PHẠM THANH HÙNG
TÍNH NHÂN VĂN
QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN
ĐỒN
LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
LUẬN ÁN ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ
HỘI
VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học:
HOÀNG NHƯ MAI
Giáo sư khoa học Ngữ Văn
Người nhận xét 1:
Người nhận xét 2:
LUẬN ÁN ĐƯỢC BẢO VỆ TẠI HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN ÁN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Vào hồi ………………………giờ, ngày ………… tháng ………… năm 1999
Có thể tìm hiểu luận án tại:
THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ .
THƯ VIỆN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM AN GIANG.
Đa tạ quý Thầy, Cô :
GS. HOÀNG NHƯ MAI
PGS. PTS TRẦN HỮU TÁ
PGS. PTS PHÙNG QUÝ NHÂM
PTS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
PTS. LÊ TIẾN DŨNG
MỤC LỤC
Trang
PHẦN DẪN LUẬN
................................................................................. 1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU : ................................... 1
II. PHẠM VỊ ĐỀ TÀI VÀ TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU : ......................................... 3
III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ : ................................................................ 4
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : ................................................................... 11
V. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN : ................................................ 12
VI. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN : ......................................................................... 13
PHẦN NỘI DUNG
.............................................................................. 14
CHƯƠNG MỘT : TÍNH NHÂN VĂN - LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN SÁNG TÁC
..................................... 14
I. KHÁI NIỆM “TÍNH NHÂN VĂN” HAY MỘT KHUYNH HƯỚNG
NHÌN NHẬN TỔNG HỢP MỌI GIÁ TRỊ CỦA VĂN HỌC : ......................... 14
II. VÀI NÉT VỀ TÍNH NHÂN VĂN TRONG VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY : ..... 16
III. SƠ LƯỢC VỀ TÍNH NHÂN VĂN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
TRƯỚC 1932 - ĐIỂM QUA MỘT SỐ HÌNH TƯỢNG
NGƯỜI PHỤ NỮ TIÊU BIỂU : ........................................................................ 18
CHƯƠNG HAI :TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG
NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT
TỰ LỰC VĂN ĐOÀN .............................................. 32
I. SỰ RA ĐỜI CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN : ........................... 32
II. QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN CỦA TIỂU THUYẾT
TỰ LỰC VĂN ĐOÀN : .................................................................................... 34
III. TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT
TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - MỘT ĐÓNG GÓP MỚI CHO
NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM MANG TÍNH NHÂN VĂN : ............................ 53
IV. CÁC NGUỒN ẢNH HƯỞNG : ........................................................................ 113
V. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ : ............................................................ 118
PHẦN KẾT LUẬN
............................................................................ 124
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
PHẦN DẪN LUẬN
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
1. Hơn nửa thế kỷ trơi qua, kể từ khi tiểu thuyết Tự lực văn đồn
xuất hiện, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau, trong
việc đánh giá sự đóng góp của tiểu thuyết lãng mạn nói riêng và trào lưu
văn học lãng mạn nói chung trong tiến trình của văn học dân tộc. Trên
tinh thần đổi mới, việ
c thẩm định lại giá trị của văn học q khứ với một
tư duy khoa học, một phương pháp nghiên cứu đúng đắn, một thái độ
bình tâm tĩnh trí, một tình cảm trân trọng di sản văn học của tiền nhân,
thiết nghĩ, đó là một việc làm hết sức khó khăn nhưng đầy sức hấp dẫn
và rất cần thiết.
“Thời gian gần đây, lý luậ
n và phê bình văn chương của ta
thường nhắc đến hai chữ nhân văn - tính chất nhân văn, giá trị nhân văn,
chủ nghĩa nhân văn - xem đó là hằng tính của văn chương nghệ thuật, là
tiêu chí cho sự đổi mới trong lĩnh vực này. Đó là điều xác đáng” (Trần
Thanh Đạm) (51.21).
Thật vậy, xét đến cùng, qua sự gạn lọc khắc nghiệt của thời gian,
các giá trị bền v
ững nhất của văn học bao giờ cũng được xem xét trong
mối quan hệ với con người. “Văn học là một phương tiện quan trọng
giúp con người trở thành con người vì nó mở ra những bí mật của con
người, giúp con người hiểu thêm về chính mình, trở nên phong phú hơn
và một phần từ chỗ hiểu mình, từ sự phong phú của chính mình, con
người hiểu thêm về thế giới, sự phong phú của thế giớ
i” (Lê Ngọc Trà)
(28.57–58). Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã có nói thêm: “Văn học tiến
bộ hay khơng, lành mạnh hay khơng, tuỳ thuộc ở giá trị nhân bản của nó
chứ khơng tùy thuộc ở chỗ nó là lãng mạn hay hiện thực. Vả lại khơng
có ranh giới dứt khốt giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn”
(76b.31).
Theo dõi q trình hình thành và phát triển của Tự lực văn đồn
(1932 - 1945), ng
ười ta khơng thể khơng thấy vấn đề mà các nhà văn
)
1
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
lãng mạn đặc biệt quan tâm trong các tác phẩm tiểu thuyết của mình là
vấn đề giải phóng phụ nữ. Chính từ vấn đề cốt lõi này, việc chọn tiểu
thuyết Tự lực văn đồn, đi sâu vào nghiên cứu hình tượng người phụ nữ
để thấy được sự đóng góp của các nhà văn lãng mạn cho trào lưu nhân
văn chủ nghĩa của văn họ
c dân tộc là một việc làm rất có ý nghĩa mà
đến nay, vì nhiều lý do, vẫn chưa có sự quan tâm đúng mức.
2. Nghiên cứu “Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ
trong tiểu thuyết Tự lực văn đồn”, luận án này nhằm hướng đến các
mục đích sau:
- Góp phần khẳng định giá trị của tiểu thuyết Tự lực văn đồn
trong việc kế thừa và phát huy truyền thố
ng nhân văn của văn học q
khứ, một vấn đề mà trước đây còn bỏ qua hoặc chưa chú ý đúng mức,
đưa văn xi Việt Nam bước vào thời kỳ hiện đại.
- Cố gắng đưa ra những nhận xét, đánh giá tương đối thỏa đáng,
cơng bằng, khách quan, khoa học về trào lưu văn học lãng mạn nói
chung, tiểu thuyết Tự lực văn đồn nói riêng.
- Trong xu thế của sự tác động mạnh mẽ vào những giá trị đạo
đức truyền thống đang diễn ra ở bối cảnh xã hội mở cửa hiện nay, vấn đề
hơn nhân, tình u là một trong những vấn đề thời sự được nhiều người
quan tâm, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Qua việc nghiên cứu, luận án
cũng muốn góp một tiếng nói định hướng cho những vấn đề trên.
