Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

skkn Một số giải nâng cao chất lượng cho trẻ 56 tuổi làm quen môi trường xung quanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.65 KB, 13 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
"Một số giải nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi trường
xung quanh”
Họ và tên: Ngô Thị Nhung- GV MN Hưng Thủy

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn sáng kiến:
Hồ Chí Minh từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không,
dân tộc Việt Nam có trở nên sánh vai với các cường quốc năm châu hay không,
chính là nhờ phần lớn ở công học tập của các cháu”.
Đúng như thế, non sông Việt Nam có lớn mạnh hay không, xã hội Việt Nam
có phồn vinh hay không điều đó phụ thuộc phần lớn vào sự nghiệp giáo dục của
nước nhà. Trẻ em là người trực tiếp được giáo dục, là chủ nhân của tương lai đất
nước. Do đó, sự nghiệp “trồng người” đã và đang được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm, coi trọng hàng đầu. Giáo dục Mầm non là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo
dục. Đây chính là nền tảng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của con
người mới trong xã hội mới. Hơn ai hết, bản thân tôi là một giáo viên Mầm non, tôi
rất hiểu vai trò của mình trong sự nghiệp “trồng người”, tôi nguyện đem hết khả
năng và tâm huyết của mình để chăm sóc, giáo dục và giúp trẻ phát triển hài hòa,
cân đối về mọi mặt.
Thế giới xung quanh luôn là điều mới lạ, chúng luôn muốn được tìm tòi,
được quan sát, tiếp xúc, được hiểu biết nhiều hơn về mối quan hệ đơn giản giữa
các sự vật xung quanh từ đó vốn từ của trẻ ngày càng phong phú và phát triển năng
lực hoạt động trí tuệ và tư duy của trẻ. Từ những mục tiêu trên tôi đã có suy nghĩ
cần tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh như thế nào và làm quen
những gì để tạo hứng thú kích thích sự chú ý của trẻ, góp phần nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ. Chính vì thế ở trường Mầm non môn học Làm quen với môi
trường xung quanh vô cùng quan trọng đối với trẻ 5 - 6 tuổi, nó là phương tiện rèn
luyện cho trẻ phát triển ngôn ngữ nói, nó có tác dụng to lớn trong việc hình thành
nhân cách cho trẻ Mầm non. Đó là mục tiêu chính của việc cho trẻ làm quen với
môi trường xung quanh là giúp trẻ phát triển về kỹ năng, thẩm mỹ, hình thành tình


yêu đối với thiên nhiên cuộc sống con người xung quanh trẻ.
Môi trường xung quanh trong trường mầm non là quá trình cho trẻ nhận
thức về thế giới xung quanh, những quy tắc ứng xử với mọi người. Hình thành cho
trẻ những kiến thức về chính bản thân mình như: giới tính, tên, tuổi....các thành


viên trong gia đình trẻ, một số nghề phổ biến trong xã hội và những danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sữ, các ngày lễ hội sự kiện văn hóa của quê hương đất
nước, hay các hiện tượng tự nhiên, các hiện tượng thời tiết mà trẻ cần nhớ để giúp
trẻ chính xác hóa các biểu tượng mà trẻ thu nhận, lĩnh hội được. Khi trẻ được
làm quen với thế giới xung quanh sẽ giúp trẻ tích lũy được kiến thức, kĩ
năng về tự nhiên và xã hội, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện về Đức - Trí Thể - Mĩ - Lao động.
Với tầm quan trong trong việc tổ chức cho trẻ làm quen với Môi trường
xung qanh (LQMTXQ) và xuất phát từ trách nhiệm và lòng nhiệt huyết với nghề,
từ mục tiêu giáo dục con người mới phát triển toàn diện đáp ứng nhu cầu của toàn
xã hội. Đối với trẻ việc LQMTXQ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ nên tôi chọn đề tài "Một số giải nâng
cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi trường xung quanh” làm đề tài
nghiên cứu cho năm học này.
1.2. Điểm mới và phạm vi áp dụng của đề tài:
* Điểm mới của đề tài.
Trên thực tế có rất nhiều đồng nghiệp đã viết về đề tài này, tuy nhiên mỗi đề
tài đề cập đến những khía cạnh khác nhau của việc nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6
tuổi làm quen môi trường xung quanh, phù hợp với tình hình thức tế của từng
trường. Đối với sáng kiến kỹ thuật của Tôi, điểm mới của đề tài là đã sử dụng một
số biện pháp mới có tính khả thi cao, phù hợp với tình hình của nhà trường, tác
động và có hiệu quả rất lớn giải nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi
trường xung quanh đối trẻ trong toàn trường.
Đề tài tập trung vào những mặt đã làm được, đề xuất những quan điểm phù
hợp cho quá trình hoạt động ở trường mầm non có hiệu quả.

