Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.75 KB, 96 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................
1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT VỀ THỐNG KÊ ...................................................................................
7
1.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê .......
7
1.1.1. Khái niệm ...........................................................................................
7
1.1.2. Đặc điểm...........................................................................................
15
1.2. Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê .......................
19
1.2.1. Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về thống kê ....................
19
1.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về thống kê .........................................
23
1.2.3. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về thống kê .................
27
1.3. Vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước bằng pháp luật
về thống kê ....................................................................................................
28
1.3.1. Vai trò quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê ..................... 28
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước bằng pháp luật về
thống kê ......................................................................................................
33

TIỂU

KẾT



CHƯƠNG

1 .................................................................................. 36
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT VỀ THỐNG KÊ Ở CỤC THỐNG KÊ ....................... 37
2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước bằng pháp luật về
thống kê ở Cục Thống kê ........................................................... 37
2.1.1. Đặc điểm chung về lịch sử, địa lý, điều kiện tự nhiên tỉnh Thanh


Hóa.
37

............................................................................................................

2.1.2. Cục Thống kê ............................................................... 39
2.2. Tình hình quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê ở Cục Thống
kê ................................................................................................ 46
2.2.1.Tình hình áp dụng văn bản ở Cục Thống kê .................. 46
2.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về thống kê ở Cục Thống 50
2.2.3. Công tác thanh tra, kiểm tra .............................................................
60
2.3. Đánh giá chung về quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê ở
Cục Thống kê ............................................................................. 65
2.3.1. Kết quả đạt được ..............................................................................
65
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ..................................................................
67
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ..................................................................................

76
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUÁN LÝ
NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ THỐNG KÊ Ở CỤC THỐNG
KÊ TỈNH ................................................................................ 77
3.1. Phương hướng tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống
kê ở Cục Thống kê tỉnh .............................................................. 77
3.1.1. Thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của thống kê ......
77
3.1.2. Tuân thủ đúng và đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của hoạt động
thống kê ......................................................................................................
78
3.1.3. Đổi mới, hoàn thiện công tác thống kê theo hướng hiện đại, chất
lượng và hiệu quả của cả hệ thống thống kê ..............................................
78
3.1.4. Phát triển nhanh về hệ thống tổ chức, bền vững về nguồn nhân
lực, hợp lý vệ hệ thống thông tin quốc gia .................................................
79


3.1.5. Tạo lập đầy đủ các điều kiện về cơ sở pháp lý, bộ máy tổ chức,
nguồn nhân lực, kinh phí, cơ sở vật chất kỹ thuật và các nguồn lực khác
bảo đảm tính khả thi ...................................................................................
80
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê ở
Cục Thống kê tỉnh ...................................................................... 81
3.2.1. Giải pháp về xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật về thống kê ..........................................................................................
81
3.2.2. Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ ................................................
85

3.2.3. Giải pháp về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm
các hành vi vi phạm ....................................................................................
87
3.2.4. Giải pháp về công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, phổ biến
thông tin thống kê .......................................................................................
90
3.2.5. Giải pháp về đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nâng cao năng lực quản lý
cho cán bộ thống kê trên địa bàn tỉnh ..................................... 91 3.2.6.
Giải pháp về bảo đảm cơ sở vật chất cho việc quản lý nhà nước về
thống kê ở cục thống kê tỉnh, .................................................. 93 KẾT
LUẬN ..................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................
96


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cuả dân, do dân
và vì dân’’ tính ưu việt của nhà nước ta không chỉ xác định bản chất giai cấp
tiên phong, cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn
phụ thuộc vào phương thức quản lý khoa học hiện đại, được coi là biện pháp
đảm bảo vững chắc lâu dài cho nhà nước trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình, để có những chính sách và quyết sách đúng đắn, có tính khả thi cao
thì một trong những vấn đề cốt lõi mà Nhà nước phải quan tâm đầu tiên là
phải biết rất rõ những điểm mạnh, những điểm dễ bị tổn thương của quốc gia
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách cụ thể, định lượng rõ ràng
chứ không thể là những thông tin định tính chung chung.
Thống kê là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, có vai
trò cung cấp các thông tin thống kê trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ,
kịp thời phục vụ các cơ quan nhà nước trong việc đánh giá, dự báo tình hình,

hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội và đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân góp phần
hoạch định và điều hành chính sách vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, phát triển
kinh tế - xã hội và giải quyết nhiều vấn đề đặt ra trong đời sống kinh tế, xã hội
đất nước.
Vì vậy hiểu thấu đáo tầm quan trọng của công tác thống kê với việc
hoạch định chính sách, đưa ra quyết sách và giám sát thực thi chính sách là sự
cần thiết. Việc xây dựng và ban hành Luật Thống kê đã được Quốc hội Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI thông qua ngày 17.6.2003 và
có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2004. Nghị quyết của Quốc hội Khóa XIII,
Kỳ họp thứ 7 về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ
Quốc hội Khóa XIII năm 2014 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm
2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã có góp phần tích cực đối với
1


công tác thống kê tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thống kê; khẳng định vai
trò quan trọng của công tác thống kê; địa vị pháp lý của cơ quan thống kê,
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thống kê.
Thực tiễn đời sống xã hội cho thấy hàng năm dòng thông tin thống kê
cung cấp phản ảnh các hoạt động kinh tế - xã hội do thống kê cung cấp có
khối lượng lớn và ngày càng tăng nhanh chóng xong việc thu thập xử lý thông
tin thống kê, phổ biến thông tin thống kê làm chưa tốt, vừa thiếu, vừa trùng
chéo, trong một số trường hợp do phương pháp tính khác nhau dẫn đến chưa
thống nhất về số liệu, sự phối hợp giữa thống kê tâp trung với thống kê các Bộ
ngành chưa chặt chẽ. Bên cạnh đó việc tiếp cận với cõ sở dữ liệu ban đầu của
các cuộc điều tra, tổng điều tra thống kê vẫn làm chưa tốt.
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là
do: một số cơ chế, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực thông kê còn có những
bất cập; chưa đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, chưa có một cơ chế đủ mạnh

