Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Đầu tư phát triển tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam-Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.92 KB, 99 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Để có một nền kinh tế phát
triển vững mạnh ta phải có một hệ thống các yếu tố cơ bản cần thiết cho quá trình
phát triển.
Hệ thống trung gian tài chính nói chung và Ngân hàng Thương Mại nói riêng
góp một phần quan trọng trong guồng máy của tồn bộ hệ thống. Nó là cầu nối giữa
các chủ thể trong nền kinh tế, làm cho các chủ thể gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau, tăng
sự liên kết và năng động của toàn bộ hệ thống.
Tuy nhiên, trước những thách thức to lớn của tiến trình hội nhập, các ngân
hàng thương mại ln phải đối mặt với sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ các ngân
hàng thương mại trong nước cũng như nước ngoài. Để có thể tồn tại và phát triển,
các ngân hàng thương mại phải tập trung mọi nỗ lực để nâng cao hiệu quả hoạt
động đầu tư phát triển và hoạt động có hiệu quả hơn.
Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) là một trong những
ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh hoạt động hiệu quả nhất ở Việt Nam hiện
nay. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và áp lực phải chuyển
đổi dần theo mơ hình các ngân hàng thương mại tiên tiến trên thế giới,
Techcombank cần có những chiến lược đầu tư phát triển hợp lý. Để đáp ứng phần
nào đòi hỏi bức xúc này, em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Đầu tư phát triển tại
Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam-Thực trạng và giải pháp
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài đầu tư phát triển ở các ngân hàng thương mại, đã có một
số cơng trình nghiên cứu công bố dưới dạng đề tài nghiên cứu dưới dạng khóa luận
tốt nghiệp và luận văn cao học. Một số luận văn tiêu biểu liên quan đến đề tài này
thời gian gần đây là:



2

Luận văn thạc sĩ năm 2007 với đề tài “Hoạt động đầu tư phát triển thẻ thanh
toán ở Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam; Thực trạng và giải
pháp” tác giả Lê Thị Hải Yến đã nhấn mạnh vai trị mở rộng hệ thống thẻ thanh tốn
và đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển của hệ thống thẻ
tại Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu sinh năm 2009 “Đầu tư nâng cao trình độ cơng nghệ trong
hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, tác giả Đỗ
Thị Tố Quyên đã đưa ra một số giải pháp để nâng cao trình độ cơng nghệ trong hoạt
động kinh doanh tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Trong các đề tài đã công bố, các tác giải đã đề cập đến hoạt động đầu tư phát
triển tại các ngân hàng dưới góc độ khác nhau và những giải pháp, quan điểm tại
mỗi đơn vị cũng khác nhau. Với luận văn này, em mong muốn đưa ra những kiến
nghị, góp ý phù hợp với tình hình thực tế của Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt
Nam trên cơ sở kế thừa và phát huy một số giải pháp của các cơng trình đã nghiên
cứu trước đó nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển của Techcombank trong giai
đoạn tới.
3. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu lý luận cơ bản về đầu tư phát triển trong ngân hàng
- Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư phát triển ở Ngân hàng TMCP Kỹ
Thương Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển tại Ngân hàng TMCP
Kỹ Thương Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu là nghiên cứu hoạt động đầu tư phát triển của Ngân
hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ hoạt động của Ngân hàng TMCP Kỹ Thương
Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp được sử dụng trong quá trình viết luận văn bao gồm:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử


3

- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thống kê
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục bảng biểu, danh mục chữ viết tắt,
luận văn sẽ được trình bày thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về đầu tư phát triển trong các ngân hàng thương
mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư tại Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt
Nam (Techcombank)
Chương 3: Một số giải pháp đầu tư phát triển tại Ngân hàng TMCP Kỹ
Thương Việt Nam
Do thời gian hạn chế và hiểu biết còn hạn hẹp, luận văn khơng thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định nên em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của tất cả
thầy cô và bạn độ. Em xin cảm ơn cô giáo Nguyễn Bạch Nguyệt và tập thể các anh
chị em trong Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam đã giúp đỡ, hướng dẫn em
hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Vân Anh


4


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của đầu tư phát triển trong các ngân hàng
thương mại
1.1.1 Khái niệm của Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là việc hi sinh những nguồn lực ở hiện tại để tiến hành những
hoạt động nhằm tạo ra hay tăng thêm các tài sản vật chất như nhà xưởng, máy móc
thiết bị hay những tài sản trí tuệ như phát minh, sáng chế, tri thức, kỹ năng…
Nguồn lực dùng trong đầu tư phát triển hiểu theo nghĩa hẹp là vốn, hiểu theo nghĩa
rộng bao gồm vốn, tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên con người…
Kết quả cuối cùng của đầu tư phát triển là sự tạo ra hay tăng thêm về tài sản
vật chất như nhà xưởng, máy móc thiết bị, sản phẩm…, tài sản trí tuệ như năng lực
lao động, trình độ văn hóa, phát minh, sáng chế, bản quyền…
Hiệu quả của đầu tư phát triển là sự so sánh giữa những nguồn lực bỏ ra đầu tư
phát triển và kết quả của hoạt động đó.
Do bản chất đầu tư phát triển là tạo ra hay tăng thêm giá trị tài sản vật chất và
tài sản trí tuệ do đó mục đích cuối cùng của đầu tư phát triển là tạo ra năng lực sản
xuất cho xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
1.1.2 Những đặc điểm cơ bản của đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển có những đặc điểm sau:
- Vốn đầu tư phát triển thường có giá trị lớn và nằm khê đọng trong quá trình
đầu tư. Đây là một đặc điểm quan trọng của đầu tư phát triển đòi hỏi phải nghiên
cứu và tính tốn chính xác phương án huy động vốn và quản lý vốn có hiệu quả.
- Đầu tư phát triển sử dụng nhiều vật tư, lao động do đó nhà quản lý đầu tư cần
nghiên cứu kỹ và lập kế hoạch sử dụng lao động như số lượng lao động cần thiết,
thời gian sử dụng, kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, phân bổ nguồn lực



