Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Tìm hiểu xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.55 KB, 93 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thực tiễn cho chúng ta thây, trong nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia
thì giao thông đường bộ được coi là một lĩnh vực quan trọng, là một bộ phận
trong kết cấu hạ tầng quốc gia; cùng với đường sắt, đường thủy, đường không,
chúng tạo thành mạch máu của sự phát triển đất nước. Ở phạm vi hẹp, giao
thông đường bộ đáp ứng nhu cầu dịch chuyển, giao dịch giữa các chủ thể khác
nhau của nền kinh tế. Còn ở tầm vĩ mô, hoạt động giao thông đường bộ có liên
quan trực tiếp đến an ninh, trật tự an toàn xã hội cũng như sự phát triển kinh tế
- xã hội – văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc, đẩy mạnh giao lưu, hội nhập với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Do tầm quan trọng của giao thông
đường bộ, nên việc đầu tư phát triển lĩnh vực này đã trở thành điều kiện tiền đề
tiên quyết cho sự phát triển quốc gia. Trong xu thế mang tính quy luật đó, Việt
Nam không phải là ngoại lệ.
Những năm qua, cùng với việc đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ
nhằm tạo tiền đề, động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng tiến trình hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế, góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội, Việt Nam cũng không ngừng hoàn thiện pháp luật về giao thông đường
bộ, trong đó có nội dung quan trọng là xử phạt vi phạm hành chính.
Dưới góc độ luật học, xử phạt vi phạm hành chính là một chế định quan
trọng của hệ thống pháp luật mỗi quốc gia, để điều chỉnh hoạt động xử phạt các
vi phạm hành chính. Dưới góc độ quản lý, xử phạt vi phạm hành chính là một
hoạt động để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động xử
phạt vi phạm hành chính nói chung, trong lĩnh vực giao thông đường bộ nói
riêng hướng tới mục phòng ngừa và chống vi phạm hành chính, góp phần giữ
vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi

1



ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng
cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
ở Việt Nam hiện nay được điều chỉnh bởi hai “dọc” pháp lý là pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính và pháp luật về giao thông đường bộ. Trong những
năm qua, hai hệ thống quy phạm này đã ngày càng được hoàn thiện, tiêu biểu
là sự ra đời của Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 (tiền thân là Pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi bổ sung năm các năm
2007, 2008), Luật Giao thông đường bộ năm 2008 (thay thế Luật giao thông
đường bộ ngày 29 tháng 6 năm 2001), cùng với chúng là sự ra đời các văn bản
hướng dẫn thi hành của khối các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền.
Điều này đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội: Tổ chức
giao thông đã có những chuyển biến rõ rệt; ý thức chấp hành luật giao thông
đường bộ được nâng lên, trật tự lòng đường, vỉa hè thông thoáng hơn, hạn chế
ùn tắc giao thông; công tác quản lý của Nhà nước về trật tự an toàn giao thông
đường bộ được tăng cường, trang bị các phương tiện kỹ thuật thuận lợi cho sự
chỉ huy thống nhất và nhanh chóng ở các đô thị. Công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật đã được quan tâm, đa dạng hóa với nhiều hình thức, nội dung
phong phú, thiết thực. Công tác tuần tra kiểm soát, xử phạt vi phạm có tác dụng
răn đe, phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, trong những năm qua, tình hình vi phạm hành chính về
TTATGT đường bộ ở nước ta diễn biến rất phức tạp, vi phạm hành chính về
TTATGT đường bộ còn mang tính phổ biến. Chỉ tính trong thời gian từ 2008
đến 2013, lực lượng CSGT phát hiện hơn 33 triệu trường hợp vi phạm
TTATGT, xử phạt trên 9.676 tỉ đồng. Trung bình mỗi năm, lực lượng CSGT
phát hiện và xử phạt trên 6 triệu trường hợp vi phạm, với tổng số tiền xử phạt
vi phạm hành chính trên 1.600 tỉ đồng, số vụ vi phạm và số tiền phạt năm sau
cao hơn năm trước. Chỉ tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2014, lực lượng
CSGT toàn quốc đã kiểm tra, lập biên bản 2.584.905 trường hợp vi phạm
2



TTATGT đường bộ; phạt tiền 1.470 tỷ đồng (so với cùng kỳ năm trước số xử lý
vi phạm giảm 314.188 trường hợp (-10,8%), tiền phạt tăng 57,2 tỷ (+4,04%);
tước giấy phép lái xe 138.675 trường hợp; tạm giữ 313.473 phương tiện các
loại [39].
Trước tình hình này, đã có nhiều nguyên nhân được được chỉ ra, trong đó
có nguyên nhân thuộc về công tác phòng chống vi phạm của cơ quan công
quyền có liên quan tới sự khiếm khuyết của hệ thống thi hành pháp luật như:
triển khai thực hiện luật chưa quyết liệt, chậm phát hiện vi phạm, xử phạt thiếu
tính răn đe, xử phạt thiếu nghiêm túc. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề xử phạt
vi phạm hành chính là cần thiết, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, mà còn
có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, đặc biệt là đối với những người làm công tác quản
lý nhà nước về giao thông đường bộ hay những người nghiên cứu về khoa học
luật, khoa học hành chính công.
Ở bình diện địa phương, tình trạng vi phạm hành chính giao thông đường
bộ cũng diễn ra ngày cảng nhiều, trong đó có tỉnh . là tỉnh có hệ thống giao
thông khá đa dạng. Tỉnh có Sân bay Buôn Ma Thuột tuyến từ Buôn Ma Thuột
đến các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội, thành
phố Đà Nẵng…. Ngoài ra, 14 tỉnh lộ với tổng chiều dài 460 km, có quốc lộ 14
chạy qua nối với thành phố Đà Nẵng qua các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và nối với
Thành phố Hồ Chí Minh qua Đắk Nông, Bình Phước và Bình Dương... Song
song với biên giới Campuchia có quốc lộ 14C; Quốc lộ 27 nối thành phố Buôn
Ma Thuột với tỉnh Lâm Đồng. Quốc lộ 26 từ đi tỉnh Khánh Hòa, nối với quốc
lộ 1A tại thị trấn Ninh Hoà, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hòa. Những tuyến
quốc lộ này là mạch máu trung gian quan trọng của vùng. Chính vì thế, tình
hình vi phạm và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ của tỉnh là một vấn đề quan trọng. Làm tốt được hoạt động này, có nghĩa là
huyết mạch giao thông của tỉnh sẽ được thông suốt, góp phần lớn vào mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội của nói riêng và của kinh tế miền Tây Nguyên nói

