Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ của chính quyền cơ sở tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.17 KB, 130 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu đề tài "Quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật tự an
toàn giao thông đường bộ của chính quyền cơ sở tỉnh Thanh Hóa" là hết sức
cần thiết, bởi những lý do sau:
Một là, quản lý nhà nước bằng pháp luật - theo chủ trương của Đảng
tuy đã được thực hiện trong nhiều năm song không phải ở cấp quản lý nhà
nước nào, ở lĩnh vực quản lý nào cũng được bảo đảm. Trên lĩnh vực trật tự an
toàn giao thông đường bộ (TTATGTĐB), ở cấp chính quyền cơ sở, việc quản
lý bằng pháp luật còn rất nhiều hạn chế, là một trong các nguyên nhân dẫn
đến tình trạng ùn tắc, ô nhiễm môi trường, và đặc biệt là tình hình tai nạn giao
thông (TNGT) đang ngày càng gia tăng.
Hai là, Thanh Hóa là một tỉnh lớn, dân số đông (trên 3,8 triệu người),
đang trên đà phát triển, đang đứng trước nhiều vấn đề lớn về kinh tế - xã hội
phải giải quyết, trong đó có vấn đề củng cố xây dựng bộ máy chính quyền cơ
sở, nâng cao trình độ, năng lực quản lý bằng pháp luật của cấp chính quyền
này. Thực tế cho thấy, nhiều cấp chính quyền cơ sở trên địa bàn tỉnh thực hiện
công tác quản lý trong lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ (ATGTĐB) còn
nhiều hạn chế. Ở những nơi đó thường là TTATGTĐB không được bảo đảm,
hầu hết các vi phạm, va chạm, TNGT đều xảy ra trên địa bàn này. Cùng với
việc chính quyền cơ sở chưa làm tốt công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật
về TTATGTĐB thì ý thức chấp hành pháp luật an toàn giao thông (ATGT)
của người dân, nhất là lớp trẻ ở nông thôn khi tham gia giao thông còn yếu
kém, vai trò của đội ngũ công an xã chưa được phát huy.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội mới của đất nước, Nghị quyết Đại hội
lần thứ X của Đảng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo
đảm các đạo luật có vai trò trung tâm trong hệ thống pháp luật, trực tiếp điều
1
chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo chủ trương đó, việc bảo đảm quản
lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB nói chung, trên địa bàn cơ sở nói
riêng có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt, trong đó không chỉ để khắc phục sự mất


ATGT ùn tắc, giảm thiểu, va chạm, TNGT, giảm thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, vật chất do TNGT gây ra, mà còn góp phần tạo ra môi trường xã hội
lành mạnh, nâng cao ý thức pháp luật, thúc đẩy phát triển toàn diện các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Cũng qua đó, góp phần xây dựng chính quyền
cơ sở vững mạnh, phát huy được vai trò to lớn của chính quyền này trong
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, vai trò tự quản của cộng đồng làng, xã.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn có thể được
chia thành hai nhóm:
1. Nhóm các công trình nghiên cứu xử lý những vấn đề có tính kỹ
thuật, như các đề án khắc phục ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, nhất là
làm giảm TNGT. Do yêu cầu, phạm vi, nội dung nghiên cứu đề tài, các công
trình này chỉ là các tài liệu tham khảo.
2. Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu những vấn đề lý luận
liên quan đến quản lý nhà nước bằng pháp luật về các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội, trong đó có các công trình trực tiếp nghiên cứu lĩnh vực quản lý
TTATGTĐB. Cụ thể nhóm này có các công trình khoa học tiêu biểu sau đây:
- Đề tài khoa học cấp bộ (1998): "Tai nạn giao thông đường bộ, thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa của lực lượng Cảnh sát giao thông",
Bộ Công an. Đề tài nghiên cứu những vấn đề đúng như tên đề tài đã xác định,
trong đó, về mặt lý luận, đã làm rõ khái niệm tai nạn giao thông đường bộ
(TNGTĐB), những nguyên nhân và điều kiện dẫn đến TNGT, những giải pháp
mà lực lượng Cảnh sát giao thông cần thực hiện để giảm thiểu TNGT hiện nay.
- Về các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ liên quan đến đề tài luận văn.
Dưới góc độ luật học, có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đã bảo vệ
2
thành công ở trong và ngoài Học viện. Đề tài của các luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ đó nghiên cứu quản lý nhà nước bằng pháp luật trên nhiều lĩnh vực
quản lý nhà nước, mới đây nhất có:
+ Luận án tiến sĩ (2006): "Quản lý nhà nước bằng pháp luật lĩnh vực

bảo vệ rừng", của nghiên cứu sinh Hà Công Tuấn, bảo vệ tại Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Luận án tiến sĩ (2006): "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay", của nghiên cứu sinh Lê Văn
Trung, bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, còn nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ khác về đề tài
quản lý nhà nước các lĩnh vực khác, như lĩnh vực hoạt động du lịch, về văn
hóa, xuất bản… Những luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đó đã nghiên cứu
những cơ sở lý luận chung về quản lý nhà nước bằng pháp luật mà tác giả có
thể kế thừa trong thực hiện Luận văn của mình.
Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu những vấn đề liên
quan trực tiếp đến lĩnh vực trật tự an toàn giao thông (TTATGT), đáng chú ý là:
+ Luận văn thạc sĩ luật học (2001): "Tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay" của Nguyễn
Huy Bằng, bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã
xây dựng cơ sở lý luận về pháp chế, trong lĩnh vực TTATGTĐB, như khái niệm
pháp chế pháp chế trong lĩnh vực TTATGTĐB, nội dung và giải pháp tăng
cường pháp chế trên lĩnh vực này. Mặc dù đề tài luận văn này không trùng lặp
với đề tài luận văn mà tác giả nghiên cứu, song có nhiều vấn đề, nhất là những
vấn đề về cơ sở pháp luật của pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường bộ
(GTĐB) có giá trị tham khảo đối với việc thực hiện luận văn của tác giả.
- Luận văn thạc sĩ luật học (2005): "Tăng cường quản lý nhà nước
bằng pháp luật trên lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay", của
Dương Quốc Hoàng, bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
3
Những vấn đề lý luận mà luận văn này nghiên cứu trực tiếp liên quan đến đề
tài luận văn. Tuy nhiên, đề tài luận văn mà tác giả nghiên cứu hẹp hơn, cụ thể
hơn, tức là chỉ nghiên cứu lĩnh vực TTATGTĐB mà chủ thể quản lý là cấp
chính quyền cơ sở, gắn với đơn vị hành chính cụ thể là tỉnh Thanh Hóa.
- Sách của nhóm tác giả Trần Văn Luyện, Trần Sơn và Nguyễn Văn

