị chính sách. Cuối cùng, các hạn chế của đề tài sẽ được nêu ra và phân tích
kỹ lưỡng, đi kèm với hướng nghiên cứu đề xuất trong tương lai.


10


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

Sự thiếu hụt nghiên cứu về đề tài này ở Việt Nam cũng là nguyên nhân
khiến các tác giả thực hiện bài nghiên cứu. Đa phần các nghiên cứu mới được
thực hiện ở các nước phát triển, như của Rees và Shah (1986), Blanchflower
và Oswald (1990) hay Le (1999) về Liên hiệp Anh; Evans và Jovanovic
(1989) nghiên cứu về Mỹ; Evans (1989) và sau đó là Kidd (1993) ở Australia;
de Wit và Van Winden (1993) ở Hà Lan; Bernhardt (1994) tại Canada,
Constant và Zimmermann (2006) về Đức. Trong khi đó, lĩnh vực này vẫn cịn
đang được nghiên cứu ở các quốc đang phát triển nói chung và đặc biệt là ở
Việt Nam. Khơng có nhiều các nghiên cứu tương tự tại các nước đang phát
triển, mà trong số ít này có Cunningham và Maloney (1999) về Mexico, Earle
and Sakova (2000) về các nền kinh tế chuyển đổi hay của Destré và V.
Henrard (2004) về Colombia, Tamvada (2010) về Ấn Độ. Nghiên cứu bởi
Vijverberg và Haughton (2002) hay của Trang Do và Duchêne (2007) là hai
bài viết hiếm hoi về chủ đề này ở Việt Nam. Sau đây, chúng ta sẽ cùng điểm
lại các nghiên cứu trước để xem những vấn đề gì đã được giải quyết và
nghiên cứu của chúng tơi có thể lấp khoảng trống học thuật nào.
Điểm qua một số lý thuyết về tự kinh doanh thì nhiều nghiên cứu xem
xét sự khác nhau trong thái độ với rủi ro là nhân tố tác động chính đến quyết
định lựa chọn này. Hamilton (1995) cho rằng việc tự kinh doanh vốn đã mang
nhiều rủi ro hơn là làm thuê, vì vậy mà người ghét rủi ro sẽ tránh tự đứng ra
kinh doanh. Phái tân cổ điển lại chỉ ra rằng di dân là nhóm người dám chấp
nhận rủi ro để cải thiện thu nhập và cuộc sống của mình nên họ có nhiều khả
năng tự làm chủ hơn các nhóm dân số khác. Một hướng tiếp cận khác là tập


11


trung vào sự khác biệt trong khả năng quản trị doanh nghiệp, như Jovanovic
(1982) nhận định người có kỹ năng quản lý – lợi thế tương đối để điều hành
doanh nghiệp– có khuynh hướng mở doanh nghiệp từ khi bắt đầu sự nghiệp
và cũng tồn tại được lâu hơn trong thương trường. Lý thuyết thứ ba nhấn
mạnh vai trò của khả năng tài chính (Evans và Jovanovic, 1989), cho rằng
việc thành lập và vận hành doanh nghiệp cần phải có đủ vốn, mà do nhiều lí
do, khơng phải ai cũng dễ dàng tiếp cận được.
Lý thuyết về những yếu tố quyết định sự lựa chọn và tiến hành kinh
doanh đã được kiểm định trong thực tế. Phương pháp được sử dụng nhiều
nhất là hồi quy mơ hình probit dạng cấu trúc và rút gọn (như của Ree và Shah,
1986 hay Bernhardt,1994) để tính tốn xác suất quyết định tự làm chủ của cá
nhân. Cách làm này dựa trên giả định cá nhân sẽ tối đa hóa lợi ích của mình
qua việc lựa chọn cơng việc có thu nhập kỳ vọng cao hơn trong tương quan
với chi phí cơ hội, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác như
trình độ giáo dục, sự tiếp cận nguồn vốn, điều kiện kinh tế, hồn cảnh gia
đình, thái độ đối với rủi ro, kinh nghiệm trên thị trường lao động, ...
Cá nhân (i) sẽ lựa chọn tự kinh doanh nếu mô hình probit cấu trúc sau
được thỏa mãn:
Prob (Uei − Uwi > 0) = Prob (M> 0) = Prob [α 1 + α2(lnYei − lnYwi) + α3lnCi
+ εi > 0]
với lnYei = Ziγe + εei, lnYwi = Ziγw + εwi (Zi là vec-tơ các biến mang thơng tin
cá nhân).
Viết lại thì được công thức probit dạng rút gọn:
Prob (M > 0) = Prob (Xiβ + ε0i > 0).
Le (1999) hay Destrés và Henrad (2004) đều thấy rằng các giá trị ước
lượng của mơ hình cấu trúc và mơ hình rút gọn là tương đương nhau, vì vậy
mơ hình rút gọn cho ước lượng đáng tin cậy. Tuy nhiên, cách làm trên vướng