II. PHẠM VI ĐỀ TÀI VÀ TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU:
1. Khơng nói đến chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa nhân đạo hay tư
tưởng nhân văn, tư tưởng nhân đạo mà chỉ đề cập đến “tính nhân văn” là
có lý do:
- Đây là một vấn đề lý thú cần tiếp tục nghiên cứu, bởi so với
phương Tây, cùng với “sự ra đời của ý thức hệ tư sản trong giai đoạn
đấu tranh chống phong kiến đã kéo theo nó một trào lưu có tính chất
nhân đạo chủ nghĩa (hay nhân văn chủ nghĩa) khơng những trong văn
học, nghệ thuật, mà trong nhiều ngành văn hóa, khoa học khác”
)
2
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
(Nguyễn Lộc) (40a.72), thì ở Việt Nam ta “do chính sách độc quyền kinh
tế của đế quốc, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam phát triển khó khăn,
yếu đuối. Giai cấp này một mặt mâu thuẫn với đế quốc, phong kiến, mặt
khác lại phụ thuộc vào chúng. Địa vị kinh tế non yếu, mỏng manh ……”
(22.12). Chính vì thế, về mặt văn học, Tơn chỉ của Tự lự
c văn đồn chủ
yếu chỉ là “lúc nào cũng mới, trẻ, u đời; trọng tự do cá nhân; làm cho
người ta biết rằng đạo Khổng khơng hợp thời nữa; đem phương pháp
khoa học Thái Tây áp dụng vào văn chương An nam”. Tất nhiên, khơng
thể lấy “thước đo” của văn học phương Tây để áp dụng vào văn học Việt
Nam, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng việc “
khơng phải chỉ đòi
giải phóng cá nhân khỏi sự ngu dốt, đòi hỏi trì trệ của mọi người được
phát triển, mà còn trực tiếp đòi hỏi giải phóng cá nhân khỏi sự gò ép về
phương diện chính trị và kinh tế” (66.214) thì ở trào lưu văn học lãng
mạn Việt Nam nói chung, tiểu thuyết Tự lực văn đồn nói riêng còn có
giới hạn. Đừng qn rằng văn học lãng mạn và v
ăn học hiện thực phê
phán là hai trào lưu văn học cơng khai, hợp pháp trong xã hội thực dân
nửa phong kiến giai đoạn 1930 – 1945.
Hơn nữa, việc khẳng định trào lưu nhân văn chủ nghĩa trong văn
học giai đoạn 1930 – 1945 như là một sự kế thừa và phát triển truyền
thống nhân văn của văn học dân tộc phải được xem xét một cách tồn
diện, khơng chỉ xuấ
t phát từ cơ sở ý thức hệ, từ thực tiễn văn học mà
nhiều khi cần phải nghiên cứu cả “cuộc đấu tranh của quần chúng bị áp
bức trong điều kiện giai tầng thứ ba của nó là tầng lớp tư sản đã vươn
lên thành một giai cấp đối địch với xã hội phong kiến” (40a.73).
- Ở đây, trong phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ đề c
ập đến những
biểu hiện của trào lưu nhân văn chủ nghĩa trong văn học giai đoạn 1930
– 1945 qua hình tượng người phụ nữ ở tiểu thuyết Tự lực văn đồn.
Người viết cũng khơng có tham vọng đề cập hết những tác phẩm tiểu
thuyết lãng mạn của văn đồn mà chỉ đi vào nghiên cứu những tác phẩm
tiêu biể
u nhất của những cây bút trụ cột nhất (Khái Hưng, Nhất Linh,
Thạch Lam) và xem đó là sự thể hiện tập trung, sinh động của vấn đề
được nêu ra.
)
3
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
2. Tư liệu chính để nghiên cứu bao gồm phần lớn tác phẩm, sách
in và những bài báo viết về tiểu thuyết Tự lực văn đồn chủ yếu được
xuất bản từ thập niên 40 đến nay, nhất là từ 1986 trở lại đây, khi có sự
đổi mới về tư duy, về nhận thức, quan điểm trong việc đánh giá, tiếp
nhận di sản văn họ
c của tiền nhân sao cho cơng bằng, khoa học hơn.
Ngồi ra, để có cái nhìn tồn diện trên cơ sở đối chiếu, so sánh, luận án
còn khảo sát các tài liệu nghiên cứu, phê bình văn học trước 1975 ở miền
Nam và một số ít tài liệu dịch từ tiếng nước ngồi.
III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:
- Trước 1945, hầu như chưa có những chun luận, những cơng
trình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của Tự lực vă
n đồn. Thảng hoặc
có đề cập đến trong những cơng trình nghiên cứu dài hơi viết về văn học
sử, về lý luận hay phê bình văn học (Dưới mắt tơi (1939) - Trương
Chính; Việt Nam văn học sử yếu (1942) – Dương Quảng Hàm; Nhà văn
hiện đại (1941 – 1942) – Vũ Ngọc Phan; Văn học khái luận (1942) –
Đặng Thai Mai; Ba mươi năm văn học (1942) – Kiều Thanh Quế
; Cuốn
sổ văn học (1944)–Lê Thanh …) thì do giới hạn bởi phạm vi nghiên cứu,
do hạn chế bởi phương pháp, quan điểm tiếp cận … người viết cũng
khơng thể khảo sát, phân tích, lý giải hết sự phong phú, sinh động, phức
tạp của những hiện tượng văn học (tác giả, tác phẩm) thuộc văn đồn.
Dưới mắt tơi (Trương Chính) là một quyển phê bình văn học
được nhiều người biết đến. Dù có phần hồn hảo hơn những người đi
trước (như Thiếu Sơn với Phê bình và cảo luận - 1933, Phan Khơi với
Chương Dân Thi Thoại - 1936 …) trong phương pháp phê bình khi “sự
khen chê của ơng đã có căn cứ, khơng đến nỗi vu vơ … nghĩa là những
chỗ hay và chỗ dở ơng đã chỉ ra rõ ràng, đã nói tạ
i sao hay và tại sao dở
… Nhưng Trương Chính có cái tật hay phân tích tính cách các nhân vật
nhiều q ln ln ơng bẻ các nhà tiểu thuyết sao lại như thế này và
khơng như thế khác …" (77(2).20). Có thể thấy lời phê bình trên đây
của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã nêu rõ lập trường của
Trương Chính trong phê bình văn học, lập trường của một ngòi bút theo
trường phái phê bình chủ quan, cổ điển. Ở quyển sách này, ơng đã chọn
phê bình tất cả 28 tác phẩm của 12 nhà văn, hầu hết là những cây bút
)
4
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
tiểu thuyết. Về Tự lực văn đồn, những tác giả được đề cập đến là Nhất
Linh với Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Tối tăm; Khái Hưng với Hồn bướm mơ
tiên, Nửa chừng xn,Trống mái, Gia đình; đồng tác giả Nhất Linh và
Khái Hưng với Gánh hàng hoa, Đời mưa gió. Riêng Thạch Lam với tập
truyện ngắn Gió đầu mùa
. Ngồi ra, còn có những tác giả khác như
Nguyễn Cơng Hoan, Vũ Trọng Phụng, Lê Văn Trương, Trương Tửu,
Lan Khai, Nguyễn Khắc Mẫn, Ngun Hồng, Từ Ngọc. Mỗi nhà văn
ơng đi vào phê bình từ một đến nhiều nhất là năm tác phẩm.
Mặc dù Trương Chính đã sử dụng phương pháp “nghị luận theo
sở thích của mình” (77(2).21) đối với những tác phẩm được đề cập đến,
nhưng “
khó mà biết được ý kiến rõ rệt của ơng về một nhà văn sau khi
đọc những bài phê bình của ơng về nhà văn ấy” (77(2).25) . Tuy vậy,
“Trương Chính cũng là người mở đầu trong phong trào phê bình của
những năm 1941 - 1942 - 1943. “Dưới mắt tơi”, Trương Chính đã gây
được ở độc giả một lòng ham muốn đọc văn phê bình” (34.183).
