Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết đẹp và buồn của kawabata (2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.03 KB, 64 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ MAI

HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG
TIỂU THUYẾT ĐẸP VÀ BUỒN CỦA
Y. KAWABATA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

HÀ NỘI - 2016


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ MAI

HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG
TIỂU THUYẾT ĐẸP VÀ BUỒN CỦA
Y. KAWABATA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học


TS. Nguyễn Thị Bích Dung

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình, tôi đã nhận
đƣợc sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn –
trƣờng ĐHSP Hà Nội 2, trong tổ bộ môn văn học nƣớc ngoài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới các thầy cô trong khoa,
tổ, đặc biệt là TS. Nguyễn Thị Bích Dung – ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn tôi
hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thị Mai


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của TS.
Nguyễn Thị Bích Dung, tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
Kết quả này không trùng với kết quả của bất kì tác giả nào đã đƣợc công
bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Thị Mai



MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
1.1. Lý do khoa học ..................................................................................... 1
1.2. Lý do sƣ phạm ...................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 3
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ......................................... 9
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................... 9
3.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 9
4. Mục đích nghiên cứu. .............................................................................. 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu. ...................................................................... 10
6. Cấu trúc của luận văn. ........................................................................... 10
PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 11
CHƢƠNG 1:ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU
THUYẾT ĐẸP VÀ BUỒN ........................................................................... 11
1.1. Khái niệm hình tƣợng nghệ thuật ....................................................... 11
1.2. Đặc điểm hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong tiểu thuyết Đẹp và buồn .... 13
1.2.1 Vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Nhật qua “con mắt” của Kawabata ........... 14
1.2.2 Ngƣời phụ nữ trong Đẹp và buồn – Biểu trƣng của cái đẹp Nhật
Bản. ........................................................................................................... 16
1.2.2.1 Thế giới hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong Đẹp và buồn – thế giới đa
sắc màu ..................................................................................................... 17


1.2.2.2 Tâm hồn, tình yêu của ngƣời phụ nữ – vẻ đẹp và nỗi buồn ........... 27
CHƢƠNG 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ
NỮ TRONG TIỂU THUYẾT ĐẸP VÀ BUỒN CỦA KAWABATA. .......... 36
2.1 Miêu tả chân dung nhân vật. ................................................................ 36
2.2 Khám phá thế giới nội tâm nhân vật. ................................................... 40

2.3 Đặt nhân vật trong thế giới thiên nhiên ................................................ 45
2.4 Ngôn ngữ đối thoại giàu chất thơ......................................................... 48
2.5 Khám phá thế giới đời sống riêng tƣ với những số phận đầy ám ảnh ... 51
KẾT LUẬN .................................................................................................. 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Y. Kawabata (1899-1972) là một trong hiện tƣợng kì diệu nhất của
văn học Nhật Bản thế kỷ XX . Trong những năm tháng đổi mới đất nƣớc theo
tinh thần “học hỏi phƣơng Tây, đuổi kịp phƣơng Tây, vƣợt lên phƣơng Tây”
của vua Minh Trị khi lên ngôi, kawabata cũng tiếp nhận văn chƣơng phƣơng
Tây nhƣng về cơ bản ông vẫn là con ngƣời Nhật luôn hƣớng về cội nguồn văn
hóa dân tộc. Kawabata nhƣ một con cá lội ngƣợc dòng tìm về những nét văn
hóa truyền thống, những vẻ đẹp đang bị phai tàn, mai một, trƣớc những ánh
hào quang của văn hóa phƣơng Tây. Hành trình sáng tác của ông là một hành
trình đi tìm cái đẹp.Trong cuộc hành trình ấy của Kawabata đƣợc ví nhƣ một
cuộc hành trình đơn độc của “lữ khách u buồn” đi tìm cái đẹp, tìm lại tâm hồn
con ngƣời Nhật Bản ngày càng bị mai một. Kawabata đã góp một phần nhỏ
vào công cuộc lƣu giữ vẻ đẹp, giá trị cội nguồn dân tộc trong từng sáng tác
của mình. Vì vậy, ông đã có chỗ đứng vững chắc trong nền văn học Nhật
Bản. Và ông tự hào nhận mình “sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản”. Ta hiểu vì sao
ngƣời Nhật Bản yêu mến gọi ông là “con ngƣời Nhật Bản nhất”
Năm 1968 Y. Kawabata đƣợc trao giải nobel văn học với ba tiểu
thuyết nổi tiếng: “Xứ tuyết”(1947), “Ngàn cánh hạc”(1951), “Cố Đô”(1962).
Những sáng tác của ông lấp lánh một tình yêu với cái đẹp, với những vẻ đẹp
cội nguồn sâu thẳm của văn hóa truyền thống mà chỉ có ở xử xở Phù Tang.
Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, Kawabata đã trở thành du

khách lang thang đi tìm vẻ đẹp Nhật Bản. Vẻ đẹp Nhật Bản trong quan niệm
của ông có thể là hoa anh đào, trà đạo, vẻ đẹp kimono, nghệ thuật Geisha,

1


thiên nhiên diễm lệ hay vẻ đẹp thuần phong mĩ tục…Nhƣng hơn cả là vẻ đẹp
của ngƣời phụ nữ xứ Phù Tang. Vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Nhật Bản trong các
sáng tác của Kawabata đặc biệt trong các cuốn tiểu thuyết luôn là đề tài hấp
dẫn đối với ngƣời say mê văn chƣơng xứ Phù Tang.
Phụ nữ từ ngàn đời nay có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và
văn học, họ không chỉ trở thành nhân vật trung tâm của các thể loại văn
chƣơng mà còn là những tác giả tiêu biểu trong mọi dòng văn học. Phụ nữ
Nhật Bản cũng không nằm ngoài ngoại lệ, chúng ta đã biết đến văn học Nhật
Bản với một dòng văn học nữ tính thời Heian tồn tại suốt ba thế kỉ mà tiêu
biểu là Izumi Shikibu, Murasaki Shikibu, Sei Shonagon.Trong các sáng tác
của mình, Kawabata luôn kiếm tìm những vẻ đẹp mong manh, tinh khiết của
ngƣời phụ nữ với lòng thành kính, ngƣỡng mộ. Từ cô vũ nữ trong tiểu thuyết
“ Vũ nữ Izu”; Komako, Yoko trong “Xứ tuyết”; Ôta, Fumiko trong “Ngàn
cánh hạc”, những cô gái trong “Cô gái say ngủ” đến Otoko, keiko trong tiểu
thuyết “Đẹp và buồn” đều mang vẻ đẹp nữ tính, thánh thiện , ngây thơ hay
thâm trầm sâu sắc. Họ đều trở thành những nhân vật trung tâm trong các sáng
tác của ông, có lẽ vì vậy mà Kawabata đƣợc ngƣời ta cho rằng ông là ngƣời
hiểu tâm lý phụ nữ một cách tinh tế nhất. Việc tìm hiểu hình tƣợng ngƣời phụ
nữ qua tiểu thuyết của Kawabata có ý nghĩa lớn đến việc tiếp cận các phƣơng
diện nghệ thuật trong các sáng tác của ông.
1.2. Lý do sƣ phạm
Văn học nƣớc ngoài nói chung, văn học Nhật Bản nói riêng đã có mặt
trong chƣơng trình dạy học ngữ văn từ rất lâu, nhƣng cả ngƣời dạy và ngƣời
học gặp không ít khó khăn trong việc tiếp cận những nét văn hóa và tƣ tƣởng