Chính đồng chủ biên (2003), Trật tự an toàn giao thông đường bộ - Thực
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia. Sách đã phân tích khái niệm
TTATGTĐB, thực trạng và giải pháp bảo đảm TTATGTĐB. Khái niệm
TTATGTĐB mà các tác giả cuốn sách đưa ra có giá trị tham khảo đối với
việc thực hiện đề tài luận văn.
- Một số bài viết của các nhà khoa học đăng trên các tạp chí có liên
quan đến đề tài, chủ yếu là trên Tạp chí Giao thông vận tải (GTVT), Tạp chí
Quản lý nhà nước, nghiên cứu quản lý nhà nước lĩnh vực GTVT, giao thông đô
thị dưới góc độ của ngành luật hành chính, đáng chú ý là các công trình sau:
+ Nguyễn Thủy Anh (2003): "Đổi mới quản lý nhà nước về giao thông
công cộng trong đô thị lớn ở nước ta", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 5/2003.
+ Hoàng Đình Ban (2004) "Luật Giao thông đường bộ sau hai năm
nhìn lại", Tạp chí GTVT, số 3/2004.
+ Lê Ngọc Tiến (2004) "Giáo dục pháp luật - biện pháp quan trọng
trong giảm thiểu tai nạn giao thông đường bộ", Tạp chí GTVT, số 7/2004.
Từ nội dung của các công trình khoa học trên cho thấy đề tài luận văn
không trùng lặp, là đề tài mới thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước
và pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Về mục đích: Luận văn có mục đích nghiên cứu những cơ sở lý luận
và thực tiễn của các giải pháp bảo đảm cho chính quyền cơ sở tỉnh Thanh Hóa
thực hiện có hiệu quả công cụ pháp luật trong quản lý về TTATGTĐB, nhờ
4
đó khắc phục được tình trạng ùn tắc giao thông, giảm thiểu TNGT, bảo vệ tốt
môi trường sống, sinh hoạt, học tập, làm ăn của người dân ở cơ sở.
- Về nhiệm vụ: Phù hợp mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm
vụ sau:
+ Phân tích những cơ sở lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật,
những đặc điểm và nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật của chính
quyền cơ sở đối với lĩnh vực TTATGTĐB, những yếu tố bảo đảm cho cấp

chính quyền này thực hiện việc quản lý có hiệu quả lĩnh vực TTATGTĐB
bằng công cụ pháp luật hiện nay.
+ Phân tích thực trạng TTATGTĐB và thực trạng quản lý nhà nước
bằng pháp luật trên lĩnh vực này của cấp chính quyền cơ sở tỉnh Thanh Hóa,
thời gian từ năm 2003 đến nay. Qua phân tích thực trạng, luận văn rút ra ưu
điểm, hạn chế, nhất là rút ra những nguyên nhân hạn chế trong quản lý bằng
pháp luật của chính quyền cơ sở trên lĩnh vực TTATGTĐB.
+ Đề xuất và luận chứng các giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước bằng
pháp luật về TTATGTĐB của chính quyền cơ sở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là
những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp luật của chính
quyền cơ sở trên lĩnh vực TTATGTĐB.
- Về phạm vi nghiên cứu: Do khuôn khổ có hạn, luận văn chỉ giới hạn
phạm vi nghiên cứu là hoạt động quản lý bằng pháp luật của chính quyền xã,
thị trấn ở tỉnh Thanh Hóa, thời gian nghiên cứu gắn với nhiệm kỳ của chính
quyền cơ sở, từ năm 2003 đến năm 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà
nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về đổi mới, cải cách bộ máy nhà
5
nước, phát huy vai trò của chính quyền cơ sở trong quản lý kinh tế - xã hội
bằng pháp luật trên địa bàn.
Luận văn cũng dựa trên cơ sở lý luận của khoa học luật chuyên ngành,
trực tiếp là cơ sở lý luận của bộ môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
Về phương pháp nghiên cứu: Ngoài các phương pháp truyền thống
của triết học Mác - Lênin, như phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn,
phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, luận văn còn sử dụng một số phương
pháp của lý thuyết hệ thống, xã hội học, khoa học thống kê. Cụ thể là:
- Các phương pháp của triết học Mác - Lênin, như phương pháp phân

tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn được sử
dụng đồng thời để giải quyết các nhiệm vụ của luận văn ở cả 03 chương.
- Phương pháp xã hội học, thống kê được sử dụng chủ yếu trong
chương 2, phần đánh giá thực trạng TTATGTĐB và thực trạng quản lý nhà nước
bằng pháp luật lĩnh vực này của chính quyền xã, thị trấn ở tỉnh Thanh Hóa.
- Phương pháp lý thuyết hệ thống bảo đảm cho những nội dung được
đưa ra phân tích, nhất là trong việc lập luận các quan điểm, giải pháp có mối
liên hệ hữu cơ, các chương, tiết của luận văn có tính liên thông, nhất quán.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Từ kết quả nghiên cứu mà luận văn đạt được có thể nêu một số điểm
mới sau:
- Xây dựng những cơ sở lý luận cho việc bảo đảm quản lý nhà nước
bằng pháp luật về TTATGTĐB của cấp chính quyền cơ sở, các yếu tố bảo
đảm cho cấp chính quyền này quản lý bằng pháp luật về TTATGTĐB vốn
đang là vấn đề hết sức bức xúc hiện nay.
- Đánh giá khái quát thực trạng quản lý bằng pháp luật về TTATGTĐB
của cấp chính quyền xã, thị trấn, rút ra các nguyên nhân hạn chế trong việc
quản lý bằng pháp luật về TTATGTĐB của cấp chính quyền này ở tỉnh Thanh
Hóa hiện nay.
6
- Luận chứng các giải pháp bảo đảm cho chính quyền xã, thị trấn ở
tỉnh Thanh Hóa quản lý bằng pháp luật về TTATGTĐB phù hợp với điều
kiện hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đóng góp vào việc hoàn thiện những cơ sở lý luận về quản
lý nhà nước bằng pháp luật đối với một cấp chính quyền cụ thể, từ đó cung
cấp những cơ sở khoa học cho việc đề xuất và thực thi có hiệu quả các giải
pháp bảo đảm cho cấp chính quyền cơ sở thực hiện quản lý bằng pháp luật về
TTATGTĐB, đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật TTATGTĐB của các cơ quan quản

