Tải bản đầy đủ (.doc) (229 trang)

Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 229 trang )

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã
khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa”. Riêng đối với quản lý nền kinh tế, Điều 26 Hiến pháp cũng
quy định rõ: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách…”. Như vậy, muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước đối với xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng, nhà nước phải sử dụng nhiều
công cụ, phương tiện quản lý, trong đó quản lý bằng pháp luật là một phương thức
quản lý quan trọng, không thể thiếu được của Nhà nước.
Thực tiễn quản lý nhà nước trong những năm đổi mới vừa qua đã chứng minh
rằng: nơi nào, lĩnh vực nào nhà nước sử dụng có hiệu quả công cụ pháp luật trong
quản lý thì ở đó tình hình kinh tế, chính trị xã hội ổn định và phát triển. Nếu buông
lỏng vai trò quản lý nhà nước bằng pháp luật sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, lợi dụng
những sơ hở và thiếu sót trong các quy định của Nhà nước để trục lợi, lũng đoạn nền
kinh tế, tạo cơ hội cho những mặt trái của cơ chế thị trường phát sinh theo hướng
phức tạp rất khó kiểm soát ở một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đầu tư nước ngoài
tại các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước.
Xuất phát từ chủ trương phát triển kinh tế vùng của Đảng, ngày 23 tháng 2
năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg phê duyệt
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một không gian kinh tế mở bao gồm các
tỉnh, thành: Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh,
Long An, Bình Phước, Tây Ninh, Tiền Giang. Đây là những tỉnh, thành lớn của phía
Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát triển
kinh tế. Với chủ trương, đường lối mở cửa của Đảng và Nhà nước, trong những năm
qua, vùng kinh tế trọng điểm này đã thu hút được rất nhiều các nhà đầu tư nước
1
ngoài, là nơi có nhiều dự án đầu tư nước ngoài nhất so với các địa phương trong cả
nước. Theo số liệu thống kê (Niên giám thống kê 2007, Tổng cục Thống kê), vùng
kinh tế trọng điểm này chiếm 63,84% số dự án và 59,08% tổng số vốn đầu tư nước


ngoài của cả nước. Hoạt động đầu tư nước ngoài tại đây ngày càng có hiệu quả, đã
kích thích khả năng phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm này,
bên cạnh những kết quả đạt được, tại đây đã và đang xuất hiện nhiều vấn đề phức
tạp, khó khăn. Trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực đầu tư nước
ngoài bộc lộ nhiều vấn đề bất cập trước đòi hỏi của thực tiễn. Điều đó được thể hiện
trên các mặt như: pháp luật về đầu tư còn có những bất cập cần sửa đổi, bổ sung. Cơ
chế, chính sách chưa đồng bộ và chưa tạo được động lực phát triển mạnh; một số cơ
chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi;
nhiều cấp, nhiều ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy định về quản lý nhà nước
không còn phù hợp; chưa bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác động giải
phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khai thác nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư nước
ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm này. Việc ban hành các văn bản pháp quy hướng
dẫn thi hành luật còn rất chậm. Thực tiễn quản lý vẫn còn tình trạng chồng chéo hoặc
phân tán, cục bộ trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước của các cơ
quan có thẩm quyền như Cục Đầu tư nước ngoài, Ban Quản lý khu chế xuất, khu
công nghiệp, khu kinh tế, Sở Kế hoạch và Đầu tư các địa phương trong vùng. Chưa
có một cơ quan quản lý đủ quyền năng thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong
lĩnh vực này của riêng vùng. Đặc biệt, cơ sở pháp lý để thực hiện những cơ chế,
chính sách có tính đặc thù cho vùng theo tinh thần các Nghị quyết Đại hội IX, X của
Đảng về việc xây dựng những vùng kinh tế - lãnh thổ có cơ chế đặc biệt nhằm phát
triển vùng và Nghị quyết 53 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế và đảm bảo an
ninh quốc phòng vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam còn rất
thiếu… Những thiếu sót, bất cập nói trên đã ảnh hưởng không tốt đến mọi mặt tình
hình kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đòi hỏi các cơ quan thực hiện chức năng quản lý
nhà nước phải lưu tâm giải quyết. Chẳng hạn như tình trạng chảy máu chất xám, lộ bí
2
mật nhà nước; vấn đề môi trường sinh thái; vấn đề thiết bị lạc hậu; vấn đề quản lý
xuất nhập cảnh của người nước ngoài; quản lý nhà nước đối với hoạt động của các
thương nhân và các hiệp hội thương nhân nước ngoài bị buông lỏng; một số chủ đầu

tư nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam; cạnh tranh thiếu lành mạnh trong hoạt
động sản xuất – kinh doanh – đầu tư; thu hút đầu tư bằng mọi giá, chạy theo số lượng
dự án đầu tư, thiếu sự tính toán phục vụ cho công cuộc phát triển bền vững. Chất
lượng các dự án chưa thật đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển; có sự cạnh tranh theo
kiểu “mạnh ai nấy làm”, thiếu tính đồng bộ và tính liên kết giữa các địa phương trong
vùng, không phát huy được những thế mạnh, những lợi thế so sánh của vùng. Do đó,
trong thực tế, nguồn vốn thu hút từ đầu tư nước ngoài và sự phát triển của vùng chưa
thật tương xứng với tiềm năng vốn có của vùng. Đây cũng chính là mặt trái của hoạt
động đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, làm hạn chế sự phát
triển bền vững của vùng và ảnh hưởng đến sự phát triển chung của cả nước. Có thể
nói, vùng kinh tế trong điểm phía Nam đang giữ vai trò đầu tàu cho sự phát triển kinh
tế của cả nước và có tiềm năng vô cùng lớn nhưng cơ chế quản lý nói chung, cơ chế
quản lý trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài nói riêng còn chưa đảm bảo tốt cho sự phát
triển vùng.
Điều này cũng cho thấy thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh
vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chưa thực sự được coi
trọng và còn nhiều bất cập, hạn chế cần nghiên cứu một cách hệ thống nhằm đánh giá
đúng thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính khả thi để bảo đảm quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng này. Với những lý
do trên, xét cả về phương diện lý luận và thực tiễn, việc nghiên cứu một cách hệ
thống, toàn diện quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là vấn đề cấp thiết.
Vì vậy, tác giả luận án mạnh dạn chọn đề tài “Quản lý nhà nước bằng pháp
luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt
Nam” để nghiên cứu và viết luận án Tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch
sử nhà nước và pháp luật.
3
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu về vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực

đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
2.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Quản lý nhà nước bằng pháp luật là một vấn đề lớn, có phạm vi tác động đến
toàn xã hội, đòi hỏi sự tập trung sức lực và phối hợp của nhiều cơ quan nghiên cứu và
các nhà khoa học thuộc nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Lĩnh vực đầu tư nước ngoài
là một lĩnh vực rộng lớn, bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Trong
khuôn khổ luận án, tác giả chỉ đề cập nghiên cứu quản lý nhà nước trong một lĩnh
vực cụ thể với phạm vi không gian nhất định, đó là quản lý nhà nước bằng pháp luật
trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài (chủ yếu là đầu tư trực tiếp) tại vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam Việt Nam.
- Thời gian luận án nghiên cứu từ 1998 (từ khi Thủ tướng Chính phủ có quyết
định phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam) đến nay.
3. MỤC ĐÍCH CỦA LUẬN ÁN
Luận án nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất các quan
điểm, giải pháp nhằm bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam hiện nay.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
4.1. Cơ sở lý luận của luận án:
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp
luật nói chung, quản lý nhà nước bằng pháp luật nói riêng. Đặc biệt là những chủ
trương, đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ sở lý luận của
luận án cũng là sự quán triệt quan điểm có tính nguyên tắc và xuyên suốt quá trình
4
nghiên cứu mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ là: “Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường Xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án:

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin,
dựa vào quan điểm của Đảng và nhà nước ta về quản lý nhà nước và thu hút đầu tư
nước ngoài, tác giả Luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp lịch sử, phân tích - tổng hợp, phương pháp chuyên gia, so sánh, thống
kê, tổng kết thực tiễn.
Luận án sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ cơ sở lý luận về
quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm. Những nội dung cụ thể của luận án như các khái niệm về vùng; vùng
kinh tế trọng điểm; quản lý nhà nước; quản lý nhà nước bằng pháp luật; quản lý nhà
nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài; quản lý nhà nước bằng pháp
luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm; đặc điểm, nội dung
quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm... đã được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp này.
Phương pháp luận duy vật biện chứng được kết hợp với phương pháp lịch sử,
phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh, thống kê, tổng kết thực tiễn để đánh giá
thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam với những sự phân tích về lợi thế so sánh vùng. Đặc
biệt, phương pháp thống kê và tổng kết thực tiễn được sử dụng để làm rõ thực trạng
quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm những năm qua với những cứ liệu cụ thể về ban hành pháp luật, tổ chức
thực hiện pháp luật, thực trạng vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp liên quan
đến hoạt động đầu tư nước ngoài tại đây. Đồng thời, các phương pháp như phân tích
- tổng hợp, phương pháp chuyên gia được sử dụng cho việc đưa ra và luận giải những
đề xuất về quan điểm, giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
5
5. ĐIỂM MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
Luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương
đối toàn diện lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam. Luận án có

những điểm mới cụ thể sau:
Thứ nhất, xây dựng khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm: “Quản lý nhà nước bằng pháp luật
trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm là quá trình các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và chính quyền các địa phương trong vùng kinh tế trọng
điểm sử dụng công cụ pháp luật thực hiện sự tác động tới hoạt động đầu tư nước
ngoài và những quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động đầu tư nước ngoài, nhằm thực
hiện chức năng quản lý nhà nước, góp phần huy động nguồn lực từ bên ngoài phục
vụ công cuộc phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm, làm động lực cho sự phát
triển bền vững của cả nước”.
Thứ hai, làm rõ đặc điểm về chủ thể quản lý lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại
vùng kinh tế trọng điểm; về tính độc lập tương đối của các công cụ được sử dụng
trong quá trình quản lý; về tính mục đích của quản lý nhà nước bằng pháp luật trong
lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm.
Thứ ba, làm rõ vai trò quan trọng của quản lý nhà nước bằng pháp luật trong
lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm: đảm bảo cho đầu tư nước
ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm được thực hiện theo đúng qui định của pháp luật;
góp phần giữ ổn định chính trị và trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia trong quan hệ
hợp tác kinh tế với nhà đầu tư nước ngoài; thúc đẩy và đảm bảo tính chủ động trong
tiến trình hội nhập quốc tế của vùng và cả nước; tạo lập và duy trì môi trường cạnh
tranh lành mạnh; bảo đảm phát huy tiềm năng, thế mạnh và sự ảnh hưởng, tác động
tích cực của vùng kinh tế trọng điểm đối với các vùng khác.
Thứ tư, Chỉ rõ những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến quản lý nhà nước bằng
pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm: yếu tố chính
6
trị, yếu tố pháp luật, yếu tố năng lực và trách nhiệm của các chủ thể, yếu tố lợi thế so
sánh và nhu cầu phát triển của vùng.
Thứ năm, trên cơ sở tổng kết một cách hệ thống quá trình quản lý nhà nước
bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam từ năm 1998 đến nay, đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm quản lý

nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam Việt Nam hiện nay. Theo đó, quản lý nhà nước bằng pháp luật trong
lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phải: quán triệt đường lối
chính sách của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế vùng và phát triển vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam; nhà nước thống nhất quản lý bằng pháp luật các hoạt động
đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; phục vụ cho việc thu hút
và nâng cao hiệu quả các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời gắn chặt với việc
giải quyết tốt các vấn đề xã hội; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quản lý vùng và
ứng dụng những thành tựu khoa học tiên tiến của các nước trên thế giới; coi trọng
kết hợp sử dụng hợp lý, hiệu quả các phương tiện quản lý khác; thống nhất chiến
lược thu hút đầu tư nước ngoài, phát huy tối đa lợi thế so sánh của vùng và chống
cạnh tranh tự phát giữa các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Để
bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: Sửa đổi, bổ sung
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài và pháp luật có liên quan đến
đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; đẩy mạnh tuyên truyền,
phổ biến và giáo dục pháp luật; nâng cao trách nhiệm và năng lực thực hiện pháp
luật của các chủ thể trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài; kiện toàn các cơ quan quản lý
nhà nước về đầu tư nước ngoài từ trung ương tới vùng kinh tế trọng điểm phía Nam;
xây dựng cơ chế quản lý phù hợp để thực hiện tốt mối liên kết vùng trong phát triển
nói chung và quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng; coi
trọng thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật của các nhà đầu tư; giải quyết
kịp thời và thỏa đáng những tranh chấp, khiếu nại của nhà đầu tư và các bên liên
7
quan; coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ và đầu tư phương tiện kỹ thuật cho các cơ
quan quản lý.
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN
- Kết quả của luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận quản lý nhà nước bằng pháp
luật với một lĩnh vực cụ thể trên một địa bàn cụ thể - lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại

vùng kinh tế trọng điểm.
- Luận án góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc bảo đảm
quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam cũng như các vùng kinh tế trọng điểm khác trong cả nước.
- Luận án là tài liệu tham khảo bổ ích cho công tác nghiên cứu, giảng dạy lý
luận về nhà nước và pháp luật cũng như tham khảo cho công tác tổng kết thực tiễn,
hoạch định chính sách và pháp luật về quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài tại
các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
chia làm 4 chương, 12 tiết:
Chương 1. Tổng quan
Chương 2. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm.
Chương 3. Thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Chương 4. Quan điểm và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật
trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
8
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Quản lý nhà nước bằng pháp luật ở Việt Nam là vấn đề khá phức tạp, có ý
nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy, trong những năm gần đây, nhất là từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề này
luôn được sự quan tâm, chú ý nghiên cứu của các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa
học. Những công trình nghiên cứu đã được công bố cũng đã đề cập đến quản lý nhà
nước, quản lý nhà nước bằng pháp luật dưới nhiều góc độ khác nhau và trên từng lĩnh
vực cụ thể. Những nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường nói
chung có thể kể đến các công trình nghiên cứu của GS. TS Nguyễn Duy Gia: “Một số

vấn đề về nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường”; của cố GS. TS Hoàng Văn
Hảo: “Tìm hiểu vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường”… là những công
trình có ý nghĩa nền tảng, làm cơ sở cho các nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với
các lĩnh vực kinh tế.
Các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với nền kinh tế
và các lĩnh vực kinh tế, có các công trình nổi bật sau đây:
+ “Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật trong cơ chế thị trường ở Việt
Nam hiện nay”, Luận án TS Luật học của Chu Hồng Thanh. Bằng công trình này, tác
giả đã làm rõ những quan điểm, chủ trương của Đảng và nhà nước về xây dựng nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam, phân tích cơ sở khoa học của việc nhà nước quản lý
kinh tế bằng pháp luật trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; nội dung,
phương pháp quản lý kinh tế bằng pháp luật trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam những năm gần đây.
+ “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch tại Việt Nam
hiện nay”, Luận án TS Luật học của Trịnh Đăng Thanh, Hà Nội 2004. Trong Luận án
này, tác giả đã phân tích những vấn đề về lý luận quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với lĩnh vực du lịch ở Việt Nam, như: khái niệm, nội dung, đặc điểm quản lý nhà
9
nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch; đánh giá thực trạng và đề xuất giải
pháp tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Việt
Nam. Tuy nhiên, những vấn đề lý luận và thực tiễn trong luận án này chỉ bó hẹp
trong phạm vi những hoạt động du lịch và có tính chung nhất cho cả Việt Nam mà
chưa làm rõ được tính đặc thù của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
du lịch tại các vùng, miền của đất nước.
+ “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công ty cổ phần ở Việt Nam”,
Luận án TS Luật học của Nguyễn Thanh Bình, Hà Nội 2005. Trong luận án, tác giả
đã phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và tính đặc thù của quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với loại hình công ty cổ phần ở Việt Nam, đề xuất giải pháp bảo đảm
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với loại hình doanh nghiệp này.
Hoạt động đầu tư nước ngoài, pháp luật về đầu tư nước ngoài cũng là một

mảng đề tài được quan tâm nghiên cứu. Ngoài những giáo trình giảng dạy tại một số
cơ sở giáo dục – đào tạo như giáo trình “Kinh tế đầu tư” của PGS.TS Nguyễn Bạch
Nguyệt và TS Từ Quang Phương, giáo trình “Quản lý dự án và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài” của PGS.TS Nguyễn Thị Hường (Trường Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội, 2004…), còn có thể kể một số công trình nổi bật như:
+ “Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam”, Luận án TS Luật học của Hoàng Phước Hiệp, Hà Nội 1996. Có thể coi
đây là một trong những Luận án PTS (nay là TS) luật học đầu tiên nghiên cứu về đầu
tư nước ngoài và pháp luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Trong luận án này, trên cơ
sở nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển cơ chế điều chỉnh pháp luật về đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, tác giả đã có những đề xuất về phương hướng đổi
mới cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam. Điểm nhấn của công trình này là tác giả đã chỉ rõ rằng hoạt động đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam không chỉ được điều chỉnh bằng Luật đầu tư nước ngoài, mà nó
còn được điều điều chỉnh bởi hàng loạt những quy định thuộc lĩnh vực khác có liên
quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Do đó, hoàn thiện pháp luật đầu
tư nước ngoài phải gắn với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung. Tuy nhiên,
10
tác giả của luận án này chưa quan tâm tới việc đề xuất cơ chế điều chỉnh pháp luật
trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài cho những vùng, miền cụ thể với tính đặc thù của
mỗi vùng, miền.
+ “Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài trong hệ thống
pháp luật Việt Nam”, Luận án TS Luật học của Đỗ Nhất Hoàng, Hà Nội 2001. Tác
giả đã nghiên cứu làm rõ quan niệm và quá trình phát triển pháp luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, mối quan hệ và vị trí quan trọng của pháp luật đầu tư nước ngoài
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trên cơ ở đó, tác giả Luận án đề xuất giải pháp
hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
+ “Hoàn thiện pháp luật về đầu tư nước ngoài theo hướng nhất thể hóa pháp
luật về đầu tư tại Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ Luật học của Nguyễn Khắc Định, Hà
Nội 2001. Trên cơ sở chỉ ra những bất hợp lý của việc khuyến khích riêng rẽ đầu tư