của các tác giả nƣớc ngoài cùng với đó là tƣ liệu hiếm hoi. Vì vậy việc tìm
hiểu tác phẩm của Kawabata giúp giáo viên trong tƣơng lai có cái nhìn sâu
sắc và toàn diện hơn về văn học nƣớc ngoài, đặc biệt văn học Nhật Bản. Từ
2


đó có nhũng định hƣớng, liên hệ ,mở rộng khi dạy các tác phẩm của Nhật Bản
nhƣ thơ Hai kƣ của Basho. Và giúp các em biết trân trọng và giữ gìn những
nét đẹp cội nguồn sâu thẳm và bền vững của văn hóa dân tộc .
Xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài: “Hình tƣợng ngƣời
phụ nữ trong tiểu thuyết “Đẹp và buồn” của Y. Kawabata với hi vọng phần
nào khám phá những vẻ đẹp con ngƣời Nhật Bản.
2. Lịch sử vấn đề
Y. Kawabata là nhà văn, tiểu thuyết gia lỗi lạc của Nhật Bản, ông là
ngƣời Nhật đầu tiên và là ngƣời thứ ba châu Á đạt giải thƣởng Nobel văn học
năm 1968 với ba tiểu thuyết: Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố Đô cùng với lời
nhận xét: “Nghệ thuật kể chuyện tinh tế cùng sự nhạy cảm cao độ đã thể hiện
đƣợc nét tinh túy trong tâm hồn Nhật Bản”.
Kawabata sinh ra tại một thành phố nhỏ ở Osaka - thành phố công
nghiệp lớn của Nhật Bản.Yasunari Kawabata sinh ra trong một gia đình học
thức. Gia đình ông tuy sống ở gần một đô thị đông đúc trù phú nhƣng đời
sống không có gì khá giả. Cha ông là bác sĩ nhƣng yêu thích văn hóa nghệ
thuật, mẹ nội trợ trong gia đình. Ông có một tuổi thơ đầy bất hạnh, cha mẹ
Kawabata lần lƣợt qua đời để lại hai đứa bé yếu ớt cho ông bà nội. Không lâu
sau ông bà nội qua đời, Kawabata cùng chị gái về sống cùng bà ngoại. Nhƣng
mất mát này cứ nối tiếp mất mát kia, năm Kawabata 9 tuổi, chị gái và bà
ngoại cũng qua đời. Những nỗi đau mất mát này tạo cho ông một vết thƣơng
tâm tính trong các sáng tác. Kawabata đuợc ông gửi tới một trƣờng dành cho
trẻ em nghèo ở gần thành phố Osaka. Năm mƣời ba tuổi ông bắt đầu say mê
văn chƣơng. Kawabata bắt đầu sƣu tầm thơ Haiku của Basho, ông tìm đọc

tiểu thuyết Genji và các tác phẩm văn học cổ điển khác

3


Năm mƣời lăm tuổi ông bắt đầu viết văn, bên giƣờng bệnh của ông
ngoại, tác giả đã hoàn thành cuốn “Nhật kí tuổi mười sáu”. “Nhật kí tuổi
mười sáu” cho chúng ta thấy một cậu thanh niên Kawabata điềm tĩnh, hơn thế
nữa nhờ vào tác phẩm này ngƣời đọc thấy một Kawabata đầy tình cảm và do
hoàn cảnh mà trƣởng thành sớm. Cuốn nhật kí này cũng là khởi điểm cho sự
nghiệp văn chƣơng của Kawabata. Thời gian sau cuộc chiến tranh lần thứ
nhất, cuộc sống của ông rơi vào tình trạng khó khăn, ông phải kiếm sống bằng
nhiều nghề khác nhau, nhƣ viết báo, làm những công việc vặt để cố gắng
hoàn thành luận án tốt nghiệp.Sau khi tốt nghiệp đại học (1924) Kawabata
trở thành một trong những nhà sáng lập tạp chí văn nghệ thời đại, đại biểu cho
trào lƣu Tân cảm giác.
Năm 1925, tiểu thuyết “Vũ nữ Izu” ra đời, truyện đƣợc liên tƣởng theo
mối tình mãnh liệt thời đại học giữa Kawabata với cô gái mƣời lăm tuổi, sự
hủy hôn bất ngờ của cô gái đã làm cho Kawabata dƣờng nhƣ gục ngã, những
hoài niệm trong lòng đã giúp Kawabata xây dựng nên cốt truyện, đây là thành
công văn chƣơng đầu tiên của Kawabata, kể về mối tình lãng mạn của một
chàng sinh viên lãng mạn với một vũ nữ biểu tƣợng cho cái đẹp trinh bạch vô
tội.
Tiểu thuyết “Xứ tuyết” (1947), “Ngàn cánh hạc”(1951) đã thể hiện
đƣơc nghệ thuật bậc thầy trong việc miêu tả tâm lý phụ nữ.
Năm 1948 đến 1965 Kawabata giữ chức vụ chủ tịch Hội Văn bút Nhật
Bản, sau năm 1959 ông là phó chủ tịch Hội Văn bút Quốc tế. Năm 1953
Kawabata trở thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật Nhật Bản. Năm 1959 ông
đƣợc tặng Huân chƣơng mang tên Goethe tại Frankfurt.
Năm 1968 Kawabata là nhà văn Nhật Bản đầu tiên nhận giải Nobel

Văn học. Khi trao giải thƣởng cho ông, đại diện Hội đồng Giải thƣởng Nobel
đã nhấn mạnh: “vì nghệ thuật viết văn tuyệt vời và tình cảm lớn lao, thể hiện
được bản chất và tư duy Nhật Bản”
4