chung.
3


Trên địa bàn tỉnh hiện nay, tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ còn diễn biến phức tạp và liên tục có xu hướng tăng lên.
Có nhiều nguyên nhân được đề cập, trong đó có ý kiến cho rằng do cơ sở hạ
tầng giao thông chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều nơi còn xuống cấp nghiêm
trọng trong khi lượng phương tiện giao thông đặc biệt là phương tiện giao
thông cá nhân (chủ yếu là ô tô và xe máy) không ngừng tăng lên; hệ thống
pháp luật giao thông đường bộ và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ còn nhiều hạn chế, chưa nghiêm khắc và mang tính răn
đe, giáo dục cao; năng lực và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận đội ngũ
cảnh sát giao thông chưa cao; ý thức tham gia giao thông của người dân còn
kém… Hiện thực này đã thôi thúc tôi mong muốn tìm hiểu một cách khoa học
và có hệ thống về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ ở tỉnh . Đây là một vấn đề chưa từng được nghiên cứu đối với trường
hợp .
Vì tất cả những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Xử phạt hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - từ thực tiễn tỉnh ” làm đề tài luận
văn tốt nghiệp hệ cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp - Hành chính của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề xử phạt hành chính nói chung, trong lĩnh vực giao thông đường
bộ nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và giới nghiên
cứu khoa học. Một số công trình khoa học tiêu biểu có thể kể đến là:
-

Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (1980), Xử phạt vi phạm


hành chính, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (mã số 85 98 008), Hà Nội;
Đề tài lần đầu tiên đề cập đến một cách toàn diện về việc xây dựng một
hệ thống khoa học của việc xử phạt vi phạm hành chính. Từ đó, đề tài làm nền
tảng pháp lý nghiên cứu áp dụng cho việc xử phạt vi phạm hành chính trên
nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có cả lĩnh vực giao thông đường bộ.
-

TS. Vũ Thư (1996), Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn,
4


Chuyên đề hội thảo khoa học về giao thông, Hà Nội;
Tác giả đã đề cập sâu về nội dung chế tài hành chính cả trên phương
diện lý luận và thực tiễn. Công trình nghiên cứu đã làm tài liệu tham khảo hiệu
quả cho nhiều tác giả của các trường Đại học trong cả nước khi hoàn thành
giáo trình Luật Hành chính như Học viện Hành chính quốc gia, Đại học Luật
Hà Nội…
-

Nguyễn Văn Thạch (1997), Trách nhiệm hành chính – Lý luận và

thực tiễn, Chuyên đề Hội thảo về giao thông, Hà Nội;
-

PGS.TS Bùi Xuân Đức (2006), Về vi phạm hành chính và hình

thức xử phạt vi phạm hành chính: Những hạn chế và giải pháp đổi mới, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật. Tác giả nhìn nhận thực tế sâu sắc và đưa ra những hạn
chế về cách phân loại vi phạm hành chính và những điểm còn tồn tại, bất hợp
lý của hình thức xử phạt vi phạm hành chính được quy định trong Pháp lệnh xử

phạt vi phạm hành chính 2002. Từ đó, PGS.TS Bùi Xuân Đức đã đưa ra những
hướng giải pháp đổi mới làm nền tảng cho việc Nhà nước ban hành Pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày
02 tháng 4 năm 2008.
-

Th.S Nguyễn Mạnh Hùng (2006), Tạm giữ tang vật, phương tiện

vi phạm hành chính về giao thông đường bộ cần được áp dụng như thế nào,
Tạp chí Luật học. Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng đã đề cập đến vấn đề tạm giữ
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính về giao thông đường bộ - một nội
dung mà Pháp lệnh xử phạt phạm hành chính năm 2002 còn quy định chưa
hoàn thiện. Bài viết đã làm cơ sở quan trọng để Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một
số điều của Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày 02 tháng 4 năm 2008
đề cập hoàn thiện hơn về nội dung này.
-

TS. Trần Minh Hương (2006), Biện pháp xử phạt hành chính

khác, Tạp chí Quản lý Nhà nước. Tác giả đã đưa ra được ngoài biện pháp xử
phạt hành chính cơ bản là: phạt tiền, cảnh cáo và trục xuất thì còn có các biện
pháp xử phạt hành chính khác là: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào
5


trường giáo dưỡng; Đưa vào cơ sở giáo dục; Đưa vào cơ sở chữa bệnh. Song
điều đáng nói đến của nội dung bài viết là TS.Trần Minh Hương đã đưa ra
những ưu điển và nhược điểm của những biện pháp này và thực tế khi áp dụng
quy định này ở một số địa phương trong cả nước.
Ở cấp độ thấp hơn, các đề tài luận văn liên quan đến đề tài, có thể kể đến:

-

Nguyễn Văn Đô (2007), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc
sỹ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội;
Luận văn của tác giả Nguyễn Văn Đô đề cập đến vấn đề xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên phạm vi toàn quốc khá
toàn diện với lý luận sâu và đặc biệt là bảng số liệu phong phú về nhiều nội
dung đã khái quát được khá rõ về hoạt động về đề tài nghiên cứu. Nhưng, nhìn
chung thì Luận văn của tác giả lại khá giống với một bản báo cáo của ngành
Công an về hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB trên
phạm vi toàn quốc vì tác giả không có sự đánh giá trên phương diện của người
nghiên cứu vấn đề về những tồn tại của hoạt động trên.
-