cho việc thu thập, cung cấp và công bố thông tin thống kê, tổ chức thực hiện
chính sách pháp luật quản lý về thống kê còn có những tồn tại, hạn chế, trình
độ, kiến thức, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức còn chưa cao;
trình độ dân trí hiểu biết ở một số nơi còn thấp, không đồng đều thiếu tôn
trọng và vi phạm các quy định về cung cấp số liệu thống kê, nhiều thông tin
thống kê bị sai lệch ảnh hưởng đến việc đưa ra các hoạch định chính sách.
Đối với một tỉnh có dân số đông thứ ba so với cả nước, đông nhất các
tỉnh Bắc Trung Bộ, là tỉnh có nhiều đơn vị hành chính nhất cả nước như lại đa
dạng về sắc tộc. Bước vào thời kỳ đổi mới, yêu cầu đặt ra đối với thống kê
càng nặng nề, công tác thống kê mang tính pháp lý rõ hơn, việc xây dựng các
văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh các hoạt động quản lý nhà nước về thông
kê để họat động thống kê trong khuôn khổ hành lang pháp lý càng phải được
coi trọng. Là học viên của Học Viện Hành Chính Quốc Gia em đã chọn đề tài

2


‘’Quản lý nhà nước về lĩnh vực thông kê ở Cục Thống kê, tỉnh ’’ để thực
hiện luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê ở Việt Nam là vấn đề khá
phức tạp, có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy, trong những
năm gần đây, nhất là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, vấn đề này luôn được sự quan tâm, chú ý nghiên cứu của
các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học. Những công trình nghiên cứu đã
được công bố cũng đã đề cập đến quản lý nhà nước, quản lý nhà nước bằng
pháp luật dưới nhiều góc độ khác nhau và trên từng lĩnh vực cụ thể.
Đề tài cấp Nhà Nước “Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo luật thống
kê” của Cao Kim Oanh - Bộ KHĐT năm 2013 Nhà xuất bản Thống kê. Dùng
chỉ số đánh gía tác động của Luật thống kê bằng việc đưa ra 3 giả định chọn

phương pháp tối ưu, đưa ra thực trạng, giải pháp từ góc nhìn khác nhau song
đề tài cũng không nghiên cứu về quản lý nhà nước ở lĩnh vực thống kê tại tỉnh
.
Đề tài cấp Bộ:“Nghiên cứu biên soạn cuốn sổ tay thống kê tài chính,
tiền tệ ở Việt Nam” do Viện khoa học thống kê phối hợp với Vụ Dự báo,
thống kê tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) thực hiện. Ban Chủ nhiệm
đề tài gồm TS.Tô Huy Vũ, Vụ trưởng Vụ Dự báo thống kê tiền tệ (Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam) và Ths.Nguyễn Văn Đoàn, Viện trưởng Viện khoa học
thống kê. Đề tài làm rõ các quy định về tài chính, tiền tệ đối với lĩnh vực
thống kê ở Việt Nam chỉ là một góc nhìn áp dụng luật ở lĩnh vực tài chính,
tiền tệ thông kê, không nghiên cứu tổng quát quản lý bằng Luật ở lĩnh vực
thống kê.
Đề tài cấp Vụ “Quản lý nhà nước về thống kê ” của Mai Xuân Tỵ năm
2003, đề tài chỉ liệt kê điều trong luật thống kê năm 2003 về quản lý nhà

3


nướctrong lĩnh vực thông kê chứ chưa nghiên cứu quản lý nhà nước bằng
pháp luật lĩnh vực thống kê tại Cục Thống kê, tỉnh .
Và rất nhiều bài viết “Quá trình quản lý chất lượng số liệu thống kê’’
của “Vai trò công tác thống kê trong quản lý’’ Năm 2014 của Trường chính trị
Kontum và “Sửa đổi Luật Thống kê sẽ đáp ứng đòi hỏi thực tiễn’’ của Trần
Tuấn Hưng Vụ trưởng vụ pháp chế thống kê Tổng Cục Thống kê năm 2014.
Nhìn chung các bài viết này chỉ đề cập đến một khía cạnh quản lý nhà nước
và luật ở từng mảng riêng biệt ở Việt Nam và một số địa phương khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Về mục đích, luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận chung về
quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê. Trên cơ sở nghiên cứu thực
trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê hiện nay, luận văn đề ra

giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê trên
địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Về nhiệm vụ, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận của quản lý nhà nước bằng pháp luât về thống
kê ở Cục Thống kê, tỉnh ;
+ Đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân hạn chế hiệu lực hiệu quả
của quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê ở Cục Thống kê, tỉnh ;
+ Luận chứng của sự cần thiết phải tăng cường quản lý nhà nước bằng
pháp luật về thống kê ở Cục Thống kê, tỉnh ;
+ Xác định các phương hướng và đề xuất các giải pháp tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê ở Cục Thống kê, tỉnh .
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước bằng pháp luật

về thống kê ở Cục Thống kê, tỉnh .
Phạm vi nghiên cứu: quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê ở
Cục Thống kê, tỉnh giai đoạn 5 năm, từ năm 2011 đến 2015.
4


5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật - biện chứng

và duy vật - lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
đường lối, quan điểm của Đảng và chủ trương, chính sách của Nhà nước.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong khi thực hiện đề tài, sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
là phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh, phương pháp lịch sử và điều tra xã hội học,…để nêu bật tình hình, từ đó
có giải pháp phù hợp.
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên bình diện lý luận chung về Luật Hành Chính và Luật Hiến Pháp
luận văn bước đầu chỉ đạt được một số điểm mới sau:
Xây dựng khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về
thống kê;
Làm rõ nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật về
thống kê;
-