Bốn năm sau, năm 1972, nhà văn tự sát bằng hơi độc tại nhà riêng. Đó là một
điều rất khó hiểu vì Kawabata luôn phản đối việc tự sát. Phải chăng nhƣ
Kawabata đã từng viết : “Tốt nhất là hãy từ bỏ cõi trần này khi mọi người yêu
mến và kính trọng
Với hơn 40 năm sáng tác, ông để lại một sự nghiệp văn chƣơng vô
cùng to lớn tiêu biểu cho tâm hồn Nhật Bản. Ngoài ba tiểu thuyết đạt giải
Nobel, Kawabata còn nhiều tác phẩm khác đƣợc dịch từ tiếng Nhật sang tiếng
Anh và nhiều thứ tiếng khác.
Chính sự đóng góp to lớn cho nền văn học Nhật Bản cũng nhƣ văn học
toàn thế giới, các sáng tác của Kawabata đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà phê bình và nghiên cứu trên toàn thế giới.
Năm 1971, nhà xuất bản Matxcova đã xuất bản tuyển tập tác phẩm của
ông với nhan đề Y.Kawabata –sinh ra bởi vẻ đẹp nƣớc Nhật. Đến năm 1975,
tiếp tục giới thiệu tác phẩm Y.Kawabata sự tồn tại và khám phá cái đẹp, từng
có cả tình yêu và sự căm thù.
Trong Lời giới thiệu giải Nobel văn học năm 1968 của tiến sĩ AndeSterling thành viên Viện hàn lâm Thụy Điển, Y.Kawabata đƣợc biết đến nhƣ
một nhà văn tiêu biểu cho tâm hồn Nhật Bản, “ngƣời thấu hiểu một cách tinh
tế tâm lý phụ nữ” và bằng “sự nhạy cảm lớn lao, đã biểu hiện tinh túy tâm hồn
Nhật Bản”. Trong bài Kawabata- Con mắt nhìn thấu cái đẹp(1974) nhà nghiên
cứu ngƣời Nga- N.T.Phendorenko đã dành cho Xứ tuyết sự quan tâm đặc biệt
Ngƣời dân Việt Nam tiếp xúc với các bản dịch về các tác phẩm của
Kawabata một cách say mê, nhiệt thành nhƣ chiêm ngƣỡng những vì sao tinh
tú nhất trên bầu trời văn học
Vƣơng Trí Nhàn với “Chân dung nhà văn”, tuần báo văn nghệ 2001,

Lƣu Đức Trung với Bƣớc vào vƣờn hoa văn hóa Châu Á…đã dựng nên
những nét cơ bản nhất về cuộc đời cũng nhƣ sự nghiệp của Kawabata
5


Lƣu Đức Trung bàn về thi pháp tiểu thuyết Kawataba – nhà tiểu thuyết
lớn Nhật Bản, trong tạp chí văn học số 9. Bài viết đã nêu ra thi pháp đặc trƣng
trong sáng tác của Kawabata là thi pháp Chân không.
Năm 1991, Nhật Chiêu có bài Kawabata- ngƣời cứu rỗi cái đẹp đƣợc
đăng lên tạp chí văn học số 16. Ông khẳng định thế giới trong tác phẩm của
Kawabata “thƣờng hiện ra trong vẻ đẹp bất ngờ trƣớc khi ta tìm cách lý giải
chúng” . Đúng nhƣ nhận định của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, cái đẹp và thời
gian là thứ có thể dễ dàng cảm nhận đƣợc nhƣng khó giải thích đƣợc, nhất là
trong sáng tác của Kawabata. Nếu đi tìm hiểu hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong
tác phẩm của Kawabata thì vấn đề của nhà nghiên cứu này càng nhận đƣợc sự
đồng tình nhiều hơn.
Năm 1999, trong Thông báo khoa học ĐHSP Hà Nội 2, Nguyễn Thị
Bích Dung có bài viết: “Y.Kawabata – Ngƣời sinh ra bởi vẻ đẹp của Nhật
Bản”
Tạp chí văn học số 15(tháng 6/2001) có bài: “Đọc Xứ tuyết suy nghĩ về
cái nhìn huyền ảo của Y.Kawabata”,
Tạp chí văn học tháng 2 năm 2002, Nhật Chiêu viết về “Thế giới
Kawabata Yasunary trong tác phẩm của ông”
Nghiên cứu một cách khá đầy đủ, hệ thống về con ngƣời, quan điểm tƣ
tƣởng , tƣ duy nghệ thuật và sáng tác của Y.Kawabata, Thụy Khuê trong bài
Từ Murasaki đến Kawabata(2005) đã phân tích, lý giải sâu sắc về nguồn gốc,
ảnh hƣởng của truyền thống Nhật Bản trong sáng tác của Y.Kawabata . Theo
Thụy Khuê “Y.Kawabata – Tâm hồn Nhật Bản”, một trong những biểu hiện
rõ nhất trong sáng tác của ông là vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ.
Trong tạp chí nghiên cứu văn học số 7 năm 2005, Đào Thị Thu Hằng

có bài viết: “Yasunary Kawabata giữa dòng chảy Đông Tây” đã nghiên cứu
sự ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây đối với nhà văn Kawabata, nhƣng cuối