Xưa nay, khi đề cập đến cơng việc biên soạn sách giáo khoa dùng
trong khoa giảng quốc văn khơng ai khơng biết đến quy
ển Việt Nam văn
học sử yếu của Dương Quảng Hàm. Trong phần “Biên tập đại ý”, chính
tác giả đã “mong rằng quyển sách này sẽ làm một bức bản đồ giản ước
theo đó các bạn thanh niên biết được phương hướng và đường lối chính
để đi vào khu vườn văn học của nước ta, ngõ hầu một ngày kia tìm thấy
những hoa lạ, quả q hiện nay còn ẩn khu
ất trong đám cành lá rậm
rạp” (11.VI). Vì là sách giản ước dùng làm cơng cụ học tập, phải đề cập
đến nhiều vấn đề khác nhau có liên quan đến việc tìm hiểu tồn bộ nền
văn học nước nhà, nên ở chương thứ bảy: “Các văn gia hiện đại. Các
khuynh hướng phổ thơng của tư tưởng phái Tự lực văn đồn”, dành cho
năm thứ ba ban Trung học Việt Nam, Dương Quảng Hàm chỉ nói
đến Tự
lực văn đồn một cách khái qt trong chưa đầy bốn trang trên tổng số
500 trang của cả quyển. Tác giả dường như chưa thể đưa ra những lời
nhận xét, đánh giá cụ thể ngồi việc lượt kể hết sức vắn tắt nội dung
những tác phẩm tiểu thuyết tiêu biểu như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Nửa
chừng xn, Hồn b
ướm mơ tiên. Một vài ý kiến có tính chất khái qt
khi đề cập đến “Cơng việc của Tự lực văn đồn” chưa thể đáp ứng được
ý muốn tìm hiểu của độc giả về Tự lực văn đồn.
)
5
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
Vũ Ngọc Phan nổi tiếng với bộ sách nghiên cứu, phê bình văn học
đồ sộ Nhà văn hiện đại (1941 - 1942) đã khẳng định “một chỗ đứng
riêng, và có sự đóng góp khơng thể thay thế” (77(2).557) . Dù đã trải qua
hơn nửa thế kỷ, bộ sách “vẫn có ích cho bất cứ ai muốn tìm hiểu nền văn
học chữ quốc ngữ những năm trước Cách mạ
ng tháng Tám” (77(2).557).
Bằng một tinh thần lao động sáng tạo, cần cù, bền bỉ, một tác phong
nghiên cứu khoa học nghiêm cẩn, vơ tư, Vũ Ngọc Phan phải tốn rất
nhiều cơng sức mới có thể chiếm lĩnh hơn 60 năm văn học và đã giới
thiệu được 79 nhà văn tham gia sáng tác bằng chữ quốc ngữ từ cuối thế
kỷ XIX như Trương Vĩnh Ký, đến những cây bút trẻ n
ổi tiếng của những
năm 40 thế kỷ XX.
Viết về Tự lực văn đồn, căn cứ vào sự sắp xếp theo loại văn đối
với các nhà văn lớp sau, ơng đã xếp Khái Hưng vào thiên các tiểu thuyết
gia phong tục, Nhất Linh và Hồng Đạo là những tiểu thuyết gia luận đề,
Thạch Lam thuộc về các tiểu thuyết gia xã hội. Đi vào lĩnh vực phê bình
tiểu thuyết, ở mỗi tác giả, Vũ Ngọc Phan đề cập đến những tác phẩm
tiêu biểu mà người đọc đương thời biết đến. Chẳng hạn, viết về Khái
Hưng, ơng nói đến Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xn, Trống mái,
Thừa tự, Hạnh. Với Nhất Linh, ơng viết về Nho phong, Gánh hàng hoa.
Hồng Đạo với Con đường sáng và Thạch Lam với Ngày mới
. Nhìn
chung, khi đi sâu vào phân tích những tác phẩm cụ thể “ơng tỏ ra tinh tế,
sắc sảo, khen chê có căn cứ, có lý có tình. Tính chính xác của tư liệu
được đảm bảo ở mức độ cao” (77(2).558). Mặc dù, do nhiều lý do cả
khách quan và chủ quan, người đọc vẫn thấy được phê bình của ơng
“còn thiên về cảm thụ nghệ thuật, thiếu sự thuyết phục của một tư duy
logic sâu sắc” (77(2).558).
Với Văn họ
c khái luận của Đặng Thai Mai, “lần đầu tiên trong
lịch sử văn học Việt Nam, những vấn đề cơ bản của lý luận văn học đã
được trình bày một cách hệ thống” (74.171), mặc dù tác giả khơng chỉ có
ý định giới thiệu với người đọc những khái niệm lý luận kinh viện. Tiếp
thụ và vận dụng quan điểm marxisme vào văn học, Đặng Thai Mai đã
tiếp cận được nhiều vấn đề của lý luận văn học và trình bày nó trong sự
kết hợp hòa quyện giữa tinh thần lý luận với bút pháp phê bình, giữa
nguồn tri thức của phương Đơng cổ truyền với tri thức của phương Tây
)
6
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
hiện đại. Người đọc có thể dễ dàng có được những khối cảm thẩm mỹ
khi đọc đến những đoạn văn mà ngòi bút của tác giả tỏ rõ cảm hứng phê
bình. Chẳng hạn, khi tác giả thừa nhận tình u là một trong những chủ
đề vĩnh cửu của văn học, nhưng mỗi thời đại lại đem đến cho chúng một
sắc thái mới, và nhà văn đ
ã đi vào so sánh tình u trong các tác phẩm từ
Truyện Kiều, Tố Tâm đến Đoạn tuyệt.
Vì là một cơng trình lý luận văn học hơn là một thành tựu về phê
bình văn học nên người đọc chỉ có thể tìm thấy rải rác đây đó những
nhận định thú vị và bổ ích cho việc tìm hiểu lịch sử văn học nước nhà.
Việc tìm hiểu tác giả, tác phẩm với tư cách là m
ột hiện tượng văn học sẽ
khơng được thỏa mãn.
Ba mươi năm văn học của Kiều Thanh Quế và Cuốn sổ văn học
của Lê Thanh ra đời xt xốt nhau hai năm đều nhắm tới một cơng
việc là phác họa ra một bảng lược đồ văn học. Ở quyển sách ra đời trước
của mình, Kiều Thanh Quế đã đem đến cho người đọc sự
tóm tắt mọi
diễn biến về lịch sử văn học trong suốt giai đoạn ba mươi năm của tiền
bán thế kỷ hai mươi. Trong khi đó, trọng tâm của Cuốn sổ văn học là
cơng việc trước mắt hạn chế trong thời gian năm 1943, dù tác giả đã có
mở rộng về phía trước, có khi khảo sát cả đến năm 1939 và hơn nữa.
Nhìn chung, cả hai quyể
n sách trên đều là những cơng trình văn
học sử. Việc tìm hiểu về Tự lực văn đồn nói riêng, hay những hiện
tượng văn học khác nói chung, khó có thể tìm thấy được những lý giải,
những nhận xét, phê bình tương đối đầy đủ và có hệ thống.
Sự khát khao của độc giả vẫn còn đó.
- Sau 1945, trong suốt một thời gian dài kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ, cứu nước, do hồn cảnh kh
ắc nghiệt của cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc, do bản thân dòng văn học lãng mạn nói chung và
những sáng tác của những cây bút trong Tự lực văn đồn nói riêng có
những yếu tố tiêu cực, và cũng do nhận thức còn phiến diện cho sáng tác
của văn học lãng mạn là vơ bổ, độc hại, nên tiểu thuyết Tự lực văn đồn
đã bị cấm, khơng được phổ biến. Các bộ
lịch sử văn học (như Sơ thảo
lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945 do Viện Văn học chủ trì biên
)
7
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
soạn, Lịch sử văn học Việt Nam 1930–1945, Văn học Việt Nam 1930–
1945 của nhiều tác giả …) dù có dành hẳn một chương để viết về tiểu
thuyết Tự lực văn đồn, nhưng tất cả đều với một cách nhìn nhận gần
như giống nhau “đề cao chắc chắn là khơng đúng. Nhưng phủ định sạch
trơn hẳn cũng khó
được đồng tình” (22.88), “… sự đóng góp của Tự lực
văn đồn đã khơng tránh khỏi bấp bênh, có phần sa vào hình thức chủ
nghĩa, cái sai nhiều hơn cái đúng, nhất là càng về sau, cái sai lấn át cái
đúng”(22.89). Đó là chưa kể đến cách nhận xét, đánh giá cứng rắn hơn
trong các sách giáo khoa viết cho học sinh lớp 12/PTTH kể từ 1987 trở
về trước: “Văn học lãng mạn Việt Nam căn bản là bạ
c nhược, suy đồi”
hay “Nội dung bạc nhược, suy đồi và có tính chất phản động” ,“học
sinh thanh niên ta cũng cần phải có ý thức cảnh giác với loại sách có
nhiều nọc độc đó”.