5

- Thời gian sử dụng kết quả đầu tư kéo dài. Nhiều cơng trình đầu tư có thời
gian sử dụng hàng trăm năm thậm chí có các cơng trình đầu tư có giá trị sử dụng
vĩnh viễn như Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc, Kim Tự Tháp Ai Cập…
Trong suốt q trình sử dụng đó, cơng trình đầu tư chịu tác động của nhiều yếu tố
ngoại cảnh. Do đó công tác quản lý đầu tư cần nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
dự báo nhu cầu thị trường trong tương lai.
- Các thành quả của đầu tư phát triển đặc biệt là các cơng trình xây dựng
thường phát huy kết quả tại nơi nó được xây dựng lên. Ví dụ khi xây dựng một nhà
máy tuyển quặng bioxit tại Phú Yên, nhà quản lý đầu tư phải tính toán đến trữ
lượng quặng tại tỉnh này. Giả sử, nhà máy được xây dựng trên cơ sở tính tốn trữ
lượng quặng tại đây đủ để cung cấp cho nhà máy trong vòng 20 năm nhưng khi nhà
máy được đưa vào hoạt động, trữ lượng quặng không đúng như kế hoạch, chỉ trong
vịng 10 năm, nhà máy khơng cịn ngun liệu để sản xuất nữa. Lúc đó, khơng thể
tháo rời nhà máy tuyển quặng để di chuyển tới một địa phương khác có trữ lượng
quặng lớn hơn được. Do đó, trước khi đầu tư cần phải xác định mục đích đầu tư cái
gì, cơng suất bao nhiêu, địa điểm đầu tư ở đâu, bố trí sử dụng lao động tại địa
phương hay thu hút lao động từ các vùng lân cận…
- Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Với các đặc điểm cơ bản của đầu tư phát
triển như đầu tư phát triển đòi hỏi vốn lớn, vốn nằm khê đọng trong suốt quá trình
đầu tư, kết quả của đầu tư lại phát huy tác dụng của nó tại nơi nó được xây dựng
lên… nên đầu tư phát triển tiềm ẩn những rủi ro do đó cần phải làm tốt công tác kế
hoạch, dự báo và chuẩn bị.
1.1.3 Vai trò của đầu tư phát triển trong các ngân hàng thương mại
Đầu tư phát triển đóng vai trị to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của các
ngân hàng thương mại. Kết quả của đầu tư phát triển là sự gia tăng tài sản vật chất
như tổng tài sản, gia tăng tài sản cố định, tài sản trí tuệ và tài sản vơ hình của các
ngân hàng thương mại… Vai trò của đầu tư phát triển trong các ngân hàng thương
mại thể hiện ở:

(i) Đầu tư phát triển quyết định sự thành lập một ngân hàng thương mại


6

Trên thực tế, bất cứ ngân hàng thương mại nào khi ra đời đều phải có cơ sở vật
chất như văn phịng, mạng lưới, thiết bị máy móc, cơng nghệ... Do đó, một ngân
hàng thương mại ngay từ khi mới thành lập đã phải có vốn để đầu tư vào cơ sở vật
chất, hạ tầng mạng lưới…
(ii) Đầu tư phát triển quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương
mại
Sau một thời gian đi vào hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của ngân hàng
thương mại sẽ bị hao mòn, hư hỏng, lạc hậu. Để duy trì hoạt động bình thường,
ngân hàng thương mại cần đầu tư sửa chữa hoặc thay mới các cơ sở vật chất bị hao
mịn này. Ngồi ra, để tồn tại trong bối cảnh thị trường cạnh tranh gay gắt, các ngân
hàng thương mại cần phải đổi mới công nghệ, mở rộng mạng lưới, phát triển sản
phẩm… cho phù hợp với nền kinh tế xã hội. Để làm được những việc trên, các ngân
hàng thương mại phải chú trọng vào hoạt động đầu tư phát triển.
1.2 Vốn và nguồn vốn của đầu tư phát triển trong các ngân hàng thương mại
1.2.1 Vốn đầu tư phát triển
Vốn là nguồn lực chủ yếu để thực hiện đầu tư. Vốn đầu tư phát triển là một bộ
phận cơ bản của nguồn vốn.
Hiểu theo nghĩa rộng thì vốn đầu tư phát triển là các khoản chi tiêu để làm
tăng hoặc duy trì tài sản vật chất trong một thời kỳ nhất định. Vốn đầu tư thường
thực hiện qua các dự án đầu tư và một số chương trình mục tiêu quốc gia với mục
đích bổ sung tài sản cố định, tài sản lưu động của tồn bộ nền kinh tế.
Hiểu theo nghĩa hẹp thì vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ hệ thống các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất như nhà xưởng, máy móc,
thiết bị, lao động, tiền…
Vốn đầu tư phát triển có những đặc điểm sau:

- Vốn luôn gắn với một chủ thể, gắn liền với quyền sở hữu của một chủ thể
nhất định
- Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản, luôn ln vận động và phải sinh
lời.
- Vốn phải được tích tụ đến một mức nhất định thì mới phát huy tác dụng.