nước ngoài và đầu tư trong nước, tác giả đề xuất phương hướng và giải pháp thống
nhất luật đầu tư nước ngoài với luật đầu tư trong nước.
+ “Hoàn thiện quản lý nhà nước các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Hà Nội”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004. Đây là một
công trình nghiên cứu của tập thể tác giả, do TS Trương Đoàn Thể chủ biên. Các tác
giả đã lý giải cơ sở lý luận và khảo sát thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội, từ đó đề xuất giải pháp hoàn
thiện quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này tại một địa phương cụ thể
với những đặc thù của nó (Hà Nội).
+ “Những giải pháp chủ yếu nhằm điều chỉnh cơ cấu đầu tư trực tiếp nước
ngoài theo ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010”, Luận án Tiến sỹ kinh
tế của Tống Quốc Đạt, Hà Nội 2004. Tác giả luận án đi sâu vào việc phân tích những
hợp lý và bất hợp lý trong cơ cấu đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn trước
năm 2000, từ đó đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm điều chỉnh cơ cấu đầu tư trực tiếp
nước ngoài theo ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 theo hướng tăng
cường chất lượng của các dự án đầu tư, tập trung cho những ngành kinh tế mũi nhọn
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là luận án TS kinh tế
11
học cho nên tác giả không đặt vấn đề giải quyết lý luận quản lý nhà nước bằng pháp
luật đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.
+ “Định hướng phát triển các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam”, Luận án Tiến sỹ kinh tế của Ngô Công Thành, Hà Nội 2004. Tác giả đi sâu
phân tích về các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu trong giai đoạn trước
năm 2004, đề xuất định hướng phát triển các hình thức đầu tư nước ngoài theo hướng
đa dạng hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh
xúc tiến đầu tư, thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
+ “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp”, Trần
Xuân Tùng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. Trong công trình nghiên cứu này,
tác giả đã khảo sát thực trạng đầu tư nước ngoài và phân tích nó với các loại hình đầu
tư, chủ đầu tư, lĩnh vực đầu tư...Từ đó, tác giả đề xuất giải pháp thu hút đầu tư nước

ngoài mạnh mẽ hơn nữa. Trong công trình này, tác giả chưa đề xuất giải pháp thu hút
và quản lý hoạt động đầu tư ở từng vùng kinh tế, mà chỉ đề xuất những giải pháp
chung nhất trên phạm vi toàn quốc.
+ “Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2006. Đây là
một công trình của tập thể các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia và Bộ Kế hoạch - Đầu tư,
như GS.TS Chu Văn Cấp, TS Phan Hữu Thắng, TS Ngô Nhất Hoàng, TS Nguyễn
Anh Tuấn, TS Trần Ngọc Hưng... do PGS,TS Nguyễn Bích Đạt chủ biên. Trong công
trình này, các tác giả đã làm rõ nhiều vấn đề lý luận về khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, như: bản chất, vai trò, nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động của khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh nghiệm của một số nước trong thu hút, sử dụng
vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các tác
giả đã đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam trong những năm qua. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn ấy, các tác giả đưa ra
quan điểm, định hướng và giải pháp cho vấn đề đầu tư nước ngoài ở Việt Nam những
năm tới.
12
+ “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay” PGS,TS Trần
Quang Lâm và TS An Như Hải đồng chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006.
Đây cũng là một công trình tập thể của các nhà khoa học và cán bộ nghiên cứu có
kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài như TS Hoàng Thị Bích Loan, PGS.TS
Nguyễn Khắc Thanh, PGS.TS Nguyễn Huy Oánh...Các tác giả đã khảo sát, phân tích
các số liệu về đầu tư nước ngoài trên nền tảng lý luận về khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, từ đó các tác giả làm rõ
vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam; đánh giá xu thế, triển vọng và giải pháp phát triển,
sử dụng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ “Hoạt động đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Những

vấn đề đặt ra cho công tác an ninh”, đề tài khoa học cấp Bộ của Đinh Văn Hồng và
Phan Quang Thịnh – Phân hiệu Học viện An ninh Nhân dân – Thành phố Hồ Chí
Minh 2002. Các tác giả đã khảo sát thực trạng đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam và phân tích nó dưới góc độ công tác bảo vệ an ninh kinh tế,
nhất là an ninh kinh tế ở một vùng kinh tế trọng điểm. Các tác giả của đề tài này tập
trung sự nghiên cứu theo hướng tìm hiểu và dự báo những mặt trái, những nguy cơ
xuất phát từ hoạt động đầu tư nước ngoài, từ đó đề xuất giải pháp phòng ngừa, ngăn
chặn, mà chưa đề cập gì tới vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm.
+ “Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam”, đề tài khoa học cấp Bộ năm 2007, do ThS
Nguyễn Quốc Dũng, TS Phạm Đắc Duyên, ThS Vũ Thị Anh Đào, Nguyễn Thế
Hưng, Bùi Huy Cường thực hiện. Các tác giả tập trung nghiên cứu chuyên sâu về lý
thuyết ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý một quá trình xã hội; vai trò của
công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài; đánh
giá thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, trên cơ sở đó đề xuất giải
pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đầu tư nước
13
ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Các tác giả không đề cập đến những vấn
đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động đầu tư
nước ngoài tại vùng này.
+ “Quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” của tác giả Phạm Ngọc
Dũng, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 273, tháng 2/2001. Tác giả đã khái quát tình
hình thua lỗ của các liên doanh và các hình thức đầu tư nước ngoài khác, từ đó phân
tích những nguyên nhân của tình trạng này và đề xuất một số giải pháp quản lý các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm xóa đi “khoảng tối” trong bức tranh
toàn cảnh đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong đó, tác giả nhấn mạnh một số giải
pháp như: cần tăng cường quản lý các hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài chứ không chỉ quản lý ở khâu cấp phép; tăng cường công tác giám sát và
nâng cao vai trò của các tổ chức giám định ở Việt Nam; sớm khắc phục tình trạng

chồng chéo, không thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên qua đến hoạt động của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...
Một số tác giả cũng đã đặt vấn đề nghiên cứu về quản lý nhà nước bằng pháp
luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài dưới khía cạnh đấu tranh với những vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài như tác giả Trương Quang Giáo với bài
viết: Đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh và những vấn đề liên quan đến
an ninh quốc gia cần quan tâm, (Tạp chí Công an nhân dân số 6/1999). Tác giả Phan
Quang Thịnh với các bài viết: Một số ý kiến về đấu tranh ngăn chặn vi phạm pháp
luật trong hoạt động của các Hiệp hội thương nhân nước ngoài tại vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, (Tạp chí Công an nhân dân, số 04 – 2003). Tăng cường giáo
dục pháp luật trong trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam, (Tạp chí Công an Nhân dân số 6/2007). Đầu tư nước ngoài
tại các vùng kinh tế trọng điểm: nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, (Tạp chí Lý luận
Chính trị, tháng 9/2008). Đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài tại các vùng kinh tế trọng điểm, (Tạp chí Quản lý nhà nước, số
151, Tháng 8 – 2008). Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia các khu chế xuất, khu
công nghiệp, (Tạp chí Công an nhân dân, số 08 – 2007). Tác giả Trần Nguyễn Tuyên
14
với bài hoàn thiện môi trường và chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước
ngoài ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản số 14 (tháng 7/2004). TS Hoàng Xuân Hòa với
bài Nâng cao vai trò quản lý và điều hành của nhà nước trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài, (Tạp chí Quản lý nhà nước, số 116 (tháng 9/2005). Vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam: loay hoay đầu tàu phát triển (Http://www.tuoitre.com.vn
1/08/2006). Hồ Vĩnh Lộc với bài Nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước trong lĩnh
vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, (Tạp chí Quản lý nhà nước, số 6/2000)...
Ngoài ra, một số tác giả có nghiên cứu về hoạt động đầu tư nước ngoài đăng
trên các tạp chí khoa học chuyên ngành. Như TS Nguyễn Thị Liên Hoa (2002) với
bài Xây dựng một lộ trình đầu tư thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tại Việt
Nam, Tạp chí Phát triển kinh tế 9/2002. Tác giả Trần Văn Lợi (2006) với bài Phát
triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: vấn đề đặt ra và một số giải pháp, Tạp chí