12


phải thực tế hiển nhiên rằng các mức thu nhập kỳ vọng khơng thể quan sát
được mà chỉ có số liệu về thu nhập trong trạng thái việc làm hiện tại. Parker
(2003), Constant và Zimmerman (2006) đề nghị dùng mô hình hai thời kỳ
của Heckman (1979) để ước lượng các mức thu nhập kỳ vọng này:
E(lnYei|Zi, M> 0) = λeZi + πeδei +εei
E(lnYwi|Zi,M< 0) = λwZi + πwδwi +εwi
Destrés và Henrad (2004) trên cơ sở đó đã gợi ý sử dụng công thức của
Thomas (2000) khi mà hàm phân phối bị gián đoạn. Các vấn đề liên quan đến
chi tiết kỹ thuật của mơ hình sẽ được thảo luận kỹ hơn ở chương 4. Các
nghiên cứu sau đã phát triển quá trình thực hiện thành kỹ thuật 3 bước, gồm
(1): hồi quy mơ hình probit rút gọn về hành vi lựa chọn của cá nhân, sau đó
(2): hồi quy ước lượng thu nhập kỳ vọng của mỗi cá nhân (dùng mơ hình 2
thời kỳ của Heckman, 1979) và (3): sử dụng các giá trị ước lượng này để hồi
quy mô hình probit cấu trúc.
Hầu hết các nghiên cứu chỉ ra rằng mối quan hệ giữa tiềm lực tài chính
và gia cảnh cá nhân có ảnh hưởng tích cực tới thiên hướng kinh doanh, nhưng
ảnh hưởng của giáo dục tới xu hướng quyết định lựa chọn tự làm chủ hay việc
làm lương lại khơng rõ ràng.
2.1. Tiềm lực tài chính
Liệu cá nhân phải tự cấp vốn cho công việc kinh doanh của mình (selffinance) hay thị trường sẽ cấp vốn là câu hỏi còn bỏ ngỏ. Frank Knight
(1921), như Evans và Jovanovic (1989) đã dẫn, cho rằng thị trường vốn cung
cấp không đủ vốn cho các cá nhân tự đứng ra kinh doanh do lo ngại rủi ro đạo
đức cũng như lựa chọn ngược, chính vì vậy, cá nhân phải tự huy động vốn và
tự chịu rủi ro khi công việc kinh doanh gặp bất trắc. Trong khi đó,
Schumpeter (1934, 1950) , lại cho rằng doanh nhân chỉ phải tìm ra các cơ hội


13


tìm kiếm lợi nhuận và đẩy rủi ro sang phía nhà tư bản nào sẵn sàng cấp vốn
cho họ kinh doanh.
Các nghiên cứu tiêu biểu xem xét tiềm lực tài chính như là yếu tố quyết
định đến lựa chọn nghề nghiệp của cá nhân (theo lý luận của Knight) có thể
kể ra như của Evans và Jovanovic (1989), Bernhardt (1994), Blanchflower và
Oswald (1998), hay Destrés và Henrad (2004), rồi Constant và Zimmermann
(2006). Sử dụng các cách tiếp cận khác nhau, các nghiên cứu đều chỉ ra rằng
ràng buộc thanh khoản có vai trị quan trọng, nó vừa là tiền đề để các doanh
nhân khởi nghiệp nhưng cũng trở thành rào cản cá nhân tự đứng ra kinh
doanh.
Evans và Jovanovic (1989) khi nghiên cứu mẫu gồm 1839 nam giới da
trắng ở Mỹ đã nhận thấy có mối tương quan dương giữa xác suất tự làm chủ
với số tài sản sở hữu khi và chỉ khi có sự hạn chế về vốn: người có nhiều tài
sản hơn có thể khởi nghiệp với mức vốn ban đầu hiệu quả hơn và đạt thu
nhập cao hơn, còn người nghèo hơn phải dành nhiều hơn trong phần tài sản đã
có cho cơng việc kinh doanh của mình. Tuy nhiên mối tương quan này giảm
dần theo thời gian, khi các doanh nghiệp lớn mạnh hơn. Một điều đáng chú ý
khác là các doanh nghiệp nhỏ hơn, đối mặt với ràng buộc thanh khoản chặt
hơn thì lại có xu hướng phát triển ở tốc độ nhanh hơn, trong điều kiện các yếu
tố khác không đổi. Các tác giả cũng nhận thấy rằng việc chỉ lựa chọn một nửa
trong tổng số quan sát để hồi quy, đi kèm với mơ hình tĩnh giản đơn về ràng
buộc thanh khoản là 2 hạn chế trong bài nghiên cứu này và đề xuất thực hiện
mơ hình có thêm nhiều biến mang đặc điểm cá nhân hơn để kiểm soát các yếu
tố này.
Bernhardt (1994) sử dụng mơ hình probit rút gọn và cấu trúc như Rees và
Shah(1986) hay Borjas và Bronars (1989) khi nghiên cứu mẫu của Canada
cũng cho các kết luận đáng lưu ý. Tác giả sử dụng 3 biến giải thích để phản


