Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HỎA HOẠN VÀ BẢO HIỂM CHÁY NỔ BĂT BUỘC TẠI PTI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.72 KB, 65 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu tập trung,
luân chuyển hàng hoá, vật tư ngày càng lớn. Tuy trong khi đó, hiện nay tại các doanh
nghiệp bỏ ra chi phí cho các biện pháp an toàn chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ so với tổng
nguồn vốn đầu tư. Vì vậy, cùng các điều kiện tự nhiên ngày càng khắc nghiệt và
những rủi ro tiềm ẩn khiến cho nguy cơ cháy nổ ngày càng cao...
Theo các chuyên gia kinh tế, trong nền kinh tế thị trường để bảo toàn nguồn
vốn của mình, các doanh nghiệp cần sử dụng các biện pháp an toàn như trích lập quỹ
dự trữ để phục vụ công tác bảo hiểm doanh nghiệp. Tuy nhiên từ những vụ việc đã
xảy ra thời gian vừa qua, thì việc tham gia bảo hiểm tài sản, mà cụ thể là bảo hiểm
hoả hoạn, vẫn là phương án tối ưu nhất. Có thể nói rằng, bảo hiểm hoả hoạn giúp
đảm bảo an toàn nguồn vốn cũng như tài sản cho hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp và hạn chế tối đa mức ảnh hưởng của các rủi ro đến hoạt động sản xuất
kinh doanh, đảm bảo cho các doanh nghiệp có khả năng phục hồi hoạt động nếu xảy
ra rủi ro hoả hoạn. Khi tham gia bảo hiểm hoả hoạn, doanh nghiệp còn được các
Công ty bảo hiểm tư vấn về các biện pháp phòng tránh tổn thất và thực hiện chính
sách quản lý rủi ro nhằm đảm bảo an toàn cao nhất.
Bên cạnh đó,ngày 28/7/2007quyết định số 28/7/2007/ QĐ- BTC ngày
24/4/2007 ban hành Quy tắc và Biểu phí bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc chính thức có
hiệu lực. Do đó em chọn đề tài “ Tình hình kinh doanh bảo hiểm hỏa hoạn và bảo
hiểm cháy nổ bắt buộc tại công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện PTI” để nghiên cứu sâu
hơn về hai loại hình bảo hiểm hỏa hoạn nói chung và bảo hiểm cháy nổ bắt buộc nói
riêng được triển khai tại PTI trong năm 2007-2009 và đưa ra những ý kiến đề xuất
nhằm phát triển hơn nữa nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn.
1
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM HỎA HOẠN
1.1 Tổng quan về thị trường bảo hiểm hỏa hoạn
Bảo hiểm cháy là một loại hình bảo hiểm có bề dày lịch sử, hiệp hội bảo hiểm
hoả hoạn (BHHH) đầu tiên ra đời ở Đức năm 1591 với tên là Feuer Casse. ở Anh,
chính phủ đã rất quan tâm tới việc thực hiện những biện pháp chống cháy và cho


phép các công ty bảo hiểm tư nhân tổ chức hoạt động dịch vụ chống cháy với điều
kiện là đội chữa cháy phải được đào tạo và trang bị đầy đủ các phương tiện PCCC.
Như vậy, cùng với việc nhận bảo hiểm, các công ty bảo hiểm cũng đồng thời cung
cấp thiết bị và nhân viên PCCC.
Vào đầu thế kỷ 17, đã xảy ra rất nhiều vụ cháy mà điển hình là vụ cháy ở Luân đôn
năm 1666 - vụ cháy kéo dài 5 ngày, thiêu huỷ gần như toàn bộ thành phố. Điều này
đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của bảo hiểm hoả hoạn. Trong thời gian xây dựng
lại thành phố, Nicholas Barton (Tiến sĩ vật lý -sau này chuyển sang lĩnh vực xây
dựng) đã tiến hành bảo hiểm hoả hoạn cho các ngôi nhà mới xây dựng. Ban đầu ông
điều khiển công ty theo kiểu công ty tư nhân nhưng sau đó, năm 1680/81 ông đổi
thành công ty cổ phần mang tên "The Fire office". Một số công ty khác theo đó ra
đời, trong đó có Hand in Hand năm 1696 và Sun Fire office năm 1710.
Công ty bảo hiểm đầu tiên thành công ở Mỹ là công ty bảo hiểm tương hỗ (do
Benjamin Franklin và một số thành viên khác sáng lập năm 1752) Philadelphia
Contributonship chuyên bảo hiểm cháy cho nhà cửa. Công ty cổ phần được thành lập
ở Mỹ năm 1792 là The Insurance Company of Noth America.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế, bảo hiểm hoả hoạn đã có sự phát triển mạnh mẽ
và trở thành nghiệp vụ truyền thống của nhiều công ty bảo hiểm với số phí hàng năm
rất cao.
Kinh doanh bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn nói riêng
đều dựa trên rủi ro, nền kinh tế càng phát triển thì các công cụ và biện pháp làm hạn
chế rủi ro cũng ngày càng được tăng cường và hiện đại, tuy nhiên rủi ro không vì thế
mà hoàn toàn không xảy ra, hơn nữa khi hỏa hoạn xảy ra thì tổn thất rất khó lường.
2
Thị trường bảo hiểm hỏa hoạn Việt Nam những năm gần đây cũng cho thấy tiềm
năng để phát triển về nghiệp vụ này cũng cho thấy còn rất lớn.
*Tình hình cháy nổ ở Việt Nam:
- Theo thống kê của Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy (PCCC) và Cứu
nạn, cứu hộ (thuộc Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an), trong năm 2009, cả nước đã
xảy ra 1.948 vụ cháy, trong đó có 1.677 vụ cháy ở các cơ sở và nhà dân, 271 vụ cháy

rừng làm 62 người chết và 145 người bị thương. Tổng thiệt hại về tài sản ước tính
khoảng 500 tỉ đồng và gần 1.400ha rừng bị xóa sổ. Bên cạnh đó, cũng xảy ra 18 vụ
nổ, làm chết 16 người, bị thương 42 người, thiệt hại về tài sản ước tính 1,3 tỉ đồng.
So với năm 2008, số vụ cháy nổ trong năm 2009 tuy giảm về lượng nhưng lại tăng
mức thiệt hại về người. Điển hình là số người bị chết vì cháy tăng 19% và chết trong
các vụ nổ tăng 52%. Nguyên nhân gây cháy phần lớn là do thiếu ý thức, sơ suất trong
sinh hoạt khi sử dụng thiết bị điện và vi phạm quy định về PCCC. Đặc biệt, từ đầu
năm 2010 đến nay, số vụ cháy xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước, nhiều doanh
nghiệp bị thiêu rụi cả nhà xưởng, thiết bị sản xuất, trong đó có những vụ làm 7 người
chết.
Ở Việt Nam, bảo hiểm hoả hoạn bắt đầu được thực hiện từ năm 1989 sau khi
có Quyết định số 06/TCQĐ ngày 17-01-1989 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
Quy tắc về bảo hiểm hoả hoạn. Đến nay, do sự tối ưu của bảo hiểm hoả hoạn, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 08-11-2006 quy định chế độ
bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Tuy nhiên, đến cuối năm 2009, trong số hơn 30.000 cơ
sở thuộc diện quy định, chỉ có hơn 15% tham gia mua bảo hiểm bắt buộc. Nếu tính cả
những trường hợp mua bảo hiểm tự nguyện, tỉ lệ này cũng chỉ vào khoảng 42%.
1.2 Sự cần thiết khách quan
Theo luật phòng cháy và chữa cháy, hỏa hoạn được hiểu là trương hợp xảy ra
cháy không kiểm soát được có thể gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng môi
trường. Hỏa hoạn là loại rủi ro khó lường, thường gây hậu quả thiệt hại rất lớn.
Theo số liệu thống kê hàng năm trên thế giới có khoảng 5 triệu vụ hỏa hoạn
lớn, nhỏ gây thiệt hại hàng trăm tỷ đô la. Các vụ hỏa hoạn không chỉ xảy ra ở các
nước có nền kinh tế chậm phát triển mà còn xảy ra ở các nước có nên kinh tế phát
triển như Anh, Pháp, Mỹ…nơi mà nền khoa học, công nghệ đã đạt đỉnh cao của sự
hiện đại và an toàn thì hỏa hoạn vẫn xảy ra ngày một tăng cả về số lượng và mức độ
nghiêm trọng.
3
Ở Việt Nam, hàng năm cũng xảy ra nhiều vụ hỏa hoạn lớn, ước tính thiệt hại
về tài sản lên đến hàng trăm tỷ đồng. Điển hình một số vụ hỏa hoạn xảy ra gây thiệt