lý nhà nước.
Về học thuật, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong giảng dạy, nghiên cứu tại các cơ sở nghiên cứu đào tạo luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
CỦA CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ CỦA CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật tự an
toàn giao thông đường bộ của chính quyền cơ sở
Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB liên quan
đến nhiều khái niệm khác như: khái niệm quản lý, quản lý nhà nước, quản lý
nhà nước bằng pháp luật. Tuy nhiên, đây cũng là những khái niệm đã được
nhiều công trình khoa học, trong đó có các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ
nghiên cứu. Để có tính hệ thống luận văn chỉ khái quát những nội dung cơ
bản của các khái niệm ấy.
1.1.1.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là nhu cầu khách quan của xã hội, ngay từ xã hội mông muội,
đến xã hội hiện đại ngày nay. Quản lý xuất hiện thì các học thuyết về quản lý
cũng ra đời, phát triển và không ngừng hoàn thiện. Mỗi học thuyết quản lý
nghiên cứu theo những "lát cắt" khác nhau. Học thuyết quản lý của Khổng Tử
là một trong các thuyết ra đời sớm nhất, cho đến ngày nay vẫn có ảnh hưởng
lớn đến thực tiễn quản lý ở cả các nước phương Ðông, và cả các nước phương
Tây. Khổng Tử không chỉ là nhà khoa học quản lý lỗi lạc, mà còn là nhà thực
tiễn quản lý tài ba, và là người đầu tiên trên thế giới mở trường tư dạy quản

lý. Những môn sinh của Ông có nhiều người xuất thân từ thân phận thấp hèn,
song có người làm tới chức Tể tướng, như Tử Du (Ngôn Yên); làm quan Đại
trượng phu, như Tể Dư, Nhiễu Cầu, Trọng Di (Tử Lộ), hoặc trở thành những
nhà giáo - học giả nổi tiếng như Tử Hạ, Tăng Sâm, Tử Trương...
8
Học thuyết quản lý của Khổng Tử lấy đạo nhân làm triết lý, lấy nhân,
lễ, nghĩa, trí, lợi làm thành các nguyên tắc căn bản để xây dựng các chính
sách cai trị, đào tạo tầng lớp quan cai trị, để dùng người (quản lý nhân sự).
Thuyết chính danh, một trong những nội dung chính yếu của học thuyết quản
lý của Khổng Tử, đòi hỏi "quản lý chính danh là phải làm việc xứng với danh
hiệu chức vụ mà người đó được giao" [32, tr. 65], "vua ra vua, tôi ra tôi, cha
ra cha, con ra con".
Đối ngược với học thuyết của Khổng Tử, học thuyết quản lý của Hàn
Phi Tử lấy chủ trương pháp trị, dùng pháp luật để cai trị. Trên cơ sở của tư
tưởng triết học cơ bản là "bản chất con người có tính ác, mưu lợi cho bản
thân" [32, tr. 65], Hàn Phi Tử luận về pháp trị trong quản lý, nhấn mạnh "pháp
phải tùy thời", "thời thay mà pháp luật không đổi thì loạn, đời đã thay đổi mà
cấm lệnh không biến thì nước bị chia cắt" [32, tr. 74]; hay "pháp luật phải
soạn thảo cho dân dễ biết, dễ thi hành", "phải có tính phổ biến".
Ở phương Tây, những học thuyết quản lý cũng ra đời từ rất sớm, gắn
liền với những tên tuổi lỗi lạc, như Aristot, Đề Các, Xô Crat, Sô Lông...
Như trên đã nêu, tùy theo góc độ nghiên cứu, mà các học thuyết quản
lý đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về quản lý:
- Từ góc độ xem con người là động vật kinh tế, FW. Taylor (1856-1915)
quan niệm: "Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và
sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất" [32, tr. 8].
- Xem con người là một thực thể xã hội, có đời sống tâm lý, tính cảm,
có tính tổ chức và tính cộng đồng, vừa là đối tượng quản lý, đồng thời cũng là
chủ thể quản lý đã là cơ sở của nhiều học thuyết quản lý sống động và đầy đủ
hơn. Những học thuyết này cho rằng "hiệu quả lao động tăng lên không chỉ ở

cách quản lý khoa học mà còn khi tạo ra được trong các tổ chức đó những mối
quan hệ con người tốt đẹp" [32, tr. 15]; rằng "phải chú trọng tới những người
lao động với toàn bộ đời sống của họ, cả yếu tố kinh tế lẫn yếu tố tinh thần và
9
tình cảm" [32, tr. 15]. Đó là các học thuyết quản lý của M.Follet (1868 -1933),
của E.Mayo (1880-1949);
- P. Drucker xây dựng học thuyết quản lý của mình trong xã hội thông
tin - hậu công nghệ, với triết lý "kiến thức và hiệu quả lao động trí óc trở
thành nhân tố quyết định sự phát triển của các tổ chức".
Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, học thuyết về quản lý cũng phát triển
hết sức phong phú. V.I. Lênin là người đầu tiên sau Cách mạng Tháng Mười
năm 1917 đã đặc biệt chú trọng đến vấn đề quản lý. Người nhấn mạnh nhiệm
vụ trọng tâm của chính quyền Xô viết "là quản lý và quản lý" đồng thời đòi
hỏi phải phân biệt quản lý với hoạt động chính trị, rằng "mục tiêu cơ bản của
hoạt động quản lý nhà nước là nhằm phát triển kinh tế" [32, tr. 12], phải học
tập quản lý "ở những nhà tổ chức lớn nhất của chủ nghĩa tư bản" [32, tr. 12].
Nội dung cơ bản của những học thuyết về quản lý xã hội trong các nhà
nước xã hội chủ nghĩa là:
- Quản lý xã hội là quản lý một cách khoa học, "là sự tác động có ý
thức, có mục đích của con người lên toàn bộ hệ thống xã hội hoặc đến từng
khâu của nó" (các phạm vi hoạt động xã hội, các ngành kinh tế, các liên hiệp
sản xuất, các xí nghiệp...), bảo đảm sự hoạt động tối ưu và sự phát triển của
chúng trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan và những xu hướng vốn
có của chủ nghĩa xã hội [64, tr. 263].
Quản lý với quan niệm trên là khách quan, vừa là kết quả, vừa là yêu
cầu cần thiết của sự giao tiếp trong quá trình lao động, trao đổi sản phẩm lao
động, yêu cầu về tính tổ chức, trật tự, sự phân công lao động, hay do tính chất
xã hội của lao động quyết định.
- Quản lý xã hội một cách khoa học là việc sử dụng hệ thống tri thức,
công cụ, phương thức và cơ chế đa dạng, phong phú tác động lên ý thức, hành