Phạm Trung Hòa (2008), xử phạt vi phạm hành chính về trật tự

an toàn giao thông đường bộ của cảnh sát giao thông ở Việt Nam, Luận văn
Hành chính công, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội;
Mặc dù chỉ có độ dài 88 trang song Luận văn của tác giả Phạm Trung
Hòa đã đề cập toàn diện về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GTĐB của Cảnh sát giao thông ở Việt Nam. Là luận văn mang tính chuyên
ngành sâu sắc, tác giả đã có lý luận sâu sắc, thực tế rõ ràng và cả những giải
pháp toàn diện cho hoạt động mà đề tài đề cập đến.
-

Trần Sơn Hà (2011), cải cách thủ tục hành chính trong xử phạt vi


phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam đến năm
2020, Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc
gia, Hà Nội.
6


Đề cập đến nội dung khá mới mẻ và mang tính định hướng cho tương lai
về cải cách thủ tục hành chính trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GTĐB đến năm 2020 nhưng tác giả Trần Sơn Hà đã có một công trình nghiên
cứu thành công và được Hội đồng khoa học đánh giá cao. Vấn đề còn lại là làm
thế nào để những định hướng mà luận văn nêu ra sớm được áp dụng trong thực
tế ở Việt Nam hiện nay.
Qua khảo sát thấy được, các công trình nghiên cứu đã giải quyết được
những vấn đề lý luận cơ bản về xử phạt vi phạm hành chính như: khái niệm,
đặc điểm của trách nhiệm hành chính, các yếu tố của vi phạm hành chính, nội
dung pháp luật điều chỉnh công tác xử phạt vi phạm hành chính về giao thông
đường bộ,... Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật xử phạt, xử phạt vi phạm hành
chính về giao thông đường bộ là hoạt động mang tính đặc thù không giống
nhau ở mỗi địa phương, do vậy, trong bối cảnh thiếu vắng những công trình
nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính giao
thông đường bộ ở , việc tác giả lựa chọn đề tài trên là cần thiết và không bị
trùng lặp với các công trình khác đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ quy định pháp luật và tình
hình thực hiện quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ ở tỉnh , từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn
thiện quy định và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về xử phạt hành chính
về giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Để hoàn thành được mục đích đặt ra, luận văn tập trung giải quyết các
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự, giao thông đường
bộ;
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng tình hình vi phạm hành chính và
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên
7


địa bàn tỉnh trong thời gian qua. Từ đó, rút ra được những ưu điểm và hạn chế
của công tác này.
Ba là, trên cơ sở quán triệt các quan điểm có tính chất chỉ đạo, đề xuất
một số giải pháp góp phần làm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở trong thời gian
tới.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
-Quy phạm pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ; công tác thực hiện pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở tỉnh của
cơ quan có thẩm quyền.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-Về thời gian: Từ năm 2011 đến tháng 6/2016.
-Về không gian: Tỉnh .
-Về đối tượng: Chủ yếu khảo sát công tác xử phạt hành chính của
lực lượng cảnh sát giao thông Công an tỉnh .
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên nền tảng phương pháp luận duy vật


biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng các
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, khái quát hóa, hệ
thống hóa…để nghiên cứu các vấn đề lý luận: khái niệm, mục tiêu, chủ thể, đối
tượng, nội dung, phương pháp và hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ để thu thập các thông tin, số liệu thực tế phục vụ
cho việc phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu và
luận chứng tính khả thi của các giải pháp mà luận văn đưa ra.
8


6. Ý nghĩa của luận văn
-

Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về xử

phạt, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
-

Luận văn là tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà quản lý

hữu quan ở tỉnh; là tài liệu tham khảo cho công tác bồi dưỡng, giáo dục pháp
luật về xử phạt, xử phạt vi phạm hành chính nói chung, trong lĩnh vực giao
thông đường bộ ở một địa phương nói riêng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ;
Chương 2: Thực trạng công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ ở tỉnh thời gian qua;
Chương 3: Giải pháp bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh .

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Như chúng ta đã biết, Nhà nước là một tổ chức được xã hội thành lập nên để
thực hiện việc quản lý, phát triển xã hội. Để có thể thực hiện được vai trò đó,
Nhà nước luôn phải tác động lên các quan hệ xã hội bằng một hệ thống các quy

9


tắc quản lý nhà nước được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Trên thực tế, trong đời sống xã hội luôn xảy ra tình trạng vi phạm các quy tắc
quản lý nhà nước. Các vi phạm đó diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội, từ
những hành vi đơn giản và phổ biến như hút thuốc lá nơi công cộng, đến những
hành vi vi phạm có tính chất nguy hiểm hơn như tham gia giao thông đường bộ
không đội mũ bảo hiểm, đi ngược chiều, lạng lách đánh võng, gây tai nạn,…
hoặc hành vi làm ô nhiễm môi trường, xây dựng trái phép, trốn thuế… Những
hành vi vi phạm rất đa dạng và “có mặt” trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà
nước.
Dưới góc độ lý luận về pháp luật, vi phạm pháp luật được cấu thành bởi
các mặt khách quan, chủ quan, khách thể và chủ thể của nó. Tổng hợp các yếu

tố đó ta có thể hiểu vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ
thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một các cố ý hoặc vô ý xâm hại
đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Dựa theo các tiêu chí khác nhau mà vi phạm pháp luật được phân thành nhiều
loại khác nhau. Căn cứ vào khách thể vi phạm, mức độ, tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi vi phạm, vi phạm pháp luật được chia thành các loại
sau:
-