6


bài viết tác giả lại kết luận: văn hóa phƣơng đông vẫn là gốc rễ trong tƣ tƣởng
nhà văn này.
Nguyễn Thị Mai Liên với bài viết “Y.Kawabata – Lữ khách muôn đời
đi tìm cái đẹp” trong tạp chí nghiên cứu văn học số 11 năm 2005. Bài viết đã
đi nghiên cứu sâu vẻ đẹp Nhật Bản trong sáng tác của Kawabata trên nhiều
phƣơng diện nhƣ vẻ đẹp thiên nhiên, phong tục và vẻ đẹp tâm hồn con ngƣời
Nhật Bản , từ những vẻ đẹp khiêm nhƣờng, vẻ đẹp thanh tao, trong sáng, vẻ
đẹp thanh xuân, vẻ đẹp hài hòa cho đến vẻ đẹp u buồn, hƣ ảo.
Các bài viết trên thƣờng đi sâu vào việc nghiên cứu các quan điểm
nghệ thuật, thẩm mĩ hay các thi pháp tiểu thuyết của Kawabata để từ đó khám
phá ra nét đẹp Nhật Bản trong sáng tác của Kawabata. Trong khóa luận này
chúng tôi muốn khám phá ra vẻ đẹp Nhật Bản trên phƣơng diện nét đẹp của
ngƣời phụ nữ trong tiểu thuyết “Đẹp và buồn” của Kawabata.
Tiểu thuyết “Đẹp và buồn” đƣợc sáng tác năm 1964, là một trong
những tác phẩm cuối cùng của nhà văn, dƣờng nhƣ nó cũng là quan niệm
thẩm mĩ và diện mạo văn chƣơng của ông.
Đẹp và buồn là khúc nhạc dịu dàng của số phận, tình yêu và thiên nhiên; phản
ánh rõ nét tâm hồn và cốt cách ngƣời Nhật. Giọng văn của Kawabata thong
thả, nhƣ nhẩn nha dạo bƣớc.
Ngay phần mở đầu cuốn tiểu thuyết, khi giới thiệu về nhà văn có đoạn
viết:
“Đẹp và Buồn là câu chuyện cuối đời của một nhà văn nổi tiếng về thăm lại
cố đô để nghe chuông giao thừa. Chuyến đi thơ mộng lẽ ra êm ả lại khơi lại
một mối hận tình hai mƣơi năm trƣớc. Cái mầm của bất an tiềm tàng hai thập

niên bỗng trở thành một loài cây độc. Cây độc cho hoa độc, đem sự hôn mê
đến đa mê tang tóc cho những nhân vật chính cũng nhƣ phụ”.
Câu chuyện đƣợc kể bắt đầu bằng một sở thích đƣợc nghe tiếng chuông
chùa vào đêm giao thừa của một ngƣời đàn ông trung niên, là một nhà văn.
7


Tại đây, Oki nhớ về những kỉ niệm, khắc khoải về ngƣời yêu cũ, cô gái khi ấy
mới mƣời sáu tuổi – Otoko. Mặc dù đã ba mƣơi mốt tuổi đã có gia đình
nhƣng Oki và Otoko vẫn đem lòng yêu nhau. Kết quả Otoko có thai và sinh
non không cứu đƣợc đứa bé. Do quá đau lòng Otoko bị bệnh và đƣa vào điều
trị ở nhà thƣơng điên. Vì không muốn con gái đau lòng và nhớ về tình cũ, mẹ
của Otoko đã đƣa con gái rời Tokyo đến Kyoto. Oki quay về sống cùng vợ
con và trong thời gian đó ông viết tiểu thuyết “cô gái tuổi mƣời sáu”. Khi
Fumiko- vợ của Oki đánh máy văn bản cuốn tiểu thuyết này, do quá đau đớn,
mà bà bị sẩy thai. Nhƣng phải nói cuốn tiểu thuyết này đã đem lại nguồn kinh
tế lớn cho gia đình, sức khỏe của Fumiko cũng dần khỏe lại và họ cũng sinh
đƣợc hai ngƣời con. Nói về Otoko- ngƣời tình cũ, cũng là nhân vật chính
trong cuốn tiểu thuyết của Oki, sau hơn hai mƣơi năm Otoko đã trỏ thành
danh họa nổi tiếng. Otoko đã ngoài bốn mƣơi nhƣng vẫn giữ đƣợc vẻ đẹp
đằm thắm và nàng vẫn chƣa lập gia đình.
Sau hơn hai mƣơi năm gặp lại, tình cũ vẫn xao xuyến trong lòng mỗi ngƣời,
nhƣng Otoko có quan hệ đồng tính luyến ái với cô học trò của mình là Keiko.
Vì quá say đắm cô giáo của mình và do sự ghen tuông, thù hận, Keiko đã
quyến rũ Oki và con trai ông nhằm rắp tâm phá vỡ gia đình nhà văn này.
Keiko rủ con trai Oki đi biển, chàng trai này chết đuối. Không ai biết con trai
Oki chết do tai nạn hay bị Keiko giết, truyện không hề đề cập đến nhƣng ai
cũng hiểu rằng Keiko đã giết. Đoạn kết thật buồn.
Đúng nhƣ tên truyện: Đẹp và buồn. Cái đẹp của mối tình, cái đẹp về
ngoại hình, tài năng, tâm hồn của phụ nữ Nhật với cái buồn của mối thƣơng

đau giày vò tâm can, với thăng trầm của cái gọi là tình yêu, rồi tình dục, sex,
và gia đình, về ngƣời đàn ông và ngƣời đàn bà, về mối quan hệ tay ba, về oan
trái đồng tính, nỗi buồn của sự ghen tuông, thù hận. Phải công nhận văn
chƣơng Nhật có nét riêng quá trội và đi xa, đi xa hơn văn chƣơng ta nhiều
quá. Cả về tƣ duy trình độ trí tƣởng tƣợng, nghệ thuật và tầm vóc.
8


Cũng nhƣ “Ngàn cánh hạc”, “Đẹp và buồn” là một câu chuyện xuyên
thế hệ, những ân oán từ đời trƣớc chuyển sang đời này, cứ nhƣ thế mãi không
chấm dứt. Cái khiến độc giả ngạc nhiên là trong truyện của Kawabata, những
nhân vật ấy đón nhận những sự hằn thù, ân oán đó nhƣ thể nó là một lẽ hết
sức tự nhiên trong đời sống. Cái cách miêu tả nhẹ nhƣ mây mà sao đau đớn
dữ dội hơn sóng biển rất nhiều
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong tiểu thuyết “Đẹp và buồn” của
Kawabata
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc khảo sát hình tƣợng ngƣời phụ nữ ở đây chỉ tập trung khảo sát,
nghiên cứu trong tiểu thuyết “Đẹp và buồn” của Kawabata
Tuy nhiên để tiện cho việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá, so sánh chúng tôi
có thể mở rộng ra các tác phẩm khác.
4. Mục đích nghiên cứu.
Với việc nghiên cứu đề tài “Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong tiểu thuyết
Đẹp và buồn của Kawabata” nhằm mục đích làm nổi bật vẻ đẹp của con
ngƣời Nhật Bản đặc biệt là ngƣời phụ nữ Nhật trên nhiều phƣơng diện : Vẻ
đẹp ngoại hình, tài năng, tâm hồn và tấm lòng trong trắng tinh khôi trong
quan niệm thẩm mĩ của nhà văn Kawabata. Qua đó ta còn thấy tài năng nghệ
thuật miêu tả tâm lý nhân vật và văn phong của nhà văn, thấy đƣợc những

đóng góp to lớn cho nền văn học dân tộc nói riêng và văn học toàn thế giới
nói chung.