Chính vì lẽ đó, trong suốt một thời gian dài từ trước 1975, ở miền
Bắc, văn chương lãng mạn nói chung, tiểu thuyết Tự lực văn đồn nói
riêng đã bị loại ra khỏ
i đời sống văn học.
Ở miền Nam trong vùng địch tạm chiếm lúc bấy giờ, tình hình
nghiên cứu vẫn tiếp tục với các cơng trình của Thanh Lãng, Lê Hữu
Mục, Nguyễn Văn Xung, Dỗn Quốc Sỹ, Thế Phong, Nguyễn Văn
Trung, Tràng Thiên, Phạm Việt Tuyền, Thế Trung, Dương Nghiễm Mậu
…(Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Luận đề về Nhất Linh, Bình giảng về
Tự lực v
ăn đồn, Văn học và tiểu thuyết, Lược khảo văn học, Tiểu thuyết
hiện đại, Phương pháp nghị luận phân tích và phê bình văn chương …).
Thế nhưng, tất cả vẫn chưa có được một sự nghiên cứu thật tồn diện và
chun sâu, phác họa đầy đủ diện mạo của tiểu thuyết Tự lực văn đồn.
Đó là chưa kể đến quan
điểm, phương pháp nghiên cứu, đánh giá đã thực
sự phù hợp hay chưa.
Sau 1975, dù đất nước đã liền một dãy, nhưng khoảng mười năm
tiếp theo, tiểu thuyết Tự lực văn đồn hầu như vẫn chưa cất lên được
tiếng nói khách quan, khoa học từ các trang sách, báo nghiên cứu. Ngay
cả đến những cơng trình nghiên cứu dày cơng cũng chưa thốt khỏi cái
nhìn “tiểu thuyết Tự l
ực văn đồn có nhiều độc tố và nguy hiểm là những
)
8
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
độc tố đó lại được bao bọc bởi một hình thức nghệ thuật khá quyến rũ và
hấp dẫn”(61.96–97).
Chỉ từ sau Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI (1986) khi có chủ
trương đổi mới tư duy và dân chủ hóa trong văn học nghệ thuật, vấn đề
Tự lực văn đồn mới được đặt lại mộ
t cách thỏa đáng hơn, cố gắng
khơng để “cái quan luận định”(từ của người xưa) hẹp hòi, phiến diện
hay một tình cảm nào đó kích thích, chi phối việc nghiên cứu, đánh giá.
Đã có một số sách, bài viết từ phía các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình
ở các Viện, Trường và các cơ quan văn nghệ báo chí như: Hồng Như
Mai, Lê Trí Viễn, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Đỗ Đức Hiểu, Trương
Chính, Trần Hữu Tá, Nguy
ễn Hồnh Khung, Nguyễn Trác, Đái Xn
Ninh, Lê Đình Kỵ, Huy Cận, Lại Ngun Ân, Vu Gia… đã đặt vấn đề
cần phải ghi nhận những đóng góp của tiểu thuyết Tự lực văn đồn về
nội dung tư tưởng cũng như về hình thức nghệ thuật. Đã đến lúc khơng
thể giữ mãi quan điểm “khó lòng khen khi họ là kẻ thù, khó lòng khách
quan, khơng khéo lại mất lập trường. Tốt nhấ
t là khơng dành cho người
nào một số trang riêng biệt. Cứ gói cả vào một gói. Cái hay ở chỗ này, ở
người này, sẽ bị cái dở ở chỗ kia, ở người kia hạn chế. Hơn nữa ln
ln nhắc đến tư tưởng tư sản, thế giới quan duy tâm của họ. So sánh họ
với những người cộng sản, càng dễ thấy họ lạc hậu, phản động. Khơng
còn chối cãi đằng nào đượ
c. Ngay về những đóng góp của họ, trên
phương diện hình thức nghệ thuật cũng có thể viết một vài câu khen,
nhưng liền đó thì nhận xét ln: nghệ thuật của họ chỉ hợp với khẩu vị
của người trí thức tiểu tư sản thành thị thời bấy giờ” (73a.9). Đó là điều
đáng mừng. Song, đây đó trong một vài cơng trình nghiên cứu ít nhiều
vẫn còn b
ộc lộ sự dè dặt, thậm chí chưa thật sự khách quan, khoa học
trong việc phân tích và đánh giá. Chẳng hạn, hai Giáo sư Nguyễn Trác
và Đái Xn Ninh trong cuốn “Về Tự lực văn đồn” khi viết về Nhất
Linh (Chương hai), đã có đoạn: “Bằng những hành động xấu xa ấy,
Nguyễn Tường Tam đã giết chết Nhất Linh, tác giả những Đoạn tuyệt,
Lạnh lùng, Tam đ
ã lạnh lùng đoạn tuyệt với những bạn đồng nghiệp của
mình, những Thế Lữ, Xn Diệu, Tú Mỡ, những người đã tỉnh giấc thốt
khỏi văn đồn của Tam đi theo nhân dân, theo kháng chiến, theo nghĩa
vụ, theo lương tâm.
)
9
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
Sau khi chúng ta chiến thắng ở Điện Biên Phủ và trở lại thủ đơ thì
Nguyễn Tường Tam lại bỏ nhân dân một lần nữa. Một cây thương gẫy,
một con ngựa q, Tam lủi thủi đi về phương Nam, theo chân những kẻ
ni chí phá hoại hòa bình, ngăn cản thống nhất”(44.98–99). Thiết nghĩ,
khơng cần phải biện giải thêm những nhận xét, đánh giá như thế, khi mà
người vi
ết đã hồn tồn dùng tiêu chí chính trị để xem xét sự nghiệp văn
chương, mặc dù khơng thể phủ nhận sự tác động qua lại giữa cuộc đời và
sự nghiệp của người nghệ sĩ.
Tóm lại, tính đến nay, chúng ta có thể thấy rằng: việc nghiên cứu
về Tự lực văn đồn chưa thật đáp ứng lòng mong đợi từ phía độc giả đối
với giới nghiên c
ứu, phê bình văn học nước ta. Người đọc đang khát
khao có được những tiếng nói tương đối khách quan,cơng bằng, khoa
học và tồn diện về Tự lực văn đồn- một hiện tượng văn học đã tạo nên
những tác động mạnh mẽ và lâu dài đối với sự phát triển của lịch sử văn
học dân tộc.
IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Xuất phát từ u cầu củ
a bản thân đối tượng nghiên cứu và theo
mục đích của luận án, chúng tơi đã thực hiện luận án theo các phương
pháp sau: phương pháp nghiên cứu lịch sử – phát sinh (nhằm để xác
định q trình phát triển của Tự lực văn đồn và những cơng trình
nghiên cứu về Tự lực văn đồn); phương pháp nghiên cứu lịch sử – chức
năng (nhằm tìm hiểu sự tiếp nhận các tác ph
ẩm tiểu thuyết Tự lực văn
đồn trong sự biến động của bối cảnh văn hóa – xã hội); phương pháp
nghiên cứu hệ thống – cấu trúc (chủ yếu nhằm nghiên cứu và phân tích
các quan điểm, phương pháp nghiên cứu Tự lực văn đồn; nghiên cứu,
phân tích hệ thống các nhân vật, sự kiện, tình tiết … tạo nên diện mạo
riêng của tiểu thuyết T
ự lực văn đồn, đặc biệt ở hình tượng người phụ
nữ); phương pháp so sánh (dùng để đối chiếu các tác giả và các tác
phẩm tiêu biểu của tiểu thuyết Tự lực văn đồn có đề cập đến hình tượng
người phụ nữ để tìm ra những nét chung và những nét riêng đặc thù; đối
chiếu các cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau về Tự lực văn đồn;
đối
chiếu với văn học q khứ và cùng thời để thấy được những đóng góp
của Tự lực văn đồn).