Vi phạm hình sự (tội phạm): là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có

lỗi và được quy định trong bộ luật hình sự.
-

Vi phạm hành chính: là những hành vi trái pháp luật, có lỗi nhưng mức

độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm, xâm phạm các quan hệ xã hội
được pháp luật hành chính bảo vệ phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước.
-

Vi phạm dân dự: là những hành vi trái luật dân sự, hay ngược lại với

truyền thống, phong tục tập quán, đạo đức xã hội được nhà nước thừa nhận, có
lỗi, xâm hại tới các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân và quan hệ phi tài sản có
liên quan tới tài sản được pháp luật dân sự bảo vệ.
-

Vi phạm kỷ luật: là hành vi có lỗi, trái với các quy tắc kỷ luật lao động,

học tập, công vụ nhà nước trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, trường

10


học được pháp luật lao động, hành chính và các văn bản nội quy của từng cơ
quan, doanh nghiệp quy định.
Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 đã đưa ra định nghĩa pháp lý về
“vi phạm hành chính”. Khoản 1 Điều 2 của Luật quy định [33]: Vi phạm hành
chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Định nghĩa trên đưa ra các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính,
đó là: tính xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước, có lỗi, tính trái pháp luật
hành chính và phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính là một dạng vi phạm pháp luật, do đó nó cũng bao gồm
các yếu tố cấu thành pháp lý là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và
khách thể. Dưới đây, các dấu hiệu và yếu tố cấu thành pháp lý của vi phạm
hành chính sẽ được xem xét trong mối quan hệ thống nhất với nhau.

Mặt khách quan của vi phạm hành chính
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện ra bên ngoài thế
giới khách quan của vi phạm hành chính, thông thường các biểu hiện ra bên
ngoài của hành vi vi phạm là hành vi, thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện
hay mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của vi
phạm hành chính.
Hành vi của vi phạm hành chính là những biểu hiện của con người hoặc tổ
chức tác động vào thế giới khách quan qua hình thức bên ngoài cụ thể gây tác
hại đến sự phát triển bình thường của trật tự quản lý. Những biểu hiện này
được kiểm soát và điều khiển bởi ý thức và ý chí của chủ thể vi phạm hành
chính. Hành vi là biểu hiện rõ nhất trong mặt khách quan của vi phạm hành
chính, chúng có ý nghĩa quyết định đến nội dung biểu hiện khác trong mặt

11


khách quan (hậu quả, công cụ phương tiện, thời gian, địa điểm); đồng thời
hành vi cũng là thể thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan. Hành vi
khách quan của vi phạm hành chính có thể là hành vi hành động hoặc không
hành động. Song dù biểu hiện bằng hình thức nào đi chăng nữa thì nó cũng chỉ
bị coi là vi phạm hành chính khi hành vi đó trái với pháp luật. Hành vi trái
pháp luật hành chính là dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính,
nhưng đây không phải là thuộc tính riêng của vi phạm hành chính. Rất nhiều
hành vi tội phạm cũng là hành vi trái pháp luật hành chính. Để phân biệt vi
phạm hành chính với tội phạm trong trường hợp cả hai loại hành vi có cùng
chung khách thể, người ta lấy tiêu chí là tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Hành vi vi phạm hành chính ít nguy hiểm cho xã hội hơn so với tội phạm hình
sự.
Hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả
của vi phạm hành chính vi phạm hành chính: Chính là tính xâm hại khách quan
của vi phạm hành chính, được thể hiện ở vi phạm hành chính đã xâm hại hoặc
đe dọa xâm hại các quan hệ đã được pháp luật quy định thành quy tắc quản lý
nhà nước. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hậu quả của vi phạm hành chính
được biểu hiện ở các thiệt hại cụ thể về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, về tự
do thân thể của cá nhân hoặc làm thiệt hại về tài sản của Nhà nước, tập thể và
công dân. Hậu quả của vi phạm hành chính là kết quả của hành vi vi phạm
hành chính do con người hoặc tổ chức thực hiện. Do đó giữa hành vi vi phạm
hành chính và hậu quả vi phạm hành chính có mối quan hệ hữu cơ, trong đó
hậu quả của vi phạm hành chính có tiền đề xuất hiện của nó là hành vi khách
quan của vi phạm hành chính; sự tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm hành chính và hậu quả của vi phạm hành chính dựa trên các căn cứ sau:
Một là; hành vi vi phạm hành chính xảy ra trước hậu quả xâm hại các mối quan
hệ về mặt thời gian; Hai là, hành vi vi phạm phải chứa đựng khả năng thực tế

làm phát sinh hậu quả xâm hại các quan hệ xã hội; Ba là, hậu quả vi phạm đã
xảy ra phải là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của
12


hành vi vi phạm. Ngoài những biểu hiện trên, về mặt khách quan của vi phạm
cc̣n có một số dấu hiệu khách quan khác như: thời gian, địa điểm, công cụ và
phương tiện vi phạm.
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là những quan hệ tâm lý bên trong của
chủ thể. Yếu tố cơ bản nhất của mặt chủ quan là tính có lỗi. Lỗi chính là trạng
thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi
vi phạm và hậu quả của hành vi đó. Yêu cầu về lỗi trong Luật hành chính
không cao như trong Luật hình sự, trong nhiều trường hợp chỉ cần có lỗi nghĩa
là người vi phạm biết hoặc có thể biết tính chất sai phạm của mình là đủ để xác
định vi phạm hành chính xảy ra. Đối với luật hình sự đòi hỏi phải chính xác
hơn, không chỉ xác định lỗi mà còn phải xác định cho được hình thức và mức
độ lỗi; mặt khác lỗi trong Luật hình sự chỉ đặt ra với cá nhân vi phạm, trong
hành chính lỗi đặt ra cho cả cá nhân và tổ chức vi phạm.
Lỗi trong vi phạm hành chính thể hiện dưới hai hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính là chủ thể nhận thức được hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Lỗi vô ý trong vi phạm hành
chính là lỗi của cá nhân hoặc tổ chức thực hiện hành vi trái pháp luật do vô tình
thiếu thận trọng mà không nhân thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc mặc dù
họ có đầy đủ khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ pháp lý quy định
Chủ thể của vi phạm hành chính
Khác với luật hình sự xác định chủ thể tội phạm chỉ có thể là cá nhân, trong
luật hành chính chủ thể vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức; cá
nhân hoặc tổ chức chỉ có thể trở thành chủ thể của vi phạm hành chính khi có
năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính.