Cộng sản số 14 - 7/2006. PGS.TS. Tác giả Nguyễn Hồng Sơn (2006) với bài Đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI): triển vọng thế giới và thực tiễn Việt Nam, Tạp chí Những
vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, tháng 06/2006. PGS. TS Bùi Anh Tuấn, ThS
Phạm Thái Hưng với bài Đầu tư trực tiếp nước ngoài: cần có một cách tiếp cận thận
trọng hơn, Nghiên cứu kinh tế số 312 – Tháng 5/2004. Tác giả Đoàn Ngọc Phúc với
bài Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - thực trạng, những vấn đề đặt ra và
triển vọng, Nghiên cứu kinh tế số 315 – Tháng 8/2004. Tác giả Nguyễn Hữu Tín với
bài Thành phố Hồ Chí Minh đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, Tạp chí Quản lý
nhà nước số 111 (tháng 4/2005). Tác giả Phạm Thị Hồng Cúc với bài Giải pháp thu
hút đầu tư nước ngoài ở Đồng Nai, Tạp chí Quản lý nhà nước số 110 (tháng 3/2005).
Tác giả Phạm Văn Sơn Khanh với bài Thực trạng và giải pháp phát triển các khu
công nghiệp tỉnh Binh Dương đến năm 2010, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 273,
tháng 2/2001...
Những bài viết trên đây, trong phạm vi nghiên cứu của mình, các tác giả đã
góp phần làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn đầu tư nước ngoài trên thế giới
và Việt Nam. Trong đó đã có những góc nhìn khách quan hơn về đầu tư nước ngoài
với cả những tác động tích cực và những hạn chế. Đồng thời, cũng đã có những
15
nghiên cứu về đầu tư nước ngoài ở những địa phương cụ thể với những đề xuất giải
pháp thu hút đầu tư mà trong đó quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư được đề
cập với tư cách là một trong những giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài mà chưa giải
quyết được vấn đề lý luận quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm.
Liên quan đến tình hình nghiên cứu còn có những công trình nghiên cứu về
vùng và phát triển kinh tế vùng. Nổi bật trong đó là các đề tài:
+ “Việt Nam - lãnh thổ và các vùng địa lý”, GS Lê Bá Thảo, Nhà xuất bản
Thế giới – Hà Nội 1998. Trên cơ sở lý thuyết phân vùng lãnh thổ, quan điểm và kinh
nghiệm phân vùng lãnh thổ của một số nước trên thế giới, tác giả đã nghiên cứu một
cách hệ thống về quá trình hình thành và thực trạng các vùng lãnh thổ của Việt Nam;
tầm quan trọng của phân vùng lãnh thổ trong sự phát triển đất nước. Do tiếp cận từ

góc độ địa lý học nên tác giả không đề cập vấn đề lý luận quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với các vùng địa lý.
+ “Qui hoạch vùng”, TS.KTS Phạm Kim Giao chủ biên, Nhà xuất bản Xây
dựng, Hà Nội 2000. Đây là một giáo trình phục vụ công tác giảng dạy lý thuyết về
công tác quy hoạch phát triển các vùng lãnh thổ của một quốc gia.
+ “Địa lý ba vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam”, Lê Thông - Đỗ Anh Dũng
– Vũ Mai Huê – Nguyễn Thị Lệ Phương, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 2006. Các
tác giả làm rõ những yếu tố về địa lý của các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam
hiện nay.
+ “Tổ chức lãnh thổ địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam”, Đề tài đặc biệt cấp
nhà nước do TS Đặng Hữu Ngọc, TS Lữ Triều Thành, TS Tôn Sỹ Kinh, TS Trần Du
Lịch và Kỹ sư Chu Thừa Châm làm chủ nhiệm, thành phố Hồ Chí Minh, 1994. Đây
là một công trình nghiên cứu khá công phu và toàn diện về tổ chức lãnh thổ địa bàn
kinh tế trọng điểm phía Nam. Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ đặc điểm lịch sử, tự
nhiên, kinh tế xã hội, các tác giả xác định quan điểm, mục tiêu, định hướng phát
triển, thu hút đầu tư và đề xuất các định chế cho địa bàn kinh tế trọng điểm phía
Nam. Trong những định chế các tác giả đề xuất xây dựng, có đề cập tới việc xây
16
dựng các định chế kinh tế đặc biệt nhằm thúc đẩy nền kinh tế hướng ngoại như khu
chế xuất, khu công nghiệp tập trung, kho ngoại quan, quá cảnh, khu hành chính –
kinh tế đặc biệt. Các tác giả cũng đã đề xuất việc hình thành Hội đồng hoặc Ban chỉ
đạo quy hoạch, phát triển địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong thực tế, đề
xuất này đã được áp dụng bằng việc Chính phủ thành lập Tổ chức điều phối phát
triển các vùng kinh tế trọng điểm. Tuy nhiên, do đề tài nghiên cứu ở tầm vĩ mô với
phạm vi rộng nên chưa giải quyết được những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà
nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đấu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm
này. Mặt khác, do đã thực hiện quá lâu (1994) nên nhiều vấn đề được đề cập trong
công trình này không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay, cẳng hạn vấn đề không
gian lãnh thổ của vùng, tên gọi và đi liền với nó là hình thức tồn tại của một vùng đã
có những thay đổi rất cơ bản so với năm 1994.