7

- Vốn ln có giá trị về mặt thời gian do ảnh hưởng của các yếu tố như lạm
phát, thay đổi cơ chế chính sách và cả các yếu tố ngẫu nhiên. Do đó, khi so sánh
vốn, người ta phải quy về cùng một thời điểm.
1.2.2 Nguồn vốn đầu tư phát triển trong ngân hàng thương mại
Vốn đầu tư phát triển của ngân hàng thương mại được huy động chủ yếu từ
nguồn vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu là vốn của ngân hàng thương mại được hình thành từ vốn góp
ban đầu, các nguồn vốn tích lũy của ngân hàng và nguồn vốn ngân hàng có thể huy
động thêm thơng qua hình thức phát hành cổ phiếu.
1.2.2.1 Các loại vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu hình thành từ các nguồn vốn sau đây:
(i) Vốn góp ban đầu: Là nguồn vốn được các cổ đơng sáng lập góp ngay từ
khi mới thành lập ngân hàng. Khi ngân hàng mới thành lập, bao giờ các cổ đông
sáng lập cũng phải góp một số vốn ban đầu nhất định. Nguồn vốn này thường được
thể hiện trên đăng ký kinh doanh và là thành phần quan trọng của vốn chủ sở hữu.
Khi xem xét đến hình thức sở hữu của ngân hàng, bao giờ cũng phải quan tâm đến
hình thức sở hữu vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn
của bản thân ngân hàng
Trong quá trình hoạt động, vốn chủ sở hữu có thể tăng, giảm tùy theo tình
hình hoạt động kinh doanh và ý chí của các cổ đơng. Vốn chủ sở hữu có thể tăng
dưới hình thức u cầu các cổ đơng sáng lập góp thêm vốn, huy động thêm cổ đơng

mới hoặc thơng qua hình thức phát hành cổ phiếu.
(ii) Vốn bổ sung thêm: Các ngân hàng có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách
phát hành thêm cổ phiếu.
Các loại cổ phiếu mà ngân hàng có thể phát hành là:
- Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu có thu nhập khơng cố định, lợi tức của nó
biến động tùy theo sự biến động của lợi nhuận ngân hàng. Ngân hàng làm ăn hiệu
quả, lợi nhuận lớn thì cổ tức cũng nâng lên, nếu làm ăn kém hiệu quả hoặc thua lỗ
thì cổ tức giảm đi hoặc bằng không.


8

Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất và có những ưu điểm trong
việc phát hành và lưu thơng trên thị trường chứng khốn. Cổ phiếu thường là chứng
khoán quan trọng nhất được mua bán trên thị trường chứng khoán.
Mệnh giá của cổ phiếu là giá trị ghi trên mặt cổ phiếu, thị giá của cổ phiếu là
giá cả giao dịch của cổ phiếu trên thị trường. Mệnh giá chỉ có ý nghĩa khi phát hành
cổ phiếu và một thời gian ngắn sau khi cổ phiếu được phát hành. Thị giá phản ánh
lòng tin của các nhà đầu tư đối với ngân hàng.
Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường là chủ sở hữu của công ty do đó họ có
quyền hành trong việc quyết định các chính sách, công việc ngân hàng, quyết định
tài sản, sự phân chia tài sản và thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, một ngân hàng
thường có một số lượng cổ đơng nhất định nên mỗi cổ đơng chỉ có quyền hạn nhất
định trong việc quyết định các chính sách của ngân hàng.
- Cổ phiếu ưu tiên: Cổ phiếu ưu tiên là cổ phiếu có những đặc quyền nhất
định so với cổ phiếu thường như ưu tiên về thứ tự chi trả cổ tức, ưu tiên về bỏ phiếu
và được quy định trong điều lệ của ngân hàng. Cổ phiếu ưu tiên thường được hưởng
một mức cổ tức nhất định, có nghĩa là cổ phiếu ưu tiền không được quyền hưởng
thu nhập thặng dư như cổ phiếu thường. Người chủ của cổ phiếu ưu tiên có quyền
được thanh tốn lãi trước các cổ đơng sở hữu cổ phiếu thường.. Thậm chí, nếu thu

nhập sau thuế của doanh nghiệp mà chỉ đủ chi trả cổ tức ưu đãi thì ngân hàng khơng
phải trả cổ tức cho cổ phiếu thường. Cổ phiếu ưu tiên thường chiếm tỷ trọng nhỏ so
với cổ phiếu thường.
Điều khác nhau cơ bản giữa cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường là cổ phiếu
thường không những được chi trả cổ tức với tỷ lệ doanh nghiệp cam kết khi phát
hành mà các cổ dơng cịn quyền hưởng thu nhập thặng dư nếu ngân hàng kinh
doanh có lãi hơn dự kiến. Điều này là hợp lý vì đầu tư vào cổ phiếu thường có rủi ro
lớn hơn cổ phiếu ưu tiên nên phải được cổ tức lớn hơn.
Ngân hàng có thể phát hành cổ phiếu theo 2 hình thức sau:
- Phát hành cổ phiếu riêng lẻ
Phát hành cổ phiếu riêng lẻ là hình thức phát hành cổ phiếu cho một số đối
tượng đầu tư nhất định và mang tính chất khép kín. Phát hành cổ phiếu riêng lẻ