hại lớn như: Năm 2000, Công ty may Hải Sơn thiệt hại 7,5 tỷ, Công ty Muraya Việt
Nam thiệt hại 6,25 tỷ đồng, Công ty trách nhiệm hữu hạn Thịnh Khang thiệt hạ 6,2 tỷ
..Năm 2004, cháy ở công ty interfood thiệt hại hơn 4,5 triệu đô la…Năm 2006, tại
công ty trách nhiệm hữu hạn PanPack Việt Nam thuộc khu công nghiệp Loteco
( Đồng Nai) đã xảy ra cháy lớn làm thiệt hại18 tỷ đồng; hỏa hoạn cũng đã xảy ra tại
Công ty trách nhiệm hữu hạn place ( Khu chế xuất Tân Thuận- Thành phố HCM) làm
thiệt hại 16 tỷ đồng; hay vụ cháy do mạng điện bị sự cố tại xưởng sản xuất đế giày
Công ty TNHH Hóa Công Chyan Hwei( Khu Công Nghiệp Tân Định, Bình Dương)
đã thiêu cháy tài sản lên đến 34 tỷ đồng, năm 2010 tại công trình xây dựng dây
chuyền 2 Nhà máy ximăng Nghi Sơn đóng tại Khu kinh tế Nghi Sơn đã xảy ra vụ
cháy nghiêm trọng làm thiệt hại 10 tỷ đông…
Để đối phó với hỏa hoạn, con người đã sử dụng rất nhiều biện pháp khác nhau
như các biện pháp phòng cháy, chữa cháy; đào tạo nâng cao trình độ kiến thức và ý
thức, thông tin tuyên truyền về phòng cháy chữa cháy…tuy nhiên, hỏa hoạn vẫn xảy
ra làm cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân phải gánh chịu những tổn thất rất nặng
nề. Để đối phó với hậu quả đó, bỏa hiểm vẫn được coi là một trong các biện pháp
hữu hiệu nhất. Khi tham gia bảo hiểm hỏa hoạn, ngoài việc được bồi thường những
thiệt hại về tài sản do hỏa hoạn gây ra, người được bảo hiểm còn nhận được các dịch
vụ tư vấn về công tác phòng cháy chữa cháy từ phía công ty bảo hiểm giúp cho người
được bảo hiểm lựa chọn được các biện pháp phòng cháy, chữa cháy có hiệu quả nhất.
Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các tổ chức, doanh nghiệp,
cá nhân đều phải tự chủ về tài chính. Hoạt động sản xuất, xây dựng, đầu tư, khai
thác…ngày một gia tăng khối lượng hàng hóa, vật tư luân chuyển và tập trung rất
lớn; công nghệ sản xuất đa dạng và phong phú. Cho nên nếu hỏa hoạn xảy ra, họ phải
đương đầu với rất nhiều khó khăn về tài chính, thậm chí bị phá sản. Do đó, bên cạnh
việc tích cực phòng cháy, chữa cháy thì bảo hiểm hiểm hỏa hoạn thực sự là một giá
đỡ cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia bảo hiểm.
1.3 Đặc điểm của bảo hiểm hoả hoạn
Mặc dù bảo hiểm hỏa hoạn đã được triển khai từ rất lâu trên thế giới, nhưng ở
Việt Nam đây vẫn là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm được triển khhai khá

muộn. Khi tổ chức triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này, người ta phải tính đến một số
đặc điểm chủ yếu sau đây:
4
- Thiệt hại do hỏa hoạn gây ra là rất lớn và không ai lường trước được. Vì vậy,
khi triển khai nghiệp vụ, công tác đề phòng và hạn chế tổn thất luôn được đặt lên
hàng đầu.
- Các loại tài sản khác nhau thì khả năng xảy ra hỏa hoạn cũng khác nhau.
Ngay cả bản thân một loại tài sản, nếu được làm bằng các nguyên vật liệu khác nhau
thì khả năng xảy ra hỏa hoạn cũng khác nhau. Cho nên, việc tính phí bảo hiểm hỏa
hoạn rất phức tạp .
- Công tác đánh giá và quản lý rủi ro, công tác giám định bồi thường tổn thất
trong nghiệp vụ bảo hiểm này cũng rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ phải có trình độ
chuyên sâu.
- Vì mức độ thiệt hại do hỏa hoạn gây ra rất lớn, cho nên các công ty bảo hiểm
khi triển khai nghiệp vụ này đồng thời phải triển khai các công việc như tái bảo hiểm,
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh…
- Ở Việt Nam, sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các cá nhân, doanh
nghiệp và các tổ chức đã có những tài sản giái trị rất lớn, khả năng xảy ra hỏa hoạn
đối với những loại tài sản này rất khác nhau. Cho nên, nhu cầu tham gia bảo hiểm
hỏa hoạn ngày một tăng. Vì vậy, nghiệp vụ bảo hiểm này luôn được coi là một trong
những nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu nhất.
1.4 Nội dung cơ bản của bảo hiểm hoả hoạn
1.4.1. Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm hỏa hoạn là tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp
pháp của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các tổ chức và cá nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế trong xã hội. Đối tượng này được cụ thể hóa như sau:
- Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa và sử dụng( trừ đất đai).
- Máy móc thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Sản phẩm, vật tư, hàng hóa dự trữ trong kho
- Nguyên vật liệu, sản phẩm làm dở, thành phẩm, thành phẩm trên dây truyền

sản xuất.
- Các loại tài sản khác( kho, bãi, chợ, cửa hàng, khách sạn…)
1.4.2. Phạm vi bảo hiểm
5
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm và giới hạn trách
nhiệm của công ty bảo hiểm. Trong bảo hiểm hỏa hoạn, công ty bảo hiểm có trách
nhiệm bồi thường các thiệt hại và chi phí sau:
- Những thiệt hại do những rủi ro được bảo hiểm gây ra cho tài sản được bảo
hiểm.
- Những chi phí cần thiết và hợp lý để hạn chế bớt tổn thất tài sản được bảo
hiểm trong và sau khi hỏa hoạn xảy ra.
- Những chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi hỏa hoạn xảy ra.
1.4.2.1 Rủi ro được bảo hiểm
Trong bảo hiểm hỏa hoạn, rủi ro được bảo hiểm bao gồm :
- Rủi ro chính: “ Rủi ro hỏa hoạn’- Rủi ro A.
Rủi ro này thực chất bao gồm : Cháy, sét và nổ.
+ Cháy: cháy chỉ được co là hỏa hoạn khi hội tụ đủ 3 yếu tố: phải thực sự có
phát lửa, lửa đó không phải là lửa chuyên dung, lửa đó phải là bất ngờ hay ngẫu
nhiên phát ra.
Khi có đủ 3 yếu tố trên và có thiệt hại về vật chất do những nguyên nhân được
cho là hợp lý gây ra, những thiệt hại đó sẽ được bồi thường cho dù là do bị hỏa hoạn
hoặc do nhiệt hoặc khói.
+ Sét: Công ty bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường khi tài sản được bảo
hiểmbị phá hủy trực tiếp do sét đánh hoặc do sét đánh gây ra hỏa hoạn. Nếu sét đánh
mà không gây hỏa hoạn hoặc không phá hủy trực tiếp tài sản thì không thuộc phạm vi
trách nhiệm bồi thường.
Cần lưu ý rằng, khi sét đánh phá hủy trực tiếp các thiết bị điện tử thì được bồi
thường, còn sét đánh làm thay đổi dòng điện dẫn đến thiệt hại cho thiết bị điện tử thì
không được bồi thường.
+ Nổ : Nổ là hiện tượng cháy xảy ra rất nhanh tạo một áp lực lớn kèm tho