+ “Phát triển kinh tế vùng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, của các tác giả Nguyễn Xuân Thu, Nguyễn Văn Phú, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 2006. Các tác giả tập trung phân tích, đánh giá tổng hợp các lợi thế
so sánh của các loại vùng khác nhau, gợi ý lựa chọn phương hướng và đề xuất giải
pháp phát triển các vùng nhằm thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Công trình này nghiên cứu về phát triển kinh tế vùng nên cũng chưa
quan tâm giải quyết vấn đề lý luận quản lý nhà nước bằng pháp luật.
+ “Kinh tế vùng ở Việt Nam từ lý luận đến thực tiễn” của TS Lê Thu Hoa,
Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội 2007. Tác giả đã nghiên cứu và giải quyết
nhiều vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế vùng và vận dụng trong nghiên cứu thực tiễn
phát triển vùng ở nước ta thời gian qua. Như: khái niệm, nội dung kinh tế vùng; tổng
quan về các loại vùng và các loại vùng kinh tế; bản chất và nội dung củ vùng kinh tế;
vai trò, tác động của các vùng kinh tế trọng điểm và hiện trạng phát triển các vùng
kinh tế trọng điểm ở Việt Nam… Do là một công trình chuyên khảo về lý luận và
thực tiễn kinh tế vùng ở Việt Nam, nên tác giả không đề cập đến vấn đề quản lý nhà
nước nói chung và quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại các vùng
nói riêng.
17
+ “Chính sách phát triển vùng của Italia”, của PGS,TS Bùi Quang Nhật, Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 2006. Tác giả đã giới thiệu và phân tích những
quan niệm về phát triển kinh tế vùng ở Italia, phân tích chính sách và quá trình thực
hiện chính sách phát triển kinh tế vùng của Italia. Từ đó, tác giả đưa ra một số gợi ý
về phát triển kinh tế vùng ở Việt Nam. Tuy nhiên, công trình này cũng chưa giải
quyết được vấn đề lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với một lĩnh vực
cụ thể (đầu tư nước ngoài) tại một vùng kinh tế - lãnh thổ.
Những công trình nêu trên đã tập trung nghiên cứu về vùng lãnh thổ và vùng
kinh tế, đưa ra những tiêu chí phân loại vùng, đánh giá chính sách phát triển kinh tế
vùng của Đảng và nhà nước ta, làm rõ cơ sở khoa học của việc hình thành các vùng
kinh tế - lãnh thổ (trong đó có những vùng kinh tế trọng điểm) phục vụ cho công tác
quản lý phát triển. Cùng với những công trình nghiên cứu về những khía cạnh khác

nhau của quản lý nhà nước và quản lý nhà nước bằng pháp luật trên một số lĩnh vực
kinh tế cụ thể đã thống kê trên đây, những công trình này đã có những đóng góp rất
đáng trân trọng vào việc hoàn thiện lý luận quản lý nhà nước bằng pháp luật nói
chung. Tuy nhiên, do chỉ hướng vào những phạm vi hẹp, những khía cạnh cụ thể,
hoặc quá chung, quá rộng trên tầm vĩ mô nên những công trình này vẫn còn những
hạn chế nhất định cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
Khái quát về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, có thể thấy:
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận về phát triển kinh tế vùng đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm, cả trong và ngoài nước, nhưng quản lý những vùng ấy như thế
nào, nhất là quản lý các quá trình xã hội (trong đó có hoạt động đầu tư nước ngoài)
như thế nào, bằng cơ chế nào lại chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức.
Thứ hai, những vấn đề lý luận về đầu tư nước ngoài như khái niệm, hình thức,
vai trò của đầu tư nước ngoài, pháp luật về đầu tư nước ngoài và quản lý nhà nước
đối với hoạt động đầu tư nước ngoài đã được quan tâm nghiên cứu và khá hoàn thiện
về mặt lý luận.
18
Thứ ba, lý luận chung về quản lý nhà nước và quản lý nhà nước bằng pháp
luật cũng là lĩnh vực được quan tâm nghiên cứu và các tác giả đã giải quyết được
những vấn đề cơ bản của lý luận về lĩnh vực này.
Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn, có thể thấy một số tồn tại sau đây:
quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài diễn ra tại những
vùng kinh tế trọng điểm nói chung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng là
gì? Đặc trưng, nội dung của nó như thế nào? Những yếu tố nào ảnh hưởng, tác động
đến hoạt động quản lý? Thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam diễn ra như thế nào, thành
tựu và bất cập ra sao? Nguyên nhân của thành tựu và bất cập, yếu kém? Phải làm gì
và làm như thế nào để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
này tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam? v.v…và v. v…Đây chính là
những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Thứ tư, có thể khẳng định: cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu

một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước
bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại một vùng kinh tế trọng điểm của
Việt Nam.
Vì vậy, đề tài “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam” trên cơ sở kế thừa có
chọn lọc một số nội dung của các công trình khoa học nêu trên, là công trình khoa học
đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống, toàn diện cả lý luận và thực tiễn
liên quan đến vấn đề nghiên cứu, nó không trùng với bất kỳ công trình nào khác.
1.2. NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN
Luận án này tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn sau
đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh
vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm, như: khái niệm, đặc điểm, nội
dung, vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
19
tại vùng kinh tế trọng điểm và những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực này.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh
vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; làm rõ những hạn chế,
bất cập và nguyên nhân của quá trình này.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm quản lý nhà nước bằng
pháp luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt
Nam hiện nay.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong những năm qua, nhiều chính sách, chủ trương của Đảng và nhà nước ta
đã được triển khai thành công trong thực tiễn, trong đó có chính sách phát triển kinh
tế vùng và chính sách mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài. Một trong những nguyên
nhân của sự thành công này chính là bởi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta đã được xây dựng trên cơ sở những luận cứ khoa học. Những công trình
nghiên cứu về phát triển kinh tế vùng, về đầu tư nước ngoài đã đóng góp phần quan

trọng trong việc luận chứng những chính sách của Đảng và nhà nước. Nhiều vấn đề
lý luận phát triển kinh tế vùng, lý luận đầu tư nước ngoài đã được quan tâm nghiên
cứu làm rõ. Đi đôi với phát triển kinh tế vùng là việc quản lý quá trình phát triển. Từ
góc độ quản lý nhà nước bằng pháp luật, những vấn đề lý luận cơ bản cũng đã được
giải quyết, góp phần hoàn thiện phương thức quản lý tiên tiến hiện nay trong bối cảnh
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, quản lý xã hội nói chung, quản lý nhà nước bằng pháp luật trong
lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm nói riêng còn những vấn đề
cần nghiên cứu làm rõ cả về lý luận và thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa
lý luận về lĩnh vực này.
20
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM

2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC
ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài tại vùng kinh tế trọng điểm
2.1.1.1. Khái niệm vùng kinh tế trọng điểm
Để phân vùng và phát triển đất nước phù hợp với đặc điểm từng vùng, các
quốc gia đã rất quan tâm nghiên cứu và đưa ra những quan niệm về vùng theo cách
tiếp cận của riêng mình. Theo một số tác giả Trung Quốc thì “vùng là một phần của
bề mặt trái đất, nó dựa vào một hoặc nhiều loại tiêu chí phân biệt với phần lân cận”.
[85, tr.18]. Với cách tiếp cận này, ở tầm vĩ mô, vùng có thể bao gồm một số quốc gia
trong khu vực rộng có tính quốc tế. Trên thế giới, có nhiều vùng được gọi như thế:
các nước vùng Ban - tích, các nước vùng Ban – căng. Theo nghĩa hẹp hơn, “vùng” là
một bộ phận lãnh thổ của một quốc gia. Quan niệm này cơ bản cho người ta thấy
được thế nào là một “vùng”, tuy nhiên nó lại là một quan niệm quá “mở” khi có thể

chỉ cần dựa vào “một” hoặc có thể dựa vào “nhiều loại tiêu chí” để phân biệt với các
phần lân cận. Nó cũng mới chỉ cho thấy “vùng” là một phần “bề mặt trái đất”, (yếu tố
tự nhiên) chưa đề cập đến các khía cạnh xã hội, con người trong vùng.
Theo các nhà địa lý học Liên Xô cũ thì “vùng” là “một phần lãnh thổ được
tách ra trên cơ sở tập hợp các dấu hiệu (hoặc hiện tượng) có quan hệ mật thiết với
nhau, là một cấp phân vị trong hệ thống phân chia lãnh thổ” [85, tr.5]. Cách phân
vùng lãnh thổ này đã chỉ ra được “các dấu hiệu” và sự liên quan mật thiết giữa “các
dấu hiệu” để nhận biết một “vùng”. Đồng thời nó cũng cho thấy yếu tố chủ quan của
con người trong việc xác định một “vùng” . Các quốc gia Tây Âu cũng có những
21
quan niệm khác nhau về “vùng”. Theo pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp thì
“vùng” (khu) là “một đơn vị hành chính lãnh thổ, một cộng đồng lãnh thổ gồm nhiều
tỉnh” [99, tr.253]. Quan niệm của Pháp về “vùng” như trên là rất cụ thể từ góc độ
hành chính nhà nước, xác định rõ “vùng” là đơn vị hành chính – lãnh thổ, chứ không
chỉ chung chung là “một phần bề mặt trái đất”. Đối với Italia, vùng cũng là một thuật
ngữ được nhiều nhà nghiên cứu Italia quan tâm nghiên cứu và đưa ra các cách phân
loại vùng khác nhau. Theo đánh giá của TS Bùi Nhật Quang trong “Chính sách phát
triển vùng của Italia” thì “cách phân loại vùng của Anna Bull (Regionalism in Italia,
Eurropa Number 2 – Article 4, 1996) là rất đáng chú ý” [61, tr.10]. Anna Bull đã xem
xét và phân biệt vùng không chỉ từ một góc nhìn nhất định, mà tác giả này đã phân
biệt và xem xét vùng theo ba góc nhìn khá riêng biệt, bao gồm: “1) Vùng với tư cách
là các thực thể hành chính; 2) Chủ nghĩa phân vùng/chủ nghĩa liên bang xem xét dưới
góc độ thực hiện các trào lưu chính trị và trường phái tư tưởng; 3) Vùng xem xét
dưới góc độ thực hiện các chính sách vùng, đặc biệt là chính sách phát triển vùng”
[61, tr.10]. Đây là cách nhìn nhận vấn đề khá toàn diện khi nghiên cứu “vùng” với
nhiều góc độ và chỉ ra mục đích của việc phân vùng lãnh thổ là để “thực hiện các
chính sách vùng” và đặc biệt là thực hiện “chính sách phát triển vùng”.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, thuật ngữ “vùng” được sử dụng trong nhiều
trường hợp, nhiều lĩnh vực khác nhau.
Về ngữ nghĩa trong tiếng Việt phổ thông thì “vùng” đã được giải thích theo

nhiều cách hiểu khác nhau. Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin 1999 giải thích từ “vùng” theo 3 nghĩa: “1. Miền, khu vực rộng,
một khoảng đất rộng (vùng quê, vùng ngược, vùng xuôi, vùng mỏ,…); 2. Khu ruộng
lớn gồm nhiều thửa (bờ vùng, bờ thửa, ruộng liền vùng…); 3. Chỗ nào đó trên cơ thể
(vùng ngực…)” [117, tr.1837]. Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, Nhà xuất bản
Giáo dục 1994 giải thích “vùng là phần đất đai, hoặc nói chung là không gian tương
đối rộng có những đặc điểm nhất định về tự nhiên hay xã hội, phân biệt với các phần
khác ở xung quanh” [65, tr.1093]. Với cách hiểu như trên thì “vùng” theo quan điểm
22
của Hoàng Phê có nghĩa hẹp hơn so với cách giải thích của Đại từ điển Tiếng Việt và
chỉ ở góc độ tiếp cận của khoa học địa lý.
Các nhà nghiên cứu của Việt Nam, từ những góc độ của mình cũng có nhiều
quan niệm về “vùng”. Chẳng hạn, GS Lê Bá Thảo, trong “Việt Nam - lãnh thổ và các
vùng địa lý” đã nêu khái niệm: “Vùng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia có một
sắc thái đặc thù nhất định, hoạt động như một hệ thống do có những mối quan hệ
tương đối chặt chẽ giữa các thành phần cấu tạo nên nó, cũng như những mối quan hệ
có chọn lọc với các không gian các cấp bên ngoài” [80, tr.281].
Cách tiếp cận này cho thấy “vùng” không chỉ hình thành từ những yếu tố tự
nhiên, mà còn có yếu tố xã hội, có sự can thiệp của con người. Sự hình thành của
“vùng” là có tính mục đích, tính tổ chức (hoạt động như một hệ thống) và có mối
quan hệ tương đối chặt chẽ giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài vùng.
PGS.TS Ngô Doãn Vịnh trong “Nghiên cứu chiến lược và Qui hoạch phát
triển kinh tế - xã hội ở VN”, giải thích: “Vùng kinh tế - xã hội là một hệ thống kinh tế
xã hội lãnh thổ, bao gồm các mối liên hệ tương tác nhiều chiều giữa các bộ phận cấu
thành: liên hệ địa lý và liên hệ về kỹ thuật, liên hệ về kinh tế và liên hệ về các mặt xã
hội trong hệ thống cũng như ngoài hệ thống”. [118, tr.184]. Với cách giải thích này,
tác giả đã tiếp cận khái niệm “vùng” từ góc độ kinh tế - xã hội. Cho dù không phải là
một đơn vị hành chính, nhưng vùng kinh tế - xã hội cũng là một hệ thống. Hệ thống
này bao gồm nhiều yếu tố cấu thành có mối liên hệ tương tác với nhau về địa lý, kỹ
thuật, kinh tế và các mặt xã hội. Những mối liên hệ này không chỉ có giữa các yếu tố