9

thường chỉ áp dụng cho các cổ phiếu không thuộc diện niêm yết trên Sàn giao dịch
chứng khốn và khơng chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khốn. Thơng thường,
các ngân hàng áp dụng phương thức phát hành cổ phiếu này khi:
+ Quy mô vốn huy động không lớn, phạm vi hoạt động mang tính chất nội bộ,
khép kín
+ Tăng cường mối quan hệ với các đối tác kinh doanh, với cán bộ công nhân
viên và các cổ đông hiện hữu.
+ Ngân hàng chưa đủ điều kiện để phát hành cổ phiếu ra công chúng.
- Phát hành cổ phiếu ra cơng chúng
Ngược với hình thức phát hành riêng lẻ, phát hành cổ phiếu ra cơng chúng là
hình thức phát hành trong đó cổ phiếu được bán rộng rãi ra thị trường chứng khốn
với quy mơ lớn một cách cơng khai, minh bạch và tuân thủ các quy định của Luật
chứng khốn.
Các ngân hàng muốn phát hành cổ phiếu ra cơng chúng phải thỏa mãn được

một số điều kiện nhất định và phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thơng thường, các ngân hàng này phải có hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả
và phải có hệ thống kế toán, sổ sách minh bạch. Ngân hàng này được gọi là doanh
nghiệp đại chúng và có thể được niêm yết trên thị trường tập trung.
(iii) Lợi nhuận giữ lại: Đây là phần lợi nhuận sau khi trừ đi việc chia cổ tức
cho các cổ đông. Lợi nhuận giữ lại cao hay thấp phù hợp vào hoạt động kinh doanh
của ngân hàng và chủ trương của các cổ đông. Đây cũng là nguồn bổ sung quan
trọng vào vốn chủ sở hữu, được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận giữ lại có ưu điểm là giá rẻ và giảm được sự
phụ thuộc của doanh nghiệp vào nguồn vốn bên ngoài. Nhiều ngân hàng đã đặt ra
mục tiêu phải duy trì một tỷ lệ lợi nhuận giữ lại qua các năm để bổ sung cho nguồn
vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên nếu duy trì quá lâu tỷ lệ lợi nhuận giữ lại lớn sẽ làm
giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu của công ty và ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ
đông.
Thông thường lợi nhuận giữ lại được phân bổ vào các quỹ sau:


10

- Quỹ dự dự phịng tài chính: là nguồn tài chính để tăng thêm vốn kinh doanh
cho ngân hàng khi có nhu cầu và để bảo hiểm cho ngân hàng khi găp khó khăn.
Khi có nhu cầu tăng thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, ngân hàng có
thể phát hành cổ phiếu mới hoặc phát hành trái phiếu. Tuy nhiên muốn vậy ngân
hàng phải chịu nhiều điều kiện ràng buộc khắt khe của pháp luật. Chỉ có cách lấy
quỹ dự trữ để bổ sung vốn kinh doanh là có nhiều thuận lợi hơn cả. Chỉ cần được
đại hội đồng cổ đơng nhất trí và đang ký lại mức vốn điều lệ. mà các cổ đơng thì dễ
dàng nhất trí thơng qua biện pháp này vì làm vậy họ sẽ tăng thêm giá trị cho mỗi cổ
phần.
- Quỹ đầu tư phát triển: Quỹ đầu tư phát triển là quỹ được trích lập với tủy lệ

cao từ lợi nhuận rịng, dùng để đầu tư cho ngân hàng – tức là đầu tư mở rộng, đổi
mới công nghệ, hoặc đầu tư nghiên cứu tiếp cận công nghệ tiên tiến…
- Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm: Đây là quỹ được thiết lập để trợ cấp cho
người lao động khi họ mất việc làm , nhằm giảm bớt khó khăn cho lao động.
- Quỹ phúc lợi là một phần lợi nhuận được trích ra để lập quỹ nhằm mục đích
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân viên chức của ngân hàng, như
xây dưng nhà ăn tập thể, câu lạc bộ, chăn sóc sức khỏe, phương tiện đi lại nghỉ
ngơi…
1.2.2.2 Vai trò của vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu có vai trị rất quan trọng trong hoạt động đầu tư phát triển của
ngân hàng thương mại:
- Vốn chủ sở hữu đảm bảo tính độc lập, chủ động do đó hạn chế được các rủi
ro về vay nợ. Các hoạt động đầu tư được tài trợ từ nguồn vốn này sẽ không làm gia
tăng gánh nặng nợ của ngân hàng.
- Vốn chủ sở hữu quyết định quy mô của ngân hàng, tuy ngân hàng có thể huy
động vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau nhưng vốn tự có là nguồn vốn ổn định nhất.
Vốn chủ sở hữu cũng được sử dụng để giới hạn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Ví dụ, theo quy định của ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại ở
Việt Nam thường chỉ cho một khách hàng vay tối đa 10% vốn tự có. Ngồi ra, vốn


11

chủ sở hữu cũng là một tiêu chí để các cơ quan quản lý nhà nước hay, doanh nghiệp
hay các chủ đầu tư ra quyết định việc đầu tư, liên doanh, liên kết…
- Vốn chủ sở hữu được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang
thiết bị máy móc, thuê nhân sự, mở rộng mạng lưới... phục vụ quá trình sản xuất
kinh doanh và tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, thể hiện vai trò dẫn dắt của mình đối
với các nguồn vốn khác.
1.3 Nội dung đầu tư phát triển trong ngân hàng thương mại

Đầu tư phát triển ngày càng đóng vai trị quan trọng trong mỗi ngân hàng
thương mại vì đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để ngân hàng tồn tại, phát
triển và khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế quốc dân. Căn cứ vào lĩnh vực
đầu tư thì đầu tư phát triển trong ngân hàng thương mại bao gồm các nội dung cơ
bản sau:
1.3.1 Đầu tư vào tài sản cố định
Đây là hoạt động đầu tư với mục đích tái tạo, bổ sung, thay thế tài sản cố định
của ngân hàng thương mại. Đầu tư tài sản cố định có vai trị quan trọng đối với mọi
ngân hàng thương mại. Hoạt động đầu tư này thường đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỷ
trọng cao trong tổng vốn đầu tư của ngân hàng thương mại.
1.3.1.1 Khái niệm về tài sản cố định
Hiểu một các đơn giản nhất tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh
nghiệp có giá trị lớn, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm hoặc
trên 1 chu kỳ kinh doanh (nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn hoặc bằng 1 năm)
Tài sản cố định bao gồm những tài sản đang sử dụng, chưa được sử dụng hoặc
khơng cịn được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh do chúng đang trong
q trình hồn thành (máy móc thiết bị đã mua nhưng chưa hoặc đang lắp đặt, nhà
xưởng đang xây dựng chưa hoàn thành...) hoặc do chúng chưa hết giá trị sử dụng
nhưng không được sử dụng. Những tài sản thuê tài chính mà doanh nghiệp sẽ sở
hữu cũng thuộc về tài sản cố định.
Tài sản cố định là tài sản có thời gian sử dụng trên 1 năm, tức là tài sản cố
định sẽ tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh và giá trị của tài sản cố định được