Trên cơ sở thống kê một cách có hệ thống tình hình thống

kê và đánh giá một cách toàn diện quản lý nhà nước về thống kê
ở từ năm 2011 đến nay. Đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản, toàn
diện của việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về
thống kê hiện nay và thời gian tới.
-

Luận văn góp phần khẳng định nhu cầu thực tiễn của việc

sử dụng pháp luật trong quản lý thống kê và làm sáng tỏ một số
vấn đề lý luận về quản lý nhà nhà nước bằng pháp luật về thống
kê, là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý thống kê, cho cán
bộ có thẩm quyền xử lý vi phạm trong lĩnh vực thống kê, cho

5



việc nghiên cứu, giảng dạy và tập huấn và phổ biến tuyên truyền
pháp luật về thống kê trên địa bàn tỉnh .
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có ba chương:
-

Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê

-

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê ở

Cục Thống kê
-

Chương 3: Phương hướng, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước

bằng pháp luật về thống kê ở Cục Thống kê, tỉnh

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT
VỀ THỐNG KÊ
1.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê
1.1.1. Khái niệm
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, việc đưa ra các quyết sách
đúng đắn vô cùng quan trọng trong việc phát triển đất nước, thống kê là một
lĩnh vực rộng lớn tác động gián tiếp đến mọi đối tượng và tầng lớp xã hội vì
thế hiểu rõ, hiểu đúng tầm quan trọng của thống kê để đưa ra các quyết định

và giám sát thực thi là vô cùng cần thiêt vì vậy có cũng có nhiều nghiên cứu
về khái niệm thống kê như sau:
Khoản 1 Điều 3 Luật thống kê 2015 quy định: "Hoạt động thống kê là
điều tra, báo cáo, tổng hợp, phân tích và công bố các thông tin phản ánh bản
chất và tính quy luật của các hiện tượng kinh tế - xã hội trong điều kiện không
gian và thời gian cụ thể do tổ chức thống kê nhà nước tiến hành".

6


Theo giáo trình nguyên lý thống kê 1 thì “Thống kê là nghiên cứu của
tập hợp nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm phân tích, giải thích, trình bày và
tổ chức dữ liệu, áp dụng thống kể để nghiên cứu các lĩnh vực khoa học, công
nghiệp hoặc các vấn đề xã hội”[24,tr20]. Thống kê rất cần thiết để bắt đầu
nghiên cứu một tiến trình nó đề cập tới tất cả các khía cạnh của dữ liệu bao
gồm việc lập kế hoạch, thu thập dữ liệu mẫu cho các cuộc khảo sát và thí
nghiệm.trong trường hợp không thể thu thập được trong quá trình điều tra tổng
thể, thống kê thu thập dữ liệu bằng cách phát triển các mẫu thí nghiệm và mẫu
khảo sát cụ thể. Mẫu đại diện cần được đảm bảo rằng những suy luận và kết
luận có thể tin cậy được từ đó suy ra toàn bộ tổng thể. Một nghiên cứu thực
nghiệm liên quan đến việc lấy kích thước mẫu, thao tác trên hệ thống và sau
đó lấy kích thước mẫu cùng dạng để xác định xem các thao tác đã thay đổi giá
trị của các phép đo. Ngược lại, một quan sát nghiên cứu không liên quan đến
việc thực hiện thí nghiệm.
Theo PGS.TS Ngô Thị Thuận trong giáo trình nguyên lý thống kê lại
đưa ra khái niệm thống kê “Tất cả các công việc từ theo dõi diễn biến của các
hiện tượng, ghi chép tài liệu - tổng hợp tài liệu ở phạm vi rộng hơn, phân tích
rút ra kết luận về bản chất, tính quy luật và đề ra các biện pháp chỉ đạo... là
một quá trình nghiên cứu thống kê”[34,tr6]. Như vậy, thống kê không chỉ là
việc cộng dồn đơn thuần các số liệu sẵn có mà là cả một quá trình nghiên cứu

theo trình tự nhất định có nội dung, mục đích và phương pháp khoa học để
đáp ứng các nhu cầu của xã hội.
Thống kê học là hệ thống các phương pháp dùng để thu thập, xử lý và
phân tích các con số (mặt lượng) của hiện tượng kinh tế - xã hội để tìm hiểu
bản chất và tính quy luật vốn có của chúng (mặt chất) trong điều kiện thời
gian và không gian cụ thể. Như vậy, từ "thống kê' có 2 nghĩa: Nghĩa thông
thường là thu thập số liệu; nghĩa rộng là một môn khoa học về bố trí, hoạch
định các quan sát và thí nghiệm; thu thập và phân tích các số liệu và rút ra kết
7


luận về các số liệu đã phân tích. Do đó, thống kê được coi là một công cụ của
nghiên cứu khoa học, quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Đây chính là "bộ đồ
nghề" của các nhà nghiên cứu và lãnh đạo.
Hiện nay khái niệm phổ biến nhất theo từ điển thống kê của TS Nguyễn
Bích Lâm Tổng Cục trưởng Cục Thống kê chủ biên mà ngành thống kê đang
sử dụng là “Thống kê là một hệ thống các phương pháp thu thập, xử lý và
phân tích các con số của những hiện tượng số lớn trong điều kiện thời gian và
không gian cụ thể, nhằm phản ảnh bản chất và tính quy luật của hiện tượng
nghiên cứu. [19,tr15].
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại
và phát triển đều phải nhờ vào sự hỗ trợ của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ
đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và chịu một sự quản lý nào
đó. Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, có người cho
rằng quản lý là hoạt động nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc thông qua
sự nỗ lực của người khác. Có người cho quản lý là một hoạt động thiết yếu
bảo đảm phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm.
Người khác lại cho rằng quản lý là sự điều hành, điều khiển, chỉ huy;... Tuy
nhiên, quan niệm do các nhà điều khiển học đưa ra là quan niệm được nhiều
giới công nhận: Quản lý là sự tác động có định hướng bất kỳ lên một hệ thống

nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật
nhất định. Quản lý xã hội là một loại hình của quản lý nói chung. Theo quan
niệm này thì: Quản lý xã hội là sự tác động có định hướng (chỉ huy, điều hành,
hướng dẫn...) lên các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người làm
cho chúng vận động và phát triển phù hợp với quy luật, đạt được mục đích và
theo ý chí của người quản lý.
Trong công tác quản lý nói chung và quản lý xã hội nói riêng, dù có nội
dung phức tạp đến đâu cũng luôn phải bao gồm các yếu tố cơ bản sau:

8


Thứ nhất, yếu tố con người. Theo Các Mác: "Bản chất của con người là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua
hoạt động của con người. Do đó, đánh giá đúng về con người, hiểu được tâm
lý, nguyện vọng của con người thì hoạt động quản lý mới thực hiện được.
Thứ hai, yếu tố chính trị. Là việc một người, nhiều người, hay một cơ
quan, một tổ chức đặt ra các mục tiêu, đường lối và tạo ra một môi trường
chính trị nhằm đạt được những mục tiêu đặt ra.
Thứ ba, yếu tố quyền uy. Đó là tổng thể của quyền lực và uy tín. Quyền
lực là công cụ để quản lý, nó bao gồm hệ thống pháp luật, điều lệ, kỷ luật, kỷ
cương;... hoạt động theo một nguyên tắc nhất định, có sự phân công rõ ràng
trên cơ sở khoa học quản lý; uy tín là phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị,
kiến thức, năng lực của người quản lý.
Thứ tư, yếu tố thông tin. Trong công tác quản lý, thông tin là căn cứ để
ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định có hiệu quả. Từ những vấn đề
trên, chúng ta có thể hiểu QLNN: "là sự tác động, tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người; duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật để thực
hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa".
QLNN có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng: QLNN là hoạt động của toàn thể bộ máy nhà nước
nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Như vậy, hoạt động của tất cả
các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội
đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
các cấp) đều là hoạt động QLNN.
Theo nghĩa hẹp: QLNN là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người do các cơ quan hành chính Nhà nước (còn gọi là cơ quan quản lý Nhà
9


nước) thực hiên để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp
luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nhà nước. Như vậy, QLNN là
hình thức biểu hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đó là tính chính trị của QLNN và là quyền lợi
chính trị của nhân dân. Từ khái niệm QLNN như trên chúng ta hiểu rằng
không phải quản lý nào cũng là QLNN, và Nhà nước quản lý toàn bộ các lĩnh
vực của đời sống xã hội không có nghĩa là các cơ quan QLNN điều chỉnh mọi
khía cạnh của đời sống xã hội, mà chỉ điều chỉnh các khía cạnh do luật định.
Với quan niệm trên, QLNN là một dạng quản lý đặc biệt, thể hiện ở các
đặc trưng sau:
Một là: QLNN mang tính chất quyền lực Nhà nước. QLNN được thực
hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước mang tính mệnh
lệnh đơn phương đòi hỏi phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người bình
đẳng, không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái với các quyết
định quản lý. Đảng ta đã chỉ rõ: "Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không
chỉ bằng đạo lý. Pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể
hiện ý chí của nhân dân, phải được thống nhất quản lý trong cả nước. Tuân

theo pháp luật là chấp hành chủ trương chính sách của Đảng". Việc quản lý
bằng pháp luật đòi hỏi các cơ quan, các cán bộ, công chức trong tổ chức và
hoạt động điều hành phải căn cứ vào luật, phải làm theo đúng quy trình pháp
luật, phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế và phải kết hợp đúng đắn giữa pháp lý
và đạo lý.
Muốn tăng cường pháp chế, quản lý đất nước bằng pháp luật, phải có
các điều kiện sau:
-

Phải xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.

Phải tuyên truyền, giáo dục pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật.

10


-

Phải tiến hành cuộc đấu tranh cương quyết, không khoan nhượng

chống các hành vi vi phạm pháp luật ở bất cứ cấp nào, cương vị nào.
-

Phải kết hợp chặt chẽ, đồng bộ ba loại biện pháp là: hành chính,

kinh tế, giáo dục.
Những điều kiện này cũng được quy định rất rõ tại điều 6 khoản 1 đến
khoản 8 về quản lý nhà nướctrong lĩnh vực thông kê theo luật thống kê 2015.
Pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước. Vì vậy, để QLNN đối với

xã hội có hiệu quả thì pháp luật phải đúng đắn. Nghĩa là pháp luật phải xuất
phát từ đường lối chính trị trong từng thời kỳ, phải phù hợp với các quy luật
khách quan, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của đất nước.
Hai là: QLNN mang tính tổ chức và điều chỉnh là chủ yếu. Tổ chức là
một khoa học về sự thiết lập các mối quan hệ xã hội giữa con người, giữa các
tập thể để thực hiện một quá trình quản lý xã hội. Tổ chức được hình thành do
nhu cầu quản lý, nó phải hoạt động và hoạt động có hiệu quả. Trong QLNN
chức năng tổ chức là quan trọng, vì không có tổ chức thì không quản lý được.
Nhà nước phải tổ chức hợp lý để mỗi người đều có một vị trí tích cực và đóng
góp đối với xã hội. QLNN nhằm tác động, điều chỉnh bằng pháp luật và các
quyết định, quản lý dưới hình thức các quy chế, tiêu chuẩn, biện pháp...; nhằm
tạo sự phù hợp giữa các chủ thể và khách thể quản lý, tạo sự cân bằng, cân đối
giữa các mặt hoạt động của các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người.
Ba là: QLNN mang tính khoa học, kế hoạch. Hoạt động QLNN là hoạt
động mang tính chủ quan của con người, nhưng dựa trên những yêu cầu khách
quan. Vì vậy, QLNN phải mang tính khoa học, chủ động, sáng tạo trong việc
điều hành, phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để
tổ chức lại nền sản xuất xã hội và cuộc sống của con người trên địa bàn mình
theo sự phân công, phân cấp, đúng thẩm quyền, đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ. Trong QLNN được quyền năng động, sáng tạo để tổ chức thực hiện pháp
11


luật, nhưng không trái với đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
nhà nước. QLNN cũng cần phải có mục tiêu chiến lược, có chương trình, kế
hoạch để thực hiện mục tiêu. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan QLNN phải có kế
hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm. Có chỉ tiêu định hướng chủ yếu, có
biện pháp cân đối để thực hiện chỉ tiêu, để hoàn thành có hiệu quả các chương
trình mục tiêu chiến lược của nhà nước.