cấu thành vùng mà nó còn có liên hệ với các yếu tố bên ngoài vùng. Như thế, khi
xuất hiện vùng, cho dù là vùng lãnh thổ hành chính hay vùng kinh tế - xã hội thì tất
yếu phải có pháp luật, cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch để quản lý các quá
trình kinh tế - xã hội ở vùng đó, đảm bảo cho các quá trình này vận động, phát triển
theo đúng quy luật của nó.
Từ sự phân tích và kế thừa những quan niệm trên, trong phạm vi nghiên cứu
của luận án, tác giả luận án cho rằng với cách hiểu chung nhất thì vùng là một bộ
23
phận lãnh thổ của quốc gia, mà trên đó tồn tại những yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội
tương đối đồng nhất giúp cho người ta phân biệt với những phần còn lại.
Với cách tiếp cận này, vùng trong phạm vi một quốc gia có thể bao gồm một
số tỉnh, hoặc vùng nhỏ hơn nữa (tiểu vùng) chỉ bao gồm một số huyện hoặc xã.
Về phương diện địa lý - hành chính có vùng hành chính, (các đơn vị hành
chính) được chia ra nhằm phục vụ cho việc quản lý các hoạt động, các quá trình kinh
tế - xã hội.
Về phương diện kinh tế, các nhà địa lý học và kinh tế học đã phân chia lãnh
thổ thành những những vùng kinh tế ngành (hay còn gọi chuyên ngành) và vùng kinh
tế tổng hợp. Vùng kinh tế ngành là những vùng tập trung khai thác và phát triển trên
cơ sở phát huy thế mạnh về riêng một lĩnh vực kinh tế nào đó, như các vùng nông
nghiệp, vùng cây công nghiệp, vùng công nghiệp, vùng du lịch… Vùng kinh tế tổng
hợp (thường gọi tắt là vùng kinh tế, vùng kinh tế - xã hội) là một không gian kinh tế
với vị trí địa lý có ranh giới xác định nhưng không cố định. Sự phát triển của vùng
kinh tế tổng hợp có tính bao trùm hơn với nhiều ngành khác nhau, thậm chí phát triển
tất cả các ngành của nền kinh tế. Đây cũng chính là cách tiếp cận theo hướng “vùng”
là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia với những đặc điểm riêng có về kinh tế, địa lý,
xã hội thể hiện những lợi thế so sánh khác nhau dẫn đến sự phát triển chênh lệch giữa
các vùng đòi hỏi nhà nước “phải thực hiện các chính sách phát triển vùng với một hệ
thống các công cụ, phương tiện can thiệp khác nhau nhằm đảm bảo sự gắn kết chung
của các bộ phận lãnh thổ” [61, tr.12].
Căn cứ vào trình độ phát triển của vùng, người ta chia thành các vùng phát

triển, vùng chậm phát triển và vùng suy thoái, trong đó vùng phát triển là vùng có
những điều kiện thuận lợi (do thiên nhiên đem lại hoặc do con người tạo nên) cho sự
phát triển kinh tế - xã hội và trong thực tế những vùng này cũng đã phát triển hơn hẳn
so với các vùng khác. Đây là những vùng mà sự phát triển của nó có những tác động
tích cực đến sự phát triển của cả nước.
Ở Việt Nam, việc phân chia đất nước thành những vùng kinh tế theo những
điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa, truyền thống… để có một qui hoạch tổng
24
thể phát triển kinh tế – xã hội đất nước đã được nhà nước rất quan tâm ngay từ những
năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Trong quá trình phát triển đất nước, do hoàn cảnh
kinh tế - xã hội, nhà nước có những sự điều chỉnh quy hoạch và phân chia vùng cho
phù hợp với hoàn cảnh mỗi giai đoạn. Hiện nay, theo Quyết định số 73/2006/QĐ –
TTg, ngày 4 tháng 4 năm 2006 của thủ tướng Chính phủ, Việt Nam có 6 vùng kinh tế
- lãnh thổ, bao gồm: Vùng 1 (14 tỉnh trung du miền núi phía Bắc); vùng 2 (15 tỉnh
đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ); vùng 3 (10 tỉnh ven biển Trung Bộ); vùng 4
(4 tỉnh Tây Nguyên); vùng 5 (8 tỉnh Đông Nam Bộ); vùng 6 (13 tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long). Đây là cơ sở để hoạch định chính sách phát triển kinh tế vùng của Việt
Nam.
Cũng là những vùng kinh tế nhưng mỗi vùng có những tiềm năng, lợi thế và
sự phát triển khác nhau, do đó có những đóng góp khác nhau vào sự phát triển chung
của đất nước. Từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, ở Việt Nam
đã xuất hiện thuật ngữ “tam giác kinh tế phát triển” để chỉ các tỉnh, thành phố có vị
trí địa lý gần nhau, có những điều kiện phát triển và đã phát triển hơn các tỉnh, thành
phố khác. Ở phía Bắc có tam giác Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh (về sau thêm
Hải Dương và trở thành tứ giác phát triển), ở phía Nam là tam giác thành phố Hồ Chí
Minh – Đồng Nai – Bà Rịa Vũng Tàu (về sau trở thành tứ giác với sự xuất hiện của
Sông Bé, nay là Bình Dương và Bình Phước). Hiện nay, thuật ngữ “vùng kinh tế
trọng điểm” đã thay thế cho thuật ngữ “tam giác (hoặc tứ giác) phát triển” trước đây.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học địa lý kinh tế, nhằm phục vụ cho
việc quản lý và phát triển kinh tế vùng theo chủ trương của Đảng, Chính phủ đã phê

duyệt quy hoạch phát triển 3 vùng kinh tế trọng điểm: vùng kinh tế trọng điểm phía
Bắc, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Có
thể khẳng định việc hình thành và phát triển 3 vùng kinh tế trọng điểm là rất cần
thiết, rất có ý nghĩa cho sự phát triển của đất nước. Đây là 3 vùng tập trung những lợi
thế so sánh rõ nét so với các vùng khác. Do đó, sau hơn 10 năm phát triển, các vùng
này đã có những đóng góp lớn lao cho nền kinh tế nước nhà với 60,7% GDP, 80% trị
giá kim ngạch xuất khẩu của cả nước, trên 60% dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài,
25

×