12

chuyển dần vào giá trị sản phẩm thông qua khấu hao. Khấu hao tài sản cố định có
thể hiểu là giá trị tài sản cố định giảm dần hàng năm.
Ngược lại, khơng phải mọi tài sản có thời gian sử dụng trên một năm đều
được gọi là tài sản cố định, thực tế có những tài sản có tuổi thọ trên một năm nhưng

vì giá trị nhỏ nên chúng khơng được coi là tài sản cố định mà được xếp vào tài sản
lưu động. Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính, một tài sản được gọi là tài sản
cố định khi có đặc điểm như đã nêu đồng thời phải có giá trị trên 10 triệu đồng.
Theo nghị định số 199/2004/NDD-CP của chính phủ, tài sản cố định được chia
thành các loại sau:
- Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động có giá trị lớn và thời
gian sử dụng lâu dài, thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia
vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban
đầu.Trong ngân hàng thương mại, tài sản cố định hữu hình bao gồm máy móc thiết
bị, văn phịng mạng lưới…
Tài sản cố định hữu hình là một trong những cõ sở ðầu tiên ðýợc hình thành kể
từ khi doanh nghiệp bắt đầu hoạt động và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Do tính chất của tài sản cố định hữu hình là có giá trị
lớn, thời gian sử dụng lâu dài nên khi đầu tư loại tài sản này, doanh nghiệp cần
nghiên cữu kỹ lưỡng để tránh những rủi ro như nhà xưởng lạc hậu sớm hay không
đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp…
- Tài sản cố định vơ hình: là những tài sản khơng có hình thái vật chất, thể
hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định
vơ hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh như chi phí mua phần mềm kế toán,
phát minh, sáng chế, bản quyền…
-Tài sản cố định thuê tài chính: là những tài sản mà DN thuê của Cty cho
thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển lựa chọn mua lại
tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê
tài chính.
- Đầu tư tài chính dài hạn: Đầu tư tài chính là tiền vốn của doanh nghiệp đầu
tư vào kinh doanh ở bên ngoài hoạt động của doanh nghiệp mục đích hưởng lãi


13


hoặc chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp khác. Đầu tư tài chính có thể là: đầu tư cổ
phiếu trái phiếu, góp vốn vào cơng ty khác hay góp vốn vào các dự án đầu tư, tiền
cho vay dài hạn…
- Tài sản cố định dở dang: là các tài sản cố định hữu hình hoặc vơ hình đang
trong q trình hình thành, hiện chưa sử dụng và được xếp vào mục chi phí xây
dựng cơ bản dở dang.
1.3.1.2 Nội dung đầu tư tài sản cố định
Hoạt động đầu tư tài sản cố định trong ngân hàng thương mại có các nội dung
cơ bản sau:
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: Là tồn bộ chi phí bỏ ra để đầu tư văn phịng
trụ sở như chi phí đền bù giải phóng mặt bằng, khảo sát thiết kế, chi phí xây dựng,
chi phí mua sắm trang thiết bị và các chi phí khác.
- Vốn dùng để mua sắp các tài sản cố định khác như chi phí mua sắm, lắp đặt
máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải…
- Vốn dùng để sửa chữa lớn tài sản cố định gồm chi phí sửa chữa, nâng cấp,
thay thế tài sản cố định…
1.3.2 Đầu tư phát triển mạng lưới
Đối với một ngân hàng thương mại, đầu tư phát triển mạng lưới là việc mở
thêm chi nhánh, phòng giao dịch mới nhằm mở rộng thị trường, thu hút thêm khách
hàng mới, tăng trưởng quy mô, nâng cao uy tín và thương hiệu của ngân hàng trên
thị trường.
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, để thành công tại thị trường Việt
Nam, các ngân hàng phải có mạng lưới rộng khắp các tỉnh thành phố nhằm tiếp cận
thị phần bán lẻ. Thói quen tiêu dùng của người Việt Nam, cho tới nay đa số người
tiêu dùng vẫn muốn đến giao dịch trực tiếp tại ngân hàng vì việc giao dịch online
vẫn chưa phát triển, tâm lý người tiêu dùng vẫn cảm thấy an toàn hơn khi giao dịch
tại quầy.
Hơn nữa, so với mật độ dân cư của Việt Nam hiện nay, mạng lưới ngân hàng
vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người dân. Việc mở rộng mạng lưới sẽ giúp nhà
băng phát triển các dịch vụ, sản phẩm tốt hơn.