+ Đối với cá nhân: Cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính bao gồm công
dân Việt Nam và người nước ngoài (trừ những người được hưởng quyền ưu
đãi, miễn trừ ngoại giao và lãnh sự) mà thực hiện hành vi vi phạm hành chính
trên lãnh thổ Việt Nam, vùng đặc quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh hải.
13


Những người này phải có năng lực trách nhiệm hành chính. Năng lực trách
nhiệm pháp lý hành chính thể hiện khả năng nhận thức của con người với hành
vi vi phạm, vì thế hai yếu tố để xác định năng lực pháp lý đối với cá nhân là:
Đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật, không mắc bệnh làm mất khả năng
nhận thức của hành vi. Điều 5 Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 xác
định đối tượng bị xử phạt hành chính là cá nhân bao gồm: Người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người
từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi hành vi vi phạm hành chính
(điểm a khoản 1).
Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi phạm hành
chính thì bị xử phạt như đối với công dân khác; trường hợp cần áp dụng hình
thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì người xử phạt đề
nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có thẩm quyền xử
phạt.
Mặt khác, Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 còn quy định: Người từ
đủ 14 tuổi đến 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo; Người chưa
thành niên vi phạm hành chính gây ra thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật; trong trường hợp này người chưa thành niên không có tiền
nộp phạt thì cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó phải nộp thay, quy định
như trên không có nghĩa là xử phạt cả người không vi phạm mà ở đây chúng ta
hướng tới trách nhiệm giáo dục ý thức pháp luật cho người chưa thành niên.
+ Đối với tổ chức: Pháp luật hành chính coi tổ chức là chủ thể của vi phạm

hành chính gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế. Cơ quan, tổ
chức nước ngoài nếu vi phạm hành chính trên lãnh thổ Việt Nam, vùng đặc
quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh hải thì bị xử phạt như cơ quan, tổ chức Việt
Nam (trừ tổ chức được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao).
Khách thể của vi phạm hành chính

14


Khách thể của vi phạm hành chính là cái mà vi phạm xâm hại tới. Đó chính là
các quan hệ xã hội được các quy tắc quản lý nhà nước bảo vệ. Các quan hệ xã
hội bị/có thể bị vi phạm hành chính xâm phạm rất đa dạng, đó là: trật tự nhà
nước và xã hội, sở hữu xã hội chủ nghĩa, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân,...
Khách thể của vi phạm hành chính được chia thành các loại sau: Khách thể
chung: đó là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước, hay
nói cách khác là trật tự quản lý nhà nước nói chung.
Khách thể loại: là những quan hệ xã hội có cùng hoặc gần tính chất với nhau
trong từng lĩnh vực nhất định của quản lý nhà nước. Các quan hệ này được
phát sinh trong cũng một lĩnh vực hoạt động quản lý nhà nước, do vậy chúng
có mối liên hệ với nhau, gắn liền với từng phạm vi quản lý nhà nước.
Khách thể trực tiếp: là quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật quy định và bảo
vệ, bị chính hành vi vi phạm hành chính phạm xâm hại tới.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ
Trên cơ sở lý luận về vi phạm hành chính nói chung đã được phân tích ở trên,
chúng ta sẽ làm rõ vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ nói
riêng.
Văn bản pháp quy hiện hành trực tiếp quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ (GTĐB) và đường sắt là Nghị định số

46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 không đưa ra định nghĩa pháp lý thế nào là vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Điều này cũng diễn ra
tương tự với Nghị định bị thay thế trước đó là Nghị định số 171/2013/NĐ-CP
ngày 13/3/2013. Tuy nhiên hai văn bản này lại xác định phạm vi của thuật ngữ
“lĩnh vực giao thông đường bộ” theo các hiểu tại các Nghị định này. Theo
Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP, “lĩnh vực giao thông đường bộ”
được xác định bởi loại phương tiện tham gia giao thông, đó là: a) Máy kéo; b)

15


Các loại xe tương tự xe ô tô; c) Các loại xe tương tự xe mô tô; d) Xe máy điện;
đ) Các loại xe tương tự xe gắn máy; e) Xe đạp máy.
Từ góc độ lý luận, có thể thấy đã từng có một định nghĩa pháp lý về vi phạm
hành chính trong lĩnh vực GTĐB. Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 34/2010/NĐ–
CP ngày 02 tháng 4 năm 2010 của Chính Phủ về việc quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ quy định: “Vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ là những hành vi của cá nhân, tổ chức vi
phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ một cách cố ý
hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt vi phạm hành chính…” [6].
Như vậy, điều luật này đã đưa ra định nghĩa pháp lý về vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Qua định nghĩa này, chúng ta thấy được
các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ là: tính xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước về giao thông đường
bộ, có lỗi, tính trái pháp luật hành chính và bị xử phạt hành chính.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ có đặc điểm của vi
phạm hành chính nói chung, song bên cạnh đó nó cũng có những đặc điểm
riêng sau đây:
-


Khách thể của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ

là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực giao thông đường bộ được
bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật hành chính.
-

Đặc trưng của cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông

đường bộ thường là sử dụng kết cấu trực tiếp. Việc xác định vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ được quy định tập trung và chủ yếu
ở văn bản chuyên ngành về giao thông đường bộ, chứ không theo lối kết cấu
dẫn chiếu như một số lĩnh vực khác – nơi mà việc xác định vi phạm thường
phải căn cứ vào các văn bản pháp luật chuyên ngành khác, ví dụ như lĩnh vực
bảo vệ môi trường.