14


ánh khả năng tài chính của một cá nhân: biến giả phản ánh thu nhập của vợ
(=1 nếu vợ có việc làm), biến giả phản ánh sở hữu tài sản cố định (=1 nếu
đang sở hữu ngôi nhà đang ở) và biến thu nhập từ đầu tư. Việc sở hữu tài sản
có giá trị như ngơi nhà và vợ có việc làm hưởng lương một mặt giảm thiểu rủi
ro do sự dao động trong thu nhập từ việc kinh doanh, mặt khác cải thiện khả
năng huy động vốn. Holtz-Eakin, Joulfaian và Rosen (1994) ví von thu nhập
của người vợ có vai trò như “tấm lưới an toàn” cho công việc có tính rủi ro
cao của người chồng. Kết quả hồi quy cho thấy các biến đều có ý nghĩa thống
kê cao. Destrés và Henrad (2004) khi áp dụng mơ hình tương tự cho
Colombia thì chỉ có biến thu nhập từ vốn khơng có ý nghĩa, do trong thống
kê, giá trị của biến này trong 2 mẫu quan sát không khác nhau nhiều trong khi
ở mẫu Canada, sự chênh lệch là 3,61 lần. Constant và Zimmermann (2006)
khi nghiên cứu động lực đằng sau quyết định tự kinh doanh của 2 nhóm dân
số là di dân và bản địa ở Đức đều thấy các biến như sở hữu nhà và sự quan
ngại về tài chính dường như gia tăng khả năng trở thành doanh nhân của cả 2
nhóm. Với người đàn ơng đã kết hơn thì xác suất làm chủ doanh nghiệp cũng
tăng lên, song khi có con thì lại giảm đi do trách nhiệm phải có thu nhập ổn
định để ni cả gia đình tăng lên.
Blanchflower và Oswald (1998) thì tiếp cận khả năng tài chính ở góc độ
khoản thừa kế hay quà biếu mà cá nhân được hưởng. Nhận thấy các nghiên
cứu trước của Evans và các cộng sự bỏ ngỏ khả năng ràng buộc tài chính cịn
phụ thuộc vào các yếu tố khác, hai tác giả lập luận việc được thừa hưởng tài
sản do người khác để lại cũng giúp cá nhân khởi nghiệp kinh doanh của mình.
Như vậy, kể cả khi không bị ràng buộc trong vấn đề tài chính, vẫn có tương
quan giữa tài sản sở hữu với xu hướng tự làm chủ của cá nhân. Việc được
thừa hưởng sản nghiệp của gia đình cũng có thể dùng để giải thích mối tương
quan này. Hai tác giả đi vào nghiên cứu tác động của việc thừa kế lên khả



15

năng tự kinh doanh giữa các nhóm tuổi và đi đến kết luận rằng việc được
nhận thừa kế có ảnh hưởng tích cực lên xác suất tự đứng ra kinh doanh của
một cá nhân điển hình khi các yếu tố khác khơng đổi.
2.2. Hồn cảnh gia đình
Nhân tố thứ hai tác động tới quyết định lựa chọn làm thuê hay doanh nhân
là đặc điểm gia đình. Tình trạng hơn nhân, số trẻ em phụ thuộc hay công việc
của vợ/chồng là những khía cạnh chính được xem xét đối với nhân tố này.
Rees và Shah (1986) sử dụng số liệu từ General Household Survey 1978 với
11794 hộ gia đình và 4762 chủ hộ, áp dụng mơ hình probit để xác định chênh
lệch thu nhập kỳ vọng giữa làm thuê và làm chủ với giả định cá nhân sẽ lựa
chọn công việc đem lại thu nhập cao hơn. Rhe và Sha cho rằng một người đã
có gia đình sẵn sàng chấp nhận rủi ro hơn so với người chưa có gia đình.
Đồng thời sự ủng hộ của gia đình có thể làm giảm đi những địi hỏi khó khăn
của lựa chọn là doanh nhân hơn là chưa có gia đình.
Khơng nhằm mục đích làm rõ sự khác biệt giữa hai lựa chọn (doanh nhân
hay làm thuê), Christopher Dawson, Andrew Henley và Paul Latreille (2009)
tìm hiểu mối quan hệ của lựa chọn doanh nhân với các động cơ dẫn tới lựa
chọn đó, đồng thời xem xét tác động của yếu tố nền, nhân khẩu học của một
cá nhân tới quyết định tự làm chủ. Bộ số liệu sử dụng được lấy từ United
Kingdom Quarterly Labour Force Survey từ 1999 đến 2001, thực hiện với gần
59000 hộ và 138000 cá nhân trong mỗi lần. Quy mô số liệu lớn cung cấp cho
các tác giả mẫu quan sát lớn, và thuận lợi cho việc phân tích các nhóm quan
sát đặc biệt. Với kết quả điều tra từ các bảng hỏi chi tiết, các tác giả sử dụng
mơ hình ước lượng của Satori (2003) để thực hiện các kiểm định. Kết quả cho
thấy, việc có trẻ phụ thuộc làm tăng xác suất lựa chọn doanh nhân. Cách giải
thích chính xác cho mối quan hệ này thật sự khơng rõ ràng, nhưng có thể hiểu
lựa chọn tự làm chủ trong trường hợp này nhằm hướng đến một thời gian làm



