Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý của trung tâm trợ giúp pháp lý, sở tư pháp ninh bình, giai đoạn 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.84 KB, 59 trang )

1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

---------------

NGÔ THỊ LÝ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CỦA TRUNG TÂM TRỢ GIÚP PHÁP LÝ, SỞ TƯ PHÁP
TỈNH NINH BÌNH, GIAI ĐOẠN 2016-2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

1


2

HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2016

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

---------------

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CỦA TRUNG TÂM TRỢ GIÚP PHÁP LÝ, SỞ TƯ PHÁP
TỈNH NINH BÌNH, GIAI ĐOẠN 2016-2020



Người thực hiện: NGÔ THỊ LÝ
Lớp: Cao cấp lý luận chính trị khóa VII Ninh Bình (2014-2016)
Chức vụ: Phó giám đốc
Đơn vị công tác: Trung tâm trợ giúp pháp lý, Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình

2


3

HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2016

LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian 2 năm học tập, nhằm hoàn thành nội dung chương trình
đào tạo, vận dụng lý thuyết đã học vào tình hình thực tiễn hoạt động tại đơn vị
và củng cố kiến thức đã được học trong quá trình học tập tại lớp Cao cấp Lý
luận Chính trị hệ không tập trung của tỉnh Ninh Bình khóa VII (2014-2016).
Để hoàn thành được bản Đề án này, tôi xin chân thành cảm ơn Trung
tâm trợ giúp pháp lý, Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình.
Xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của Học viện Chính trị
Khu vực I đã nhiệt tình dạy dỗ tôi trong suốt thời gian 2 năm học tập, đã nhiệt
tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi hoàn thành bản Đề án này.
Xin trân trọng cảm ơn !
Tác giả

Ngô Thị Lý

3



4

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ ÁN

Ký hiệu
CHXHCNVN
CLBTGPL
CTV
CTVTGPL
NXB
TGPL
Tr
TTTGPL
UBND

4

Nội dung
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam
Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý
Cộng tác viên
Cộng tác viên trợ giúp pháp lý
Nhà xuất bản
Trợ giúp pháp lý
Trang
Trung tâm trợ giúp pháp lý
Ủy ban nhân dân



5

MỤC LỤC

5


6

PHẦN A: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết xây dựng đề án
Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước
đã làm thay đổi diện mạo của đất nước nói chung và mỗi một địa phương nói
riêng, trong đó có tỉnh Ninh Bình như: Chính trị được giữ vững ổn định; an ninh,
trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển,
hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực ngày càng sâu rộng đời sống văn hoá - xã hội
ngày càng được nâng cao hơn trước. Đồng thời với sự phát triển của đất nước
nói chung và địa phương tỉnh Ninh Bình nói riêng đã đặt ra yêu cầu thách thức
đối với Đảng và nhà nước, đối với từng địa phương trong việc quản lý và điều
hành xã hội để bảo đảm cho đất nước, cho địa phương ổn định, bền vững trong
điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và là yêu cầu cấp thiết của mỗi
quốc gia, của mỗi một địa phương thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật để phù hợp với sự phát triển của đất nước là cần thiết và đáp ứng với yêu
cầu quản lý xã hội của nhà nước vì pháp luật là một trong những công cụ quan
trọng nhất của nhà nước để điều hành xã hội, là chuẩn mực, thước đo để mỗi một
tổ chức, cá nhân tự điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với pháp luật,
với đạo đức xã hội. Tuy nhiên, pháp luật của nhà nước không thể tự nhiên vào
cuộc sống được, pháp luật của nhà nước không phải mọi người dân nào cũng có
thể tiếp cận được dễ dàng và thuận lợi, nhất là đối với người nghèo, người ở
vùng sâu, vùng xa; ở địa bàn kinh tế khó khăn và đặc biệt khó khăn; người có

trình độ văn hoá thấp, hiểu biết về xã hội còn hạn chế; người do có những khiếm
khuyết, tật nguyền do bẩm sinh, do bị ô nhiễm độc từ môi trường, số lượng này
ở toàn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng chiếm một tỷ lệ
không nhỏ trong tổng dân số của đất nước, dân số của tỉnh Ninh Bình. Để đáp
ứng nhu cầu chung của mọi người dân và tiếp cận pháp luật, tìm hiểu pháp luật,
vận dụng pháp luật, chấp hành pháp luật và thi hành đúng pháp luật; trong những
năm qua, Đảng và nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách để đưa pháp luật
6