9


5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phố hợp nhiều
phƣơng pháp.
Phƣơng pháp khảo sát tác phẩm; phƣơng pháp phân tích, so sánh, đối chiếu;
phƣơng pháp tổng hợp, nâng cao vấn đề.
6. Cấu trúc của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận , nội dung khóa luận chia làm 2
chƣơng:
Chƣơng 1: Đặc điểm hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong tiểu thuyết “Đẹp và
buồn”
Chƣơng 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật ngƣời phụ nữ trong “Đẹp và buồn”
của Kawabata.

10


PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƢỢNG NGƢỜI
PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT “ĐẸP VÀ BUỒN”
1.1. Khái niệm hình tƣợng nghệ thuật
Nhắc đến hai chữ “nghệ thuật” đôi khi ngƣời ta nhầm tƣởng nó là hiện
thân của những thứ hoa mĩ, diễm lệ, của những cái thuộc về lãng mạn, viển
vông, xa rời thực tế, nhƣng thực chất nghệ thuật luôn đi liền với thực tế, nó

bám sát cuộc sống, và dựa vào hơi ngƣời đời. vì vậy mới nói nghệ thuật là
tấm gƣơng phản ánh cuộc sống một cách chân thực, là ngƣời thƣ kí trung
thành của thời đại. Và để phản ánh cuộc sống một cách chân thực, nghệ thuật
phải lấy hình tƣợng làm phƣơng tiện thể hiện. Ở bất kì loại hình nghệ thuật
nào từ hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh cho đến văn học đều cần lấy
hình tƣợng làm đối tƣợng để phản ánh cuộc sống và thể hiện tƣ tƣởng của
ngƣời nghệ sĩ.
Vậy hình tƣợng nghệ thuật là gì?. Hình tƣợng nghệ thuật là sản phẩm
của phƣơng thức chiếm lĩnh, thể hiện và tái tạo hiện thực theo quy luật của
tƣởng tƣợng, hƣ cấu nghệ thuật. Hình tƣợng nghệ thuật chính là khách thể đời
sống đƣợc nghệ sĩ tái hiện bằng tƣởng tƣợng sáng tạo trong những tác phẩm
nghệ thuật.
Theo Timophiep thì: “ Hình tƣợng nghệ thuật là bức vẽ đầy cảm xúc
của ngƣời nghệ sĩ về đời sống, nhất là đời sống con ngƣời. Bức vẽ ấy vừa cụ
thể vừa khái quát, đƣợc xây dựng bằng hƣ cấu tƣởng tƣợng mang giá trị thẩm
mỹ rõ rệt”
Hình tƣợng nghệ thuật tái hiện cuộc sống nhƣng lại không đơn thuần là
sao chép y nguyên nhũng hiện tƣợng có thật mà tái hiện một cách có chọn
11


lọc, sáng tạo thông qua tài năng và trí tƣởng tƣợng của ngƣời nghệ sĩ, bằng sự
khéo léo và tinh tế của mình, họ biến những sự vật dù tầm thƣờng nhất cũng
trở thành các hình tƣợng đẹp có sức truyền cảm mạnh mẽ, mang đến cho
ngƣời đọc những ấn tƣợng sâu sắc nhất và thể hiện đƣợc những tƣ tƣởng, tâm
tƣ,tình cảm của tác giả muốn gửi gắm đến bạn đọc.
Hình tƣợng nghệ thuật là sự thống nhất cao độ giữa các mặt đối lập:
chủ quan và khách quan, lý trí và tình cảm, cá biệt và khái quát, hiện thực và
lý tƣởng, tạo hình và biểu hiện, hữu hình và vô hình. Từ chính đặc điểm này
mà hình tƣợng nghệ thuật có khả năng tái hiện lại cuộc sống một cách chân

thực và toàn vẹn. Vậy nên, khi tiếp xúc với các tác phẩm nghệ thuật, ta nhƣ
tận mắt chứng kiến, đƣợc tham gia vào câu chuyện đời thực mà tác giả đề
cập. Cảm giác này càng thể hiện rõ hơn trong những loại hình nghệ thuật mà
hình tƣợng giàu tính tạo hình, có khả năng tác đọng trực tiếp vào các giác
quan của ngƣời thƣởng thức nhƣ: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh…,
nhƣng riêng với loại hình văn học, ngƣời ta không chỉ đƣợc sống dậy các
cảm giác mà còn thức dậy các giác quan, văn học kéo ngƣời ta về quá khứ rồi
lại đẩy ngƣời ta về hiện tại và tƣơng lai. Hình tƣợng nghệ thuật không chỉ
phản ánh hiện thực mà còn thể hiện thái độ chủ quan của ngƣời nghệ sĩ đối
với hiện thực ấy. Nhƣ vậy hình tƣợng nghệ thuật là hình thức, là kí hiệu của
một tình cảm, tƣ tƣởng, một nội dung nhất định, là sản phẩm của ngƣời nghệ
sĩ.
Nếu không có hình tƣợng sẽ không có nghệ thuật. hình tƣợng nghệ
thuật đối với tác phẩm nghệ thuật nhƣ một tế bào đối với cơ thể sống. Nó
không chỉ là phƣơng thức tái hiện thế giới khách quan, là nhân tố góp phần
truyền tải thông điệp của tác giả đối với mọi ngƣời mà còn là tâm hồn, bản
ngã của ngƣời nghệ sĩ, nó khẳng định phong cách cái tôi và tài năng của họ.
Mỗi loại hình nghệ thuật sử dụng một chất liệu khác nhau để thể hiện hình
tƣợng, nếu hội họa lấy màu sắc, đƣờng nét làm chất liệu; âm nhạc lấy chất
12


liệu là giai điệu, âm thanh,…để xây dựng hình tƣợng thì văn học lai lấy ngôn
từ làm chất liệu xây dựng hình tƣợng. hay nói cách khác hình tƣợng nghệ
thuật là hình tƣợng ngôn từ.
1.2. Đặc điểm hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong tiểu thuyết “Đẹp và buồn”
Thạch Lam đã từng nói: “ Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp
hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thƣờng. Công việc của nhà văn
là phát hiện cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo che
lấp của sự vật, cho ngƣời khác một bài học trông nhìn và thƣởng thức”. Chọn