vi của con người, "làm cho sự hoạt động chủ quan của con người phù hợp
những đòi hỏi của những quy luật khách quan" [64, tr. 263].
10
- Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội một cách khoa học là
quản lý con người, "là sự tổ chức một cách tốt nhất đời sống kinh tế của họ,
giáo dục họ theo tinh thần, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa" [64, tr. 263].
Tóm lại, Tùy theo từng góc độ nghiên cứu, quản lý được quan niệm
khác nhau, với những định nghĩa khác nhau, song quản lý, về thực chất là quản
lý con người, là thực hiện những tác động lên ý thức, tâm lý, tình cảm của con
người bằng một hệ thống công cụ, phương tiện, mô hình và cơ chế khác nhau
nhằm tổ chức, điều chỉnh hành vi của con người theo những mục tiêu quản lý,
phù hợp với quy luật vận động khách quan của tổ chức, của xã hội.
1.1.1.2. Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước bằng pháp luật
Quản lý nhà nước hay quản lý của nhà nước là những hoạt động quản
lý, song có những đặc trưng riêng, đó là:
- Quản lý nhà nước chỉ xuất hiện khi nhà nước xuất hiện. Nhà nước
trở thành người đại diện xã hội, là chủ thể chủ yếu quản lý xã hội, quản lý một
cách toàn diện cả về dân cư, lãnh thổ và quản lý các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội.
- Quản lý nhà nước là quản lý công, được phân biệt với quản lý tư ở
mục tiêu quản lý là những lợi ích công cộng, được bảo đảm bằng quyền lực
công mà xã hội trao cho nhà nước.
- Quản lý nhà nước là quản lý bằng pháp luật, theo pháp luật. Pháp
luật vừa là chuẩn mực của quản lý, vừa thể hiện và bảo đảm uy quyền trong
quản lý. Có thể khẳng định: Có nhiều học thuyết quản lý khác nhau; có học
thuyết xem nhẹ pháp luật, có học thuyết coi trọng pháp luật, song không có
nhà nước nào không quản lý bằng pháp luật. Không có pháp luật nhà nước
không có công cụ, uy quyền để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý.
Do pháp luật có vị trí quan trọng đặc biệt trong quản lý nhà nước nên
việc định ra pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật được gắn

11
với những chức năng quản lý, quy trình quản lý của nhà nước, gắn với việc
thực hiện quyền lực nhà nước.
- Vì vai trò của pháp luật như trên nên quản lý nhà nước đối với xã hội
(quản lý dân cư, quản lý lãnh thổ, quản lý các mặt, các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội) cũng đồng nghĩa với quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
xã hội. Và như thế, nội dung của quản lý, hay của những hoạt động quản lý
mà nhà nước là chủ thể được quy ra thành ba hoạt động sau:
Một là, hoạt động soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật:
Đây là hoạt động nhằm đặt ra các chuẩn mực pháp lý để điều chỉnh các hành
vi, hoạt động quản lý cụ thể nhằm tác động lên đối tượng quản lý, hướng đối
tượng quản lý theo những mục tiêu (khách thể quản lý) cụ thể.
Hoạt động soạn thảo, ban hành pháp luật là hoạt động đầu tiên của chu
trình quản lý nhà nước, và với nội dung trên, trở thành hoạt động có tính chất
quyết định hiệu lực, hiệu quả quản lý, chi phối các hoạt động khác của quản lý.
Tất nhiên, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước còn phụ thuộc vào chất lượng
các văn bản quy phạm pháp luật - sản phẩm của hoạt động ấy. Đó phải là một hệ
thống pháp luật có đầy đủ các thuộc tính hiện đại, như tính thống nhất, đồng bộ,
toàn diện, ổn định, minh bạch, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội
trong từng giai đoạn khác nhau của xã hội, phù hợp và phản ánh được đầy đủ
tâm tư, nguyện vọng, ý chí của số đông đối tượng quản lý, có tính phổ thông
đại chúng, được trình bày với trình độ kỹ thuật cao, và do đó có tính khả thi.
Trong điều kiện của nhà nước pháp quyền, các đạo luật ngày càng giữ vị trí
trung tâm, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội thì giai đoạn đầu tiên của
chu trình quản lý nhà nước, cũng là nội dung đầu tiên của hoạt động quản lý
nhà nước chính là hoạt động thực hiện chức năng lập pháp của cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân (Quốc hội).
Hoạt động soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật - xét dưới
góc độ quản lý, cũng là hoạt động ra quyết định quản lý quy phạm, thể hiện ý
12

chí, quyền uy của chủ thể quản lý (nhà nước); ý chí và quyền uy này có tính
chất bắt buộc thi hành một cách phổ biến, được bảo đảm kể cả bằng các biện
pháp cưỡng chế. Việc ra các quyết định quản lý quy phạm dưới các hình thức
của pháp luật trở thành một trong các hình thức của quản lý nhà nước.
Hai là, Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật:
Xét theo chu trình quản lý, hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật là
giai đoạn tiếp nối hoạt động soạn thảo, ban hành pháp luật, thực chất là hoạt
động nhằm hiện thực hóa các quyết định quản lý quy phạm trên những lĩnh
vực quản lý cụ thể, là sự tác động quản lý lên ý thức, hành vi của đối tượng
quản lý, tổ chức, định hướng những hành vi đó trong những điều kiện, hoàn
cảnh nhất định diễn ra phù hợp với khách thể của quản lý.
Cũng như hoạt động soạn thảo, ban hành pháp luật, hoạt động tổ chức
thực hiện pháp luật trong quản lý nhà nước phải theo một quy trình chặt chẽ,
và do những cơ quan quản lý nhà nước, công chức nhà nước có thẩm quyền
thực hiện. Hoạt động đó cũng phải được tiến hành theo các cách thức luật
định, bằng một hệ thống thủ tục (thủ tục hành chính) mang tính pháp lý. Tuy
nhiên, những điều đó không làm mất đi tính chất sáng tạo của quản lý. Về
thực chất, hoạt động thực hiện pháp luật trong quản lý nhà nước là hoạt động
nhằm vận dụng, áp dụng sáng tạo pháp luật trong quá trình quản lý, phù hợp
với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể xuất hiện trong quá trình quản lý.
- Về chủ thể quản lý: Trong giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật,
việc thực hiện nội dung quản lý chủ yếu thuộc về chức năng của các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước, ở Trung ương là Chính phủ - cơ quan quản lý
thẩm quyền chung cao nhất, thực hiện quản lý toàn diện các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội; các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, là những cơ quan quản lý thẩm quyền riêng, thực hiện quản lý một, một
số lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Cơ quan quản lý thẩm quyền
chung ở địa phương là Ủy ban nhân dân (UBND); giúp UBND thực hiện
13
những chức năng quản lý cụ thể có cơ quan chuyên môn (cơ quan tham mưu),