16


-

Tính chất và mức độ hậu quả của vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giao thông đường bộ phụ thuộc chủ yếu vào những thiệt hại thực tế và hành vi
đó gây ra hoặc có thể gây ra cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác
và của chính chủ thể vi phạm.
-

Giao thông đường bộ được tạo thành bởi nhiều thành phần, dẫn đến hoạt


động bảo vệ trật tự an toàn giao thông đường bộ được pháp luật quy định khá
đa dạng và phong phú, bao gồm các nội dung: bảo vệ quy tắc giao thông đường
bộ, phương tiện tham gia giao thông đường bộ, về kết cấu hạ tầng giao thông
đường bộ, quy định về người điều khiển phương tiện tham gia giao thông và về
vận tải đường bộ.
Xuất phát từ tính đa dạng và phong phú của các hoạt động bảo vệ trật tự an
toàn giao thông đường bộ, nên vi phạm hành chính trong lĩnh vực này được
pháp luật quy định có đặc điểm khá rộng và đa dạng tương ứng với các nội
dung được pháp luật về giao thông đường bộ bảo vệ. Đặc điểm này được thể
hiện tập trung ở Luật Giao thông đường bộ năm 2008, các Nghị định đã hết
hiệu lực như: Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm 2010 của
Chính Phủ về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ, Nghị định số 33/2011/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 34/2010/NĐCP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ,
Nghị định 71/2012/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 34/2010/NĐCP xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (có hiệu lực 10/11/2012), Nghị
định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 (thay thế Nghị định số 34/2010/NĐCP và Nghị định 71/2012/NĐ-CP), và Nghị định hiện hành: Nghị định số
46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 Quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
Một vấn đề quan trọng khi nghiên cứu vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ đó là việc phân định giữa vi phạm hành chính và tội phạm về
giao thông đường bộ.

17


Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự có thể hiểu: tội phạm về giao thông
đường bộ là các hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự Việt Nam, xâm hại tới các quan hệ xã hội về đảm bảo an toàn giao
thông đường bộ.
Các tội phạm về giao thông đường bộ được quy định tại 06 điều luật trong

chương XIX, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) [30] về
Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Đó là các điều luật từ
Điều 203 đến Điều 207 (Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ; Điều 203. Tội cản trở giao thông đường bộ; Điều
204. Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ không bảo đảm
an toàn; Điều 205. Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều
khiển các phương tiện giao thông đường bộ ; Điều 206. Tội tổ chức đua xe trái
phép; Điều 207. Tội đua xe trái phép).
Vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ đều là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội, điểm khác nhau ở đây chỉ là “mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi”. Hành vi vi phạm hành chính về giao thông
đường bộ ít nguy hiểm cho xã hội hơn so với hành vi bị coi là tội phạm về môi
trường. Để xác định mức độ nguy hiểm khác nhau cho xã hội của vi phạm hành
chính và tội phạm nói chung, có thể dựa trên những tiêu chí sau: i) Tính chất
của khách thể bị xâm hại; ii) Chủ thể; iii) Mức độ hậu quả; iv) Số lượng tang
vật, hàng hóa,…vi phạm; v) Tái phạm hành chính (đã bị xử phạt hành chính mà
còn vi phạm); vi) Hình thức lỗi, động cơ, mục đích.
Có thể thấy, việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm
trong lĩnh vực giao thông đường bộ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn trong
công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ của các cơ quan chức
năng. Việc xác định thiếu chính xác các hành vi có thể là nguyên nhân có tính
bước ngoặt cho những sai phạm trong quá trình áp dụng pháp luật của các cá
nhân, tổ chức có thẩm quyền. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu sâu ở chuyên
khảo khác. Trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung vào nội dung chính là
18


hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở
tỉnh , tức là tiếp cận vấn đề dưới góc độ hoạt động áp dụng pháp luật của các
cơ quan hành chính nhà nước.

1.1.3. Phân loại vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Chương II – Nghị định số 46/2016/NĐ-CP quy định 06 nhóm hành vi bị coi là
vi phạm hành chính (Mục 1 đến Mục 6), bao gồm [15]:
-Các hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ;
-Các hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng giao thông
đường bộ;
-Các hành vi vi phạm quy định về phương tiện tham gia giao
thông đường bộ;
-Các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện
tham gia giao thông đường bộ;
-Các hành vi vi phạm quy định về vận tải đường bộ;
-Các hành vi vi phạm khác liên quan đến giao thông đường bộ.
Sự phân loại các nhóm hành vi như trên không thay đổi so với quy định
tại Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm 2010 về quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, và cũng thống
nhất với các nhóm hành vi được quy định theo Luật Giao thông đường bộ
2008.
Cụ thể như sau:
Nhóm thứ nhất: Các hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ
Nhóm này gồm các hành vi quy định tại Mục 1 Chương II của Nghị định
số 46/2016/NĐ-CP (từ Điều 5 đến Điều 11). Đó là những quy định mang tính
chỉ dẫn bắt buộc đối với người tham gia giao thông nhằm đảm bảo an toàn cho
chính họ và những người khác xung quanh.
Nhóm thứ hai: Các hành vi vi phạm quy chế về kết cấu hạ tầng giao thông
đường bộ
19


Nhóm này gồm các hành vi quy định tại Mục 2 Chương II của Nghị định số
46/2016/NĐ-CP (từ Điều 12 đến Điều 15). Đây là các hành vi vi phạm quy