tiếng động mạnh, phát sinh do sự giãn nở đột ngột của chất rắn, lỏng hoặc khí.Nổ
trong rủi ro A bao gồm:
Nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt
Hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sáng hoặc sưởi ấm trong một ngôi nhà, không
phải nhà xưởng làm các công việc sử dụng hơi đốt.
Các trường hợp nổ gây ra hỏa hoạn đã nghiễm nhiên được bảo hiểm. Như vậy
ở đây chỉ còn lại những thiệt hai do nổ mà không gây hỏa hoạn:
6
-Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ mà không gây hỏa hoạn thì không được bồi
thường, trừ trường hợp nổ nồi hơi, khí phục vụ sinh hoạt, với điều kiện là sự nổ đó
không phải là do các nguyên nhân loại trừ.
Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ: Thiệt hại ban đầu do hỏa hoạn được
bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ thì không được bồi thường.
- Rủi ro phụ - rủi ro B
Ngoài những rủi ro chính, các công ty bảo hiểm còn có thể bảo hiểm cho các
rủi ro phụ. Rủi ro phụ có được bảo hiểm hay không còn tùy thuộc vào hợp đồng bảo
hiểm; đồng thời, rủi ro này chỉ được bảo hiểm khi đi kèm theo các rủi ro chính Các
rủi ro phụ bao gồm: máy bay và các phương tiện hàng không khác hoặc thiết bị trên
các phương tiện đó rơi vào, nổi loạn, bạo động dân sự, đình công, bể xưởng, động
đất, lửa ngầm dưới đất, giông bão, hệ thống chữa cháy rò rỉ nước…
1.4.2.2 rủi ro loại trừ
Trong bảo hiểm hỏa hoạn, ngoài các điểm loại trừ riêng cho những rủi ro, các
loại trừ chung được áp dụng như sau:
- Động đất, núi lửa phun hay những biến động khác của thiên nhiên
- Tài sản tự lên men hoặc tự tỏa nhiệt
- Tài sản chịu tác động của một quá trình xử lý có dùng nhiệt.
- Tổn thất do hành động cố ý hoặc đồng lõa của người được bảo hiểm gây ra.
- Những tổn thất xảy ra do:
+ Gây rối, quần chúng nổi dậy, bãi công, sa thải công nhân trừ khi rủi ro này
được ghi nhận là được bảo hiểm trong giấy chứng nhận bảo hiểm, nhưng chỉ với

phạm vi bảo hiểm đã quy định tại rủi ro đó.
+ Chiến tranh, xâm lược, hành động thù địch của nước ngoài, chiến sự ( dù có
tuyên chiến hay không tuyên chiến), nổi loạn, nội chiến, khởi nghĩa, cách mạng, binh
biến, bạo động, đảo chính,…
+ Những hành động khủng bố.
- Những tổn thất mà nguyên nhân gây ra có liên quan đến nguyên liệu vũ khí
hạt nhân; phóng xạ ion hóa hay nhiễm phõng xạ từ nhiên liệu hạt nhân hoặc từ chất
thải hạt nhân do bốc cháy nguyên liệu hạt nhân.
- Những tổn thất xảy ra đối với máy móc, thiết bị điện hay các bộ phận của
thiết bị điện do chạy quá tải, quá áp lực, đoản mạch, tự đốt nóng, rò điện do bất kỳ
nguyên nhân nào kể cả do sét đánh.
7
- Hàng hóa nhận ủy thác hay ký gửi trừ những hàng hóa đó được xác nhận
trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm và người được bảo hiểm trả them
phí bảo hiểm theo tỷ lệ quy định.
- Tiền bạc, kim loại, đá quý, chứng khoán, thư bảo lãnh, tem phiếu, tài liệu,
bản thảo, sổ sách kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy tính điện tử, bản mẫu, văn
bằng, khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế trừ khi những hạng mục này được xác nhận
trong giấy chứng nhận là được bảo hiểm.
- Chất nổ nhưng không bao gồm nhiên liệu xăng, dầu.
- Người, động vật và thực vật sống.
- Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất được bảo hiểm theo đơn bảo
hiểm hàng hải hoặc lẽ ra được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng hải, trừ phần thiệt
hại vượt quá số tiền được bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải hoặc lẽ ra được bồi
thường theo đơn bảo hiểm hàng hải.
- Tài sản bị cướp hay bị mất cắp. Trong trường hợp tài sản bị cướp, mất cắp
trong khi xảy ra hỏa hoạn mà người được bảo hiểm không chứng minh được là mất
cấp thì vẫn được bồi thường.
- Những thiệt hại mang tính chất hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào trừ thiệt
hại về tiền thuê nhà được xác nhận trong giấy chúng nhận bảo hiểm là được bảo

hiểm.
- Những thiệt hại gây ra cho bên thứ ba và những thiệt hại trong phạm vi mức
miễn thường…
1.4.3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
a) Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm trong đơn bảo hiểm hỏa hoạn chính là giá trị của tài sản được
bảo hiểm. Gía trị này được được tính trên giá cơ sở của giá trị mua mới hoặc giá trị
thực tế của tài sản tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Tuy vậy, do đối tượng bảo hiểm
hỏa hoạn rất phức tạp và thường có giá trị rất lớng, cho nên khi xác định giá trị bảo
hiểm người tâ chia ra làm các loại như sau:
- Giá trị bảo hiểm của ngôi nhà( nhà xưởng, văn phòng, nhà ở) được xác định
trên cơ sở giá trị mới hoặc giá trị còn lại.
+ Giá trị mới là gía trị khi mới xây của ngôi nhà bao gồm cả chi phí khảo sát
thiết kế.
+ Giá trị còn lại là giá trị mới sau khi đã trừ đi hao mòn do sử dụng theo thời
gian.
8
- Tương tự, giá trị bảo hiểm của máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định
khác được xác định trên cơ sở gía mua mới( bao gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt
nếu có) hoặc giá trị còn lại.
- Giá trị bảo hiểm của thành phẩm và bán thành phẩm được xác định dựa trên
cơ sở giá thành sản xuất.
- Giá trị bảo hiểm của hàng hóa, vật tư trong kho, của hàng được xác định dựa
theo giá trị bình quân hoặc giá trị tối đa của các loại vật tư, hàng hóa có mặt trong
thời gian bảo hiểm.
b) Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là giới hạn bồi thường tối đa của công ty bảo hiểm trong
trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. Số tiền bảo hiểm còn là căn cứ
để xác định được số tiền bảo hiểm. Do đó, việc xác định số tiền bảo hiểm có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Cơ sở để xác định số tiền bảo hiểm là giá trị bảo hiểm.

Đối với tài sản cố định thì số tiền bảo hiểm căn cứ vào giá trị bảo hiểm của tài
sản đó. Còn đối với tài sản lưu động thì do giá trị thường xuyên bị biến động nên số
tiền bảo hiểm có thể xác định theo giá trị trung bình hoặc giá trị tối đa.
Trong trường hợp bảo hiểm theo giá trị trung bình, người được bảo hiểm phải
ước tính và thông báo giá trị số hàng hóa trung bình có trong kho, trong cửa hàng cho
công ty bảo hiểm biết. Trong thời gian bảo hiểm thì giá trị trung bình này được coi là
số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị trung bình này. Khi có
tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảohiểm thì công ty bảo hiểm bồi thường phần thiệt hại
thực tế nhưng không vượt quá giá trị trung bình đã khai báo.
Trong trường hợp bảo hiểm theo giá trị tối đa thì người được bảo hiểm phải
ước tính giá trị hàng hóa vật tư tối đa có thể đạt được vào một thời điểm nào đó trong
thới gian bảo hiểm rồi thông báo cho công ty bảo hiểm biết. Phí bảo hiểm được tính
trên cơ sở giá trị tối đa này và thường được thu thước một phần. Trong trường hợp
tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm thì công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại
thực tế nhưng không vượt quá giá trị tối đa đã được khai báo. Người được bảo hiểm
thông báo cho công ty bảo hiểm biết số vật tư, hàng hóa tối đa hiện có trong tháng
hoặc quý trước đó ( thời gian thông báo do thỏa thuận giữa người được bảo hiểm và
công ty bảo hiểm). Cuối thời gian bảo hiểm, trên cơ sở giá trị được thông báo công ty
bảo hiểm tính giá trị số vật tư, hàng hóa tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm và
điều chỉnh tăng hoặc giảm phí bảo hiểm. Nếu phí bảo hiểm tính được trên cơ sở giá
trị tối đa bình quan nhiều hơn số phí đã nộp thì người được bảo hiểm trả cho công ty
9
bảo hiểm số tiền còn thiếu. Trong thời gian bảo hiểm nếu có tổn thất thuộc phạm vi
bảo hiểm sẽ được công ty bảo hiểm bồi thường và số tiền bồi thường vượt quá giá trị
tối đa bình quân thì phí bảo hiểm được tính dựa trên số tiền bồi thường đã trả. Trong
trường hợp này thì số tiền được bồi thường được coi là số tiền bảo hiểm.
Việc áp dụng bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp do đó đòi hỏi công ty
bảo hiểm phải biết giá trị vật tư, hàng hóa được bảo hiểm, theo dõi chặt chẽ số vật tư,
hàng hóa trong suốt thời gian được bảo hiểm. Những tài sản có giái trị lớn khiến
người được bảo hiểm khó có thể tái bảo hiểm vì tính phức tạp và khó khăn.