với cấp tỉnh là các sở, với cấp huyện là các phòng, và ở cấp cơ sở là các công
chức chuyên môn.
Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật được triển khai thông qua công
vụ của công chức hành chính nhà nước. Vì lẽ đó, hiệu lực, hiệu quả quản lý ở
giai đoạn này phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng đội ngũ công chức hành
chính, vào chất lượng công vụ của công chức. Chất lượng đó phụ thuộc phần
quan trọng vào chất lượng của pháp luật về công chức, công vụ. Vì lẽ đó,
Luật Công chức và Luật Công vụ luôn là những thể chế quản lý có vị trí quyết
định chất lượng thực hiện pháp luật trong quản lý. Ở Việt Nam, theo định
hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc
soạn thảo ban hành Luật Công chức và Luật Công vụ đang là đòi hỏi cấp bách
của công cuộc cải cách hành chính, thực thi Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện pháp luật, với quan điểm "xác định rõ cơ quan, công chức nhà nước chỉ
được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen
thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức" [41, tr. 19].
Mặt khác, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật ở giai
đoạn tổ chức thực hiện pháp luật còn phụ thuộc vào ý thức pháp luật, vào
trình độ tri thức về quản lý và tri thức pháp luật của đội ngũ công chức, và cả
của đối tượng quản lý nhà nước. Vì lẽ đó, công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, với các hình thức, phương tiện,
phương pháp, nội dung phù hợp với từng chủ thể, đối tượng quản lý, từng lĩnh
vực quản lý là hết sức quan trọng. Cũng vì thế, ngay khi đề ra đường lối đổi
mới, thực hiện quản lý đất nước bằng pháp luật Đảng ta khẳng định:
Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp
luật; đưa việc giảng dạy pháp luật vào hệ thống các trường của
Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ thông, đại học), của các
đoàn thể nhân dân. Cán bộ quản lý các cấp từ trung ương đến đơn
14
vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết về pháp

luật [33, tr. 121].
Ba là, Xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý:
Có pháp luật mà pháp luật lại không được thực hiện thì như V.I. Lênin
từng khẳng định "cùng lắm cũng chỉ làm lay động không khí". Tuy nhiên, điều
đó không có nghĩa việc xử lý vi phạm trong chu trình quản lý bằng pháp luật
là không quan trọng. Xử nghiêm, xử đúng, xử kịp thời, công khai, minh bạch,
công bằng đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước sẽ
bảo đảm hiệu lực quản lý, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong quản lý, có hiệu
quả răn đe, phòng ngừa cao.
Việc thực hiện nội dung xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý nhà
nước bằng pháp luật diễn ra ở tất cả các giai đoạn của chu trình quản lý, ngay
cả ở giai đoạn ra quyết định quản lý quy phạm (giai đoạn soạn thảo ban hành
pháp luật), nhất là ở giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật, được áp dụng cho
cả đối tượng quản lý và cả với chủ thể quản lý, với nhiều hình thức, trách
nhiệm pháp lý khác nhau, cả trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất, trách
nhiệm hành chính. Điều quan trọng của nội dung xử lý vi phạm pháp luật
trong quản lý nhà nước là không được tuyệt đối hóa quyền lực cưỡng chế
trong việc ra và thực thi quyết định quản lý, hành chính hóa, hình sự hóa các
quan hệ quản lý kinh tế, dân sự hoặc cấm đoán vô lối, cốt để tạo thuận lợi có
tính cục bộ của chủ thể quản lý.
Tóm lại, từ sự trình bày trên có thể rút ra một số những nhận thức về
quản lý nhà nước bằng pháp luật như sau:
- Trong lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý có học thuyết đức trị,
có học thuyết pháp trị. Trong thực tiễn quản lý, có nhà nước lấy học thuyết
đức trị làm chủ thuyết, có nhà nước lấy học thuyết pháp trị làm chủ thuyết,
song không có nhà nước nào không sử dụng pháp luật để cai trị, quản lý, để
làm công cụ cai trị, quản lý. Pháp luật, nhà nước, quản lý nhà nước có quan hệ
15
hữu cơ, chế định lẫn nhau. Vì thế, một nhà nước mạnh phải có một chế độ
pháp luật hoàn bị mạnh; một nhà nước quản lý có hiệu quả phải biết dựa vào