định của Luật Giao thông đường bộ về tiêu chuẩn, điều kiện an toàn đối với
các công trình hạ tầng giao thông đường bộ.
Nhóm thứ ba: Các hành vi vi phạm quy chế về phương tiện tham gia giao
thông đường bộ
Nhóm này gồm các hành vi quy định tại Mục 3 Chương II của Nghị định số
46/2016/NĐ-CP (từ Điều 16 đến Điều 20). Đây là các hành vi vi phạm quy
định tại của Luật Giao thông đường bộ về tiêu chuẩn, điều kiện an toàn với các
phương tiện giao thông đường bộ.
Nhóm thứ tư: Các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện
tham gia giao thông đường bộ.
Nhóm này gồm các hành vi quy định tại Mục 4 Chương II của Nghị định số
46/2016/NĐ-CP (từ Điều 21 đến Điều 22). Đây là các hành vi vi phạm quy
định của Luật Giao thông đường bộ về điều kiện chuyên môn, độ tuổi, sức
khỏe… đối với người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ.
Nhóm thứ năm: Các hành vi vi phạm về vận tải đường bộ
Nhóm này gồm các hành vi quy định tại Mục 5 Chương II của Nghị định số
46/2016/NĐ-CP (từ Điều 23 đến Điều 28). Đây là các hành vi vi phạm quy
định của Luật Giao thông đường bộ về điều kiện an toàn đối với người, hàng
hóa khi vận chuyển bằng phương tiện giao thông đường bộ.
Nhóm thứ sáu: Các hành vi vi phạm khác liên quan đến giao thông
đường bộ Nhóm này gồm các hành vi quy định tại Mục 6 Chương II của Nghị
định số 46/2016/NĐ-CP (từ Điều 29 đến Điều 38). Các hành vi này tuy không
trực tiếp ảnh hưởng đến an toàn giao thông đường bộ nhưng lại có những tác
động xấu đến trật tự, an ninh xã hội.
Như vậy có thể thấy, về mặt quy phạm pháp luật, việc quy định rõ ràng và tập
trung các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại
Nghị định số 46/2016/NĐ-CP là một sự thuận lợi cho công tác tra cứu và áp
20



dụng pháp luật trong lĩnh vực này, cùng với Luật xử phạt vi phạm hành chính
đã xác định rõ thẩm quyền của các chủ thể tham gia đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đường bộ. Đây cũng là cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà
nước về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở tỉnh
mà luận văn đề cập.
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều là hành vi trái
pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội, cần bị áp dụng các biện pháp xử phạt vi
phạm, trong đó có xử phạt hành chính. Nó trực tiếp xâm hại đến những quy tắc
quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng
tới quyền và lợi ích hợp pháp của các các cá nhân và tổ chức. Vì lẽ đó xử phạt
vi phạm hành chính là những nội dung rất quan trọng của hoạt động quản lý
hành chính nhà nước. Xử phạt vi phạm hành chính bao gồm nhiều hoạt động
khác nhau do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành căn cứ vào
quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 2 Luật xử phạt vi phạm hành chính đưa ra
định nghĩa pháp lý về xử phạt hành chính, theo đó, Xử phạt vi phạm hành
chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện
pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Khi
xem xét tổng thể các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lý luận về nhà nước và pháp luật, thì có thể đưa ra khái niệm về xử phạt vi
phạm hành chính như sau:
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động áp dụng pháp luật, trong đó, người
có thẩm quyền áp dụng chế tài pháp luật hành chính (hình thức xử phạt, biện
pháp khắc phục hậu quả) đối với chủ thể vi phạm hành chính (cá nhân, tổ chức)
theo thủ tục do luật hành chính quy định, kết quả là chủ thể thực hiện vi phạm
21



hành chính phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, thiệt hại về vật chất và tinh
thần so với trạng thái ban đầu của họ.
Như vậy, có thể thấy hai nội dung của thuật ngữ “xử phạt vi phạm hành chính”
là: 1) là hệ thống các quy định pháp luật hành chính điều chỉnh hoạt động áp
dụng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền xử phạt hành chính, 2) là hoạt động
xử phạt hành chính, từ khâu phát hiện vi phạm, tìm kiếm quy định áp dụng, đến
khâu áp dụng biện pháp xử phạt tương ứng với vi phạm. Khái niệm xử phạt vi
phạm hành chính nêu trên phản ánh những đặc điểm cơ bản sau đây của hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính:
-

Thứ nhất: Xử phạt vi phạm hành chính chỉ được tiến hành khi có vi

phạm hành chính xảy ra. Cơ sở để xử phạt hành chính là hành vi vi phạm hành
chính. Như vậy, để thực hiện hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trước hết
đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền xử phạt phải xem xét đã có vi phạm hành
chính xảy ra hay chưa.
-

Thứ hai, xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động áp dụng pháp luật do

các cá nhân có thẩm quyền quản lý hành chính thực hiện. Việc tiến hành xử
phạt vi phạm hành chính đòi hỏi phải đúng trình tự, thủ tục đã được pháp luật
quy định. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính phải thể hiện bằng quyết định
xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực pháp luật.
Xử phạt hành chính được áp dụng theo trình tự do các quy phạm thủ tục của
luật hành chính quy định (trình tự hành chính) chứ không phải trình tự, thủ tục
tư pháp. Việc áp dụng trình tự này đơn giản hơn nhiều so với trình tự áp dụng

cưỡng chế hình sự và cưỡng chế kỷ luật
-

Thứ ba: Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động cưỡng chế nhà nước

do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành và được đảm bảo bằng quyền lực nhà
nước. Mối quan hệ trong xử phạt vi phạm hành chính là mối quan hệ pháp luật
giữa một bên là Nhà nước – một bên là tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
Để tránh lạm quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và

22


xã hội, pháp luật quy định thủ tục tố tụng hành chính, tức hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính bị kiểm soát bởi chính Nhà nước và xã hội.
-

Thứ tư: Mục đích của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính là nhằm

truy cứu trách nhiệm hành chính một hành vi vi phạm cụ thể và quan trọng hơn
là giáo dục, ngăn chặn những hành vi vi phạm. Qua đó, buộc chủ thể vi phạm
hành chính phải gánh chịu một biện pháp cưỡng chế tương xứng với hành vi vi
phạm do mình gây ra. Hay nói cách khác, vi phạm hành chính là cơ sở làm
phát sinh các hoạt động xử phạt vi phạm hành chính.
Từ khái niệm xử phạt vi phạm hành chính nói trên, chúng ta có thể rút ra khái
niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ như sau:
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ là người có
thẩm quyền áp dụng những chế tài pháp luật hành chính đối với chủ thể vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo thủ tục do luật hành
chính quy định.