Bốn là: Hoạt động QLNN mang tính liên tục và ổn định. Sự tác động
của QLNN phải thực hiện liên tục, thường xuyên, các quyết định QLNN phải
tương đối ổn định, tránh sự thay đổi quá nhanh chóng và phải được giữ gìn.
Đây là một đặc điểm quan trọng thể hiện tính trách nhiệm của nhà nước đối
với xã hội, với nhân dân. Nhà nước là người thay mặt cho nhân dân, là công
cụ mạnh mẽ của nhân dân lao động thực hiện quyền lực chính trị. Do đó, mọi
quyết định quản lý phải phù hợp với lợi ích, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân. Chỉ như vậy và khi đạt được như vậy thì các quyết định quản lý nhà
nước mới có hiệu lực và hiệu quả, mới trở thành hiện thực cuộc sống.
Trong quá trình thực hiện quản lý, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ
quản lý khác nhau. Mỗi một công cụ có vai trò, vị trí độc lập tương đối và
được sử dụng phù hợp với hoàn cảnh, thời điểm nhất định của hoạt động quản
lý. Tuy nhiên, với những đặc thù riêng của mình, pháp luật có khả năng triển
khai trên quy mô rộng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước một
cách có hệ thống, nhanh và hiệu quả nhất. Quyền lực của Nhà nước trong
quản lý xã hội đã được ghi nhận. Dựa trên cơ sở pháp luật, Nhà nước phát huy
quyền lực, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các tổ chức, cơ quan, nhân viên
nhà nước và mọi công dân. Pháp luật còn quy định nguyên tắc tổ chức, hoạt
động, quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan, nhân viên nhà nước, trên cơ sở
đó Nhà nước tự hoàn thiện mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định:
"Trăm điều phải có thần linh pháp quyền" [21, tr.438].

12


Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng: pháp luật là công cụ quan
trọng nhất của QLNN. Quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước gắn
liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của pháp luật. Hiến pháp của nước ta
khẳng định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa." [15, tr.17]. Để dùng pháp luật tác động vào

các quan hệ xã hội, Nhà nước phải xây dựng, ban hành ra pháp luật. Có thể
nói, xây dựng pháp luật là: "mắt khâu đầu tiên của cơ chế QLNN bằng pháp
luật" [18,tr.98]. Sau đó, Nhà nước phải tổ chức thực hiện pháp luật, tức là các
cơ quan Nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật để điều chỉnh các quá trình xã hội,
hành vi của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, của công dân... nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước đề ra. Và cuối cùng,
Nhà nước phải tiến hành các hoạt động bảo vệ pháp luật, xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh trong đời
sống, nhằm giữ gìn an ninh, trật tự xã hội.
Từ quan niệm trên: QLNN bằng pháp luật được hiểu là quản lý xã hội
do nhà nước nước tiến hành bằng công cụ pháp luật thông qua các hoạt động
xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện, xử lý vi phạm pháp luật để tác động
lên các quá trình xã hội nhằm thiết lập, duy trì trật tự xã hội theo ý trí Nhà
nước, nhằm phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
QLNN bằng pháp luật được thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống.
Trong mỗi một lĩnh vực quản lý, Nhà nước tác động vào những nhóm quan hệ
xã hội cơ bản bằng hệ thống pháp luật tương ứng. Bởi vậy, QLNN bằng pháp
luậttrong lĩnh vực thông kêcũng chỉ là một nội dung của QLNN bằng pháp
luật về thống kê, vì vậy Pháp luậttrong lĩnh vực thông kêlà tổng thể các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành có nội dung điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực thống kê. Như vậy để hoạt động QLNN về thống
kê được diễn ra thường xuyên, liên tục, đảm bảo hiệu lực và hiệu quả thì
không thể không sử dung pháp luật trong hoạt động thống kê. Dưới tác động
13


của điều chỉnh quy phạp pháp luậttrong lĩnh vực thông kêthì các quan hệ xã
hội phát sinh về thống kê được quy định tại điều 10 điểm 1 điểm 2 các hành vi
bị nghiêm cấm về thống kê được đặt vào “vòng trật tự” theo ý trí của Nhà
nước. Từ đó nhà nước mới kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ các hoạt

động thống kê diễn ra trên quy mô toàn quốc, từng khu vực, từng địa bàn.
Từ nhận thức trên có thể đưa ra khái niệm: QLNN bằng pháp luật về
thống kê là việc Nhà nước sử dụng pháp luật (thông qua các hoạt động xây
dựng, ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, thanh tra kiểm tra) để
thực hiện sự điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước đối với hành vi cá
nhân, các hoạt động của tổ chức về thống kê nhằm bảo đảm sự phát triển của
hoạt động thống kê cả nước.
1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, xây dựng
kế hoạch, quy hoạch chính sách, quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã hội
quy định;
Hoạt động quản lý nhà nước xét về bản chất chính là việc đưa ra được
các quyết định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển theo đúng định
hướng mà nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, các quyết định quản lý nhà nýớc không
phải lúc nào cũng phù hợp và đem lại hiệu lực, hiệu quả trên thực tế nhý
mong muốn của nhà quản lý. Điều này là do phần lớn các quyết định trong
quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng được ban hành trong điều
kiện không chắc chắn bởi tính phức tạp của các vấn đề, mục tiêu cần được xác
định để ra quyết định cũng như hạn chế về thông tin khi quyết định hay lợi ích
nhóm. Hơn nữa quyết định quản lý nhà nước là một sự cam kết của nhà nước
đối với các vấn đề có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội, phạm vi tác động
cũng như ảnh hưởng của nó đến các mặt đời sống xã hội là rất lớn, do vậy cần
hạn chế tối đa các sai sót, tính chủ quan, cảm tính của quyết định. Hỗ trợ và
cung cấp cơ sở khoa học cho việc ra quyết định trong quản lý nhà nước nói
14