14

Tuy nhiên, đầu tư phát triển mạng lưới đòi hỏi nguồn vốn lớn và chiếm tỷ
trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của ngân hàng thương mại. Trung bình
một ngân hàng thương mại phải đầu tư ít nhất 20 tỷ đồng để mở một chi nhánh mới.
Hơn nữa, việc đầu tư phát triển mạng lưới phải tuân thủ những quy định khắt
khe của luật pháp. Theo yêu cầu của ngân hàng Nhà nước, trong vòng 1 năm kể tử
khi khai trương hoạt động, ngân hàng thương mại muốn mở chi nhánh mới phải đáp
ứng được 7 điều kiện sau đây:
- Thứ nhất, hoạt động có hiệu quả, đảm bảo tuân thủ các quy định về an toàn
tại thời điểm đề nghị: kinh doanh có lãi trong năm trước liền kề năm đề nghị mở sở
giao dịch, chi nhánh; tỷ lệ nợ xấu dưới 3% so với tổng dư nợ; đảm bảo các tỷ lệ an
toàn trong hoạt động ngân hàng; phân loại nợ, trích lập đủ dự phịng rủi ro theo quy
định; có bộ phận kiểm tốn nội bộ và hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước.
- Thứ hai, có bộ máy quản trị, điều hành hoạt động có hiệu quả: hội đồng quản
trị, ban kiểm sốt có số lượng thành viên và cơ cấu đảm bảo theo quy định của pháp
luật; thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát và người điều hành đáp
ứng tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, không vi phạm nghiêm trọng các quy định
có liên quan đến quản trị, kiểm sốt, điều hành ngân hàng trong thời gian đương
nhiệm.
- Thứ ba là có hệ thống cơng nghệ thơng tin theo u cầu quản lý của ngân
hàng thương mại, đảm bảo trụ sở chính kết nối trực tuyến với sở giao dịch, chi
nhánh dự kiến được mở.
- Thứ tư, không bị thanh tra Ngân hàng Nhà nước xử phạt hành chính tổng
cộng từ 15 triệu đồng trở lên trong thời gian một năm, tính đến thời điểm đề nghị
mở sở giao dịch, chi nhánh.
- Thứ năm là số chi nhánh ngân hàng thương mại được mở phải đảm bảo theo

công thức: 200 tỷ x N1 + 100 tỷ x N2 + C1 + C2 < C (C là vốn điều lệ của ngân
hàng thương mại (tính bằng tỷ đồng Việt Nam; N1 là số sở giao dịch, chi nhánh đã
mở và đề nghị mở tại thành phố Hà Nội và Tp.HCM; N2 là số sở giao dịch, chi
nhánh đã mở và đề nghị mở tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ngoài thành


15

phố Hà Nội và Tp.HCM; C1: khoản vốn góp, mua cổ phần theo quy định hiện hành;
C2: số vốn cấp cho đơn vị sự nghiệp).
- Thứ sáu, giám đốc sở giao dịch, chi nhánh dự kiến mở đủ điều kiện, tiêu
chuẩn quy định tại Khoản 4 Điều 21 Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16/7/2009 của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại và không kiêm
nhiệm chức danh nào khác tại sở giao dịch, chi nhánh ngân hàng thương mại.
- Điều kiện cuối cùng là phải có phương án mở sở giao dịch, chi nhánh đảm
bảo các yêu cầu của ngân hàng nhà nước.
Ngoài ra, trong thời gian một năm kể từ ngày khai trương hoạt động, ngân
hàng thương mại chỉ được mở tối đa 5 sở giao dịch, chi nhánh theo kế hoạch trong
đề án thành lập ngân hàng.
1.3.3 Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Chưa bao giờ lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng rơi vào tình trạng “khát nhân
lực” như hiện nay. Đa số sinh viên học ngành này ra đều có ngay việc làm. Thậm
chí, có ngân hàng sẵn sàng nhận những sinh viên khá ngay cả khi họ chưa tốt
nghiệp. Cơn sốt nhân lực ngân hàng vẫn chưa có dấu hiện hạ nhiệt vì các cơ sở đào
tạo khơng đáp ứng đủ nhu cầu về nhân lực.
Theo kết quả đánh giá các chỉ số nhân lực của Công ty Tư vấn Navigos, chỉ
tính riêng quý 2/2007, nhu cầu nhân lực kế tốn, tài chính ngân hàng của ngành
ngân hàng tăng trên 1.300 người, tăng 383%. Xét về tốc độ gia tăng của thị trường,
nguồn nhân lực của ngành ngân hàng chiếm tỉ lệ tăng 57%, tiếp theo là kế toán, tài
chính (42%). Trong khi đó, theo thống kê của Bộ Tài chính, tổng nhân sự cho ngành

Ngân hàng đang thiếu khoảng 30.000 người. Vì vậy, để tồn tại và phát triển trong
môi trường cạnh tranh khốc liệt về nhân sự, các ngân hàng thương mại cần có chiến
lược phát triển nguồn nhân lực đúng đắn.
Nhân lực là nguồn lực quan trọng của ngân hàng thương mại, là tác nhân
chính vận hành công nghệ và đưa ra những ý tưởng mới trong quản lý kinh doanh.
Giữa công nghệ và nhân lực có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cơng nghệ tạo điều
kiện cho nguồn nhân lực có thể phát triển, nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu


16

lao động chân tay. Ngược lại, nhân lực quyết định chọn lựa cơng nghệ gì và ứng
dụng cơng nghệ trong hoạt động hàng ngày.
Để xây dựng được một đội ngũ nhân lực đủ khả năng làm chủ công nghệ, đội
ngũ quản lý giỏi, thích ứng trong mơi trường cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi ngân hàng
thương mại phải đầu tư thích đáng và có bước đi phù hợp. Ngân hàng thương mại
có thể lựa chọn đầu tư tuyển mới những lao động mới có tay nghề, trình độ phù hợp
và đào tạo bồi dưỡng nguồn lao động hiện tại.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết giúp ngân hàng
thương mại đứng vững và dành thắng lợi trên thương trường. Ngân hàng muốn hoạt
động có hiệu quả cần phải có đội ngũ lãnh đạo và đội ngũ nhân viên có trình độ cao.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm đầu tư cho việc tuyển dụng, đào tạo,
chăm sóc sức khỏe, cải thiện mơi trường và điều kiện lao động.
Tùy theo mục đích khác nhau mà các ngân hàng có thể lựa chọn những
phương án đầu tư khác nhau cho công tác đào tạo nguồn nhân lực của mình. Nếu
muốn nhanh chóng cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, ngân hàng có thể đầu tư
tuyển dụng các nhân sự có kinh nghiệm. Ưu điểm có phương pháp này là nhanh
chóng đáp ứng được nhu cầu của ngân hàng về số lượng và chất lượng nhân sự
nhưng nhược điểm của phương pháp này là chi phí cao. Nếu muốn phát triển bền
vững thì ngân hàng có thể theo đuổi chiến lược sử dụng nguồn nhân lực hiện có và

đầu tư đào tạo dài hạn cho họ.
Kết quả của đầu tư phát triển nguồn nhân lực là ngân hàng thương mại thu
được những lợi ích như nâng cao năng suất lao động, nâng cao trình độ quản lý và
khả năng áp dụng công nghệ mới, tạo ra lợi thế của ngân hàng thương mại trên thị
trường. Bên cạnh đó, đầu tư phát triển cũng tạo ra sự gắn bó giữa người lao động
với ngân hàng.
1.3.4 Đầu tư cho hoạt động marketing
Để nâng cao năng lực cạnh tranh và chiếm lĩnh thị phần, ngân hàng phải đầu
tư cho những hoạt động marketing để phát triển thị trường.


17

Marketing là khái niệm tương đối phức tạp. Trước đây, marketing nhấn mạnh
vào quy trình lưu thơng của sản phẩm. Vai trò của marketing chủ yếu là làm sao để
bán được những sản phẩm mà doanh nghiệp đã sản xuất ra.
Ngược lại với khái niệm truyền thống, marketing hiện đại là việc tìm tìm hiểu
nhu cầu khách hàng, thiết kế và tạo ra sản phẩm như thế nào để thoả mãn nhu cầu
đó và đem lại lợi nhuận cho nhà sản xuất. Mục đích của marketing hiện đại là làm
thế nào sản xuất ra được những sản phẩm để người tiêu dùng ưa thích.
Có thể thấy, cơng việc quan trọng nhất của marketing là tạo ra các giá trị cho
khách hàng, thực hiện các cam kết, đem lại sự hài lòng và tạo ra lòng trung thành
của khách hàng. Marketing đưa ra hướng phát triển sản phẩm và có chức năng thể
hiện những gì khách hàng muốn và có nhu cầu.
Marketing được xem như là “tiếng nói của khách hàng” và bao gồm các hoạt
động triển khai và thực thi các quá trình để nắm bắt nhu cầu của khách hàng. Nhờ
đó, mà cơng ty có thể cung cấp sản phẩm/dịch vụ cho khách hàng với chất lượng tốt
nhất. Và cũng nhờ có marketing mà thương hiệu của doanh nghiệp được người tiêu
dùng biết đến, uy tín doanh nghiệp tăng lên.
Ngày nay, khách hàng ngày càng có quyền lực hơn bao giờ hết. Họ hồn tồn

có thể kiểm sốt việc sản phẩm/dịch vụ được tiêu thụ ở đâu, vào lúc nào và như thế
nào. Điều này cũng có nghĩa là khách hàng sẽ có nhiều sự lựa chọn cho mình. Họ sẽ
ít trung thành với một nhãn hiệu hơn và thích tự tìm hiểu thơng tin từ những nghiên
cứu của chính mình, bạn bè và các chun gia về sản phẩm/dịch vụ mà họ muốn
mua. Do đó Marketing càng đóng vai trò quan trọng quyết định sự thắng bại của
doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh.
Trước đây hầu hết các ngân hàng thương mại đều rất thờ ơ đối với hoạt động
đầu tư marketing. Đó là do hệ thống ngân hàng chủ yếu thuộc sở hữu của nhà nước.
Lác đác có một vài ngân hàng cổ phần có quy mơ nhỏ mới được thành lập nhưng
cũng không đáp ứng kịp nhu cầu của nhân dân và các doanh nghiệp. Tuy nhiên,
khoảng chục năm trở lại đây, cạnh tranh của các ngân hàng thương mại diễn ra gay
gắt với số lượng ngân hàng mới mở ngày càng nhiều và sự xâm nhập của hệ thống


18

các ngân hàng nước ngồi. Tình thế này đã buộc các ngân hàng phải thay đổi quan
điểm và chiến lược đầu tư cho hoạt động marketing.
Marketing của các ngân hàng thương mại chủ yếu tập trung vào các hoạt động
sau:
- Tập trung khảo sát, nghiên cứu môi trường kinh tế vĩ mô (hệ thống luật pháp,
cơ cấu dân số, môi trường địa lý, văn hóa xã hội…), mơi trường kinh tế vi mô (năng
lực củ ngân hàng, hệ thống mạng lưới, hệ thống tư vấn và hỗ trợ, nghiên cứu thị
trường mục tiêu…
- Tổ chức các chương trình khuyến mại, quảng cáo thương hiệu, huy động vốn
với lãi suất cao, các chương trình quảng cáo trên phương tiện thơng tin đại chúng,...
liên tục được áp dụng rộng rãi đã tạo tiền đề để các ngân hàng thương mại đạt được
những kết quả nhất định và nâng cao hoạt động Marketing ngân hàng tiến dần đến
thông lệ khu vực và quốc tế.
1.3.5 Đầu tư phát triển sản phẩm dịch vụ