Ngược lại, bảo hiểm theo giá trị trung bình lại đơn giản và dễ theo dõi đồng
thời có lợi về tính phí bảo hiểm. Nếu một loại hàng hóa được bảo hiểm mà giá trị ít bị
biến động trên thị trường thì áp dụng phương pháp này rất thuận tiện..
1.4.4. Phí bảo hiểm
a) Các nhân tố ảnh hưởng tới phí bảo hiểm
Do đối tượng của bảo hiểm hoả hoạn đa dạng về chủng loại, giá trị và mức độ
rủi ro nên có nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến phí bảo hiểm hoả hoạn. Do đó không
thể áp dụng một biểu phí cố định cho tất cả các loại công trình, tài sản có mức độ rủi
ro và việc phòng cháy khác nhau. Các công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức tỷ lệ phí
khác nhau cho tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, sau đó điều chỉnh tỷ lệ
phí theo các yếu tố tăng hoặc giảm phí. Sau đây là một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng
đến phí bảo hiểm hoả hoạn:
- Vật liệu xây dựng: Tuỳ theo các yếu k,kết hợp vật liệu xây dựng có thể chịu
đựng được lâu dài hay không đối với chất nóng, người ta chia làm 3 loại
+ Vật liệu nặng khó bắt lửa và có khả năng chịu được lửa tố như bê tong, cốt
thép, đá…loại này được sử dụng để xây dựng công trình loại D
+ Vật liệu trung gian: Là vật liệu nhiều chất hoá hoặc trộn với vật liệu thiên
nhiên, khẳ năng chịu lửa không tốt bằng vật liệu nặng, loại này được sử dụng để xây
dựng công trình loại N.
+ Vật liệu nhẹ: Loại này dễ bắt lửa và không có sức chịu lửa, thường được sử
dụng để xây dựng công trình loại L
- Ảnh hưởng của các tầng nhà: Khi xảy ra hoả hoạn, lửa hoặc hơi nóng sẽ
được truyền lên qua các tầng nhà, qua các cầu thang lên xuống, qua lỗ hổng hoặc qua
cửa sổ làm cho các tầng nhà có thể bị sập kéo theo các thiệt hại bên trong. Do đó, sức
chịu đựng của các tầng nhà cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm.
10
- Phòng cháy, chữa cháy: Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến phí bảo
hiểm. Căn cứ vào công tác này để công ty bảo hiểm điều chỉnh phí bảo hiểm. Nếu
công tác phòng cháy, chữa cháy được trang bị tốt, hạn chế thấp nhất rủi ro xảy ra thì
phí bảo hiểm sẽ được tính thấp hơn. Vị trí gần hay xa nguồn nước, đội cứu hoả..cũng

ảnh hưởng tới phí bảo hiểm.
- Cách phân chia đơn vị rủi ro: Khoảng cách phân chia hoặc tường chống cháy
cũng ảnh hưởng tới phí bảo hiểm. Các đơn vị rủi ro càng gần nhau, phí bảo hiểm
cBàng cao và ngược lại.
- Bao bì đóng gói, chủng loại hàng hoá, cách thức xếp đặt: Tuỳ từng loại hàng
hoá, bao gói hay cách thức xếp đặt hàng hoá mà phí bảo hiểm phải căn cứ vào đó mà
xác định
b) Xác định phí bảo hiểm hoả hoạn
Phí bảo hiểm hoả hoạn được xác định theo công thức
P=Sb x R
Trong đó: Sb: STBH
R: Tỷ lệ phí bảo hiểm
P: Phí bảo hiểm
Tỷ lệ phí bảo hiểm thường được chia thành 2 bộ phận là tỷ lệ phí thuần và tỷ
lệ phụ phí
R= R1+ R2
Trong đó : R1: tỷ lệ phí thuần
R2: Tỷ lệ phụ phí
Khi xác định tỷ lệ phí thuần thường phải căn cứ vào số liệu thống kê trong
một số năm trước đó như: Tổng số đơn vị rủi ro tham gia bảo hiểm hoả hoạn; số đơn
vị rủi ro tham gia bảo hiểm hoả hoạn; tổng số tiền bảo hiểm hoả hoạn; số tiền bồi
thường bảo hiểm hoả hoạn.
- Xác định tỷ lệ phí thuần theo phân loại
Đây là cách kết hợp các đơn vị có thể so sánh với nhau cùng một loại, sau đó,
tính tỷ lệ mỗi loại phản ánh số tổn thất và các chi phí khác của loại đó. Phương pháp
này phù hợp với những tài sản tương đồng nhất vơi nhau như nhà ở của dân cư, các
nhà thờ…Nhưng khi xác định tỷ lệ theo phân loại, cần xét các yếu tố ảnh hưởng đến
tỷ lệ phí như:
+ Loại vật liệu xây dựng.
+ Khả năng phòng cháy, chữa cháy.

11
+ Người sử dụng( chủ ở hay cho thuê).
+ Những vật bố trí xung quanh bên ngoài
- Xác đinh tỷ lệ phí thuần theo danh mục.
Theo phương pháp này, các bước xác định tỉ lệ phí bảo hiểm bao gồm:
Bước 1: Rà soát lại các danh mục tài sản tham gia bảo hiểm hoả hoạn, sau đó
phân loại từng loại tài sản theo danh mục khác nhau( bởi vì mỗi loại tài sản có khả
năng bị hoả hoạn khác nhau).
Bước 2: Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để chọn một tỷ lệ phí
thích hợp trong bảng tỷ lệ phí có sẵn.
Bước 3: Điều chỉnh tỷ lệ phí đã chọn theo các yếu tố tăng hoặc giảm
Việc điều chình này phải căn cứ vào: Vật liệu xây dựng; công tác phòng cháy,
chữa cháy…Tất cả những yếu tố này đều có thể làm tăng hoặc giảm tỷ lệ phí bảo
hiểm.
Trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn, công ty bảo hiểm cần phải quan tâm đến
các yếu tố làm giảm mức độ rủi ro vì những yếu tố này là cơ sở để giảm mức phí cơ
bản. Tuy nhiên, tổng mức giảm phí về các thiết bị và phương tiện phòng cháy, chữa
cháy của mỗi đơn vị rủi ro không quá 45%. Các yếu tố làm giảm rủi ro thường bao
gồm:
- Thiết bị phòng cháy, chữa cháy;
- Việc trực, kiểm tra, canh gác;
- Thiết bị phương tiện chữa cháy như: Công trình có hệ thống phun nước; có
hệ thống dập cháy bằng CO2; có hệ thống tự động dập tắt tia lửa điện; có ôtô chữa
cháy và nhân viên chữa cháy; gần đội cứu hoả công cộng…
PTI áp dụng các yếu tố làm tăng hoặc giảm phí như sau:
Loại D ( discount class)- giảm tối đa 10% nếu kết cấu các công trình xây dựng
đảm bảo các điều kiện sau:
+ Các bộ phận chịu lực:
Các bộ phận chịu lực như cột, trụ, tường bao, tường trong là loại không cháy
hoặc làm bằng vật liệu không cháy.