* Phạm vi áp dụng đề tài.
Nội dung đề tài viết trên tinh thần tập hợp những kinh nghiệm đúc kết được
của bản thân, chủ yếu là những giải pháp trong việc dạy trẻ khắc phục tật nói lắp,
nói ngọng, tại trường mầm non nơi tôi đang công tác. Đề tài này có thể áp dụng
rộng rãi, có hiệu quả đối với các trường mầm non trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh
Quảng Bình nói riêng và có thể áp dụng rộng rãi đối với các trường mầm non trong
tỉnh và trên toàn quốc nói chung.
2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1. Thực trạng:
Thực tế trong quá trình chăm sóc các cháu hằng ngày với độ tuổi 5 - 6 tuổi
bản thân tôi ngoài việc nắm vững những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, xác
định những mục tiêu và nội dung chương trình về chương trình giáo dục mầm non


làm cơ sở, tôi còn phải hiểu được tình hình thực tiễn của địa phương, của trường và
lớp mình đang công tác, để khai thác những cái hay, cái đẹp nhằm giáo dục tinh
thần cho các cháu.
Khi được khám phá xã hội trẻ sẽ phát triển khả năng về ngôn ngữ, tư duy, óc
quan sát, tính tò mò, thích khám phá từ đó nhận thức của trẻ về xã hội xung quanh
được phong phú, đa dạng, chính xác hơn. Khi nhận thức được các sự vật hiện
tượng trẻ muốn nói lên sự hiểu biết của mình bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của
trẻ. Từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển trẻ nói năng mạch lạc hơn, vốn từ của trẻ
phong phú và đa dạng hơn, trẻ biết sử dụng từ chính xác, biết mạnh dạn hơn, nhằm
phát triển ở trẻ tình cảm kỷ năng xã hội và kỷ năng giao tiếp tốt hơn. Hình thành
cho trẻ hành vi văn minh trong cuộc sống, trong quan hệ với mọi người. Vì vậy,
giáo viên là người đóng vai trò chủ đạo, người tổ chức, hướng dẫn trẻ khám phá xã
hội một cách chủ động, sáng tạo. Đồng thời giáo viên cũng cần hòa nhập với trẻ,
tham gia các hoạt động với trẻ lôi cuốn trẻ tích cực, hứng thú tham gia vào các
hoạt động, tổ chức tốt các hoạt động cho trẻ. Để thực hiện được điều đó, giáo viên
mầm non phải có kiến thức khoa học về nuôi dạy trẻ hiểu đặc điểm tâm sinh lý của

trẻ, có vốn kiến thức phong phú phải nắm được mục đích, yêu cầu về kiến thức, kỷ
năng, giáo dục của từng bài để truyền thụ cho trẻ có hệ thống, chính xác, đảm bảo
được yêu cầu của bài học và khả năng nhận thức của trẻ. Trẻ sinh ra được sống
trong nền văn minh nhân loại. Môi trường xã hội vô cùng phong phú, đa dạng hấp
dẫn trẻ, bao bộc quanh trẻ. Trong khi đó khả năng vận động, hoạt động của trẻ còn
nhiều hạn chế, ngôn ngữ của trẻ chưa phát triển, vốn từ của trẻ còn nghèo. Vì vậy
cô giáo phải thường xuyên tổ chức cho trẻ khám phá xã hội xung quanh trẻ.
Năm học 2016-2017, tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp mẫu giáo
5-6 tuổi. Trường nơi tôi đang đang công tác có bề dày truyền thống dạy và học.
Nhiều năm liền trường đạt danh hiệu: “ Tập thể lao động tiên tiến”. Nhất là trong
năm học này tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên của trường đang ra sức quyết tâm
phấn đấu xây dựng nhà trường ngày càng phát triển . Bản thân Tôi là một giáo viên
dạy lâu năm nhất ở trường, Tôi xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình, cùng với
chị em phấn đấu để trường đạt được kết quả trên, mà trước hết là việc nâng cao
chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen môi trường xung quanh cho trẻ. Khi thực hiện
đề tài này, tôi gặp những thuận lợi khó khăn sau:
*Thuận lợi:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo của các cấp lãnh đạo như Sở GD&ĐT,
Phòng GD&ĐT Lệ Thủy, đặc biệt là Ban giám hiệu nhà trường luôn bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên. Hai giáo viên đứng lớp đều có trình độ Đại
học, nhiệt tình, yêu trẻ, nắm được tâm lý của trẻ ở từng lứa tuổi mẫu giáo


- Bản thân được tham dự lớp tập huấn, các tiết thao giảng của cụm, của trường
tổ chức nên nắm chắc phương pháp về MTXQ khá vững vàng, luôn trau dồi kiến
thức học hỏi kinh nghiệm của chị em trong trường để nâng cao trình độ chuyên
môn, có ý thức phấn đấu và rèn luyện tác phong sư phạm của một người giáo viên.
- Các cháu ở lớp khoẻ mạnh, nhanh nhẹn có tính tìm tòi khám phá .
- Phụ huynh ở đây luôn quan tâm đến con em mình đưa đón trẻ thường xuyên
tạo điều kiện cho việc tuyên truyền phối kết hợp với gia đình-nhà trường trong việc