16

việc linh hoạt hơn. Khơng có thống kê có ý nghĩa nào chỉ ra mối quan hệ
giữa tình trạng hơn nhân và lựa chọn làm doanh nhân, nhưng các hệ số là
đáng tin cậy: tiêu cực đối với người có gia đình và tích cực đối với người đã
từng kết hơn (kể cả đã ở góa hay đã ly dị) và những người chưa kết hôn. Kết
quả này trái ngược hẳn với Rees và Shah (1986) như nói ở trên.
Nếu trong hai nghiên cứu trên, đặc điểm gia đình chỉ là một phần trong
phân tích tác động thì Hout M. and Rosen H.(2000) lại xem đó như là vấn đề
trung tâm để phân tích. Sử dụng số liệu của General Social Survey
(University of Chicago), từ 1973 đến 1996, mẫu quan sát chỉ bao gồm nam từ
25 đến 64 tuổi, làm việc ngồi khu vực nơng nghiệp và có trên 15 giờ lao
động 1 tuần. Mơ hình logit được sử dụng cho phân tích. Kết quả cho thấy, nếu
cha là một doanh nhân thì khả năng người con là doanh nhân cao hơn. Ảnh
hưởng của cỡ hộ là không đáng kể, khi cỡ hộ lớn hơn sẽ làm giảm xác suất trở
thành doanh nhân. Tương tự với cấu trúc gia đình, ảnh hưởng là không đáng
kể, tuy nhiên cá nhân cá nhân sống thiếu cả cha và mẹ thì xác suất làm chủ
thấp hơn (tương tư với ý kiến của Rhe và Sha về sự ủng hộ của gia đình).
Tương tự, việc thử đưa thêm biến có con nhỏ cũng không ảnh hưởng nhiều
đến xác suất. Người độc thân có xác suất thành doanh nhân thấp hơn cả. Tuy
nhiên, đàn ông đã từng cưới – bất kể tình trạng hôn nhân bây giờ ra sao – lại
có khả năng làm chủ doanh nghiệp cao hơn.
Qua một số nghiên cứu ta thấy rằng, tác động của mỗi nhân tố lại khác
nhau với mỗi nghiên cứu. Trong khi Rees và Shah cho rằng có gia đình ảnh
hưởng tích cực đến việc trở thành doanh nhân thì Henley và đồng nghiệp lại
có ý kiến trái ngược, với kết luận của Hout M và Rosen H thì ảnh hưởng của
tình trạng hơn nhân lại khơng rõ ràng. Sự sai khác đó có thể do chọn mẫu hay
phương pháp khác nhau. Để có một đánh giá chính xác cho Việt Nam, chúng
ta cần phải xem xét cụ thể.



17

2.3. Giáo dục
a. Giáo dục có tác động tích cực đáng kể tới người làm thuê (employee),
nhưng không ảnh hưởng nhiều tới quyết định tự làm chủ (self-employment)
như nghiên cứu của Carolona Castagnetti, Francesco Chelli và Luisa Rosti
(2008). Bài nghiên cứu nhấn mạnh vai trò của giáo dục ảnh hưởng tới thu
nhập cá nhân quết định tự làm chủ. Tác giả xây dựng hàm hiệu suất giáo dục
gồm các biến kết quả học tập cuối kỳ và thời gian mà sinh viên hoàn thành sự
nghiệp học tập. Cũng như các bài nghiên cứu trước tác giả tiến hành hồi quy
hàm thu nhập đối với người làm thuê toàn thời gian và người làm chủ bằng
việc kiểm soát lựa chọn của cá nhân. Các tác giả ước tính mơ hình lựa chọn
mẫu bằng phương pháp 2 bước của Heckman (1979) tiến hành kiểm tra lại kết
quả ước lượng bằng mơ hình probit với biến nhị phân - nếu cá nhân có mức
lương cao trong 2 trạng thái nghề nghiệp. Cuối cùng kết quả được chỉ ra giáo
dục có tác động khơng đáng kể vào khu vực làm chủ nhưng có tác động đáng
kể vào khu vực làm thuê.
b. Giáo dục có tác động đáng kể đến quyết định tự làm chủ doanh nghiệp
Nghiên cứu của Alba-Ramirez và San Segundo (1995) cung cấp kết quả
ước lượng mơ hình với số liệu ở Tây Ban Nha. Giáo dục được xét là số năm
giáo dục và bằng cấp giáo dục cao nhất đạt được. Kết quả cho thấy tác động
của giáo dục đại học là đáng kể và cao hơn đối với cá nhân quyết định tự làm
chủ doanh nghiệp. Cho kết quả khác biệt hơn, nghiên cứu của Garcia-Mainar
và Montuenga-Gosmez (2005) hỗ trợ tiếp kết quả nghiên cứu về Tây Ban
Nha. Ảnh hưởng trở lại cấp giáo dục cao hơn là thấp hơn đối với cá nhân
quyết định tự kinh doanh.
Rees & Shah (1986) sử dụng bộ số liệu General Household Survey 1978
của Anh với khoảng 11,794 hộ gia đình. Với mục đích xem xét sự tác động

qua lại giữa tình trạng việc làm và thu nhập, mẫu quan sát chỉ bao gồm những
người làm việc đủ thời gian (trên 30 tiếng/tuần), hồi quy probit với biến nhị