pháp luật, biết sử dụng pháp luật để thực hiện các tác động quản lý lên quá
trình phát triển của xã hội.
- Pháp luật là cơ sở, là công cụ, hình thức của quản lý nhà nước, là
chuẩn mực khách quan để đánh giá hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước.
Mặc dù vậy, pháp luật không phải là tuyệt đối, cũng không được tuyệt đối hóa
vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước. Quản lý nói chung, quản lý nhà
nước bằng pháp luật nói riêng còn là một nghệ thuật, đòi hỏi nhà nước với tư
cách là chủ thể quản lý phải biết sử dụng đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo các
công cụ, phương tiện quản lý. Vì lẽ đó, bên cạnh pháp luật, nhà nước phải biết
sử dụng kết hợp các công cụ, chuẩn mực quản lý khác, nhất là đạo đức, truyền
thống dân tộc, vừa tăng cường quản lý nhà nước, vừa coi trọng tính độc lập,
tự chủ của các cộng đồng, thực hiện xã hội hóa... Qua việc vận dụng các hình
thức và phương pháp đó cũng góp phần để nhà nước hoàn thiện pháp luật, hoàn
thiện quy trình ra và thực hiện các quyết định quản lý cụ thể. Đây cũng là
quan điểm đã được Đảng ta khẳng định trong nhiều Nghị quyết Đại hội Đảng
thời kỳ đổi mới. Nghị quyết Đại hội VIII khẳng định: "Tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội
bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức" [34, tr. 129].
- Tùy theo bản chất của chế độ nhà nước, theo mô hình và cơ chế quản
lý, quản lý nhà nước phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Trong nhà
nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nhà nước bằng pháp luật được tiến hành bởi
các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, và do đó phải tuân theo các nguyên
tắc sau:
+ Các nguyên tắc có tính chính trị - xã hội, gồm: nguyên tắc Đảng
lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước; nguyên tắc nhân dân lao động
tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước; nguyên tắc tập trung dân
16
chủ; nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc trong quản lý hành chính nhà
nước; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
+ Các nguyên tắc mang tính tổ chức - kỹ thuật, gồm nguyên tắc quản

lý theo địa phương; nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với nguyên tắc
quản lý theo chức năng và phối hợp quản lý liên ngành.
- Quản lý nhà nước bằng pháp luật là quản lý do nhà nước tiến hành
trên cơ sở pháp luật và bằng pháp luật. Do chỗ nhà nước là người đại diện xã
hội thực hiện quản lý toàn diện các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội
nên bộ máy nhà nước được tổ chức thành nhiều cơ quan khác nhau; mỗi cơ
quan được phân công những chức năng quản lý riêng, trong đó các cơ quan
hành chính nhà nước, ở trung ương là Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, ở địa phương là UBND các cấp (tỉnh, huyện, xã và
cấp tương đương) là chủ thể quản lý, thực hiện quản lý bằng pháp luật một
cách trực tiếp. Đó cũng là những cơ quan thực hiện pháp luật, thực hiện quyền
hành pháp trong hệ thống quyền lực nhà nước.
- Đối tượng của quản lý nhà nước hết sức đa dạng, song như trên trên
đã phân tích, về thực chất, đối tượng của quản lý là con người, gắn với những
sự vật, hiện tượng xã hội. Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nhà
nước là quản lý dân chủ, theo nguyên tắc lôi cuốn những người lao động,
những người nghèo tham gia công việc quản lý nhà nước hàng ngày. Đây cũng
là phương pháp quản lý đặc trưng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, mà theo
V.I. Lênin, là phương pháp tuyệt diệu để tăng ngay một lúc sức mạnh của bộ
máy nhà nước lên gấp 10 lần, phương pháp mà bất cứ nhà nước tư sản nào
cũng không có được.
- Khách thể của quản lý nhà nước: Theo lý luận về khách thể của quản
lý nhà nước khách thể của quản lý là "cái" mà chủ thể quản lý dự định trước,
và hướng toàn bộ quá trình quản lý vào đó. Vì vậy, khách thể của quản lý là
khái niệm có nội hàm khá tương đồng với khái niệm mục đích quản lý. Tuy
17
nhiên, trong quản lý nhà nước bằng pháp luật việc đạt tới khách thể được xem
là quá trình đi tới mục đích quản lý.
Từ những lập luận trên, khách thể của quản lý nhà nước bằng pháp luật
về một lĩnh vực nào đó chính là trật tự quản lý nhà nước được thiết lập trên lĩnh

vực đó. Và vì nhà nước quản lý bằng pháp luật, nên khách thể của quản lý nhà
nước cũng chính là trật tự pháp luật trên lĩnh vực mà pháp luật điều chỉnh.
Từ sự phân tích trên về quản lý nhà nước bằng pháp luật có thể rút ra
khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB. Đó là: toàn bộ
các hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm xác lập cơ sở
pháp lý cho hoạt động quản lý về TTATGTĐB, cũng như các hoạt động tổ
chức thực hiện và xử lý vi phạm pháp luật GTĐB nhằm bảo đảm thiết lập và
duy trì TTATGTĐB. Thông qua việc xác lập trật tự quản lý nhà nước về GTĐB
góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội, bảo đảm giao thông thông suốt, an
toàn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật tự an
toàn giao thông đường bộ của chính quyền cơ sở
1.1.2.1. Đặc điểm chung
Từ khái niệm về quản lý, quản lý nhà nước bằng pháp luật và quản lý
nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB có thể rút ra một số đặc điểm chung
của quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực này của chính quyền cơ
sở như sau:
+ Đặc điểm về chủ thể quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB có thể do nhiều chủ
thể tham gia, không thể chỉ do nhà nước, nhất là trong xu thế xã hội hóa. Tuy
nhiên, trong hệ thống chủ thể quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB,
nhà nước, trực tiếp là các cơ quan quản lý hành chính nhà nước là chủ thể chủ
yếu. Những cơ quan này thực hiện quản lý với tư cách đại diện công quyền,
18
mang quyền lực nhà nước. Vì lẽ đó, các quyết định quản lý về TTATGTĐB
có giá trị pháp lý, có tính chất bắt buộc, cưỡng chế; đa số các quan hệ quản lý
phát sinh trong quá trình quản lý là những quan hệ hành chính, các bên chủ
thể không có địa vị pháp lý bình đẳng; phương pháp điều chỉnh là phương
pháp quyền uy, mệnh lệnh - phục tùng.
Từ đặc trưng trên cho thấy hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nói