chăm sóc giáo dục trẻ tốt hơn. Luôn ủng hộ nhiệt tình các hoạt động, phong trào
của trường, lớp. Kết hợp với giáo viên để giúp trẻ học tập tốt.
* Khó khăn:
- Do trường thuộc xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên cơ sở vật
chất còn hạn chế.
- Con em trong độ tuổi đến trường thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo cao.
Cụ thể ở lớp học 3/30 hộ nghèo. 3/30 hộ cận nghèo.
- Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, một số trẻ chưa hứng thú vào
giờ học.
- Một số trẻ còn rụt rè, nhút nhát, khả năng diễn đạt về ngôn ngữ và giao tiếp
còn hạn chế.
- Một số cháu thuộc diện con đông, kinh tế khó khăn, phòng học còn thiếu ...
nên đa số các cháu chưa qua đào tạo 3-4 tuổi.
- Đồ dùng tự tạo để trẻ khám phá còn nghèo nàn, trường chưa xây dựng khu
vui chơi để trẻ khám phá, trải nghiệm, quan sát...
- Một số cháu có bố mẹ đi làm ăn xa, sống với ông bà nên việc đến lớp còn
gặp nhiều trở ngại.
Xuất phát từ những thực tế trên tôi đã khảo sát thực trạng của lớp mình như
sau:
* Khảo sát thực trạng của lớp trước khi thực hiện sáng kiến:
Tổng
XL Tốt
XL Khá
XL TB
XL Yếu
SL
%
SL
%
SL

%
SL
%
số trẻ
30
6
20
7
23,33 10
33,33
7
23,33
Qua khảo sát ban đầu như trên tôi thấy kết quả trên trẻ chưa cao là điều tôi
cần phải suy nghĩ để tìm ra những giải pháp tốt nhất giúp trẻ 5-6 tuổi học tốt tiết
môi trường xung quanh. Chính vì vậy mà tôi đã tìm tòi nghiên cứu đưa ra "Một số
giải pháp cho trẻ 5-6 tuổi học tốt tiết môi trường xung quanh" như sau:
2.2. Các giải pháp thực hiện:
2.2 1: Tìm hiểu đặc điểm, điều kiện của trẻ.


Trong cùng một lứa tuổi nhưng có trẻ nhanh nhẹn hoạt bát, có trẻ mạnh dạn
tự tin có trẻ thì e dè nhút nhát. Có trẻ sống trong gia đình có điều kiện , có trẻ
nghèo khổ. Chính vì vậy, mà cô giáo cần phải tìm hiểu nắm rõ đặc điểm tâm sinh
lý và nhận thức của từng trẻ để xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp cho độ tuổi
của lớp mình phụ trách.
Việc đầu tiên tôi làm là tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình trẻ như: điều kiện
kinh tế, là con thứ mấy trong gia đình , địa lý nhà trẻ sống... để biết được trẻ thuộc
diện hộ gia đình như thế nào, trẻ nào được bố mẹ quan tâm, trẻ nào bị thiệt thòi. Từ
đó cần cung cấp cho trẻ những gì, bù đắp cho trẻ những gì.
Tiếp theo là khảo sát kết quả trên trẻ về Lỉnh vực phát triển nhận thức môi

trường xung quanh, đồng thời thường xuyên theo giỏi mọi hoạt động của trẻ để
nắm bắt tình hình thực tế của lớp, đặc điểm tâm sinh lý và nhận thức của từng trẻ,
trẻ nào tốt, khá, trẻ nào Trung bình, yếu. Tốt mặt nào, yếu về mặt nào để tôi lựa
chọn hình thức giáo dục cho phù hợp.
Ví dụ: Khi cho trẻ trò chuyện về tên, tuổi, giới tính của trẻ tôi cần lựa chọn
hệ thống câu hỏi phù hợp với độ tuổi của lớp tôi, câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp và câu hỏi dễ hiểu, gần gủi sát với đề tài đang truyền tải cho trẻ.
Với những câu hỏi khó và trừu tượng hơn tôi thường gọi những trẻ tốt và khá trả
lời, còn những trẻ nhận thức, ngôn ngữ có phần hạn chế tôi lựa chọn hệ thống câu
hỏi đơn giản hơn, ít từ hơn...
Chẳng hạn: với trẻ tốt và khá tôi đặt câu hỏi: Con hãy tự giới thiệu về bản
thân mình nào? Như vậy trẻ sẽ giới thiệu về họ và tên của trẻ, ngày sinh, giới tính
và sở thích của trẻ.... Nhưng với trẻ nhận thức, ngôn ngữ còn hạn chế tôi đặt câu
hỏi: Họ tên con là gì? Con sinh ngày tháng năm nào? ...
Ngoài ra, tôi còn phân nhóm cho trẻ hoạt động nhanh nhẹn - chơi với trẻ
yếu, để trẻ giúp đỡ nhau. Trong quá trình chơi cùng nhau trẻ có điều kiện để giao
lưu, trao đổi thúc đẩy nhau hoạt động tốt hơn, đồng thời trẻ được trải nghiệm mình
từ đó trẻ tích cực hoạt động và hoạt động tốt hơn.
Như vậy việc tìm hiểu đặc điểm nhận thức của trẻ đã thực sự giúp trẻ học tốt
hơn
2.2.2 Tạo điều kiện cho trẻ tìm tòi, khám phá, trải nghiệm, học hỏi
Môi trường xã hội luôn thay đổi, vận động không ngừng. Tuy nhiên sự vận
động, thay đổi đó có chu kỳ, có tính quy luật đòi hỏi có thời gian. Vì vậy, để cho
trẻ tận mắt nhìn thấy sự thay đổi của xã hội đòi hỏi giáo viên cần có sự linh hoạt,
nhạy bén, biết tận dụng mọi cơ hội để tổ chức cho trẻ tìm tòi, khám phá thử
nghiệm giúp cho sự hiểu biết của trẻ được chính xác sâu sắc hơn.