hình tƣợng ngƣời phụ nữ làm đối tƣợng cho các sáng tác của mình không
phải đến Kawabata mới có mà hình tƣợng độc đáo đó đã trở thành hình tƣợng
trung tâm, xuyên suốt văn học Nhật Bản cổ xƣa. Trên thế giới cũng không ít
những nhà văn đã chọn hình tƣợng ngƣời phụ nữ làm đề tài sáng tác của mình
nhƣ: L.Tonxtoi, R.Tagore, Thạch Lam, Nguyên Hồng…nhƣng điều mà chúng
ta nhận thấy là không phải ai cũng khắc họa đƣợc hình tƣợng ngƣời phụ nữ
toàn bích đến vậy. Nếu trong văn học Việt Nam, ngƣời phụ nữ hiện lên với số
phận bất hạnh, chịu nhiều thiệt thòi, sống trong cảnh nghèo khó, bị gánh nặng
cơm áo đè nặng lên vai, đau đớn là vậy nhƣng hình tƣợng ngƣời phụ nữ luôn
hiện lên với vẻ đẹp nội tâm sâu sắc nhƣ: Chị Dậu, ngƣời đàn bà hàng chài,
ngƣời vợ nhặt hay Mị - ngƣời con dâu gạt nợ…thì trong dòng chảy của văn
học Nhật Bàn, ngƣời phụ nữ đƣợc ca ngợi với vẻ đẹp tuyệt mĩ, nhà văn
thƣờng đặt nhân vật vào một tình yêu thanh cao, bất diệt để thấy đƣợc tâm
hồn thánh thiện, tấm lòng hi sinh cao cả của ngƣời phụ nữ Nhật Bản. Trong
“Đẹp và buồn” , Kawabata không chỉ ngợi ca vẻ đẹp ngoại hình, tài năng của
ngƣời phụ nữ mà ông còn đặt nhân vật của mình trong mối quan hệ tay ba để
thấy đƣợc sự phức tạp, giày xé, sự hi sinh, chịu đựng và tấm long vị tha…của
các nhân vật.

13


1.2.1 Vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Nhật qua “con mắt” của Kawabata
Kawabata đƣợc mọi ngƣời cho là ngƣời thấu hiểu đƣợc tâm hồn ngƣời
phụ nữ nhất. Chƣa có một nhà văn nào đi sâu vào thể xác và tâm hồn ngƣời
phụ nữ đến thế. Nhƣ thể ông “trích dẫn” tâm hồn ấy trong não trạng dân tộc,
trong thiên nhiên đất nƣớc ông.
Sáng tác của Y.Kawabata là cuộc hành trình đi tìm cái đẹp. Từ tiểu
thuyết đầu tiên cho đến tiểu thuyết cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác của
mình, ông luôn hấp dẫn bởi vẻ đẹp ngƣời phụ nữ. Ông luôn bị hấp dẫn bởi vẻ

đẹp tinh túy, trong sáng, kiều diễm. Đối với ông dƣờng nhƣ đó là bản chất,
đặc trƣng của cái đẹp làm nên vẻ đẹp Nhật Bản.
Y.Kawabata có đôi mắt kì lạ, những ai đã đƣợc chiêm ngƣỡng chân
dung ông đều bị thu hút bởi đôi mắt đó, đôi mắt nhƣ xuyên thấu tâm hồn con
ngƣời, có thể nói đó là đôi mắt của thầy phù thủy, và đôi mắt ấy luôn thƣờng
trực hƣớng về những vẻ đẹp văn hóa truyền thống cổ xƣa của Nhật Bản, đặc
biệt luôn hƣớng về vẻ đẹp ngƣời phụ nữ xứ Phù Tang. Ông đã dùng năng lực
của đôi mắt phù thủy ấy của mình để đƣa nhân vật vào tiểu thuyết để nhân vật
trong tác phẩm của ông trở thành những nhân vật có một không hai, điều lý
thú là họ cũng gắn liền với những hoạt động thƣờng ngày, trong cuộc sống
đời thƣờng nhƣ bao nhân vật khác
Kawabata xây dựng hình tƣợng ngƣời phụ nữ xứ Phù Tang với quan
niệm “phụ nữ đồng nghĩa với cái đẹp”. Đó là vẻ đẹp của ngoại hình, tài năng,
phẩm chất, vẻ đẹp của trái tim bồ tát. Vẻ đẹp ấy đƣợc cảm nhận qua đôi mắt
của du khách lang thang đi tìm cái đẹp .
Đọc văn của Kawabata ta nhận thấy một thế giới thiên nhiên tƣơi đẹp,
tràn đầy sức sống của nƣớc Nhật và vẻ đẹp thanh tao, kiễm lệ, yêu kiều của
ngƣời phụ nữ xứ Phù Tang. Văn của Kawabata mang một nỗi buồn xuyên
suốt tác phẩm, cái đẹp gắn liền với nỗi buồn, một nỗi buồn bàng bạc, thấm

14


đẫm vào cảnh vật. Khi đọc sáng tác của Kawabata ta thấy có sự gần gũi với
giọng văn của Thạch Lam. Nhƣng nếu Thạch Lam hƣớng ngòi bút của mình
vào những ngƣời phụ nữ nghèo đói, khốn khổ, bất hạnh cả về thể chất lẫn tinh
thần nhƣ Mẹ Lê trong “Nhà mẹ Lê”, Tâm (Cô hàng xén), Dung (Hai lần
chết)… thì trong các sáng tác của mình, Kawabata hƣớng ngòi bút của mình
vào ngƣời phụ nữ ở mọi tầng lớp xã hội. Đó có thể là nàng vũ nữ Izu, cô kĩ
nữ, bà nội trợ hay một danh họa nổi tiếng….Thế giới hình tƣợng ngƣời phụ