riêng và hoạt động quản lý nhà nước nói chung không thể không nói tới công
tác thống kê và các thông tin thống kê về các mặt của đời sống kinh tế - xã
hội. Hoạt động thống kê và những thông tin thu được bởi hoạt động này có vai

trò rất lớn trong quản lý nhà nước trên phạm vi quốc gia, địa phương hay một
cơ quan, đơn vị.
Trên phạm vi rộng, những yêu cầu về quản lý nhà nước không thể thiếu
được những thông tin nhằm phục vụ cho nghiên cứu, đánh giá quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách, biện
pháp thích hợp để tác động điều chỉnh định hướng cho quá trình phát triển
kinh tế xã hội. Đó chính là thông tin thống kê. Trong lĩnh vực KT-XH, thống
kê thường quan tâm nghiên cứu các hiện tượng như: Các hiện tượng về nguồn
tài nguyên, môi trường, của cải tích lũy của đất nước, của một vùng; Các hiện
tượng về sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng sản phẩm; Các hiện tượng
về dân số, nguồn lao động; Các hiện tượng về đời sống vật chất, văn hóa của
dân cư; Các hiện tượng về sinh hoạt chính trị xã hội... Bằng nhiều phương
pháp thu thập dữ liệu, tổng hợp, phân tích và dự báo khoa học, đảm bảo tính
khách quan, chính xác, kịp thời thông tin thống kê về các hiện tượng này giúp
nhà nước nắm rõ được các nguồn lực, những yếu tố tác động, những khuynh
hướng phát triển... để xây dựng được chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội một cách chính xác; tổng hợp báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội tại
thời điểm và không gian cụ thể giúp các cấp chính quyền đề ra được các giải
pháp phù hợp, phát huy thế mạnh, tận dụng thời cơ để phát triển. Đồng thời số
liệu thống kê cũng là cơ sở quan trọng để kiểm điểm, đánh giá tình hình thực
hiện các kế hoạch, chiến lược và các chính sách đó, phục vụ kịp thời cho yêu
cầu lãnh đạo và chỉ đạo của các cấp.
Trong phạm vi hẹp, các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng thống kê
nhằm thu thập các số liệu liên quan đến các mặt hoạt động của mình trong
một thời điểm nào đó, định lượng được các hoạt động đó, giúp cơ quan đánh
15


giá khách quan tình hình hoạt động của mình để đưa ra các quy hoạch, kế
hoạch phát triển phù hợp, đúng đắn, khoa học. Thống kê cũng cung cấp các
phương pháp khoa học phân tích đánh giá mặt lượng của các hiện tượng, quá

trình hoạt động trong cơ quan giúp cho lãnh đạo nhận diện được bản chất của
sự việc, hiện tượng cũng như xu hướng vận động phát triển của chúng, trên cơ
sở đó khái quát hình dung được bức tranh tương lai của cơ quan, tổ chức
mình, là căn cứ tin cậy để đề ra chiến lược phát triển cho tổ chức và đưa ra
được các quyết định đúng đắn trong hiện tại.
Như vậy, đối với công tác quản lý của một cơ quan, tổ chức hay của
một nhà nước hiện nay thống kê đang trở thành một công cụ quản lý hữu hiệu,
đóng vai trò quan trọng nhất trong việc cung cấp, đánh giá các thông tin định
lượng nhằm phát hiện quy luật, bản chất, dự báo được xu hướng của các vấn
đề giúp cho nhà lãnh đạo có cơ sở để đưa ra các quyết định có tính khoa học
nhất, khách quan nhất, hạn chế những sai lầm dẫn đến những tổn thất đáng
tiếc làm giảm hiệu quả của công tác quản lý.
Thứ hai, Chủ thể quản quản lý nhà nước về thống kê
Cơ quản quản lý nhà nước về thông kê tại điều 7 Luật Thống kê 2015:
-

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thống kê.

-

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong

việc thống nhất quản lý nhà nước về thống kê.
-

Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình có trách nhiệm quản lý nhà nướctrong lĩnh vực thông kêtrong
ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách.
-


Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình có trách nhiệm quản lý nhà nướctrong lĩnh vực thông kê tại địa
phương.
-

Tổng cục Thống kê là cơ quan trực thuộc thực hiện chức năng

tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý nhà nước về
16


thống kê ; tổ chức các hoạt động thống kê và cung cấp thông tin thống
kê kinh tế - xã hội cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân theo quy định
của pháp luật. Tổng cục Thống kê là cơ quan thuộc Chính phủ, có trách
nhiệm giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thuộc nội dung
quản lý Nhà nước về thống kê ; tổ chức thực hiện hoạt động thống kê
và cung cấp thông tin thống kê kinh tế - xã hội cho các cơ quan, tổ chức
và cá nhân theo quy định của pháp luật; quản lý nhà nước các dịch vụ
công và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Theo đó, Tổng
Cục Thống kê có nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp
vụ đối với tất cả các hoạt động thống kê do các cơ quan, đơn vị khác
nhau tiến hành Hoạt động QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động
Thống kê diễn ra ở các cơ quan QLNN từ trung ương đến địa phương,
chính quyền địa phương các cấp thực hiện quản lýtrong lĩnh vực thông
kêở địa phương mình, các cơ quan quản lý chuyên ngành giúp đỡ
Chính phủ và chính quyền các cấp trong quản lý.
Chủ thể có thẩm quyền ban hành về hoạt động thống kê
-