Ví dụ: Trong tiết dạy cho trẻ "Trò chuyện về ngày 20/11", cô sưu tầm các
loại tranh ảnh về ngày 20/11,....Ngoài ra cô còn sử dụng các hình ảnh về ngày

20/11 trình chiếu trên máy tính cho trẻ được trực tiếp trò chuyện về nội dung của
các hình ảnh đó. Qua đó trẻ được khắc sâu về ý nghĩa của ngày nhà giáo Việt Nam
nhằm giáo dục ở trẻ sự biết ơn, lòng kính trọng đối với các cô giáo thầy giáo.
Hoặc tiết “Trò chuyện về nghề nghiệp của bố mẹ” tôi giao nhiệm vụ cho trẻ
về nhà hỏi bố mẹ mình làm nghề gì, làm việc ở đâu? nghề đó tạo ra sản phẩm
gì?...Trong tiết học tôi cho trẻ được trải nghiệm những gì mà trẻ biết, trẻ thấy để trẻ
tự nói lên được nghề nghiệp của bố mẹ mình, để trẻ khắc sâu kiến thức hơn tôi lựa
chọn một số hình ảnh các nghề mà bố mẹ trẻ làm cho trẻ xem nhằm kích thích sự
hứng thú của trẻ vào tiết học hơn
Tổ chức ngày hội ngày lễ như" Tết trung thu” tôi cho trẻ biết ý nghĩa của
ngày tết trung thu là ngày rằm tháng tám, ngày tết trung thu của thiếu nhi , tập các
tiết mục văn nghệ có nội dung về tết trung thu như bài “ Chú cuội chơi trăng,
Vầng trăng cổ tích, Rước đèn dưới trăng... Chuẩn bị sân khấu, hóa trang, mâm
cổ ...Tạo điều kiện cho trẻ cùng cô trang trí, sắp xếp trong buổi lễ như tự mặc trang
phục, bày mâm quả, sắp xếp nghế ngồi...Tất cả thể hiện một niềm thích thú dâng
trào ở trẻ thơ khi hòa mình vào các ngày lễ hội lớn. Qua đó trẻ hiểu được ý nghĩa,
tầm quan trọng của các ngày lễ hội và luôn biết trân trọng nó.
Ví dụ: “Tìm hiểu về trường mầm non “ tôi cho trẻ thường xuyên quan sát
các hoạt động của trường như Trong trường có những ai? Công việc của từng
người trong trường làm gì?... trong khi tổ chức trên tiết học tôi cho trẻ cùng nhau
khám phá những gì mà trẻ biết trẻ nhìn thấy ở trường mầm non như vậy kích thích
trẻ tìm tòi, khám phá và trải nghiệm, trẻ hứng thú kể cho cô và các bạn biết về
những gì mà trẻ biết về trường mầm non nơi trẻ đang học, trẻ tự hào về trường và
yêu trường, yêu lớp...
Hoặc trong khi tổ chức cho trẻ chơi ở góc phân vai tôi tổ chức cho trẻ đóng
vai cô giáo- học sinh, gia đình, bác sĩ - bệnh nhân, cô bán hàng...tôi dẩn dắt trẻ về
nội dung của chủ đề chơi nhằm giúp trẻ tái tạo và nhập vai chơi phù hợp, từ đó
phát huy tính tích cực của trẻ, trẻ thể hiện vai chơi của mình như cách ứng xử, giao
tiếp đúng mực.
Các buổi sinh hoạt chiều tôi thường tổ chức cho trẻ cũng cố hóa kiến thức

vừa trích được ở trên tiết học hoặc mở rộng kiền thức cho trẻ về những nội dung
sắp cho trẻ được làm quen nhằn tích lũy kiến thức, khơi gợi tính tò mò ham hiểu
biết của trẻ bằng cách trò chuyện, cho trẻ xem hình ảnh, tổ chức các trò chơi, tổ
chức các hoạt động tạo hình như vẽ, nặn, làm alun về các đề tài khám phá xã hội.