)
10
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
Ngồi những phương pháp cơ bản trên, luận án cũng đã tiếp nhận
những cách nhìn và quan điểm đúng đắn trong những thành tựu nghiên
cứu về Tự lực văn đồn của các thế hệ đi trước, đặc biệt là những bài
viết, sách in ở những năm gần đây. Từ đó, định hướng phương pháp
nghiên cứu sao cho phù hợp với nội dung luận án
đặt ra.
V. NHỮNG ĐĨNG GĨP MỚI CỦA LUẬN ÁN:
- Cố gắng nghiên cứu một cách có hệ thống những biểu hiện của
tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn
đồn.
- Nhìn lại và đánh giá một cách thấu tình đạt lý những đóng góp
cùng những hạn chế ở những tác giả chủ yếu của Tự lực văn đ
ồn trong
việc thể hiện hình tượng người phụ nữ, đặt trong tiến trình phát triển của
lịch sử văn học dân tộc.
VI.CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN:
Ngồi phần Dẫn luận và phần Kết luận, phần Nội dung gồm hai
chương như sau:
CHƯƠNG MỘT:
TÍNH NHÂN VĂN – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SÁNG TÁC
CHƯƠNG HAI:
TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG
TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐỒN.
11
)
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT:
TÍNH NHÂN VĂN – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SÁNG
TÁC
I.KHÁI NIỆM “TÍNH NHÂN VĂN” HAY MỘT KHUYNH HƯỚNG
NHÌN NHẬN TỔNG HỢP MỌI GIÁ TRỊ CỦA VĂN HỌC:
Trong Phần Dẫn luận, chúng tơi đã có dịp đề cập đến thuật ngữ
“nhân văn” và rất đồng tình với quan điểm của GS. Trần Thanh Đạm khi
xem tính chất nhân văn, giá trị nhân văn, chủ nghĩa nhân văn “là hằng
tính của văn chương nghệ thuật, là tiêu chí cho sự đổ
i mới trong lĩnh vực
này”(tức lĩnh vực lý luận, phê bình văn chương- PTH.) . GS. Nguyễn
Huệ Chi trong một bài viết của mình cũng đã từng có ý kiến: “…nếu đẩy
tới một cấp độ cao hơn, cấp độ tính nhân bản của văn học, thì mọi sự
phân biệt ở đề tài dường như biến mất. Sẽ khơng còn chỗ cho thứ lập
luận bám vào những lợ
i ích gần gũi trước mắt để biện minh rằng loại đề
tài này sáng giá hơn loại đề tài nọ, vì cái đích vươn tới xa nhất của văn
học giờ đây là con người với vẻ đẹp trần tục của nó, với niềm tin,khát
vọng,cái cao q cũng như cái tầm thường hèn mọn của con người. Văn
chương u nước hay văn chương đời thường đều khơng thể l
ảng tránh
mục đích cao sâu này”(39b.9). Và như thế “Một nền văn học đậm nét
nhân bản sẽ nổi bật lên, xóa đi được những sự ngăn cách giả tạo, những
mặc cảm khơng cần thiết giữa những nhà văn “hạng nhất”. “hạng hai”,
“chiếu nhất”, “chiếu nhì”vân vân…Diện mạo văn học dân tộc cũng sẽ
hiện ra phong phú, đa dạng và sinh sắc hơn nhi
ều. Và người ta khơng
còn đối xử với văn học, một mơi trường đặc thù,theo cách đối xử của
những con người phải đối mặt với nhau trong chiến trận,hay trong dòng
thác của cách mạng”(39b.9) . Ở luận án này, khái niệm “tính nhân văn”
được sử dụng nhằm chỉ đến cái giá trị tinh thần bền vững của mọi sáng
tạo nghệ thuật đã đạt đến trình độ c
ủa Cái Đẹp .Nghĩa của chữ “văn” là
vẻ đẹp. Hay nói khác đi, theo nghĩa rộng, "tất cả những cố gắng, tư
)
12
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
tưởng và trào lưu lấy con người tiến lên tự do làm trung tâm, - tin vào
sức sáng tạo vơ biên của con người, u con người và cuộc sống trần
gian" đều có thể đề cập đến khái niệm "nhân văn" hay " nhân đạo"
(23.18). Và như thế, tính nhân văn theo đó cũng được xem như một
khuynh hướng nhìn nhận tổng hợp mọi giá trị của văn học chân chính
hướng đến con người. Chính M.Gorki đ
ã có lý khi nói rằng: “Văn học là
một nghệ thuật nhân văn hơn cả, người ta có thể nói những nhà văn đều
là những nhà nhân văn do nghề nghiệp của mình, những người sản sinh
ra chủ nghĩa nhân văn”(24.61) .
Sở dĩ, chúng tơi khơng đề cập đến cụm từ “ chủ nghĩa nhân văn”
hay “chủ nghĩa nhân đạo”, “tư tưởng nhân văn” hay “tư tưởng nhân
đạo” ở đề tài của luận án này là vì trong phạm vi nghiên cứu của mình,
chúng tơi chưa có điều kiện để vươn tới quan niệm triết học, quan niệm
tư tưởng của nội hàm vấn đề.
Chúng tơi nghĩ rằng những khái niệm như “nhân bản”, “nhân
đạo”, “nhân văn” tuy có liên quan mật thiết với nhau, song khơng phải
là một, khơng nên xem là hồn tồn đồng nghĩa. Có thể thấy rằng “nếu
chủ nghĩa nhân b
ản thiên về sự thấu hiểu, thơng cảm phần thể xác của
con người thì chủ nghĩa nhân đạo chú tâm hơn phần đạo lý của nó…
Chủ nghĩa nhân bản xác lập cái chân, chủ nghĩa nhân đạo khuyến khích
cái thiện. Nhưng con người xứng đáng với vị thể và danh hiệu lồi
người khơng chỉ sống thực, sống tốt mà còn sống đẹp; cái đẹp chân
chính bao gồm cả cái thự
c và cái tốt bên trong. Đây là lĩnh vực của chủ
nghĩa nhân văn, giang sơn của văn hóa, văn chương, nghệ thuật…Chủ
nghĩa nhân văn cũng là chủ nghĩa nhân bản, chủ nghĩa nhân đạo, là tri
thức và đạo đức về con người trong cái biểu hiện về văn hóa, nghệ thuật,
là hình thái tổng hợp và sáng tạo của cả ba nhân tố”(tức chân, thiện và
mỹ trong sự
hài hòa tuyệt diệu - PTH.) (Trần Thanh Đạm) (51.23–24) .
Có lẽ vì thế mà lĩnh vực lý luận, phê bình văn học trong những năm gần
đây thường hay đề cập đến thuật ngữ “nhân văn”.
II. VÀI NÉT VỀ TÍNH NHÂN VĂN TRONG VĂN HỌC PHƯƠNG
TÂY:
)
13
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
Tính nhân văn được xem như một giá trị tinh thần bền vững đã
từng tồn tại trong văn hóa văn học dân gian các dân tộc thời cổ. Nhưng
phải tới thời đại Phục hưng ở phương Tây (thế kỉ XIV-XVI) khi chủ
nghĩa nhân văn xuất hiện với tư cách là một hệ thống quan điểm triết
học, đạo đức, chính trị
-xã hội thì tính nhân văn trong văn hóa văn học
mới đạt đến “một cuộc đảo lộn tiến bộ nhất mà từ xưa đến nay nhân loại
chưa từng thấy” (F. Engels).