Đối với điều tra thống kê

Thẩm quyền quyết định tiến hành điều tra trong chương trình điều tra
thống kê quốc gia được quy định tại điểm a, b, c khoản 3 điều 28 Luật Thống
kê 2015
Thủ tướng Chính phủ quyết định tiến hành tổng điều tra thống kê quốc
gia;
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tổng Kiểm toán nhà nước quyết định tiến hành điều tra thống kê được
phân công trong chương trình điều tra thống kê quốc gia.
-

Đối với báo cáo thống kê

17


Thẩm quyền ban hành chế độ báo cáo thống kê cấp bộ, ngành được quy
định tại điểm a, b, c khoản 3 điều 42 Luật Thống kê năm 2015 như sau:
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà
nước ban hành chế độ báo cáo thống kê cấp bộ, ngành;
Cơ quan thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm xây dựng, trình Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực ban hành chế
độ báo cáo thống kê cấp bộ, ngành áp dụng đối với lĩnh vực được phân công
phụ trách.
-


Đối với phân tích dự báo, công bố và sử dụng thông tin

Thẩm quyền công bố thông tin thống kê được quy định tại điểm a, b,
khoản 3 điều 42 và quy định tại điểm a,b,c,d khoản 3 điều 48 Luật Thống kê
năm 2015 như sau:
Thủ trưởng cơ quan thống kê trung ương công bố thông tin thống kê
thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia;
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao;
Thủ trưởng cơ quan thống kê trung ương công bố thông tin thống kê
thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia;
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tổng Kiểm toán nhà nước công bố thông tin thống kê thuộc ngành, lĩnh
vực phụ trách, trừ các thông tin thống kê quy định tại điểm a khoản này;
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố thông tin thống kê từ kết
quả điều tra thống kê quy định tại điểm c khoản 1 Điều 30 của Luật này;
Người đứng đầu cơ quan thống kê cấp tỉnh công bố thông tin thống kê
thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã.
18


Thứ ba, đối tượng áp dụng pháp luật về thống kê quy định tại điều 2
luật TK 2015;
Đối tượng áp dụng pháp luật về thống kê áp dụng đối với cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, doanh nghiệp và các
đơn vị trực thuộc mọi thành phần kinh tế, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh
doanh cá thể, cá nhân các tổ chức khác của Việt Nam ở trong nước và nước

ngoài và tổ chức và cá nhân ở nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
(gọi chung là tổ chức, cá nhân) cung cấp thông tin thống kê, các tổ chức cá
nhân sử dụng thông tin thống kê; Tổ chức thống kê người làm công tác thống
kê.
1.2. Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật về thống kê
1.2.1. Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về thống kê
Trước khi Luật Thống kê ra đời căn cứ pháp lý cao nhất cho hoạt động
Thống kê là Pháp lệnh Kế toán - Thống kê 06/LCT/HĐNN8 do Hội đồng Nhà
nước ban hành ngày 20/5/1988. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ đổi mới, Pháp
lệnh Kế toán và Thống kê đã bộc lộ nhiều hạn chế dẫn đến việc Chính phủ
phải thành lập hai ban soạn thảo dự Luật Kế toán và Luật Thống kê. Năm
2003, Chính phủ ban hành 2 văn bản quy phạm pháp luật quan trọng sau:
Nghị định số 40/2004/NĐ-CP ngày 13/02/2004 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê (sau đây gọi tắt là
Nghị định 40/2004/NĐ-CP). Nghị định số 14/2005/NĐ-CP ngày 04 tháng 02
năm 2005 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính về thống kê (sau đây
gọi tắt là Nghị định 14/2005/NĐ-CP). Sau 10 năm luật 2003 đã có hững hạn
chế nên ngày 23/11/2015, Luật thống kê số 89/2015/QH13 đã được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua (thay thế Luật thống kê
2003). Luật thống kê năm 2015 gồm 9 chương, 72 điều và 1 phụ lục Danh
mục chỉ tiêu thống kê quốc gia (tăng 1 chương, 30 điều so với Luật năm 2003
19


gồm 8 chương, 42 điều). Luật quy định rõ Danh mục chỉ tiêu về khoa học và
công nghệ trong Danh mục Hệ thống chỉ tiêu quốc gia.
Luật thống kê 2015 quy định rõ các hệ thống thông tin thống kê Việt
Nam, bao gồm: hệ thống thông tin thống kê quốc gia; hệ thống thông tin
thống kê bộ, ngành; hệ thống thông tin thống kê cấp tỉnh; hệ thống thông tin
thống kê cấp huyện. Đã quy định rõ mối quan hệ giữa các hệ thống thông tin

thống kê và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng các hệ
thống thông tin thống kê. Việc bổ sung một số nội dung mới này nhằm bảo
đảm tính nhất quán trong hoạt động thống kê nhà nước, làm cơ sở bảo đảm
cho thông tin thống kê nhà nước không mâu thuẫn, chồng chéo, bảo đảm tính
khách quan, trung thực, có độ tin cậy cao đối với người sử dụng.
Luật thống kê 2015 cụ thể hóa danh mục Hệ thống chỉ tiêu thống kê
quốc gia, quy định phân cấp rõ ràng giữa trách nhiệm thu thập, tổng hợp và
công bố của Cơ quan Thống kê Trung ương và Bộ, ngành, địa phương. Ngoài
hình thức thu thập thông tin thống kê được quy định tại Luật thống kê năm
2003 chủ yếu qua điều tra thống kê và chế độ báo cáo thống kê, Luật thống kê
2015 đã bổ sung hình thức thu thập thông tin thống kê từ sử dụng dữ liệu hành
chính cho hoạt động thống kê nhà nước. Khi sử dụng dữ liệu hành chính cho
hoạt động thống kê nhà nước sẽ tận dụng được nguồn tài nguyên sẵn có, đầy
đủ về phạm vi, đáp ứng tính kịp thời và thường xuyên được cập nhật, tiết
kiệm chi phí, đồng thời giảm bớt phiền hà, gánh nặng cho cả người cung cấp
thông tin và người thu thập thông tin, cụ thể hóa lĩnh vực ưu tiên đầu tư trong
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại vào hoạt động thu thập
và phổ biến thông tin thống kê, đã quy định lịch công bố thông tin thống kê là
căn cứ để minh bạch hóa việc công bố, phổ biến thông tin thống kê. Đồng thời
cũng là cam kết của cơ quan thống kê trong việc cung cấp kịp thời các thông
tin thống kê và giúp cho tổ chức, cá nhân sử dụng thông tin thống kê nhà nước
chủ động tiếp cận, sử dụng. Hiện tại Luật Thống kê 89/2015/QH13 ban hành
20