chung, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về TTATGTĐB phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, nhất là vào cơ chế thực thi quyền lực, trong đó quyền lực của
các cơ quan quản lý chỉ là phương tiện bảo đảm cho các quyết định quản lý
được thực thi. Chỉ trên cơ sở nhận thức như vậy để khắc phục việc tuyệt đối
hóa quyền lực, đề cao quyền lực cưỡng chế thay vì ra các quyết định quản lý,
khách quan, khoa học, hợp lòng dân bằng các quyết định cấm đoán phi lý, tùy
tiện, nhất là trên lĩnh vực quản lý về TTATGTĐB.
+ Đặc điểm về nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB dựa trên cơ sở pháp
lý trực tiếp là pháp luật về ATGT. Việc ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện
và xử lý vi phạm pháp luật về GTĐB là toàn bộ nội dung quản lý. Pháp luật
về GTĐB được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật, có nguồn là các văn
bản quy phạm pháp luật, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
những hình thức, trình tự, thủ tục luật định để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động GTĐB. Từ đây có thể rút ra một số vấn đề sau:
- Phạm vi điều chỉnh của pháp luật về GTĐB là các quan hệ phát sinh
trong hoạt động GTĐB, trong đó đường bộ gồm đường đi trên đất liền dùng
cho người đi bộ và xe cộ. Theo Luật GTĐB (năm 2001) thì "đường bộ" được
giải thích cụ thể và mở rộng hơn, gồm "đường, cầu, đường bộ, hầm đường bộ,
bến phà đường bộ" (Điều 3).
- Hoạt động GTĐB là hoạt động của con người, đa số là hoạt động
liên quan đến phương tiện và sử dụng phương tiện giao thông trên đường bộ
19
nhằm đáp ứng nhu cầu công tác, học tập, sản xuất, kinh doanh, đi lại thăm
thân của cán bộ, công chức, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân.
Như vậy, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về TTATGTĐB là các
quan hệ phát sinh trong hoạt động GTĐB liên quan đến nhiều hoạt động khác
nhau của con người. Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ đó, nhà nước với
tư cách là chủ thể quản lý, thực hiện việc tổ chức, định hướng và kiểm soát
hoạt động GTĐB, bảo đảm cho các hoạt động đó có trật tự.

Từ phạm vi và đối tượng điều chỉnh trên cho thấy pháp luật GTĐB chỉ
là một bộ phận của pháp luật về an toàn giao thông, bên cạnh đó còn có pháp
luật về giao thông đường thủy (đường thủy nội địa), pháp luật về giao thông
đường sắt, pháp luật về giao thông đường không, và pháp luật về giao thông
đường biển.
- Nội dung của pháp luật GTĐB. Luật GTĐB (năm 2001) - bộ phận cốt
lõi của pháp luật GTĐB thể hiện tập trung những nội dung căn bản của pháp luật
GTĐB, với các nội dung sau: quy định các quy tắc GTĐB, các điều kiện bảo
đảm GTĐB của kết cấu hạ tầng, phương tiện và người tham gia GTĐB, các
điều kiện bảo đảm hoạt động vận tải đường bộ. Cụ thể là những vấn đề sau:
+ Các quy định chung, gồm quy định về nguyên tắc bảo đảm ATGTĐB;
về chính sách pháp luật trên lĩnh vực GTĐB, về tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật GTĐB; trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
thành viên trong bảo đảm TTATGTĐB; các hành vi nghiêm cấm, trong đó có
15 hành vi mà việc vi phạm sẽ gây hậu quả không chỉ phá vỡ TTATGTĐB,
mà còn làm thiệt hại về tính mạng, tài sản, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
+ Các quy định về quy tắc GTĐB. Đây là nội dung trọng yếu của Luật
Giao thông đường bộ, gồm các quy tắc trong các hoạt động giao thông cụ thể,
như quy tắc đối với người điều khiển phương tiện trong các loại đường và địa
bàn cụ thể, quy tắc về tổ chức và điều khiển giao thông, xử lý TNGT.
20
+ Các quy tắc về kết cấu hạ tầng GTĐB;
+ Các quy định về phương tiện tham gia GTĐB;
+ Các quy định về người điều khiển phương tiện GTĐB;
+ Các quy định về vận tải đường bộ
+ Các quy định quản lý nhà nước về GTĐB.
Ngoài ra, Luật GTĐB còn có quy định việc khen thưởng và xử lý vi
phạm, điều khoản thi hành.
Những quy định quản lý nhà nước về GTĐB gồm các nội dung sau:

1, Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đầu tư
phát triển GTĐB; xây dựng và chủ động thực hiện chương trình quốc gia về
ATGTĐB và các biện pháp bảo đảm GTĐB thông suốt, an toàn cũng như tổ
chức thực hiện;
2, Ban hành các văn bản bản quy phạm pháp luật về GTĐB;
3, Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về GTĐB;
4, Tổ chức quản lý, bảo vệ kết cấu hạ tầng GTĐB;
5, Đăng ký, cấp, thu hồi biển số, phương tiện GTĐB; cấp, thu hồi giấy
chứng nhận chất lượng, an toàn kỹ thuật, về bảo vệ môi trường của phương
tiện GTĐB;
6, Quản lý đào tạo, sát hạch lái xe, cấp, đổi, thu hồi giấy phép lái xe;
7, Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ về GTĐB,
đào tạo cán bộ và công nhân viên kỹ thuật GTĐB;
8, Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp
luật về GTĐB;
9, Hợp tác quốc tế về GTĐB.
Trong nội dung các quy định quản lý nhà nước về GTĐB có các quy
định về trách nhiệm quản lý nhà nước về GTĐB, khẳng định Chính phủ thống
21
nhất quản lý về GTĐB, trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan và UBND
các cấp, và về thanh tra GTĐB.
Những nội dung trên của quản lý nhà nước về GTĐB rất rộng, liên
quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, không chỉ là các quy phạm pháp
luật thuộc phần riêng của luật hành chính, mà cả các quy phạm pháp luật về tổ
chức nhà nước, pháp luật dân sự, các văn bản pháp luật phục vụ hội nhập
quốc tế. Vì thế, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn trong các quy
định liên quan đến TTATGTĐB, và chủ yếu là các quy định về hoạt động
GTĐB của người và phương tiện giao thông cũng như những vấn đề liên quan
nhằm bảo đảm ATGTĐB.
+ Đặc điểm về khách thể của quản lý nhà nước bằng pháp luật về