Tổ chức cho trẻ tham quan di tích lịch sữ ở quê hương qua đó đã khơi dậy sự
tìm tòi, khám phá, trải nghiệm của trẻ, trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động hơn,
những hoạt động đó giúp trẻ có lòng yêu quê hương, đất nước, yêu quý những
người thân trong gia đình, yêu trường, yêu lớp, yêu bạn bè trẻ cảm cuộc sống
quanh trẻ thú vị rất nhiều.
Chính nhờ những hoạt động ấy mà trẻ nhớ rất lâu kiến thức trẻ tích lũy được
đồng thời trẻ ham thích tìm tòi, khám phá, hứng thú tham gia vào các giờ học các
hoạt động của lớp.
2.2 3 Sử dụng đồ dùng trực quan.
Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học chiếm một vị trí rất quan trọng
trong việc giúp trẻ tiếp thu những kiến thức. Bởi lẽ trực quan trong dạy học huy
động được tất cả các giác quan tham gia vào quá trình nhận thức của trẻ.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đồ dùng trực quan đối với tiết môi trường
xung quanh cho nên ngay từ đầu năm học tôi mạnh dạn đề xuất với ban giám hiệu
nhà trường trang bị thêm cho các lớp các thiết bị đồ dùng dạy học như ti vi, bảng,
tranh ảnh lô tô, và một số các mô hình mô phỏng để phục vụ dạy học.
Khi lập kế hoạch cho mỗi tiết học tôi đã rất chú ý tới cách thức truyền tải
kiến thức với trẻ đặc biệt đồ dùng trực quan vừa phải mang tính thẩm mỹ, tính
chính xác và sự sáng tạo từ đó kich thích được sự hứng thú, ham hiểu biết ở trẻ.
Phương tiện trực quan trong các hoạt động dạy và học rất đa dạng như: Đồ
dùng trực quan bằng vật thật: cốc,chén, con cá, các loại rau-quả, …Các loại mô
hình: Mô hình máy bay, Tàu hỏa...Các loại tranh ảnh, lô tô.Tôi luôn lưu ý tới việc
sử dụng đồ đùng trực quan phải phù hợp với nội dung từng tiết dạy ngay từ khi lập
kế hoạch cho mỗi tiết môi trường xung quanh tôi luôn suy nghĩ và lựa chọn những

đồ dùng trực quan sao cho trẻ dễ hiểu và thích thú đối với những tiết chủ đề về môi
trường xã hội thì tôi lựa chọn tranh, ảnh để dạy trẻ. Đối với những đồ dùng trực
quan là đồ chơi tôi đưa vào trong các tiết dạy như: Đồ chơi của bé, phương tiện
giao thông, con vật…Qua những đồ chơi được làm khéo léo giống với thực tế sẽ
giúp trẻ chú ý quan sát đồ chơi, chơi với đồ chơi để khám phá những kiến thức về
đối tượng.Vì trẻ mẫu giáo có sự tưởng tượng chưa phong phú, kinh nghiệm sống
của trẻ còn ít nên tôi thường xuyên tận dụng các vật thật để dạy trẻ. Khi cho trẻ
được tiếp xúc với vật thật thì tôi nhận thấy trẻ hứng thú và nắm bắt kiến thức một
cách rõ ràng nhất.
Ví dụ: Khi tìm hiểu về quả cam tôi dùng quả cam thật cho trẻ quan sát và
trải nghiệm. Đây là quả gì? nhìn xem quả cam có hình gì? Màu gì? hãy sờ xem vỏ
của chúng có đặc điểm gì? muốn biết cam có mùi gì hãy đưa lên mũi ngửi xem
nào… sau đó nếm thử vị của cam sau đó hỏi trẻ về vị của cam (có trẻ nói chua, trẻ


nói ngọt) từ đó tôi giải thích “Qủa cam chưa chín có vị chua, còn quả cam chín có
vị ngọt” khi được trải nghiệm thực tế thì trẻ đã nắm vững những kiến thức tôi
muốn truyền đạt. Qua bài về quả cam tôi không những đã cho trẻ tìm hiểu một
cách tổng quát về quả cam mà còn dạy trẻ kĩ năng bổ cam và vứt rác đúng nơi.
Việc sử dụng màn hình, máy chiếu cũng là một hình thức sử dụng trực quan
vì vậy tôi thường xuyên sử dụng tạo điều kiện để cho trẻ nắm kiến thức.Thông qua
những cảnh quay, đoạn băng được đưa lên màn hình sẽ tạo ra sự thay đổi, sự mới
lạ cho trẻ vì tất cả những sự vật hiện tượng đều có thể chụp lại, quay lại để đưa lên
màn hình cơ hội để trẻ khám phá những sự vật- hiện tượng, con vật… mà trẻ khó
có cơ hội tiếp xúc như: tìm hiểu động vật sống trong rừng, động vật sống dưới
biển…
Việc sử dụng đồ dùng trực quan phải được sử dụng một cách linh hoạt và
sáng tạo. Trong tiết dạy tôi không sử dụng một loại đồ dùng từ đầu đến cuối cũng
không sử dụng quá nhiều loại ôm đồm để trẻ khó hiều mà tôi phối hợp các loại đồ
dùng trực quan sao cho phù hợp, linh hoạt từng phần sao cho trẻ không nhàm chán.