Giai cấp tiến bộ nhất ở thời kỳ Phục hưng chính là giai cấp tư sản.
Ngay từ khi mới ra đời, với những u cầu phát triển về kinh tế- xã hội,
nó đã vấ
p phải một trở ngại lớn lao là chế độ phong kiến và Giáo hội La
Mã. Hệ tư tưởng Thiên Chúa giáo thống trị cùng với cơ chế chun
chính của nó là chính quyền phong kiến, Giáo hội, tồ án tơn giáo,thần
học, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa khổ hạnh,
chủ nghĩa ngu dân……đã từng khẳng định con người chỉ có được niềm
hạnh phúc thuần t tinh thần ở
thiên đường, chỉ đạt tới cõi vĩnh hằng
cao cả một khi sống phải nhẫn nhục, chịu đựng, sám hối chuộc tội, cầu
nguyện. Chân lý và ngọn nguồn của mọi tri thức và sự sáng tạo là ở
Chúa Trời và Kinh Thánh. Chủ nghĩa nhân văn ở phương Tây ra đời là
một sự phản ứng chống lại hệ tư tưởng phản động đó, là một trong
những biểu hiện chủ yếu của “cuộc đảo lộn tiến bộ nhất” trong lĩnh vực
hệ tư tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan. Ra đời ở Ý (thế kỉ XIV-XV),
chủ nghĩa nhân văn đã nhanh chóng tỏa ảnh hưởng sang các nước Châu
Âu khác. Ở Đức, Pháp, Anh…. trào lưu nhân văn chủ nghĩa diễn ra
đồng thời với trào lưu cải cách tơn giáo.
Ở lĩ
nh vực văn hóa văn học, biểu hiện đầu tiên và mạnh mẽ là
việc các nhà nhân văn (thường để chỉ những người khởi xướng trào lưu
này) như các nhà thơ nhà văn người Italia: F. Petrarca (1304 - 1374),
G.Boccaccio (1313 - 1375) đã chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật
nói riêng và văn hóa nói chung ra khỏi sự bảo trợ của nhà thờ Cơ Đốc
giáo và giải phóng cá nhân con người. Họ đã đi sâu vào về vi
ệc khơi
phục, nghiên cứu, dịch thuật, truyền bá những thành tựu rực rỡ giàu sức
sống và vẻ đẹp hồn nhiên của văn hóa cổ đại Hy Lạp - La Mã đã từng bị
qn lãng trong suốt thời Trung cổ, nhằm khơi phục những giá trị tư
tưởng - nhân văn của chúng. Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự sáng
)
14
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
tạo và ca ngợi cái đẹp trần thế lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát
vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh tồn năng của con người: “ Con
người là người thợ rèn rèn ra hạnh phúc của mình” (Pic de la
Mirandole (1463-1494)); “Con người là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu
của mn lồi”( W. Shakespeare (1564-1616)) … Tiếp tục những thành
tựu về khoa học tự nhiên và triết học tự nhiên của thời đại, bằ
ng hình
tượng nghệ thuật các nhà văn thuộc trào lưu nhân văn chủ nghĩa ở
phương Tây cũng đã chỉ ra rằng chính chiến tranh phong kiến, chủ nghĩa
khổ hạnh tơn giáo, chủ nghĩa cấm dục, chủ nghĩa giáo điều, kinh viện,
ngu dân, thói đàn áp tự do tư tưởng … là trái với tự nhiên, là nguồn gốc
của mọi bất hạnh, xấu xa, tội lỗi trên thế gian và đ
ã gây ra những rối loạn
trong đời sống …
Có thể nói sự ra đời của chủ nghĩa nhân văn thời đại Phục hưng
phương Tây là một bước ngoặt quan trọng trong q trình giải phóng
tinh thần và tự ý thức của nhân loại. Cùng với cuộc đấu tranh giải phóng
con người về các phương diện chính trị - xã hội và các phương diện
khác, văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nhân loại nói chung, từ
thời đại Phục hưng, đã bước sang một giai đoạn phát triển mới: lý tưởng
nhân văn trở thành lý tưởng thẩm mỹ định hướng cho những tìm tòi,
khám phá, sáng tạo về nghệ thuật, đồng thời qui định bản chất nền văn
học nghệ thuật của các dân tộc trên thế giới.
III. SƠ LƯỢC VỀ TÍNH NHÂN VĂN TRONG VĂN HỌC VIỆT
NAM TRƯỚC 1932 - ĐI
ỂM QUA MỘT SỐ HÌNH TƯỢNG
NGƯỜI PHỤ NỮ TIÊU BIỂU:
Tính nhân văn với tư cách là một hằng tính của nghệ thuật đã
được biểu hiện một cách sinh động ở lĩnh vực văn học. Ngay từ thời cổ
đại ở phương Đơng cũng như phương Tây, con người đã có ý thức và
nguyện vọng chăm lo để phát huy cao nhất mọi tiềm năng v
ề phẩm chất
và năng lực của con người, hướng tới lý tưởng con người phát triển hài
hòa và tồn diện. Đó cũng là lý tưởng về Cái Đẹp của con người - lý
tưởng nhân văn. Lý tưởng ấy khơng chỉ tồn tại trong cuộc sống lồi
người như là một mục tiêu hướng tới mà còn trở thành mục tiêu cho sự
hồn thiện trong sáng tạo văn học nghệ thuật. Tác phẩm thể
hiện một
)
15
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
cách sâu sắc lý tưởng nhân văn là những tác phẩm đồng thời cũng mang
tính nhân văn.
Với quan niệm như thế, chúng tơi cho rằng lịch sử phát triển của
văn học mọi dân tộc là lịch sử phát triển của lý tưởng nhân văn, của tính
nhân văn - với tư cách là những phạm trù giá trị chung nhất, là sự tổng
hòa của cái chân, thi
ện và mỹ. Dĩ nhiên, với cách nhìn nhận đó thì
khơng phải đợi sự ra đời của giai cấp tư sản với cơ sở ý thức hệ của nó là
ý thức hệ tư sản đang trưởng thành, đấu tranh chống lại ý thức hệ phong
kiến đang thống trị thì văn học các dân tộc mới hướng đến lý tưởng nhân
văn, mới mang tính nhân văn.
1. Nhìn lại kho tàng văn học dân gian và văn học viết dân tộc từ
nửa đầu thế kỷ XVIII trở về trước - nghĩa là trước khi nền văn học dân
tộc xuất hiện trào lưu nhân văn chủ nghĩa - chúng ta thấy có một sự biểu
hiện rất sinh động của một lý tưởng nhân văn Việt Nam, của tính nhân
văn Việt Nam trong văn học thờ
i kỳ trung đại.
Khi hai người con gái và con trai trao đổi với nhau về cơng việc
lao động mà cũng có thể là trao đổi với nhau về tình u bằng những câu
hát dân gian đẹp như thế này:
- Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng,
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
- Đan sàng thiếp cũng xin vâng,
Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng?
thì khơng chỉ có ở đây sự chân thực (CHÂN), sự tế nhị, cao thượng
(THIỆN), mà còn có cả cái đẹ
p của niềm vui và ước vọng trong lao
động, trong tình u (MỸ). Trong truyện cổ dân gian cũng khơng thiếu
những ví dụ. Chẳng hạn hình tượng cơ Tấm, Sọ Dừa … Với văn học viết
cũng vậy. Trong Truyền kỳ mạn lục, chúng ta dễ dàng đọc được những
câu chuyện đề cập đến quyền sống của con người, tình u trai gái, hạnh
phúc lứa đơi, tình nghĩa vợ ch
ồng, biểu dương những tấm gương tiết
nghĩa, nhân hậu, thủy chung … (Chuyện người con gái Nam Xương,
Chuyện người nghĩa phụ ở Khối Châu,…), trừng phạt bọn người gian
)
16
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
ác, xiểm nịnh (Chuyện Lý tướng qn, Chuyện nàng T Tiêu …) theo lý
tưởng CHÂN - THIỆN - MỸ.