TTATGTĐB.
Khách thể của quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB là
một bộ phận quan trọng cấu thành khách thể của quản lý nhà nước về GTĐB.
Tuy nhiên, do quản lý nhà nước bằng pháp luật thực chất là quản lý con
người, gắn với những quan hệ xã hội cụ thể, nhằm tạo ra những cơ hội, khả
năng phát triển con người, hướng dẫn, định hướng hoạt động của họ theo một
trật tự phù hợp với quy luật phát triển xã hội thì khách thể của quản lý nhà
nước bằng pháp luật về TTATGTĐB được quan niệm là trật tự được thiết lập
nhờ đó mà bảo đảm cho GTĐB được an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, thông
suốt, bảo đảm mỹ quan, môi trường, hạn chế thấp nhất vi phạm pháp luật
GTĐB, ùn tắc giao thông, ngăn ngừa thiệt hại do TNGT gây ra. Điều cần lưu ý
là quan niệm này về khách thể của quản lý nhà nước bằng pháp luật về
TTATGTĐB như trên phải xuất phát từ quan niệm đúng đắn về TTATGTĐB.
Theo các tác giả đề tài khoa học cấp Bộ: "Tai nạn giao thông đường bộ, thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa của lực lượng Cảnh sát giao
thông", Bộ Công an (1998), và Từ điển Bách Khoa Công an nhân dân thì "trật
tự an toàn giao thông đường bộ là hệ thống các mối quan hệ xã hội được hình
thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực GTVT công
22
cộng mà mọi người tham gia giao thông phải tuân theo để bảo đảm hoạt động
giao thông thông suốt, trật tự, an toàn, hạn chế thấp nhất TNGT, gây thiệt hại
về người và tài sản [63, tr. 130].
1.1.2.2. Đặc điểm riêng của quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật
tự an toàn giao thông đường bộ của chính quyền cơ sở
Bên cạnh những đặc điểm chung của quản lý nhà nước bằng pháp luật
về TTATGTĐB, quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực này của
chính quyền cơ sở có những đặc điểm riêng sau:
+ Về chủ thể quản lý.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB của chính quyền cơ
sở là quản lý mà chủ thể là chính quyền cơ sở. Đó là cấp chính quyền thấp

nhất trong hệ thống chính quyền bốn cấp theo tổ chức bộ máy nhà nước ở
Việt Nam hiện nay. Cấp chính quyền này có vị trí, vai trò đặc biệt sau:
- Là cấp chính quyền gần dân nhất, trực tiếp với dân. Do vậy, những
đánh giá của nhân dân về hiệu lực, hiệu quả quản lý của cấp chính quyền cơ
sở là những đánh giá trực tiếp; sự giám sát của nhân dân đó cũng là giám sát
trực tiếp; những quyết định của cấp chính quyền cơ sở cũng trực tiếp đến với
dân, trực tiếp đụng chạm đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của từng người dân.
Cũng vì thế, đây là cấp chính quyền ít quan liêu nhất;
- Là cấp chính quyền trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống; trực tiếp tổ chức, điều hành mọi sinh
hoạt xã hội và hoạt động của công dân ở cơ sở;
- Đó cũng là cấp chính quyền có cơ cấu tổ chức bộ máy đơn giản, và
mặc dù pháp luật hiện hành đã quy định chế độ công chức cơ sở song các cán
bộ, nhân viên của bộ máy chính quyền này vẫn chưa thực sự mang tính
chuyên nghiệp, kể cả Công an xã, thị trấn - lực lượng nòng cốt trong bảo
đảm TTATGTĐB.
23
+ Về nội dung quản lý.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB của chính quyền cơ
sở chỉ bao gồm một số nội dung của quản lý nhà nước bằng pháp luật về
TTATGTĐB theo quy định của Luật GTĐB, được thể hiện thông qua các quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân (HĐND) và UBND cấp
xã, trong đó có cả lực lượng Công an xã, thị trấn.
Các quyết định quản lý của chính quyền cơ sở về TTATGTĐB chủ
yếu là các quyết định quản lý cá biệt (quyết định áp dụng pháp luật), nhằm áp
dụng các quy phạm pháp luật về TTATGTĐB để xử lý các vụ việc vi phạm
cụ thể, cá biệt. Cũng vì vậy, vai trò quản lý nhà nước bằng pháp luật về
TTATGTĐB chủ yếu được thực hiện bởi UBND xã, phường, thị trấn.
+ Tính xã hội hóa của quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB
của chính quyền cơ sở được thực hiện một cách trực tiếp:

Quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB của chính quyền cơ
sở mang tính xã hội sâu sắc, bởi khả năng huy động đông đảo nhân dân ở cơ
sở tham gia trực tiếp, gắn liền với phong trào xây dựng làng, xã, khối phố văn
hóa, với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
+ Quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB gặp nhiều khó
khăn, bất cập:
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB của chính quyền cơ
sở hiện còn nhiều bất cập, hạn chế, nhất là bất cập giữa nhiệm vụ, quyền hạn
quản lý của chính quyền cơ sở với tình hình hoạt động giao thông ở cơ sở
ngày càng phức tạp; bất cập giữa việc phân cấp quản lý về cầu, đường, quản
lý phương tiện giao thông, về xử lý vi phạm…
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB của chính quyền cơ
sở, nhất là của chính quyền xã, thị trấn được thực hiện trong điều kiện hiểu biết
pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật, trong đó có pháp luật, về TTATGTĐB
của cán bộ, nhân dân ở cơ sở còn rất nhiều hạn chế.
24
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về TTATGTĐB của chính quyền cơ
sở chủ yếu là quản lý hoạt động giao thông trên địa bàn, nơi trực tiếp sinh
sống, sản xuất, kinh doanh, học tập, công tác của cán bộ, doanh nghiệp, nhân
dân; nhiều nơi đang trong quá trình đô thị hóa, từ đó tạo ra những yêu cầu,
sức ép và khó khăn rất lớn, trong khi thẩm quyền và năng lực quản lý của cấp
chính quyền này còn rất hạn chế.
1.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ
AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ CỦA CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật tự an
toàn giao thông đường bộ của chính quyền cơ sở
Nội dung quản lý nhà nước về TTATGTĐB của chính quyền cơ sở
cũng bao gồm việc ban hành các quy định pháp luật về TTATGTĐB, tổ chức
thực hiện và xử lý vi phạm pháp luật về TTATGTĐB. Cơ sở pháp lý trực tiếp
xác định những nội dung quản lý đó của chính quyền cơ sở là các văn bản quy

phạm pháp luật sau:
- Luật GTĐB (năm 2001);
- Luật Tổ chức HĐND và UBND (năm 2003), trực tiếp là chương quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, UBND xã, phường, thị trấn.
- Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND
(năm 2004).
- Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (năm 2002).
- Nghị định số 40/1999/NĐ-CP ngày 26/3/1999 của Chính phủ về
Công an xã.
Ngoài ra, pháp luật về TTATGTĐB của chính quyền cơ sở còn được
quy định ở nhiều văn bản cụ thể hóa và hướng dẫn thực hiện các văn bản trên,
chủ yếu là các nghị định của Chính phủ, như nghị định quy định xử lý vi
phạm hành chính lĩnh vực TTATGTĐB.
25

×