Ví dụ: Trong tiết dạy cho trẻ làm quen với một số loại rau tôi có thể sử dụng
một số loại đồ dùng như: Tranh lô tô, vật thật, đồ chơi, màn hình, mô hình kết hợp
với nhau sao cho linh hoạt và phù hợp như phần đầu giới thiệu bài cho trẻ đi thăm
mô hình vườn rau với nhiều loại rau, phần cung cấp kiến thức cho trẻ quan sát các
loại rau thật, phần mở rộng cho trẻ xem trên màn hình một số loại rau khác và các
món ăn từ rau, phần luyện tập cho trẻ đi chơi trò chơi qua những đồ rau nhựa, tranh
lô tô.
Việc kết hợp sử dụng linh hoạt các loại đồ dùng trực quan trong tiết học tôi
thấy trẻ hứng thú hơn mỗi khi học khám phá khoa học, kiến thức tôi truyền đạt vì
thế mà dễ dàng và trẻ ghi nhớ hơn
2.2. 4 Tổ chức quan sát trước tiết học.
Trẻ Mẫu giáo với đặc điểm "Chơi bằng học, học bằng chơi" qua quá trình
dạo chơi tham quan hoặc tham gia vào các hoạt động như đọc thơ, kể chuyện, các
trò chơi, trẻ được quan sát đối tượng ở môi trường sống nhằm kích thích sự ham
hiểu biết, sự thích thú của trẻ, từ đó trẻ hiểu, khắc sâu vào trí nhớ những đặc điểm
của đối tượng đó. Cô giáo có thể tổ chức ngoài tiết học, vào buổi sáng, sau khi đón
trẻ hoặc buổi chiều sau khi trả trẻ. Những buổi ngoại khoá cô có thể cho trẻ đi
tham quan một số nơi liên quan đến bài học trên tiết dạy. Mục đích của việc quan
sát đối tượng đang ở môi trường sống nhằm kích thích sự ham hiểu biết, sự thích
thú của trẻ.
Ví dụ: Trước khi tổ chức tiết học "Một số con vật sống trong rừng" Trẻ
được đi tham quan vườn bách thú bằng mô hình, cô cho trẻ được nhìn và nghe thấy


ting kờu ca cỏc con vt, cụ cú th bng cỏch to hng thỳ cho tr bt trc ting
kờu ca cỏc con vt, lỳc ny tr cú th oỏn ra ú l ting kờu con gỡ?
Vớ d: Vi bi "Quỏ trỡnh phỏt trin ca cõy t ht" Trong gi hot ng
ngoi tri cụ cho tr quan sỏt mt chu cnh khụng cú cõy xanh v cụ hi tr:
Chic chu ny dựng lm gỡ? Sau ú cụ cho tr quan sỏt cụ gieo ht vo
chu cnh tr cú iu kin quan sỏt s trng thnh ca cõy xanh, cụ cho tr

quan sỏt thờm tranh nh minh ho.
Vớ d: Trc khi t chc tit hc cho tr lm quen: Mt s phng tin
giao thụng trong khi ún tr v khi tr chun b ra v. Cụ giỏo cú th t chc cho
tr tham gia trũ chi "Ngi ti x gii" bng nhng cõu , bi th, bi hỏt tr bit
c ngi ti x ú iu khin loi phng tin giao thụng gỡ?
Nh cú nhng bui do chi tham quan vi cỏc hot ng ngoi tit hc tụi ó
cung cp cho tr mt s biu tng th gii xung quanh nờn khi bc vo tit
hc c cụ v tr cựng thy nh nhng v thoi mỏi.
2.2 5 T chc hot ng khỏm phỏ mụi trng xung quanh thụng qua tit
hc
la tui Mm non t duy tng tng ca tr rt phong phỳ v a dng.
Chớnh vỡ vy cụ giỏo phi giỳp tr tht s hng thỳ trong gi hc, nhm hng s
tp trung chỳ ý ca tr vo i tng cn quan sỏt. Mun vy ngay t phỳt u tiờn
phi xõy dng tỡnh cm to khụng khớ vui ti, phng phỏp gii thiu bi phi
sinh ng v gn lin vi ni dung bi dy.
Tit hc t kt qu thỡ vic u tiờn cn lm l xỏc nh ti, b sung,
chớnh xỏc nhng kin thc v ti ú cho bn thõn. Tip tc tụi xỏc nh mc tiờu
cần đạt của hoạt động ú đối với trẻ . Sau ú tụi cn xỏc nh hỡnh thc
truyn th kin thc cho tr? Kết quả mong đợi ở trẻ hoạt động này là
gì?...
Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi v mi iu kin t chc cho tit dy
đầy đủ, tạo tâm thế thoải mái giữa cô và trẻ.
La chn h thng cõu hi phự hp vi thc t ca bi dy v vi nhn thc
ca tr, h thng cõu hi phi i t d n khú, la chn cõu hi no dnh cho tr
tt, tr yu...chỳ ý phỏt huy tớnh tớch cc, ch ng ca tr, kớch thớch lụi cun tr
tham gia vo cỏc hot ng mt cỏch t nguyn, hng thỳ.
VD: Đề tài " Tỡm hiu v mt s loi hoa ch thc vt.
Giỏo viờn chun b hiu loi khỏc nhau; Hoa tht, hoa lm bng xp, hỡnh
nh chiu trờn mỏy...
Mi mt cõu hi tụi a ra phi c nhiu tr tr li, tựy ph thuc vo