Đầu tư phát triển sản phẩm dịch vụ là hoạt động đầu tư của ngân hàng thương
mại nhằm tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn yêu
cầu của khách hàng hiện tại và đón đầu những nhu cầu tương lai của khách hàng.
Thực trạng thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam hiện nay cho thấy, nền
kinh tế Việt Nam không thiếu ngân hàng, mà chỉ đang thiếu trầm trọng những sản
phẩm ngân hàng đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân, nhất là những sản
phẩm mà nhờ nó các ngân hàng thương mại có thể “chạy tiếp sức” được với thị
trường vốn dài hạn trên thị trường chứng khoán.
1.4 Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển trong
các ngân hàng thương mại
1.4.1 Các chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động đầu tư phát triển trong các ngân
hàng thương mại
Để xác định được các kết quả của hoạt động đầu tư phát triển trong các ngân
hàng thương mại, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:


19

1.4.1.1 Tổng tài sản tăng thêm
Đối với các ngân hàng thương mại, tổng tài sản là một chỉ số quan trọng, phản
ánh quy mô và vị thế của ngân hàng thương mại trên thị trường. Do đó, tăng trưởng
tổng tài sản cũng là một thước đo đánh giá kết quả hoạt động đầu tư phát triển.
Tổng tài sản của ngân hàng thương mại được cấu thành bởi các khoản mục
chính sau:
- Tiền mặt và tương đương tiền
- Tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước
- Tiền gửi và cho vay các tổ chức tín dụng khác
- Chứng khốn kinh doanh
- Cho vay khách hàng
- Tài sản cố định

- Tài sản có khác
1.4.1.2 Vốn chủ sở hữu tăng thêm
Khái niệm: Vốn chủ sở hữu là vốn của ngân hàng thương mại được hình
thành từ vốn điều lệ, các nguồn vốn tích lũy của ngân hàng và nguồn vốn ngân hàng
có thể huy động thêm thơng qua hình thức phát hành cổ phiếu.
Vai trò của vốn chủ sở hữu:
Vốn điều lệ là vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại, nó khơng phải là
món nợ, mà là vốn bất khả phân chia dưới mọi hình thức, có đến một thời điểm nhất
định. Vốn điều lệ là thành phần chủ yếu cấu thành vốn chủ sở hữu của ngân hàng
thương mại do đó, chúng ta nghiên cứu vai trò vốn chủ sở hữu thơng qua vai trị vốn
điều lệ của ngân hàng thương mại.
Vốn điều lệ đóng vai trị rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng thương mại. Ngân hàng thương mại có nhiều nợ xấu và các khoản rủi ro khác
như mất quỹ tiền mặt, rủi ro trong thanh tốn khơng dùng tiền mặt mà quỹ dự phịng
rủi ro và các loại quỹ khác của ngân hàng thương mại khơng đủ năng lực tài chính
xóa hết các món nợ xấu và các rủi ro khác. Khi đó thanh tra các tổ chức tín dụng
của Ngân hàng Nhà nước có quyền yêu cầu ngân hàng thương mại dùng vốn điều lệ
để xóa hết những món nợ xấu và các rủi ro khác. Nhưng nếu ngân hàng thương mại


20

dùng vốn điều lệ xóa nợ xấu và các rủi ro khác hết 50%, mà trong một thời gian
ngắn ngân hàng thương mại khơng có khả năng tăng vốn điều lệ, Ngân hàng Nhà
nước được quyền tuyên bố ngân hàng thương mại ấy đã phá sản.
Vốn điều lệ của ngân hàng thương mại Nhà nước do Bộ Tài chính cấp từ ngân
sách Nhà nước. Vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần do cổ đơng, trong
đó đại cổ đơng góp vốn, thể hiện bằng sở hữu một số lượng cổ phiếu theo luật định.
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, theo kiểu "đi vay, để cho
vay", tại sao các ngân hàng thương mại nước ta lại tăng vốn điều lệ như thời gian

vừa qua?
Theo điều 79, Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004, viết:
"Tổng dự nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có
của tổ chức tín dụng...". Trong vốn tự có, vốn điều lệ chiếm tỷ trọng rất lớn. Do đó,
nếu vốn điều lệ nhỏ, ngân hàng thương mại không thể cho những tập đoàn kinh tế
và doanh nghiệp lớn vay.
Theo tiết b, khoản 1, điều 81, Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi, bổ sung năm
2004, thì "Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định bằng tỷ lệ giữa vốn tự có so với
tài sản có, kể cả các cam kết ngoại bảng được điều chỉnh theo mức độ rủi ro".
Nội dung trên được hiểu rằng: lấy vốn tự có chia cho tổng dư nợ cho vay và
bảo lãnh, đánh giá theo mức độ có thể mất vốn; nhưng số tìm được nhân với 100,
kết quả là một con số tương đối (%). Theo thông lệ quốc tế con số tương đối ấy,
thấp nhất là 8%.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tỷ lệ an toàn vốn của mỗi ngân hàng
thương mại, nhất là ngân hàng thương mại cổ phần thấp nhất là 8%. Như vậy, các
ngân hàng thương mại muốn mở rộng khối lượng giá trị tín dụng và bảo lãnh cho
khách hàng, buộc các ngân hàng thương mại phải tăng vốn tự có, v́ vốn tự có là số
bị chia trong phép tính chia nêu trên.
Ngồi ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cịn quy định vốn điều lệ của ngân
hàng thương mại cổ phần sau khi trừ đi 70 tỷ đồng cho bản hiệu (tên ngân hàng
thương mại cổ phần), hiệu số còn lại, cứ 20 tỷ đồng vốn điều lệ, ngân hàng thương
mại ấy mới được thành lập một chi nhánh. Đến năm 2010, Ngân hàng Nhà nước



×