18

phân đại diện cho quyết định lựa chọn nghề nghiệp cá nhân, chỉ ra sự khác
nhau giữa hai quyết định bằng chênh lệch trong thu nhập đối với mỗi lựa
chọn. Hai tác giả cho rằng giáo dục có ảnh hưởng tới tích cực đến lựa chọn tự
làm chủ. Tác động có thể xảy ra theo hai cách. Thứ nhất, giáo dục đóng vai
trị như một bộ lọc mà những người được đào tạo cao hơn sẽ muốn đồng bộ
khả năng của họ. Thứ hai, họ cũng có xu hướng hiểu biết hơn và do đó đánh
giá tốt hơn cơ hội tự làm chủ của mình. Kết quả hồi quy cho thấy các biến đặc
trưng cho giáo dục tác động tích cực và đáng kể tới thu nhập của người tự làm
chủ.
Justin van der Sluis, Mirjam van Praag và Wim Vijverberg nghiên cứu
tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm trước đó đánh giá tác động của giáo
dục chính thức về sự lựa chọn và tiến hành kinh doanh trong những quốc gia
phát triển. Sử dụng phương pháp phân tích meta-analysis tác giả miêu tả ảnh
hưởng chủ yếu được nhận thấy trong nghiên cứu và giải thích sự mâu thuẫn
về kết quả qua nhiều nghiên cứu trước đó. Năm kết luận chính được chỉ ra từ
phân tích meta-analysis là: Tác động của giáo dục đi đến quyết định lựa chọn
kinh doanh là đáng kể; ảnh hưởng của giáo dục tới việc tiến hành kinh doanh
là đáng kể; tác động biên của số năm giáo dục cho một doanh nhân là 6,1%;
ảnh hưởng của giáo dục về thu nhập là nhỏ hơn cho các doanh nhân nhưng
nhỏ hơn ở Mỹ; Tác động trở lại của giáo dục đến thiên hướng tự kinh doanh ở
Mỹ là cao hơn châu Âu (xem thêm Van Der Sluis và cộng sự).
Peter van der Zwan, Ingrid Verheul, Roy Thurik và Isabel Grilo (2009)
sử dụng dữ liệu năm 2007 khảo sát ở châu Âu về tinh thần kinh doanh,
No.192” của hội nghị châu Âu gồm 20.674 quan sát gồm 25 nước thành viên

và Norway, Iceland, US. Bằng cách sử dụng một mơ hình logit tích lũy, mơ
hình cơ bản đánh giá tác động của các biến giải thích về sự chênh lệch (tỷ lệ
hai xác suất) nghiên cứu về tiến trình kinh doanh bao gồm năm cấp độ nghiên


19

cứu "không bao giờ xem xét mở doanh nghiệp", "tư duy về điều đó", "thực
hiện các thủ tục", "đang kinh doanh dưới ba năm" và "đang kinh doanh trên
ba năm". Kết quả thu được chỉ ra rằng tác động của giáo dục là tích cực và
đáng kể cho sự chuyển đổi nhận thức đầu tiên ("không bao giờ nghĩ tới" đi
đến "tư duy tự kinh doanh"), không đáng kể cho sự chuyển đổi tiếp theo ("tư
duy" để "thực hiện các bước kinh doanh") và tiêu cực đáng kể khi đi đến các
cấp độ quyết định kinh doanh tiếp theo nữa (nghĩa là "thực hiện các bước" tới
“đang kinh doanh dưới 3 năm” và “đang kinh doanh sau 3 năm"). Giáo dục
tinh thần kinh doanh xuất hiện thực sự quan trọng đối với việc có ý định tự
kinh doanh ban đầu, nhưng khơng có hiệu lực vào q trình chuyển đổi trong
tương lai. Vai trò của người làm gương, cụ thể là thành viên trong gia đình sở
hữu doanh nghiệp riêng ảnh hưởng đáng kể đến xu hướng quyết định tự kinh
doanh.
Nghiên cứu của Joern H. Block, Lennart Hoogerheide và Roy Thurik
(2009) khi đo lường ảnh hưởng của trình độ học vấn đến xu hướng quyết định
tự làm chủ doanh nghiệp gặp phải khó khăn là đưa biến đại diện cho trình độ
học vấn vào mơ hình như một biến nội sinh. Giáo dục xuất hiện như là biến
nguyên nhân trong mơ hình kinh tế trong khi nó có mối tương quan trong thực
tế với sai sót trong mơ hình (Van der Sluis và cộng sự, 2008). Sự tương quan
này có thể qui cho nguyên nhân sai sót trong đo lường hoặc bỏ qua biến.
Nguyên nhân khác bao gồm, tự hồi qui với khuyết tật tự tương quan và mẫu
không ngẫu nhiên (Kennedy, 2008). Nghiên cứu của Joern H. Block Lennart,
Hoogerheide và Roy Thurik (2009) lần đầu tiên đưa giáo dục vào mơ hình