nhn thc ca tng tr tụi t cõu hi, cõu gi ý sao cho tt c tr bit c cu


tạo của hoa cúc, màu sắc của hoa. Khi trẻ trả lời cô giúp trẻ trả lời trọn câu. Đối
với trẻ giỏi cô cho trẻ trả lời những câu hỏi khó hơn. Câu hỏi có tính chất trừu
tượng đòi hỏi trẻ phải tư duy, suy nghĩ. Sau khi trẻ nêu ý kiến nhận xét các loại hoa
xong tôi khái quát lại. sau đó mỡ rộng ra các màu sắc của loại hoa đó. Như tôi cho
trẻ quan sát hoa hồng màu đỏ bằng hoa thật thì sau đó tôi mỡ rộng thêm màu sắc
của hoa hồng bằng cách cho trẻ xem hình ảnh trên tivi hoa hồng vàng , hoa hồng
màu hồng, hoa hồng tím. Để kích thích tính nhanh nhẹn, sáng tạo của trẻ, đồng thời
tạo cho trẻ thể hiện tình cảm của mình với một số loài hoa , tôi tổ chức cho trẻ chơi
trò chơi, hát, múa về các loại hoa…
2.2.6. Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh:
Việc nhận thức của các bậc phụ huynh về bộ môn này là một vấn đề. Tôi
luôn gặp gỡ và trao đổi với các bậc phụ huynh để họ hiểu rõ về bộ môn Làm quen
môi trường xung quanh. Vì trẻ Mầm non là lứa tuổi đang học ăn, học nói. Vì vậy
việc cho trẻ làm quen môi trường xung quanh có ý nghĩa rất lớn đối với trẻ, nó là
phương tiện phát triển lời nói của trẻ, giúp trẻ nói mạch lạc, rõ ràng, nó góp phần
giáo dục nhân cách làm người cho trẻ. Chính vì vậy các bậc phụ huynh nên tạo
điều kiện cho con mình đi tham quan ở các nơi trẻ sẽ lĩnh hội được những gì trẻ đã
được quan sát và trẻ ghi nhớ có chủ định và khi trẻ đến lớp cô cho trẻ quan sát mô
hình hoặc tranh ảnh trẻ sẽ nhớ lại và nói được rõ ràng mạch lạc hơn.
Thường xuyên theo dỏi nắm bắt về tình hình học tập của trẻ, đặc điểm tâm
sinh lý và nhận thức của từng trẻ để trao đổi với phụ huynh, đề nghị phụ huynh kết
hợp với lớp để sưu tầm tranh, ảnh, truyện, các thông tin, tài kiệu liên quan đến chủ
đề đang và sẽ thực hiện, hướng dẩn phụ huynh cách thức tích lũy kiến thức, kinh
nghiệm để cung cấp cho trẻ học ở nhà.
Luôn nhắc nhỡ phụ huynh luôn là tấm gương sáng cho trẻ noi theo về cách
ứng xử, giao tiếp, các mối quan hệ, tình yêu thương...trong gia đình,
Kết hợp với phụ huynh tổ chức các ngày lễ hội ở trường như ngày Khai

giảng, ngày Tết trung thu, ngày tết thiếu nhi, hội thi bé với vận động. Tạo mọi
điều kiện để tất cả các phụ huynh cùng tham gia, được tham gia phụ huynh nhận
thức sâu sắc hơn, hiểu biết ý nghĩa của ngày lế hội ở trường hơn, nhờ vậy mà phụ
huynh chuyển tải được một số kiến thức cho trẻ, trẻ hiểu rỏ hơn về các ngày lễ hội.
Bằng cách làm như vậy phụ huynh biết được tầm quan trọng của việc khám
phá môi trường xung quanh đối với trẻ, phụ huynh tạo mọi điều kiện cho trẻ
thường xuyên giao tiếp với mọi người xung quanh, phát huy được tính mạnh dạn,
tự tin của mình trong giao tiếp làm tăng nhận thức của trẻ một cách hiệu quả.


Nhờ có sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường và có sự nỗ lực của bản thân
tôi, tôi nhận thấy sự phát triển nhận thức của trẻ ngày càng đạt kết quả cao.

2.3. Hiệu quả công tác:
Qua một thời gian thực hiện hiện các biện pháp trên tôi rất phấn khởi về sự
tiến bộ của trẻ, trẻ rất thích học môn học làm quen với môi trường xung quanh kết
quả cụ thể như sau:
- Về phía trẻ:
Tổng XL Tốt
XL Khá
XL TB
XL Yếu
%
SL
%
SL
%
SL
%
số trẻ SL