nữ trong những sáng tác của Kawabata rất phong phú và đa dạng. Nhƣng tựu
chung ở họ là vẻ đẹp kiêu sa kiều diễm và một tâm hồn thánh thiện, cao
thƣợng và giàu lòng vị tha, mang một vẻ đẹp của xứ sở Phù Tang
Hầu hết những ngƣời phụ nữ trong sáng tác của ông đều đẹp, phản
chiếu một vẻ đẹp bên trong, mơ hồ và khó nắm bắt. Mỗi nhân vật có những
dấu ấn riêng nhƣng ở họ đều tràn trề nữ tính. Komako thánh thiện và trần tục,
tỉnh táo và đam mê, Yoko lạnh lùng và cháy bỏng, thơ ngây và thâm trầm (Xứ
tuyết). Kioko nhạy cảm, tinh tế và thủy chung (Thủy nguyệt). Fumiko kín đáo,
sâu sắc. Otto buông thả, đắm say (Ngàn cánh hạc). Dƣờng nhƣ với Kawabata,
phụ nữ bao giờ cũng là hiện thân cho cái đẹp, cho khao khát vƣơn tới nơi
những ngƣời đàn ông. Vẻ đẹp đến sững sờ ở dung nhan yêu kiều và tâm hồn
thánh thiện của họ, thực sự đã “cứu vớt thế giới”. Ngay cả vẻ đẹp của những
cô gái trong “Người đẹp say ngủ” cũng đƣợc đặc tả với một vẻ đẹp say mê,
kiều lệ.
Tiểu thuyết “Đẹp và buồn” không nhiều nhân vật ngƣời phụ nữ, mỗi
nhân vật có một nét đặc biệt riêng, trong đó chứa đựng những nét đẹp và nỗi
buồn trong tính cách, tâm hồn, trong bi kịch tình yêu và cuộc sống. Một
Otoko xinh đẹp, kiều diễm, thuần khiết, thủy chung sâu sắc trong tình yêu,
một ngƣời phụ nữ giàu lòng vị tha. Một Fumiko âm thầm chịu đựng, dành
tình yêu thƣơng đối với chồng, một ngƣời vợ sống lặng lẽ, hi sinh và giàu
lòng cao thƣợng. Ở đó ta còn bắt gặp một Keiko xinh đẹp, quyến rũ luôn nung
15


nấu ý định trả thù nhƣng lại có một trái tim hết sức thơ dại, tha thiết yêu
thƣơng. Nhìn chung các nhân vật ngƣời phụ nữ trong tiểu thuyết “Đẹp và
buồn” đều mang một vẻ đẹp tao nhã, kiều diễm, đẹp không chỉ ở ngoại hình
mà còn ở phong thái ung dung trầm tĩnh nhƣ nét trầm mặc của cố đô và vẻ
đẹp tâm hồn con ngƣời. Nó mang một nét đặc trƣng của ngƣời phụ nữ Nhật
Bản dịu dàng, thanh thoát, trầm tĩnh. Nhƣng ở mỗi nhân vật lại mang trong

mình một nỗi buồn riêng, nỗi buồn tình ái, nỗi buồn chia ly và những cái chết
đau thƣơng của những ngƣời thân yêu. Ở mỗi hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong
“Đẹp và buồn” luôn ẩn chứa vẻ đẹp song hành cùng nỗi buồn nhƣ chính tên
mà tác giả đã đặt cho tiểu thuyết của mình. Có ngƣời đã từng nói “Văn học là
vẻ đẹp của nỗi buồn”, xem xét nó ở góc độ quan niệm của Kawabata có lẽ là
đúng nhƣ vậy. Trong các sáng tác của Kawabata đều là những câu chuyện
tình đầy éo le từ quá khứ đến hiện tại, ngƣời chịu thiệt thòi và đau khổ nhất
vẫn là ngƣời phụ nữ. Tiểu thuyết “Đẹp và buồn” cũng nằm trong mạch cảm
xúc nhƣ vậy. Đa số ngƣời phụ nữ trong tác phẩm của ông đều có một bề
ngoài khả ái, tâm hồn và trái tim nhân hậu tuyệt vời, họ luôn khao khát đƣợc
sống, khao khát đƣợc yêu và luôn là ngƣời hi sinh thầm lặng cho tình yêu của
mình vì vậy số phận của mỗi ngƣời phụ nữ trong sáng tác của ông đều mong
manh dễ vỡ, chịu bi kịch của tình yêu.
1.2.2 Ngƣời phụ nữ trong “Đẹp và buồn” – Biểu trƣng của cái đẹp Nhật
Bản.
Mỗi nhân vật trong tiểu thuyết “Đẹp và buồn” đều mang đến cho bạn
đọc một nỗi ám ảnh. Ám ảnh bởi số phận của mỗi nhân vật, Otoko một ngƣời
phụ nữ xinh đẹp, thuần khiết, yêu chân thành, có một trái tim nhân hậu nhƣng
số phận đầy đau đớn. Một Keiko vừa đáng thƣơng vừa đáng trách, bởi nàng
có vẻ đẹp trong trắng tinh khôi, nàng yêu say đắm nhƣng lại có những hành vi
đáng trách. Một Fumiko âm thầm hi sinh tình yêu cho chồng, một ngƣời phụ
16


nữ không hề ghen tuông thái quá nhƣ nhân vật trong tác phẩm mà chồng mình
đã dựng nên. Việc xây dựng hình tƣợng mỗi ngƣời phụ nữ mang một vẻ khác
nhau đều là dụng ý của nhà văn. Nhƣng tựu chung lại đều làm nên vẻ đẹp của
ngƣời phụ nữ Nhật Bản.
1.2.2.1 Thế giới hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong “Đẹp và buồn” – thế giới
đa sắc màu

Hầu hết các nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Kawabata đều mang một
vẻ đẹp toàn bích. Tại sao lại nhƣ vậy, đơn giản bởi nó đƣợc nhìn dƣới con
mắt của ngƣời lữ khách đi tìm cái đẹp, của một nhà văn có đôi mắt phù thủy
nhìn thấu tâm hồn ngƣời phụ nữ và am hiểu cái đẹp, bởi một “Kawabata –
con mắt nhìn thấu cái đẹp”. Chính vì thế mà ngƣời phụ nữ trong tiểu thuyết
của ông luôn có sức ám ảnh đối với bạn đọc.
1.2.2.1.1 Otoko – Hiện thân vẻ đẹp diễm kiều của cố đô
Nếu qua con mắt của lữ khách trong “Vũ nữ xứ Izu”, độc giả bị cuốn
hút bởi vẻ đẹp trẻ trung, tràn đầy sức sống của cô gái mƣời bảy tuổi với vẻ
thanh sạch nhƣ “con suối tràn nƣớc sau trận mƣa ánh lên ấm áp dƣới ánh
nắng mặt trời vào ngày mùa thu trong veo…” và đến “Xứ tuyết” chúng ta còn
thấy vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ xứ phù tang đƣợc tập trung qua hai hình ảnh:
Komako và Yoko. Yoko với “giọng nói trong vắt”, “đôi mắt đẹp tuyệt vời”
một vẻ đẹp cổ xƣa huyền bí. “Ngàn cánh hạc” lại khắc họa Fumiko với vẻ
đẹp “chiếc cổ dài và đôi vai đầy đặn…miệng nàng rộng hơn, tuy nhiên môi
nàng lại mím chặt lại”. Thì đến tiểu thuyết “Đẹp và buồn” qua con mắt Oki,
nàng Otoko có một vẻ đẹp rất riêng, không cần đặc tả nhiều chi tiết ngoại
hình, vóc dáng vẫn làm cho ngƣời đọc hình dung Otoko có một vẻ đẹp kiều
diễm. Hình ảnh nàng xuất hiện khi Oki – ngƣời tình cũ của nàng nhìn thấy
ảnh nàng trong một tập san “Ảnh chụp nàng tay cầm cọ, mặt cúi xuống,