Dầm, xà làm bằng vật liệu khó cháy
+ Bộ phận chịu không chịu lực: ( tường ngăn cách bên trong và bên ngoài,
trần không chịu lực … được xây dựng bằng vật liệu không cháy ( gạch, ngói, xi
măng, bê tông cốt thép..)
12
Tường bao không chịu lực, là loại khó cháy hoặc làm bằng vật liệu không
cháy.
Mái: Loại khó cháy với lớp phủ ngoài bằng vật liệu không cháy, không kèm
theo bất cứ vật liệu nào phí bề mặt dưới; Mái cứng.
Loại N( Neutal class): Không tăng giảm phí.
+ Các công trình loại này không đạt các tiêu chuẩn như loại D: mức độ chịu
lửa kém hơn, các bộ phận chịu lực tối thiểu phải được làm bằng vật liệu khó cháy
hoặc phần lớn chúng được làm bằng vật liệu không cháy.
+ Mái cứng.
Loại L (Loading class) : Tăng phí 10%, là các công trình không đạt yêu cầu
chịu lửa như loại D và N.
Tăng phí:
♦ Các yếu tố làm tăng mức độ rủi ro:
+ Các công trình có máy móc, thiết bị phụ trợ có thể làm tăng thêm mức độ
rủi ro, khả năng xảy ra tổn thất như dây chuyền sơn trong một phân xưởng sản
xuất, thiết bị sấy khô, chiết xuất, chế biến gỗ hoặc chất dẻo (nhựa), gia công vật
liệu nhân tạo…
Tuy nhiên:
Không tính tăng phí nếu các máy móc, thiết bị phụ trợ trên được lắp trong
phòng, khu vực ngăn cách với bên ngoài bằng tường ngăn( chống) cháy và / hoặc
được lắp đặt hệ thống chữa cháy tự động để bảo vệ riêng( có hệ thống báo cháy và
chiếm không quá 10% diện tích của cả đơn vị rủi ro).
Tăng phí tùy từng trường hợp cụ thể, tối đa 15%( do người bảo hiểm tự đánh giá)
♦ Có điều kiện đặc biệt không thuận lợi đối với rủi ro được bảo hiểm như:
Có các nguồn nhiệt (lửa) không được ngăn cách chống cháy ( không tách biệt

hoàn toàn), có không khí, lò sưởi bị đốt nóng bởi dầu hay khí đốt ở nơi làm việc.
Có thiết bị sưởi ấm bằng tia hồng ngoại, dầu…
Tuy nhiên: không tính thêm phí nếu không có các vật dễ cháy được sản xuất
hay cất chữ gần đó.
Thiếu các trang thiết bị chữa cháy thích hợp, thiếu các biển báo phòng cháy
chữa cháy..
Thiết kế không đạt yêu cầu hoặc việc sửa chữa không đảm bảo chất lượng.
Có dây chuyền sản xuất tự động hóa ( không có người điều khiển) nhưng
không được trang bị các thiết bị báo cháy tự động thích hợp( theo đúng tiêu chuẩn).
13
Tăng phí tùy từng trường hợp cụ thể, tối đa 10%..
♦ Các công trình có trung tâm máy tính nhưng không được ngăn cách bằng
tường chống cháy ( không có hệ thống PCCC riêng biệt và phù hợp). Tỷ lệ tăng phí
không quá 5%( người bảo hiểm tự đánh giá).
♦ Có khả năng bị ( xảy ra rủi ro) phá hoại ( cố tình gây cháy). Tỷ lệ tăng phí
tối đa 5%
Giảm phí
♦ Biện pháp và trang thiết bị phòng cháy, báo cháy, chữa cháy.
Có hệ thống báo cháy tự động được nối thẳng tới trạm cứu hỏa công cộng:
giảm 8% phí.
Có hệ thống báo cháy tự động được nối với phòng thường trực, đội cứu hỏa
của xí nghiệp, trạm công an hay cơ quan có trách nhiệm khác giảm 6% phí
Có bộ phận báo cháy thuộc hệ thống chữa cháy được lắp đặt cố định: giảm 5%
phí.
Việc trực/kiểm tra/canh gác được thực hiện 24/24 giờ, cứ 2 giờ một làn có
người tuần tra và có thể lien lạc ngay bằng điện đài hay nút bấm khi cần phát lệnh
báo động: giảm 5% phí
♦ Các thiết bị và phương tiện chữa cháy:
14
Miễn giảm phí( %)

Có hệ thống chữa cháy tự động
splingler
35
Có hệ thống phun nước (mưa)
Thủ công 10
Tự động 20
( Đối với các phân xưởng sản xuất chế biến nhựa, cao su, xốp hoặc sấy gỗ ép từ vỏ
bào
Có hệ thống phun CO2
Thủ công 10
Tự động 20
Có hệ thống phun halon( chữa
cháy)
Tự động 20 (25-r)
Có hệ thống phun bọt Foam Tự động 20
Có hệ thống phun bột
Thủ công 10( 07-r)
Tự động 20( 12-r)
Có hệ thống tự động dập tia, tàn
lửa
Thủ công 15 (12-r)
Có hệ thống thoát khói, nhiệt
Thủ công 2 ( 3-r)
Tự động 4 (5-r)
Có đội chữa cháy và nhân viên
Chuyên nghiệp(ô tô-
r)
20 (15-r)
Bán chuyên nghiệp 10 (07-r)
Gần đội cứu hỏa công cộng( xe cứu hỏa có thể đến sau 10

phút bà dễ tiếp cận chữa cháy- [(r)-áp dụng hiện hành]
10 ( 05-r)
Số liệu: phòng bảo hiểm tài sản kỹ thuật PTI
♦ Xét mức tăng, giảm phí theo tỷ lệ tổn thất trong quá khứ ( so với phí bảo hiểm):
- Nếu trong 5 năm gần nhất số tiền bồi thường cho Người được bảo hiểm dưới
20% tổng số phí bảo hiểm thu được thì có thể giảm tới 15% phí bảo hiểm, nếu dưới
50% thì có thể giảm tới 10% phí bảo hiểm.
- Ngược lại ( nếu trong 5 năm gần nhất số tiền bồi thường bằng 120% số phí
bảo hiểm thu được thì tăng 10% phí bảo hiểm-r) nếu quá 150% thì tăng ít nhất 10%
( 15%-r)
♦ Xét mức giảm phí theo mức miễn thường.
Mức miễn thường tối thiểu bắt buộc, không giảm phí là 0,2% trên số tiền bảo
hiểm, nhưng tối thiểu theo bản thỏa thuận giữa các công ty bảo hiểm cụ thể là:
Bảng 1: Mức miễn thường tối thiểu
15
Rủi ro Số tiền bảo hiểm Mức miễn thường
Thiên tai
< 100.000 US$ 300 US$
US$ 100.000-1.000.000 1.000 US$
US$ 1.000.000-2.500.000 2.500 US$
> 2.500.000 5.000 US$
Các rủi ro khác < 100.000US$ 200 US$
US$ 100.000-1.000.000 500 US$
US$ 1.000.000-2.500.000 1.000 US$
> 2.500.000 2.000 US$
Số liệu: phòng bảo hiểm tài sản kỹ thuật PTI
Nếu khách hàng muốn lựa chọn và hoặc chấp nhận những mức miễn thường
cao hơn để được giảm phí bảo hiểm thì có thể áp dụng các tỷ lệ giảm phí theo mức
miễn thường như sau:
Bảng 2: Tỷ lệ giảm phí theo mức miễn thường Đơn vị tính: %

Các tỷ lệ phí tương ứng với số tiền bảo hiểm tính bằng US$
Trị giá tài sản
bảo hiểm
Dưới 6 Tr Đến 15 Tr
Đến
30 Tr
Đến
60Tr
Đến
90 Tr
Đến
Mức khấu trừ 6 Tr 15 Tr 30Tr 60 Tr 90 Tr 125 Tr
3.000 3,1 %
6.000 5,0 % 5,0 %
9.000 6,8 % 6,8 % 6,8 %
12.000 8,4 % 8,2 % 8,0 % 7,1 %
15.000 9,8 % 9,5 % 9,1 % 8,0 %
30.000 14,8 % 13,8 % 12,2 % 10,8 % 8,0 % 8,0 %
60.000 21,3 % 19,3 % 16,7 % 13,6 % 11,2 % 11,0 %
150.000 31,5 % 25,0 % 21,8 % 19,4 % 18,7 % 15,0 %
300.000 30,4 % 26,5 % 24,1 % 22,0 % 20,3 %
625.000 33,4 % 29,3 % 27,5 % 25,7 %
Số liệu: Phòng bảo hiểm tài sản kỹ thuật PTI
Thời hạn nộp phí
Tuỳ theo sự thoả thuận giữa công ty bảo hiểm và người được bảo hiểm có thể
thực hiện các hình thức đóng phí bảo hiểm khác nhau như đóng một lần hoặc đóng
nhiều lần. Thông thường, trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn áp dụng hình thức đóng
phí một lần
Việc đóng phí gắn liền với hiệu lực của hợp đồng. Hiệu lực của hợp đồng
được ghi nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm. Thông thường hiệu lực hợp đồng bắt