như một biến nội sinh bằng cách sử dụng hồi qui biến công cụ và dữ liệu từ
hơn 10.000 cá nhân ở 27 quốc gia châu Âu và Mỹ, chỉ ra rằng tác động của
giáo dục tới quyết định thành lập doanh nghiệp, có tác động mạnh và tích cực.
Cá nhân có cấp độ giáo dục cao hơn có khả năng lớn hơn khởi đầu một doanh


20

nghiệp. Kết quả nghiên cứu của họ cũng chỉ ra rằng mơ hình logit, probit
chuẩn đánh giá khơng đúng mức tác động mạnh mẽ của giáo dục đến quyết
định lựa chọn kinh doanh và có thể đưa đến kết quả sai lệch.
c. Giáo dục có tác động tiêu cực tới quyết định lựa chọn làm chủ:
Tamvada, Jagannadha Pawan, Max Planck (2010) tập trung vào lĩnh vực
phi nơng nghiêp, trình độ giáo dục cao làm giảm quyết định lựa chọn trở
thành người làm chủ qua thời gian và tác động ngược lại trong lĩnh vực nông
nghiệp. Tác giả đã tiến hành ước lượng mơ hình với 2 khu vực nơng nghiệp
và phi nông nghiệp trong 2 năm 2000 và 2004. Tương tự như các nghiên cứu
trước biến phụ thuộc là biến nhị phân, các biến tham số là giới, tình trạng hôn
nhân, giáo dục, khu thành thị, tài sản, biến cấu trúc.
Trong lĩnh vực phi nông nghiệp biến giáo dục làm giảm xác suất của
người làm chủ trong năm 2004, và nó có tác động đáng kể trong năm 2000
(tương tự, Lucas (1978) và Iyigun và Owen (1999)). Trong lĩnh vực nông
nghiệp, giáo dục làm tăng xác suất trở thành người làm chủ trong cả hai năm.
Kết quả cuối cùng cho thấy, người có giáo dục cao dường như trở thành
người làm chủ trong lĩnh vực phi nông nghiệp năm 2000, nhưng xác suất ít
hơn trong năm 2004.
Tác giả chọn mẫu hẹp hơn là đàn ông đang làm việc trong lĩnh vực phi
nông nghiệp và nông nghiệp. Các biến thể hiện mức giáo dục cao hơn và giáo
dục kỹ thuật tác động không đáng kể. Trong lĩnh vực phi nông nghiệp, giáo
dục phi chính thức giảm khả năng trở thành người làm chủ. Tác động của việc

có bằng kỹ thuật là tiêu cực. Tiếp theo, tác giả tiến hành xây dựng mơ hình
với cá nhân làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn, và làm phi
nông nghiệp ở thành thị. Kết quả thực nghiêm cho thấy, giáo dục có tác động
tiêu cực đáng kể. Tiến hành nghiên cứu cụ thể hơn với mẫu đàn ông ở thành
thị, cho thấy tác động tiêu cực của giáo dục với việc lựa chọn làm chủ của cá


21

nhân. Trong khu vực nơng nghiệp, giáo dục lại có tác động đáng kể đến việc
quyết định làm chủ của một cá nhân trong năm 2004, tác động này mạnh hơn
so với năm 2000. Và đặc biệt tác động tới việc lựa chọn làm chủ cao nhất đối
với khu vực giáo dục phi chính thức. Cá nhân có bằng cấp giáo dục trong lĩnh
vực nơng nghiệp có xu hướng quyết định trở thành người làm chủ.
Anh T.Le (1999) nghiên cứu về những yếu tố tác động đến quyết định tự
kinh doanh cá nhân người nhập cư ở Australia với dữ liệu được sử dụng trong
nghiên cứu “Điều tra dân số và nhà ở Australia, 1981 và 1991”, chỉ ra ảnh
hưởng tới việc tự kinh doanh bởi cả hai biến vốn con người và vốn phi con
người (xem Le, 1999). Phân tích tập trung miêu tả nhóm dân số, nhóm 15-64
làm công ăn lương hoặc tự kinh doanh và thu nhập theo giờ. Với biến phụ
thuộc là thiên hướng tự kinh doanh, sử dụng mơ hình logit với 2 mơ hình :
MH1 bao gồm biến vốn con người, đặc điểm mối quan hệ công việc, địa
phương người nhập cư, và tôn giáo, nơi sinh; MH2 bao gồm các biến trong
MH1, nhưng biến enclave được tạo với biến ngôn ngữ của người nhập cư.
Kết luận được Le đưa ra từ bài nghiên cứu là hầu hết những biến ảnh
hưởng quan trọng là giáo dục, kinh nghiệm thị trường lao động, thành thạo
tiếng Anh, sở hữu nhà (yếu tố vốn), trạng thái hôn nhân, và trạng thái nghề
nghiệp. Người không phải quốc tịch Australia tác động tích cực hơn so với
người có quốc tịch Australia tới xu hướng quyết định tự làm chủ. Đặc biệt cá
nhân có vợ chồng, sở hữu nhà cao hơn trong xu hướng tự kinh doanh. Trái lại,