Ngoài những đặc điểm chung nói trên, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ còn có những đặc điểm riêng, đó là:
-

Do đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường

bộ nên hoạt động xử phạt vi phạm hành chính có thể được bắt đầu ở những địa
điểm bất kỳ không có định nơi mà hành vi vi phạm diễn ra. Nếu vi phạm hành
chính trong những lĩnh vực khác thường gắn liền với những địa điểm tĩnh (xây
dựng, môi trường, thuế, công nghệ thông tin,…) thì vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào mà có sự tham gia
của người dân vào giao thông đường bộ. Như đã đề cập ở phần đầu, giao thông
đường bộ là một hệ thống – mạng lưới đường bộ phủ khắp địa bàn một đơn vị
hành chính, một khu vực nhất định. Do vậy mà đặc thù của quá trình xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực này gắn liền với sự “di động” của địa điểm nơi
diễn ra hành vi vi phạm.
-

Cũng chính từ đặc thù nói trên mà mà hoạt động xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ chủ yếu được được thực hiện trên cơ
23


sở bắt quả tang hành vi vi phạm. Đường bộ là nơi diễn ra hoạt động của con
người khi tham gia giao thông. Đó là một không gian công cộng không của
riêng ai. Do vậy mà hành vi vi phạm hành chính thường dễ được biểu hiện ra
bên ngoài – tức tính dễ bị phát hiện. Vì vậy mà vi phạm cần được bắt quả tang
và không nhất thiết phải trải qua thủ tục giám định như trong lĩnh vực môi
trường. Cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ chủ

yếu là cấu thành hình thức, nên khi hành vi có biểu hiện của sự vi phạm, đã là
căn cứ để lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính. Điều này cũng đồng nghĩa
với việc sẽ cần sự hỗ trợ rất lớn từ các phương tiện kỹ thuật trong quá trình
thiết lập các chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm hành chính.
-

Do địa điểm vi phạm hành chính là “di dộng”, “không cố định” gắn với

không gian là “đường bộ”, nên việc phát hiện, xác minh hành vi vi phạm là
điều khó khăn, nhất là trong điều kiện cần nhiều phương tiện hỗ trợ xử phạt vi
phạm. Ở khía cạnh khác, tính không cố định về địa điểm vi phạm hành chính
khiến cho công tác giám sát hoạt động xử phạt vi phạm hành chính đối với
người có thẩm quyền là điều gặp nhiều khó khăn. Chính tại đây có thể phát
sinh những tiêu cực trong việc xử phạt vi phạm hành chính trong giao thông
đường bộ.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ cũng giống
như xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khác, về bản chất là một
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, do vậy mà nó cũng chịu ảnh hưởng
của các yếu tố sau:
1.2.2.1. Chất lượng của pháp luật
Điều 12 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế.
Pháp chế. Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp
24


luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Như vậy, pháp luật về xử phạt vi

phạm hành chính là công cụ quan trọng để Nhà nước, xã hội đấu tranh phòng
ngừa và chống vi phạm hành chính, góp phần giữ vững an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của
Nhà nước. Để thực hiện được mục đích đó, có nhiều yếu tố chi phối, nhưng
yếu tố chất lượng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính là yếu tố đầu tiên,
quan trọng nhất, tạp cơ sở pháp lý cho toàn bộ quá trình xử phạt vi phạm hành
chính, trong đó có lĩnh vực giao thông đường bộ.
Pháp chế vừa là mục đích, vừa là yêu cầu của việc xây dựng và thực hiện
pháp luật, theo đó, đòi hỏi cần sự hiện diện đầy đủ của một hệ thống các quy
phạm pháp luật có chất lượng tốt, và quá trình thực hiện nghiêm minh. Nếu
một hệ thống pháp luật xử phạt vi phạm hành chính có chất lượng tốt, thì
không thể có cơ sở cho một quá trình thực thi pháp luật tốt được, cho dù có đầu
tư nhiều tiền của và nhân lực cho các quá trình thực hiện ấy.
1.2.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật pháp luật
Cũng như yếu tố trên, yếu tố tổ chức thực hiện pháp luật là một nội dung của
yêu cầu pháp chế. Thực tế chứng tỏ rằng, có một hệ thống pháp luật toàn diện,
đầy đủ và chất lượng cao là vô cùng cần thiết, nhưng nếu các quy phạm này
không được thực hiện tốt trong đời sống thì chúng cũng chỉ là pháp luật trên
giấy, chứ chưa phải là pháp luật trong đời sống.
Quá trình thực hiện pháp luật là quá trình các cơ quan nhà nước tổ chức để các
thực thể trong xã hội thực hiện các quy tắc xử sự mà pháp luật yêu cầu. Tại
đây, các quy phạm pháp luật được sự tương tác và đảm bảo bằng các năng lực
của nhà nước, biến thành yếu tố vật chất tác động vào thực tế đời sống nhằm
hướng các hành vi của xã hội theo yêu cầu mà pháp luật đã đề ra. Trong quá
trình này, những ưu, nhược điểm của pháp luật sẽ được biểu hiện, để từ đó
chúng được nhận thức và sửa chữa, hoàn thiện.

25



×