đầu khi người tham gia bảo hiểm nộp phí và kết thúc vào ngày 16 giờ ngày cuối cùng
của thời hạn bảo hiểm. Tuỳ theo yêu cầu của người được bảo hiểm, công ty bảo hiểm
16
nhận bảo hiểm với thời hạn 1 năm hoặc bảo hiểm ngắn hạn( tháng, quý). Sauk hi kết
thúc thời hạn bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể đóng phí tiếp và yêu cầu tái tục
hợp đồng bảo hiểm.
1.4.5. Giám định và bồi thường tổn thất
a) Giám định tổn thất
Giám định tổn thất là cơ sở xác định chính xác số tiền bồi thường. Khi tổn thất
xảy ra, người được bảo hiểm phải kịp thời thông báo cho công ty bảo hiểm bằng văn
bản, điện thoại, điện tín hoặc fax. Thông báo phải đảm bảo các nội dung:
- Địa điểm, thời gian xảy ra tổn thất.
- Đối tượng thiệt hại.
- Dự đoán nguyên nhân xảy ra tổn thất.
Sau khi được nhận thông báo, công ty bảo hiểm cừ ngay nhân viên có trách
nhiệm đến hiện trường làm công tác giám định. Khi giám định thường phải làm rõ
các vấn đề sau:
- Thời điểm xảy ra hoả hoạn và kết thúc hoả hoạn.
- Nguyên nhân gây ra hoả hoạn.
- Thống kê toàn bộ số tài sản bị thiệt hại.
- Công tác phòng cháy chữa cháy và ngăn ngừa thiệt hại khi hoả hoạn xảy ra.
- Lời khai của nhân chứng.
Sau đó lập biên bản giám định có đầy đủ chữ ký của các bên liên quan: Công
an, cảnh sát phòng cháy, thuế vụ, chính quyền sở tại…Đây là cơ sở để công ty bảo
hiểm dự trù số tiền bồi thường một lần hay nhiều lần cho người được bảo hiểm.
b) Bồi thường tổn thất
Bồi thường là trách nhiệm chủ yếu của công ty bảo hiểm khi xảy ra rủi ro
được bảo hiểm. Để giải quyết bồi thường, công ty bảo hiểm yêu cầu người được bảo
hiểm hoàn thiện một bộ hồ sơ yêu cầu bồi thường. Hồ sơ yêu cầu bồi thường gồm
các loại giấy tờ:

-Thông báo tổn thất;
- Biên bản giám định thiệt hại hoặc chứng thư giám định của cơ quan chức
năng hoặc công ty giám định độc lập;
- Hoá đơn mua tài sản, hợp đồng xây lắp mới, hoá đơn nhập kho( nếu là vật tư
hàng hoá);
- Hoá đơn, chứng từ liên quan đến việc sửa chữa hoặc thay thế mới tài sản;
- Chứng từ liên quan đến các chi phí…
17
Để xác định được số tiền bồi thường, công ty bảo hiểm phải xác định được giá
trị tổn thất thực tế. Giá trị tổn thất thực tế được xác định theo giá trị thực tế của tài
sản tại thời điểm xảy ra tổn thất. Cách thức xác định tuỳ thuộc vào từng loại đối
tượng bảo hiểm.
- Đối với công trình kiến trúc: Cơ sở tính giá trị tổn thất là lấy chi phí xây
dựng trừ đi khấu hao.
- Đối với máy móc thiết bị và tài sản khác: Nếu tổn thất có thể sửa chữa được
thì cơ sở tính giá trị tổn thất là chi phí sửa chữa. Nếu không sửa chữa được hoặc sửa
chữa được nhưng chi phí sửa chữa lớn hơn gía trị của tài sản thì cơ sở tính giá trị tổn
thất là chi phí mua mới trừ đi khấu hao.
- Đối với thành phẩm: Cơ sở tính giá trị tổn thất là giá thành sản xuất, bao
gồm chi phí nguyên vật liệu, tiền công lao động, khấu hao tài sản cố định, chi phí
quản lý; nếu giá thành sản xuất cao hơn giá bán thì tính theo giá bán.
- Đối với bán thành phẩm: Cơ sở tính giá trị tổn thất là chi phí sản xuất tính
đến thời điểm xảy ra tổn thất.
- Đối với hàng hoá dự trữ trong kho, cửa hàng: Cơ sở tính giái trị tổn thất là
giá mua theo hoá đơn mua hàng.
Căn căn cứ vào bản giám định và giá trị thiệt hại, người bảo hiểm sẽ xét bồi
thường theo các trường hợp:
- Đối với tổn thất toàn bộ hay ước tính: Công ty bảo hiểm sẽ bồi thường theo
giá trị tổn thất thực tế trên thị trường nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm theo
hợp đồng bảo hiểm và trừ đi mức khấu trừ.

- Đối với tổn thất bộ phận: Số tiền bồi thường được tính như sau:
+ Trường hợp 1: Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, tổng giá trị tài sản lớn hơn
hoặc bằng STBH, thì số tiền bồi thường sẽ là:
Số tiền bồi thường =giá trị tổn thất thực tế*(số tiền bảo hiểm/ Tổng giá trị tài
sản tại thời điểm xảy ra tổn thất).
+ Trường hợp 2: Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, tổng giá trị tài của tài sản
nhỏ hơn STBH, thì số tiền bồi thường sẽ là:
STBT= Giá trị tổn thất thực tế
- Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, tài sản được bảo hiểm bằng một hợp đồng
bảo hiểm khác thì trách nhiệm của công ty bảo hiểm chỉ giới hạn trong phần tổn thất
phân bổ cho hợp đồng mà mình bảo hiểm theo tỷ lệ: Cụ thể:
18
+ Trường hợp 1: Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, tổng giá trị của tài sản lớn
hơn hoặc bằng STBH, số tiền bồi thường sẽ là:
STBT= Giá trị tổn thất thực tế x ( Số tiền bảo hiểm/ Tổng giá trị tài sản tại thời
điềm xảy ra tổn thất)x tỷ lệ phí bảo hiểm
+ Trường hợp 2: Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, tổng giá trị của tài san nhỏ
hơn STBH, số tiền bồi thường sẽ là:
STBT = Giá trị tổn thất thực tế * tỷ lệ bảo hiểm.
Ngoài ra nếu đến thời điểm xảy ra tôn thất, người tham gia bảo hiểm không
nộp đầy đủ mức phí theo quy định, thì số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm được
tính như sau:
Số tiền bồi thường = Giá trị tổn thất thực tế*( Phí bảo hểm đã đóng/ Phí bảo
hiểm lẽ ra phải đóng).
1.4.6 .Bảo hiểm cháy nổ bắt buộc
1.4.6.1. Các văn bản pháp luật liên quan
Chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc được quy định tại:
Nghị định 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006- Quy định chế độ bảo hiểm
cháy nổ bắt buộc.
Nghị định 35/2003/ N Đ-CP ngày 04 – 4 – 2003 của Chính Phủ quy định chi

tết thi hành một số điều của luận phòng cháy chữa cháy.
Thông tư liên tịch số 41/2007/TTLT-BTC-BCA ngày 24/4/2007- Hướng dẫn
về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc.
Quyết định 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007- Quy tắc và biểu phí bảo hiểm
cháy nổ bắt buộc: quyết định này được đăng công báo ngày 14/2007 và có hiệu lực
thi hành bắt đầu từ ngày 28/7/2007.
1.4.6.2. Các rủi ro được bảo hiểm
Tổn thất vật chất bất ngờ gây ra do cháy, nổ không lường trước được xảy ra
đối với tài sản được bảo hiểm theo danh mục tài sản mà Người được bảo hiểm kê
khai. Theo đó:
Cháy là phản ứng hóa học có tỏa nhiệt và phát sang do nổ hoặc bất kỳ nguyên
nhân nào khác.
Nổ là phản ứng hóa học gây ra việc giải phóng khí và năng lượng đột ngột với
khối lượng lớn đồng thời phát ra âm thanh và ảnh hưởng vật lý đến các vật xung
19
quanh nhưng loại trừ thiệt hại tới bản thân nồi hơi, bình chứa, máy móc sử dụng áp
lực và chất liệu chứa trong chúng.
Các đối tượng phải tham gia:
Người phải tham gia mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc là các cơ quan, tổ chức
và cá nhân có cơ sở sản xuất,kinh doanh có nguy hiểm về cháy nổ, cụ thể là người có
quyền sở hữu, được giao quản lý sử dụng, được kinh doanh khai thác các cơ sở nguy
hiểm về cháy nổ cụ thể:
- Cơ sở sản xuất vật liệu nổ, cơ sở khai thác, chế biến dầu mỏ và sản phẩm dầu
mỏ, khí đốt; cơ sở sản xuất, chế biến hàng hoá khác cháy được có khối tích từ 5.000
m3 trở lên.
- Kho vật liệu nổ, kho dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ, kho khí đốt hoá lỏng;
cảng xuất nhập vật liệu nổ, cảng xuất nhập dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ, cảng xuất
nhập khí đốt hoá lỏng.
- Cửa hàng kinh doanh xăng dầu, khí đốt hoá lỏng.
- Nhà máy điện; trạm biến áp từ 110 KV trở lên.