giáo dục làm giảm xu hướng tự làm chủ.
Guillaume Destrés và Valentine Henrad. 2004 thì sử dụng biến đại diện
cho giáo dục là “no schooling” (không theo trường lớp), cấp 1, cấp 2 và đại
học. Mẫu quan sát là đàn ông, từ 18-70 tuổi là chủ hộ lấy từ Điều tra Hộ gia
đình ở Colombia (ENH) tháng 06/1996. Hai tác giả dùng mô hình cấu trúc
như của Rees và Shah (1986) hay của Bernhardt (1994), trong đó quyết định
lựa chọn làm chủ hay làm thuê phụ thuộc phần lớn vào chênh lệch thu nhập


22

kỳ vọng giữa hai trạng thái. Giáo dục cho tác động âm, đối với cấp đại học thì
ảnh hưởng âm còn lớn hơn, có thể là vì giáo dục đại học mang lại lợi ích lớn
hơn cho người làm thuê như de Wit đã chỉ ra (1993).
d. Giáo dục không ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn của cá nhân:
Trang, Do và Duchêne (2007) sử dụng bộ số liệu Điều tra mức sống Việt
Nam (VLSS) năm 2004. Mơ hình hồi quy 3 bước: bước 1, hồi quy mơ hình
probit giảm; bước 2 ước lượng hồi quy thu nhập với 2 trạng thái nghề nghiệp;
bước 3 ước lượng mơ hình probit để xem xét chênh lệch lợi ích giữa 2 trạng
thái. Biến giải thích đại diện cho giáo dục là số năm đến trường ở các mức (15, 6-9, 10-12) cấp giáo dục cao hơn là biến giả với mức ít nhất là có 15 năm
giáo dục. Ngồi ra, cịn biến giả những người có tham gia khóa đào tạo nghề.
Kết quả được chỉ ra trong nghiên cứu là giáo dục ảnh hưởng tiêu cực tới xu
hướng quyết định tự làm chủ của cá nhân.


23

Bảng 1: Tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước.

Tác giả, năm


Rees và Shah
(1986)

Evans và
Jovanovic, 1989

Bernhardt, 1994

Le, 1999

Đo lường
và phương
pháp kỹ
thuật mơ
hình

Ảnh hưởng của
giáo dục, tiềm
lực tài chính và
gia cảnh cá
nhân

Dữ liệu: General
Household Survey
1978, bao gồm 11,794
hộ gia đình. Xét với cá
nhân là chủ hộ - có
4762 chủ hộ; trong đó
có 327 là tự làm chủ

cón 4435 là làm th

Mơ hình sử
dụng biến
nhị phân
đại diện cho
quyết định
lựa chọn
nghề
nghiệp của
cá nhân
(MH
probit)

Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng hình chữ
U ngược

Sử dụng dữ liệu:
National Longitudinal
Survey of Young Men
(NLS). Mẫu gồm 5225
đàn ông, tuổi 14-24,
năm 1966 định kỳ tới
1981.

Mơ hình
probit


Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng tiêu cực

Mẫu được chọn là đàn
ơng da trắng trong
Canada.

Mơ hình
probit giảm
(MH hai
khu vực).

Tác động của
tiềm lực tài
chính là rõ ràng.
Như là một yếu
tố quyết định sự
lựa chọn

Mơ hình
logit, probit
được tác
giả sử dụng
trong
nghiên cứu

Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng tiêu cực


Dữ liệu, mẫu

Tác giả sử dụng dữ
liệu nghiên cứu “Điều
tra dân số và nhà ở
Australia, 1981 và
1991”
Tập trung miêu tả
nhóm 15-64 tuổi làm
cơng ăn lương hay tự
kinh doanh và thu

Tác động tiềm
lực tài chính và
gia cảnh cá
nhân: Có ảnh
hưởng tới quyết
định lựa chọn

Tiềm lực tài
chính như là
một yếu tố
quyết định

Nghiên cứu
các yếu tố
tác động

Tác động tiềm

lực tài chính và
gia cảnh cá
nhân: Việc có
sở hữu nhà có

Kết quả phân tích
thực nghiệm &
Chú ý khác
- Vốn ban đầu (của
cải tích lũy, quà
tặng, thừa kế hay các
khoản nợ) đều có
ảnh hưởng tới quyết
định của việc tự làm
chủ
- Người đã có gia
đình sẵn sàng chấp
nhận rủi ro hơn so
với người chưa có
gia đình
- Việc thành lập và
vận hành doanh
nghiệp cần phải có
đủ vốn, mà do nhiều
lí do, không phải ai
cũng dễ dàng tiếp
cận được.
- Thu nhập tiềm
năng là yếu tố quyết
định.