2.Tính nhân văn càng được biểu hiện rõ nét hơn trong văn học
viết Việt Nam giai đoạn từ nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ
XIX.
Ra đời trong hồn cảnh xã hội phong kiến khủng hoảng trầm
trọng, ý thức hệ phong kiến đã suy tàn, ý thức hệ tư sả
n chưa nẩy nở, tư
tưởng thị dân hãy còn yếu ớt, trong khi nơng dân lại chưa có được một ý
thức hệ độc lập, trào lưu nhân văn chủ nghĩa đã đem đến cho văn học
nước ta sự nẩy nở của tính nhân văn mang sắc thái đặc thù. Vì sao như
vậy? Đó là vì khi nói đến trào lưu nhân văn chủ nghĩa thời Phục hưng,
như
đã trình bày, người ta nghĩ ngay đến sự phát triển của các đơ thị, đến
nền kinh tế hàng hóa, đến sự trưởng thành của tầng lớp thị dân - tiền thân
của giai cấp tư sản - và cơ sở ý thức hệ của nó là ý thức hệ tư sản đang
trưởng thành, đấu tranh chống lại ý thức hệ phong kiến đang thống trị.
Bối cảnh lịch sử - xã h
ội ở nước ta chưa có được đầy đủ những tiền đề đã
nêu. Nhưng dù sao ở các đơ thị lớn cũng đã có một tầng lớp thị dân, và
điều đặc biệt đáng chú ý là chưa bao giờ như ở giai đoạn này, phong trào
đấu tranh chống giai cấp phong kiến thống trị của quần chúng nhân dân
bị áp bức phát triển một cách hết sức rầm rộ như
thế, tiêu biểu là các
phong trào khởi nghĩa của nơng dân mà đỉnh cao là phong trào nơng dân
Tây Sơn. Sự phát triển của văn học Việt Nam ở giai đoạn này cùng với
sự xuất hiện của trào lưu nhân văn chủ nghĩa, thoạt nhìn, như có một sự
phát triển khơng tương ứng khi mà điều kiện xã hội chưa có được một ý
thức hệ tiên tiến làm nền tảng như ý thức hệ
tư sản.Thế nhưng, sự phát
triển đó lại rất tương ứng với tình hình cuộc đấu tranh quyết liệt. Đúng
như ý kiến nhận xét của Mác: “Đối với nghệ thuật có những thời kỳ phồn
vinh nhất định, tuyệt nhiên khơng có quan hệ gì với sự phát triển chung
của xã hội cả, và do đó cũng tuyệt nhiên khơng có quan hệ gì với cơ sở
vật chấ
t, với cái cốt cách của xã hội, nếu có thể nói như thế
được”(40a.17) .
Tìm hiểu các tác phẩm tiêu biểu của giai đồn này, đặc biệt là các
sáng tác trong bộ phận văn học chữ Nơm, có thể thấy rằng tất cả đều tập
)
17
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
trung vào vấn đề con người, nhận thức con người, đề cao con người, đấu
tranh với mọi thế lực đen tối, phản động của xã hội phong kiến để khẳng
định những giá trị chân chính của con người. Nguyễn Du, Hồ Xn
Hương, Phan Huy Ích (?), Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Cao Bá
Qt… bằng tài năng nghệ thuật của mình đã trở thành “những người
sản sinh ra chủ nghĩa nhân văn” (M. Gorki) (24.61) trên c
ơ sở hấp thụ
truyền thống nhân văn của dân tộc. Những hình tượng nhân vật chính
diện, nhất là những hình tượng nhân vật phụ nữ, đã trở thành những biểu
hiện sinh động cho lý tưởng nhân văn của dân tộc ta thời đại bấy giờ.
Tập trung vào con người, các tác giả tiêu biểu đã đi sâu nêu bật
vấn đề giải phóng tình cảm của con ngườ
i và những ràng buộc phản
nhân văn của xã hội phong kiến. Tác giả Chinh phụ ngâm đã đứng về
phía người chinh phụ tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa làm tan vỡ
hạnh phúc, tình u và tuổi trẻ của họ. Nguyễn Gia Thiều qua Cung ốn
ngâm khúc khơng chỉ nói lên tiếng nói phẫn nộ, tố cáo của những người
cung nữ đã phải sống cuộc đời héo hắt, tàn lụi, phí hồi tuổi xn và
nhan sắ
c cho những cuộc mua vui nơi cung vua phủ chúa mà còn là để
thơng qua đó, tỏ bày nỗi lòng sâu kín của những người bị rẻ rúng như
mình. Hồ Xn Hương, với cá tính và bản lĩnh thơ văn độc đáo, nữ sĩ đã
làm một cuộc cách mạng tố cáo chế độ đa thê và tồn bộ nền đạo đức
phong kiến đối với phụ nữ. Bằng tác phẩm Truyện Kiều,
thơng qua cuộc
đời của một người phụ nữ tài sắc, Nguyễn Du đã đặt ra một vấn đề hết
sức bao qt là quyền sống của con người trong xã hội phong kiến.
Phạm Thái xoay quanh chủ đề tình u của bản thân nhà thơ, cũng là
nhằm nói lên khát vọng được tự do u đương, đừng để phải rơi vào
hồn cảnh bi kịch như ơng … Trong các truyện Nơm bình dân, vấn đề
tình u tự do c
ủa con người còn được đặt ra một cách táo bạo hơn. Ở
Tống Trân - Cúc Hoa, Phương Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa … người ta
thấy xuất hiện hàng loạt những người phụ nữ chủ động quyết định tình
u của họ khiến cho những thế lực đại diện cho đạo đức phong kiến,
cuối cùng, cũng phải chấp nhận. Những hành động như thế của họ
, hiển
nhiên là sự phản ánh thái độ phản kháng quyết liệt đối với chế độ hơn
nhân và gia đình phong kiến.
Thử điểm lại một số hình tượng nhân vật phụ nữ tiêu biểu:
)
18
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
2.1.Chinh phụ ngâm , như tên gọi của tác phẩm, là khúc ngâm
của người chinh phụ, là lời than thở của người phụ nữ có chồng ra chiến
trường. Vấn đề trung tâm đặt ra trong tồn bộ khúc ngâm suốt từ đầu đến
cuối là mâu thuẫn giữa chiến tranh với cuộc sống con người, với hạnh
phúc của lứa đơi, của tuổi trẻ. Bằng sự bóc trần thự
c trạng đời sống, nhất
là đời sống nội tâm tràn ngập sầu đau cùng những nỗi niềm lo âu, sợ hãi,
đợi chờ của một người vợ trẻ đầm đìa nước mắt, hằng ngày ln phóng
tầm mắt đến một phương trời xa thẳm trơng ngóng tin chồng, tác phẩm
đã nêu lên một luận đề có tính chất mn thuở của xã hội: Chiến tranh
và Hòa bình. Điều cần quan tâm là tuy xuấ
t thân từ tầng lớp trên nhưng
với cách nhìn tiến bộ xuất phát từ một lập trường nhân văn vững chắc,
dù khơng nói ra nhưng đối chiếu với thực tế lịch sử lúc bấy giờ, chúng ta
vẫn thấy được cuộc chiến tranh tác giả phản ánh trong Chinh phụ ngâm
chính là những cuộc chiến tranh phi nghĩa mà giai cấp phong kiến thống
trị phát động nhằm chống lại các phong trào nhân dân khởi ngh
ĩa hết sức
rầm rộ lúc bấy giờ.