23/11/2015 là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh mọi hoạt động của hoạt
động thống kê đến thời điểm hiện tại.
Trong những năm qua đất nước các ngày càng đổi mới, yêu cầu đặt ra
đối với ngành Thống kê hết sức nặng nề, công tác thống kê mang tính pháp lý
rõ hơn Chính phủ và các Bộ, Ngành đã ban hành hàng loạt văn bản quy định,

hướng dẫn thực hiện công tác này:
STT
Cơ quan ban
Tổng 2011 2012 2013 2014 2015 2016
hành
cộng
1

Quốc hội

1

1

2

Thủ tướng

21

5

5

4

3

Bộ tài chính


4

1

2

1

4

Bộ kế hoạch

23

4

8

4

5

Tổng cục

27

3

2


12

6

Liên bộ ngành

5

1

2

Tổng

81

14

19

16

4

3

4

2


1

4

3

3

1

1

11

8

13

(Tổng hợp từ vụ tổ chức Tổng cục Thống kê)
Từ năm 2011 đến nay đã có 81 văn bản pháp lý được ban hành, trong
đó quốc hội đã thông qua Luật thống kê 88/2015/QH13 có hiệu lực ngày
23/11/2015 là văn bản pháp lý cao nhất hướng dẫn quy định về công tác thống
kê, trong vòng 5 năm thủ tướng chính phủ đã ban hành 21 quyết định trong đó
có 4 nghị định, 2 chỉ thị của thủ tướng về tăng cường công tác thống kê bộ
ngành 10/CT-TTg, QĐ 1803/QĐ-TTG phê duyệt chiến lượng phát triển thống
kê gian đoạn 2011-2020 tầm nhìn đến năm 2030; Bộ tài chính đã ban hành 2
Thông tư liên tịch, 2 quyết định hướng dẫn sử dụng kinh phí trong hoạt động
thống kê và phát triển hệ thống thông tin dữ liệu tài chính trong hoạt động
thống kê, Bộ kế hoạch đã ban hành 23 quyết định và thông tư, Tổng cục
Thống kê ban hành 27 quyết định, Các cơ quan liên ngành như Bộ tư pháp,

Bộ nông nghiệp, Bộ giáo dục đào tạo, Bộ lao động thương binh xã hội, Bộ
khoa học công nghê... đã thống nhất thông qua 10 thông tư về quy chế phối

21


hợp điều hành quản lý đối với công tác thống kê, về trợ giúp pháp lý thống kê
như TT02/2011BTP. Từ khi Luật Thống kê có hiệu lực, môi trường pháp lý
trong quản lý nhà nước về công tác thống kê đã được hoàn thiện đồng bộ và
kịp thời hơn, thể hiện bằng việc Chính phủ ban hành 2 văn bản quy phạm
pháp luật quan trọng sau: Quyết định 803/QĐ ngày 28/06/2012 của Chính phủ
quy định về việc phê duyệt chương trình điều tra thống kê và quyết định
1397/QĐ-TTg phê duyệt kinh phí đổi mới đồng bộ hệ thống chỉ tiêu thống kê
13/8/2013, ngoài ra chính phủ cũng phê duyệt nghị định quan trọng tăng thẩm
quyền cho hoạt động thông kê NĐ79/2013 ngày 19/7/2013 xử phạm vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thống kê. Đối với Cục Thống kê Tỉnh thì QĐ 707/
QĐ-TCTK ngày 31/10/2011 về giao kế hoạch công tác và chấm điểm thi đua
đối với Cục Thống kê tỉnh và quyết định 707/QĐ-TCTK, 275/QĐ-TCTK năm
2012 ngày kế hoạch điều tra thống kê trong năm của từng đơn vị, QĐ 1433/
QĐ-TCTK 27/12/2014 về sử dụng hệ thống thư điện tử, quyết định 763/
QĐTCTK về quy chế đào tạo thống kê 30/6/2015, quyết định 1428/QĐTCTK phổ biến giáo giục pháp luật ngày 25/12/2015, nghị định 79/2013/NĐCP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê, quyết định
289/QĐTCTK phát triển nhân lực thống kê giai đoanh 2011-2020. Những
quyết định quan trọng này không chỉ có tác dụng lớn đối với Ngành thống kê
chung mà tác động lớn đến các Cục Thống kê địa phương hướng dẫn cụ thể
về điều tra, sử dụng kinh phí, tuyên truyền pháp luật.... để phục vụ quá trình
quản lý nhà nướctrong lĩnh vực thông kêđược tốt hơn.
1.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về thống kê
Bản thân pháp luật mới chỉ là những quy định thể hiện ý chí của nhà
nước. Điều quan trọng là làm sao để pháp luật trở thành một đại lượng tồn tại
hợp qui luật, bám rễ chặt trong cuộc sống, mọi chủ thể trong xã hội bao gồm

tất cả công dân, tổ chức, cơ quan (trong đó có cả nhà nước) tuân theo. Khi đó
(và chỉ khi đó) pháp luật mới thực sự trở thành công cụ quản lý của nhà nước
22


×