17


nhƣng vầng trán và sống mũi ngƣời đàn bàn không lẫn đƣợc với ai. Bao nhiêu
năm qua, nàng không mập ra, dáng ngƣời vẫn mảnh mai thanh tú”. Ngƣời phụ
nữ ngoài bốn mƣơi tuổi vẫn mảnh mai, thanh tú nhƣ cái ngày nàng còn mƣời
sáu tuổi trong tâm trí Oki. Trong con mắt của ngƣời tình cũ sau hơn hai mƣơi
năm không gặp, nàng vẫn không thay đổi là bao. Ngƣời phụ nữ đã từng sinh
con và trải qua bao ngày trong nhà thƣơng điên cùng với sức tàn phá của thời

gian, ngƣời phụ nữ ấy vẫn toát nên vẻ thanh tú, mảnh mai.
Trong truyện, tác giả cũng miêu tả vẻ đẹp của Otoko qua con mắt của
Oki “ Ông xúc động vì cái vẻ đẹp của ngƣời con gái nhỏ, sững sờ vì nét dung
nhan mỹ miều quá sức tƣởng tƣợng, ông quay lại” . Đó là vẻ đẹp mỏng manh,
hao huyết của ngƣời con gái nhỏ mƣời sáu tuổi.
Đối với “ ngƣời ngoài cuộc chắc chỉ thấy chân dung một nữ nghệ nhân
đã tới Kyoto sinh sống và trở thành một nhan sắc diễm kiều của cố đô” qua
lời của Oki, thì những ngƣời biết đến Otoko là một danh họa đã nhận xét nàng
là một ngƣời phụ nữ diễm kiều của cố đô. Chẳng cần phải dùng những câu
văn miêu tả Otoko thì vẻ đẹp của nàng vẫn hiện lên với vẻ kiều diễm, thanh
tú, một vẻ đẹp mỏng manh, hao huyết, một dung nhan mĩ miều thông qua trí
tƣởng tƣợng của bạn đọc.
Khi trò chuyện với Keiko, nàng luôn băn khoăn, lo sợ Oki đã vỡ mộng
khi gặp nàng sau hơn hai mƣơi năm, nhƣng Keiko đã khẳng định rằng “ Ông
ta mới là ngƣời phải sợ làm cô vỡ mộng. Em ngƣỡng mộ cô, em thấy cô đẹp
hơn hết mọi ngƣời em đã gặp” . Lại một lần nữa các nhân vật khác lên tiếng
với vẻ đẹp của Otoko.
Không chỉ sở hữu ngoại hình làm say đắm lòng ngƣời, Otoko còn có tài
năng hội họa, không chỉ vẽ giỏi mà nàng còn có năng lực cảm thụ các tác
phẩm hội họa. Ngay phần mở đầu, Otoko xuất hiện với tƣ cách là một danh
họa theo trƣờng phái cổ điển. Otoko có một bức tranh trong buổi triển lãm
“bông hoa mẫu đơn : “bông hoa đỏ vẽ trực diện lớn hơn hoa thật rất nhiều. vài
18


chiếc lá hiếm hoi và một nụ trắng điểm trên nhánh non phía dƣới” . Đó là một
cảm nhận đầy tinh tế và sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Bức tranh đã thu hút sự
chú ý của bao ngƣời trong buổi triển lãm, Oki đã mua bức tranh đó và khĩ
“treo cao trên tƣờng , bức tranh tạo ra một ấn tƣợng khác khi treo ở phòng
triển lãm đông ngƣời. bông hoa mẫu đơn đỏ quá khổ trông nhƣ thực thể siêu

hình, và cô đơn nhƣ tỏa ra từ nội tâm sâu kín của hoa”. Bức tranh ấy không
chỉ có màu sắc, có hƣơng vị mà còn thể hiện đƣợc cảm nhận đầy tinh tế và
sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ, không chỉ vậy bức tranh ấy nói lên đƣợc cái tâm
của hoa, nói lên đƣợc cái tâm của Otoko. Otoko vẽ cái tâm của hoa để nói lên
cái nội tâm sâu kín trong lòng nàng, một nỗi cô đơn tràn ngập trong con ngƣời
nhỏ bé ấy. Bông hoa trên bức vẽ ấy tƣởng chƣờng nhƣ vô hình, dƣới nét vẽ
của Otoko nó nhƣ một thực thể siêu hình, nhƣ mang nặng một nỗi niềm, một
sự cô độc nhƣ chính con ngƣời. Không chỉ có cái sáng tạo và sự điêu luyện
trong nét vẽ, ngƣời nghệ sĩ ấy còn có cái cảm nhận tinh tế sâu sắc và đầy sức
sáng tạo của con ngƣời nhạy cảm mới có thể vẽ đƣợc bức tranh có hồn đến
vậy.
Không chỉ vẽ đƣợc tâm của hoa, tâm của ngƣời, Otoko còn phác họa
đồi chè hết sức sinh động. Có lẽ đồi chè ấy đã gợi lên nỗi đau chia ly, nỗi đau
ấy nhƣ thấm vào lòng ngƣời, cảnh vật cho nên mỗi khi thấy đồi chè ấy, nó tạo
ra một ấn tƣợng mạnh đối với nàng. Mỗi khi nàng phác họa đồi chè ấy nó
không còn nhƣ thực nữa khiến cho Keiko tƣởng nàng đang vẽ tranh trừu
tƣợng, nhƣng nàng không phải đang vẽ tranh trừu tƣợng “Em mới hay vẽ trừu
tƣợng. Tuy nhiên cô kể ra hơi bạo, đi dùng toàn một màu lục. Nhƣng cô muốn
thử hài hòa màu nhạt của lá non và màu đậm của lá già, cũng nhƣ cái mềm
mại của gió đang dậy sóng trong đám lá chè”. Sự sáng tạo trong nét vẽ ấy là
do một tâm hồn tinh tế trƣớc những cảnh vật và sự trải đời của một ngƣời họa
sĩ. Sự khổ đau, chia ly, mất mát nhƣ đã in đậm trong mỗi bức vẽ của nàng.

19


×