Khơng thể nói hết tính chất bi kịch trong tâm trạng của người
chinh phụ. Bằng tài năng nghệ thuật trác tuyệt, tác giả Chinh phụ ngâm
đã đi vào chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn người chinh phụ, khắc họa
nên một bức tranh tuyệt vời về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt
Nam mà chúng ta đ
ã từng gặp trong ca dao - dân ca, các truyện Nơm
bình dân. Ở đây, vẻ đẹp ấy đã được nâng cao một cách đáng kể nhờ vào
sự gia cơng của văn chương bác học. Khơng một ai là khơng cảm thán
trước vẻ đẹp vơ ngần về tình cảm, sự thuần khiết cao q về đức hạnh,
sự mẫn tuệ và khả ái về tâm hồn của nàng. Tầm vóc cao đẹp của tình
cảm, đức hạnh và trí tuệ đ
ó ở người phụ nữ Việt Nam thế kỷ XVIII, mà
nàng là một đại diện, khơng hề thua kém với những người phụ nữ ta đã
biết trong văn học phương Tây - chẳng hạn nàng Penelope của Hy Lạp
cổ đại trong tác phẩm bất hủ của thi hào Homer : Odyssey. Thế nhưng,
trước cuộc chiến tranh phong kiến tàn bạo, thân phận bé nhỏ của nàng có
khác gì cánh diều bị tung bạt trong bão táp cuồng phong. Người chinh
ph
ụ chỉ còn biết nhớ mong, chờ đợi, khát khao trong mỏi mòn, tuyệt
vọng, trong nỗi lo sợ cho chồng và cho mình. Vậy mà chiến tranh và tình
u tan vỡ vẫn là một thực tế khơng thể thay đổi. Dù vậy, trước sau nàng
vẫn khẳng định cái triết lý hạnh phúc:
)
19
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
Đành mn kiếp chữ tình đã vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.
Bởi lẽ:
Ay lồi vật tình dun còn thế,
Sao kiếp nguời nỡ để đấy đây?
Tư duy đầy tính nhân bản, nhân văn ấy của người chinh phụ có khác gì
so với tư tưởng của các nhà nhân văn chủ nghĩa thời Phục hưng? Dù có
thể nó còn chưa có cơ sở để thực hi
ện.
Chinh phụ ngâm ra đời trong một thời đại mà cuộc đấu tranh đòi
giải phóng tình cảm cho con người đang diễn ra mạnh mẽ. Khúc ngâm
đã thực sự gieo vào lòng người đọc một nỗi chán ghét, ốn giận đối với
những cuộc chiến tranh phi nghĩa, vơ nhân đạo, phản nhân văn. Chính vì
thế, tác phẩm mãi mãi vẫn hấp dẫn đối với những ai u chuộng Hồ
bình và trân trọng mọi vẻ đẹp củ
a Con Người.
2.2.Nằm trong trào lưu nhân văn chủ nghĩa của văn học Việt Nam
giai đoạn này, sự xuất hiện của Truyện Kiều đã thúc đẩy bước phát triển
của lý tưởng nhân văn, của tính nhân văn trong nền văn học dân tộc lên
một mức cao vòi vọi trước đó chưa từng có. Tập trung thể hiện lý tưởng
nhân v
ăn của tác giả và của thời đại là hình tượng nhân vật Thúy Kiều,
nhân vật trung tâm của tác phẩm. Truyện Kiều, do đó, là một tác phẩm
mang tính nhân văn sâu sắc.
Dù mở đầu bằng những câu triết lý và kết thúc tác phẩm cũng
bằng những câu triết lý, Truyện Kiều cũng khơng vì lẽ đó mà trở thành
một quyển tiểu thuyết luận đề. Có thể thấ
y tồn bộ tác phẩm vĩ đại này là
một bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại nhà thơ đang sống, trong
đó Nguyễn Du muốn làm nổi bật sự đối lập gay gắt giữa quyền sống của
con người, nhất là của người phụ nữ, với sự áp bức của chế độ phong
kiến lúc suy tàn.
Thúy Kiều là nhân vật kết tinh những khao khát tình cả
m của
người phụ nữ thời trước, những ước mơ vươn tới cái gì là đáng sống, là
tốt đẹp ở đời. Bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp Nguyễn Du trao cho Kiều,
)
20
Luận án Thạc só khoa học Ngữ Văn Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ …
khơng phải để trang sức, mà là để khẳng định cái đặc trưng trong tính
cách của nàng. Bên cạnh cái tài, cái sắc tuyệt đỉnh, Th Kiều còn là
người phụ nữ ln ln tự ý thức để nhận thức đúng đắn mọi quan hệ xã
hội, đồng thời khơng ngừng vươn lên đỉnh cao của giá trị làm người.
Ước mơ cao nhất của Kiều là được hưởng hạ
nh phúc lứa đơi, giữ trọn lời
thề với Kim Trọng. Vậy mà ước mơ đó đã bị đập vỡ tan tành. Thay vào
Kim Trọng là Mã Giám Sinh, là Sở Khanh, là lầu xanh của Tú Ba. Gặp
Thúc Sinh, dù đã chủ động dẫn dắt Thúc tìm ra một giải pháp lâu dài,
nhưng với tính cách bạc nhược của Thúc, cuộc sống lẻ mọn của nàng
cũng tan theo mây khói. Hoạn Th
ư, vợ cả Thúc Sinh, đã bắt Kiều phải
chịu đựng những thử thách còn ghê rợn hơn cả cuộc sống ở nhà chứa.
Rồi Từ Hải đến với đời Kiều. Lần đầu tiên trong cuộc đời lưu lạc của
mình, Thúy Kiều được trả lại nhân phẩm.Việc Nguyễn Du khẳng định
mối tình Từ
Hải - Thúy Kiều, gọi Từ Hải - Thúy Kiều là “Trai anh hùng,
gái thuyền qun”đủ nói lên mặt táo bạo trong tư tưởng nhà thơ, xuất
phát từ lập trường nhân văn chủ nghĩa vững chắc. Thế nhưng, sống với
Từ Hải mà Kiều vẫn ln cảm thấy cuộc sống hạnh phúc của mình bị đe
dọa. Cuối cùng, Kiều đã khun
Từ Hải ra hàng. Và cái triều đình phong
kiến vơ nhân đạo với Hồ Tơn Hiến là kẻ đại diện đã lợi dụng cơ hội ấy
để tiêu diệt Từ. Mọi sự vùng vẫy của Kiều nhằm tạo cho mình một cuộc
sống hoặc có ý nghĩa, hoặc rất tầm thường đều thất bại. Kiều khơng còn
lối thốt nào ngồi cái chết. Xã hội phong kiế
n vạn ác đã khơng dành
cho Kiều một chỗ đứng, đã khơng dung nạp được Kiều. Đó là nguồn gốc
tấn bi kịch của đời Kiều. Bằng “con mắt trơng thấu cả sáu cõi, tấm lòng
nghĩ suốt cả nghìn đời”(Mộng Liên Đường Chủ Nhân) (26.345), Nguyễn
Du đã gởi gắm tất cả tâm sự, tư tưởng thẩm mỹ - đạo đứ
c của mình tập
trung vào việc xây dựng hình tượng nhân vật Thúy Kiều. Dù vậy, Thúy
Kiều hấp dẫn người đọc xưa nay khơng phải như một liệt nữ mà là một
con người của đời sống thực, gắn bó với chính những vấn đề do cuộc
sống đặt ra. Hiện thực của tác phẩm vì thế cũng đặt ra những vấn đề vượt
khỏi nhữ
ng lý thuyết có tính chất tiên nghiệm, những tiên kiến của nhà
văn để trở lại dẫn dắt nhà văn đi theo lơgích nghệ thuật.
Nhìn lại những nhân vật phụ nữ lý tưởng trong các truyện thơ
Nơm, cuộc đời của họ khơng thiếu những hoạn nạn, tai ương, nhưng
khơng có gì có thể lung lạc, tha hóa họ được. Trước sau, họ vẫn quyết
)
21