- Chợ kiên cố, bán kiên cố thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của ủy ban nhân
dân cấp huyện trở lên; các chợ kiên cố, bán kiên cố khác, trung tâm thương mại, siêu
thị, cửa hàng bách hoá có tổng diện tích các gian hàng từ 300m2 trở lên hoặc có khối
tích từ 1.000 m3 trở lên.
- Nhà ở tập thể, nhà chung cư, khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ cao từ 5 tầng
trở lên hoặc có khối tích từ 5.000 m3 trở lên.
- Bệnh viện tỉnh, bộ, ngành; các cơ sở y tế khám chữa bệnh khác có từ 50
giường trở lên.
- Rạp hát, rạp chiếu phim, hội trường, nhà văn hoá, nhà thi đấu thể thao trong
nhà có thiết kế từ 200 chỗ ngồi trở lên, vũ trường, câu lạc bộ trong nhà, cơ sở dịch vụ
vui chơi giải trí và phục vụ công cộng khác trong nhà có diện tích từ 200 m2 trở lên;
sân vận động 5.000 chỗ ngồi trở lên.
- Nhà ga, cảng hàng không; cảng biển, cảng sông, bến tàu thuỷ, bến xe khách
cấp tỉnh trở lên; bãi đỗ có 200 xe ôtô trở lên; nhà ga hành khách đường sắt loại 1, loại
2 và loại 3; ga hàng hoá đường sắt loại 1 và loại 2.
- Cơ sở lưu trữ, thư viện, bảo tàng, di tích lịch sử, nhà hội chợ, triển lãm thuộc
thẩm quyền quản lý trực tiếp của Bộ, cơ quan ngang Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Cơ sở phát thanh, truyền hình, cơ sở bưu chính viễn thông cấp tỉnh trở lên.
20
- Trung tâm chỉ huy, điều độ, điều hành, điều khiển với quy mô khu vực và
quốc gia thuộc mọi lĩnh vực.
- Kho hàng hoá, vật tư cháy được hoặc hàng hoá vật tư không cháy đựng trong
các bao bì cháy được có khối tích từ 5.000 m3 trở lên; bãi hàng hoá, vật tư cháy
được có diện tích từ 500 m2 trở lên.
- Trụ sở cơ quan, văn phòng làm việc, cơ sở nghiên cứu từ 6 tầng trở lên hoặc
có khối tích từ 25.000 m3 trở lên.
- Hầm mỏ khai thác than và các khoáng sản khác cháy được; công trình giao
thông ngầm có chiều dài từ 400 m trở lên; công trình trong hang hầm trong hoạt động
có sản xuất, bảo quản, sử dụng chất cháy, nổ và có khối tích từ 1.000 m3 trở lên.

- Cơ sở và công trình có hạng mục hay bộ phận chính nếu xẩy ra cháy nổ ở đó
sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới toàn bộ cơ sở, công trình hoặc có tổng diện tích hay
khối tích của hạng mục, bộ phận chiếm từ 25% tổng diện tích trở lên hoặc khối tích
của toàn bộ cơ sở, công trình mà các hạng mục hay bộ phận đó trong quá trình hoạt
động thường xuyên có số lượng chất nguy hiểm cháy, nổ thuộc một trong các trường
hợp sau đây :
a) Khí cháy với khối lượng có thể tạo thành hỗn hợp dễ nổ chiếm từ 5% thể
tích không khí trong phòng trở lên hoặc có từ 70 kg khí cháy trở lên;
b) Chất lỏng có nhiệt độ bùng cháy đến 61
0
C với khối lượng có thể tạo thành
hỗn hợp dễ nổ chiếm từ 5% thể tích không khí trong phòng trở lên hoặc các chất lỏng cháy
khác có nhiệt độ bùng cháy cao hơn 61
0
C với khối lượng từ 1.000 lít trở lên;
c) Bụi hay xơ cháy được có giới hạn nổ dưới bằng hoặc nhỏ hơn 65 g/m
3
với
khối lượng có thể tạo thành hỗn hợp dễ nổ chiếm từ 5% thể tích không khí trong
phòng trở lên; các chất rắn, hàng hoá, vật tư là chất rắn cháy được với khối lượng
trung bình từ 100 kg trên một mét vuông sàn trở lên;
d) Các chất có thể cháy, nổ hoặc sinh ra chất cháy, nổ khi tác dụng với nhau
với tổng khối lượng từ 1.000 kg trở lên;
đ) Các chất có thể cháy, nổ hoặc sinh ra chất cháy, nổ khi tác dụng với nước
hay với ô xy trong không khí với khối lượng từ 500 kg trở lên.
Đối tượng được phép bán bảo hiểm cháy nổ bắt buộc gồm các doanh nghiệp
bảo hiểm đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam được phép kinh doanh bảo hiểm
cháy, nổ bắt buộc.
21
CHƯƠNG II

TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HỎA HOẠN VÀ
BẢO HIỂM CHÁY NỔ BĂT BUỘC TẠI PTI
2.1 Thị trường bảo hiểm cháy nổ bắt buộc
2.1.1. Kết quả việc mua, bán bảo hiểm cháy, nổ:
Sau hơn hai năm triển khai thực hiện quy định chế độ BHCNBB kết quả của
việc kinh doanh bảo hiểm cháy, nổ của các doanh nghiệp bảo hiểm đã có sự tăng lên
đáng kể theo đó doanh thu tăng lên so với trước khi có quy định chế độ BHCNBB,
tuy nhiên số lượng cơ sở, tổ chức, doanh nghiệp tham gia BHCNBB vẫn còn hạn chế,
22
nhiều cơ sở thuộc diện phải mua BHCNBB chưa tự giác tham gia BHCNBB còn có
hiện tượng né tránh việc mua BHCNBB. Theo báo cáo của 47 đơn vị cảnh sát PCCC
các địa phương thì kết quả việc mua, bán bảo hiểm cháy nổ cụ thể như sau :
Tổng cơ sở có nguy hiểm cháy, nổ thuộc đối tượng phải mua , bán BHCNBB
trên toàn quốc là: 30.256 cơ sở.
Tổng số cơ sở đã mua BHCNBB và tự nguyện từ tháng 7/2007 đến nay là:
12.712 cơ sở chiếm 42% trong tổng số cơ sở bắt buộc phải mua
BHCNBB( 12.712/30.256 cơ sở). trong đó, tổng số cơ sở đã mua BHCNBB là: 4.748
cơ sở chiếm 15,7% ( 4.748/30.256 cơ sở). Tổng số cơ sở đã mua BHCNBB tự
nguyện là : 7.964 cơ sở chiếm 26,3%(7.964/30.256).
Tổng giá trị tài sản được tính cho phần mua BHCNBB ( cả bắt buộc và tự
nguyện ) là: 5.174.857 tỷ đồng. Trong đó, tổng giá trị tài sản được tính cho phần mua
BHCNBB là 266.857 tỷ đồng chiếm 5, 16 %( 266.857/5.174.857 tỷ đồng) và tổng giá
trị tài sản được tính cho phần mua BHCNBB là : 4.908.000 tỷ đồng chiếm 94,84%
( 4.908.000/5.174.857 tỷ đồng)
Tổng phí mua bảo hiểm tài sản nói chung, trong đó có BHCNBB là: 2.634,2 tỷ
đồng. Trong đó, tổng số phí mua BHCNBB là: 180 tỷ đồng chiếm 6,83%
( 180/2.634,2 tỷ đồng) và tổng số phí mua BHCNBB là: 2.454,2 tỷ đồng chiếm
93,17%(2.454,2/2.634,2 tỷ đồng).
1.2. Việc thực hiện trách nhiệm nộp 5% phí BHCNBB cho hoạt động PCCC
Căn cứ vào thống kê doanh thu của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm

cháy, nổ thì số tiền tính tới thời điểm 10/9/2009, các doanh nhiệp kinh doanh bảo
hiểm cháy, nổ cần phải trích nộp theo quy định là:
- Số phí phải trích nộp theo hợp đồng BHCNBB là: 9 tỷ đồng( 180 tỷ đồng x 5%).
- Theo báo cáo thì những cơ sở đã mua bảo hiểm cháy, nổ tự nguyện ( bảo
hiểm cháy, nổ và mọi rủi ro tài sản) đa phần đều thuộc đối tượng phải mua BHCNBB,
ước tính khoảng 80%, phí BHCNBB trong đó các hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ và mọi
rủi ro tài sản chiếm khoảng 60% đến 70%. Do đó, nếu theo quy định thì số phí ước tính
phải trích nộp từ phần BHCNBB trong các hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ và mọi rủi ro tài
sản sẽ là 58,9 tỷ đồng( 2.454,2 tỷ đồng x 80% x 60% x 5%).
Như vậy, tổng cộng số phí các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cháy, nổ
cần phải trích nộp là 67,9 tỷ đồng.Nhưng hiện tại thời điểm này, tổng cộng các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm cháy nổ mới chuyển được 4,57 tỷ đồng chiếm 50,77%
23
số phí phải trích nộp theo các hợp đồng BHCNBB (4,57/9 tỷ đồng) và chỉ được
6.73% số phí phải chuyển theo quy định ( 4,57/67,9 tỷ đồng).
2.1.3. Nhận xét và đánh giá
Việc thực hiện quy định chế độ BHCNBB của các đối tượng là các cơ sở có
nguy hiểm cháy, nổ thuộc diện phải mua BHCNBB và các doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm cháy, nổ chưa đạt yêu cầu đề ra, chỉ có 15,7% số cơ sở thuộc diện phải mua
BHCNBB đã mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Còn lại nếu mua bảo hiểm cháy, nổ thì
chủ yếu tham gia mua dưới hình thức là bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt.
Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đều chưa thực hiện việc tách
riêng phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc trong các hợp đồng bảo hiểm trọn gói bao gồm
cả BHCNBB theo đúng quy định tại khoản 2, mục III, thông tư liên tịch số
41/2007/TTLT-BTC-BCA. Tuy nhiên riêng có tổng công ty cổ phần bảo hiểm
PJICO đã có hướng dẫn việc tách riêng phí BHCNBB trong các hợp đồng hỏa hoạn
và rủi ro đặc biệt hoặc bảo hiểm mọi rủi ro bao gồm cả BHCNBB. Bảo Việt cũng có
mã hàng hóa BHCNBB riêng, nhưng qua kiểm tra báo cáo doanh thu BHCNBB và
các hợp đồng bảo hiểm thì thấy khi thực hiện hợp đồng dưới dạng bảo hiểm hỏa hoạn
và rủi ro đặc biệt hoặc bảo hiểm tự nguyện và không trích nộp 5% phí cho hoạt động

PCCC.
Sau khi có quyết định 1436/QĐ-BCA( C11) của Bộ Công An, do có sự tăng
cường kiểm tra và kiến nghị của cơ quan cảnh sát PCCC, nên từ tháng 9/2008 đến
9/2009 số lượng BHCNBB đã tăng đáng kể.
Kể từ khi Nghị định số 130/2006/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số
41/2007/TTLT-BTC-BCA có hiệu lực đến nay nhiều công ty kinh doanh bảo hiểm
chưa thực hiện trách nhiệm chuyển 5% tổng số kinh phí bán bảo hiểm cháy, nổ bắt
buộc để phục vụ cho các hoạt động PCCC theo quy định hoặc chỉ chuyển một phần
kinh phí rất nhỏ về tài khoản phục vụ cho hoạt động PCCC.
2.1.4. Những tồn tại khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiên quy định bảo
hiểm cháy, nổ bắt buộc và nguyên nhân.
1- Biểu phí BHCNBB chưa phù hợp với thực tế, cao hơn 2-3 lần thậm chí gấp
4 lần so với phí bảo hiểm cháy nổ tự nguyện trên thị trường mà các doanh nghiệp bảo
hiểm đưa ra, và điều kiện tham gia lại cao hơn BHCNBB tự nguyện như phải có giấy
chứng nhận đủ điều kiện về PCCC của cơ quan Cảnh sát PCCC
2- Trong quá trình thực hiện quy định chế độ bảo hiểm BHCNBB, vẫn có vấn
đề phát sinh là doanh nghiệp bảo hiểm chỉ thực hiện việc ký kết hợp đồng BHCNBB
24
với bên mua khi bên mua đã có giấy chứng nhận đủ điều kiện về PCCC hoặc có biên
bản kết luận cơ sở đủ điều kiện về PCCC. Do đó, nhiều cơ sở do khách quan hoặc
chủ quan chưa có giấy chứng nhận đủ điều kiện về PCCC, hoặc đã có nhưng chủ cơ
sở lại giấu đi để mua bảo hiểm theo hình thức tự nguyện với mức phí thấp hơn. Việc
cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về PCCC hoặc biên bản kết luận cơ sở đủ điều
kiện về PCCC cho các cơ sở có nguy hiểm cháy nổ thuộc diện mua BHCNBB gặp
không ít khó khăn đó là:
- Nhiều cơ sở chưa thể đáp ứng ngay và đầy đủ các điều kiện về PCCC quy
định tại Điều 9 Nghị định 35/2003/Nghị định 35/2003/NĐ-CP như: nhiều cơ sở do
xây dựng trước đây nên không có bản thẩm duyệt thiết kế về PCCC hoặc còn có
những thiếu sót, tồn tại khó khắc phục ngay được như thiếu lối thoát nạn trong nhà
cao tầng hoặc lối thoát nạn không đảm bảo tiêu chuẩn; khoảng cách an toàn, hệ thống

PCCC, hệ thống điện tại các chợ không đảm bảo theo đúng tiêu chuẩn, do đó cơ quan
Cảnh sát PCCC chưa thể cấp được giấy chứng nhận đủ điều kiện về PCCC.
- Theo quy định tại Điều 5 Nghị định 130/CP những đối tượng phải mua
BHCNBB được quy định tại Phụ lục 1 của nghị định 35/2003/NĐ-CP,đối tượng
thuộc diện phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về PCCC được quy định tại Phụ
lục 2 của nghị định 35/3003/NĐ-CP, như vậy có rất nhiều đối tượng thuộc diện phải
mua BHCNBB nhưng không thuộc diện phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về
PCCC, những đối tượng này theo quy định của Nghị định 130/CP để mua BHCNBB
thì phải được cơ quan cảnh sát PCCC có biên bản kết luận xác nhận cơ sở có đủ điều
kiện về PCCC, việc ra biên bản này tại nhiều địa phương còn gặp khó khăn vì nhiều
lý do khác nhau, bên cạnh đó mẫu biên bản này chưa được cấp có thẩm quyền chính
thức ban hành.
3- Nhiều địa phương chưa công khai danh sách các cơ sở thuộc diện phải mua
BHCNBB thấy rõ được trách nhiệm và cả các doanh nghiệp bảo hiểm biết về đối
tượng mình sẽ bán bảo hiểm
4- Sự phối hơp giữa doanh nghiệp bảo hiểm với lực lượng cảnh sát PCCC
chưa thường xuyên và chặt chẽ, chưa có biện pháp đồng bộ để triển khai thực hiện
chế độ BHCNBB
5-Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục về việc thực hiện chế độ bảo hiểm
BHCNBB còn hạn chế. Lãnh đạo một số địa phương và nhiều cơ sở chưa nhận thức
được đầy đủ về vấn đề này.
25

×