30
10
33,33 16
53,33 3
10
1
3,33
- Về phía giáo viên:
Cô giáo cần có lòng say mê khám phá môi trường xung quanh , mong muốn
tìm hiểu về các sự vật hiện tượng lòng ham hiểu biết của cô giáo phải được thể
hiện trong mọi hoạt động để làm gương cho trẻ lôi cuốn trẻ vào các hoạt động
khám phá, tìm hiểu về khám phá khoa học
Giáo viên có những kiến thức cơ bản về khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội , nắm vững nội dung chương trình và có kỹ năng sử dụng linh hoạt các phương
pháp, luôn có ý thức trong việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức cho trẻ
khám phá khoa học theo hướng tích cực các hoạt động của trẻ và lấy trẻ làm trung
tâm. Cô luôn tạo cho trẻ môi trường học tập “ Học mà chơi, chơi mà học”
Luôn động viên kịp thời và giúp trẻ tập luyện thường xuyên cho trẻ được trải
nghiệm khám phá và tạo các điều kiện tốt nhất để trẻ có khả năng tư duy và phát
triển tốt. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cô giáo và gia đình trong việc tổ chức
cho trẻ thực hiện các hoạt động trong trường mầm non.
Thu được những kết quả tích cực trên trẻ, tôi càng nỗ lực học hỏi, tìm hiểu
và mong ứng dụng được nhiều hơn những tri thức về môi trường xung quanh trong
công tác giảng dạy của mình.
- Về phía phụ huynh:
Các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ
làm quen với môi trường xung quanh , tạo điều kiện cùng công tác với cô giáo để
trẻ đạt hiệu quả cao nhất , đó cũng đã góp phần nâng cao chất lượng cho trẻ làm
quen với môi trường xung quanh.
3. PHẦN KẾT LUẬN

3.1. Ý nghĩa của đề tài.
LQVMTXQ là điều kiện cần thiết và không thể thiếu để duy trì và phát triển
nhân cách cho trẻ. Có thể nói rằng việc nâng cao chất lượng cho trẻ LQVMTXQ
đã góp phần nâng cao nhận thức của toàn thể giáo viên và phụ hunh. Qua các hoạt


động LQMTXQ hình thành cho trẻ những kiến thức, kỹ năng cảm nhân về thế giới
xung quanh. Muốn giờ dạy đạt kết quả cao cô giáo phải nắm vững mục tiêucủa
từng bài dạy, để linh hoạt sáng tạo trong mỗi hoạt động.
- Cô phải sưu tầm những trò chơi hay, sát với nội dung của bài học để kích
thích trẻ tham gia vào các trò chơi, đồng thời củng cố trẻ những kiến thức vừa
được làm quen. Cô luôn dùng những câu hỏi đàm thoại gợi mở để trẻ trả lời để trẻ
tập diễn đạt trả lời câu đầy đủ, trẻ phải được đàm thoại, tự suy nghĩ, tự nhận xét, tự
rút ra kết luận.
- Thường xuyên trao đổi với phụ huynh đối với trẻ phát âm nói ngọng, nói
lắp, từ sự quan tâm phối hợp của nhà trường và gia đình sẽ giúp trẻ phát triển tốt
hơn về mọi mặt nhất là lời nói của trẻ.
- Mở rộng vốn kiến thức của bản thân tự rèn luyện phấn đấu vươn lên,
thường xuyên hỏi chị em đồng nghiệp, tham khảo sách báo, các tiết dạy mẫu trên ti
vi, sưu tầm tranh ảnh, bài hát, bài thơ để phục vụ cho môn học.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
* Đối với giáo viên:
- Cần có lòng yêu nghề mến trẻ, kiên trì, nhẫn nại theo dõi từng bước đi, cử
chỉ, hành vi của trẻ.
- Nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của lớp mình phụ trách.
- Lập kế hoạch cho trẻ một cách cụ thể.
* Đối với phụ huynh:
- Đóng góp các nguyên vật liệu để làm đồ dùng. Tham gia các làm đồ dùng
đồ chơi cùng với giáo viên.
- Thấy rõ vai trò của việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ

- Phụ huynh đóng góp các dụng cụ để các cháu và tham gia vệ sinh và bảo
vệ môi trường.
* Đối với cấp trên:
- Tổ chức các buổi tập huấn về phương pháp tổ chức dạy học Giáo dục lấy
trẻ làm trung tâm.
- Trang cấp thêm các trang thiết bị, đồ dùng phục vụ công tác vệ sinh và bảo
vệ môi trường.
Từ thực tế lớp tôi phụ trách với những khó khăn mà bản thân tôi gặp phải tôi
đưa ra một biện pháp, những kiến nghị, đề xuất để tháo gỡ những vướng mắc trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục vệ sinh và bảo vệ môi trường. Mong rằng những
biện pháp này sẽ được áp dụng một cách có hiệu quả khi được các cấp, các đồng
nghiệp góp ý, bổ sung thêm và tích cực đổi mới trong công tác vận dụng để nâng


cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, đáp ứng với nhu cầu giáo dục trong giai
đoạn hiện nay.
Trên đây là một số sáng kiến và đề xuất nhỏ của tôi, để bản sáng kiến được
hoàn thiện hơn, có hiệu quả hơn rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng
khoa học và các đồng nghiệp bổ sung cho sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn
thiện và đầy đủ hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHSK NGÀNH GD&ĐT

XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHSK HUYỆN LỆ THỦY



×