- Tự làm chủ có mức
thu nhập cao hơn.
- Biến ảnh hưởng
quan trọng là giáo
dục, kinh nghiệm thị
trường lao động,
thành thạo tiếng
Anh, sở hữu nhà,
trạng thái hôn nhân,
và trạng thái nghề
nghiệp


24

nhập theo giờ

Hout M. and
Rosen H.
(2000)

Dữ liệu: General
Social Survey
(University of
Chicago), từ 19731996
Mẫu quan sát: Nam,
25-64 tuổi, làm công
việc ngoài nông nghiệp
trên 15 giờ lđ/tuần


W.P.M.
Vijverberg and
J. Houghton.
2002.

Destré và
Henrard (2004)

đến xu
hướng
quyết định
tự làm chủ
của những
người nhập
cư ở
Australia

tác động mạnh.

Mô hình
logit, tính
toán xác
suất một cá
nhân quyết
định tự làm
chủ

Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng


Xem xét
mối quan
hệ giữa bối
cảnh gia
đình, và
chủng tộc
với quyết
định kinh
doanh

Xem xét biến động của
doanh nghiệp gia đình
phi nông nghiệp (nonfarm households
enterprise) ở Việt Nam
qua hai cuộc điều tra
VLSS năm 1993 và
năm 1998.

Mô hình
logit tương
tự của
Vijverberg
(1998)

Mẫu quan sát: đàn
ông, 18-70 tuổi, là chủ
hộ lấy từ Điều tra Hộ
gia đình ở Colombia
(ENH), 06/1996


MH cấu
trúc như
của Rees và
Shah
(1986) hay
của
Bernhardt
(1994)

- Đặc biệt cá nhân có
vợ chồng, sở hữu
nhà xác suất cao hơn
trong xu hướng tự
kinh doanh
- Giáo dục làm giảm
xu hướng tự làm chủ

Gia cảnh cá
nhân: Tác động
tích cực. Như là
một yếu tố trung
tâm

- Cha từng là doanh
nhân, khả năng con
làm doanh nhân cao
hơn
- Cỡ hộ có ảnh
hưởng đáng kể, khi

cỡ hộ lớn hơn thì xác
suất thành doanh
nhân thấp hơn
- Cấu trúc gia đình
có ảnh hưởng khơng
đáng kể

Gia cảnh cá
nhân có tác
động đáng kể

- Nếu bớ mẹ được
giáo dục tốt và là
doanh nhân, con cái
cũng có nhiều khả
năng làm chủ.
- Dân thành thị có
khả năng làm chủ
doanh nghiệp hơn.

Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng tiêu cực
Tác động tiềm
lực tài chính và
gia cảnh cá
nhân: Tác động

- Ảnh hưởng âm có
thể là vì cấp bậc giáo

dục cao hơn mang
lại lợi ích lớn hơn
cho người làm thuê
- Vì nó không phải là
biến đại diện (proxy)
tốt cho vốn tích lũy


25

khơng đáng kể

Delmar và
Davidsson
(2000)

Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng tích cực,
khơng đáng kể

Phần Lan, 1990

trước khi lập doanh
nghiệp

Phân tích ảnh hưởng
của giáo dục cá nhân
tự làm chủ kinh
doanh tới sự thành

công các cơng ty của
họ trong thời suy
thối kinh tế và tăng
trưởng trở lại trong
những năm 1990 ở
Phần Lan

Tác động tiềm
lực tài chính và
gia cảnh cá
nhân:

Van der Sluis
và cộng sự
(2005, 2007,
2008)

Châu Âu và Mỹ

Phương
pháp phân
tích metaanalysis

Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng tích cực,
không đáng kể

Xem xét
ảnh hưởng

của giáo
dục tới
quyết định
lựa chọn

Tác động tiềm
lực tài chính và
gia cảnh cá
nhân:

- Một phân tích
meta-analysis chỉ có
thể được tiến hành
trên cơ sở mẫu của
nghiên cứu, tất cả
được đo lường một
loại mối quan hệ nào
đó.
- Miêu tả ảnh hưởng
chủ yếu được nhận
thấy trong nghiên
cứu và giải thích sự
mâu thuẫn về kết
quả qua nhiều
nghiên cứu trước đó
- Sự tác động trở lại
của giáo dục cao hơn
tới quyết định tự làm
chủ ở Mỹ cao hơn
châu Âu


A. Constant and
K. F.
Zimmermann,
2006

Dữ liệu: German
Socioeconomic Panel
(GSOEP) năm 2000.
Mẫu: những người
đang đi làm (trừ những
ng đi học hay trong
qn ngũ), từ 20 đến

Mơ hình
probit rút
gọn


×