7

vào cuộc sống, để xoá đói, giảm nghèo về pháp luật cho người dân, trong đó có
chính sách hỗ trợ pháp lý miễn phí cho người nghèo và người thuộc đối tượng
chính sách của Đảng và nhà nước như: Người có công với cách mạng; thương
binh; liệt sỹ; đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao, vùng sâu, vùng xa, những
người yếu thế trong xã hội… bằng việc nhà nước thành lập ra một tổ chức của
nhà nước để thực hiện hỗ trợ pháp lý miễn phí cho các đối tượng chính sách của
mình đó là thành lập ra các Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư pháp các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó có Trung tâm trợ giúp pháp lý
thuộc Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình (Trung tâm TGPL) và đồng thời với sự TGPL
miễn phí mà Trung tâm các tỉnh, thành phố thuộc Trung ương là chính thì Nhà
nước còn có chính sách thực hiện xã hội hoá hoạt động Trợ giúp pháp lý (TGPL)
miễn phí để thu hút các tổ chức, cá nhân cùng tham gia thực hiện với Nhà nước.
Như vậy, xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của Đảng và nhà nước
về việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nâng cao trình độ dân trí pháp luật, thực
hiện xoá đói, giảm nghèo về pháp luật cho nhân dân nói chung, cho một bộ phận
người dân nói riêng và đặc biệt là xuất phát từ nhu cầu của đại đa số nhân dân cả
nước nói chung, nhân dân tỉnh Ninh Bình nói riêng thuộc đối tượng khó khăn về
kinh tế nên họ không có khả năng sử dụng được các loại dịch vụ pháp lý mà họ

chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước và để làm chuyên trách hoạt động hỗ
trợ pháp lý miễn phí cho người dân thì hiện tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng chỉ có duy nhất là Trung tâm
TGPL đang đảm nhiệm vụ này và trong khi hiện tại chính sách, chủ trương xã
hội hoá hoạt động hỗ trợ pháp lý miễn phí cho người dân nói chung, cho đối
tượng chính sách nói riêng và trong điều kiện Trung tâm TGPL các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương nói chung và Trung tâm TGPL tỉnh Ninh Bình nói
riêng chưa đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu hỗ trợ pháp lý miễn phí cho đối
tượng chính sách của Nhà nước thì việc xây dựng và triển khai thực hiện Đề
án:“Nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp
7


8

pháp lý, Sở Tư pháp Ninh Bình, giai đoạn 2016 - 2020” vẫn cần thiết, là phù
hợp với đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, là phù hợp với nguyện vọng
của nhân dân, nhất là tầng lớp người khó khăn về kinh tế.
2. Mục tiêu của Đề án
2.1. Mục

tiêu chung của Đề án
- Nâng chất lượng dịch vụ Trợ giúp pháp lý miễn phí của Trung tâm

TGPL tỉnh Ninh Bình có chất lượng, đạt kết quả, hiệu quả Đáp ứng ngày càng
cao việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí, tạo điều kiện cho người dân thuộc
diện được TGPL tiếp cận pháp luật và sử dụng dịch vụ pháp lý, giúp họ nâng cao
ý thức pháp luật để tự mình quyết định cách ứng xử phù hợp các quy định của
pháp luật, góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp cho người
được TGPL.

- Tăng cường mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, góp phần nâng cao
dân trí pháp lý, giảm bớt các khiếu kiện không cần thiết, ngăn ngừa và phòng
chống các hành vi vi phạm, làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
- Tạo cơ chế phối hợp đồng bộ, huy động mọi lực lượng trong hệ thống
chính trị tích cực tham gia trợ giúp pháp lý, coi TGPL không chỉ là trách nhiệm
của nhà nước mà là trách cao đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người được
TGPL.
2.2. Mục

tiêu cụ thể của Đề án
a. Tăng cường hoạt động truyền thông về TGPL
- Tổ chức các lớp tuyên truyền sâu rộng tới toàn thể cán bộ, nhân dân trong

tỉnh về mục đích ý nghĩa của công tác TGPL cụ thể:
+ xây dựng và lắp đặt Hộp tin về TGPL tại 100% trụ sở tiếp công dân của
UBND tỉnh, Thanh tra tỉnh, UBND cấp huyện, UBND cấp xã, các cơ quan tố
tụng cấp tỉnh, huyện, Trại tại giam, nhà tạm giữ;
+ Bảo đảm trên 70% hệ thống truyền thanh cấp xã, thực hiện các chuyên
trang, chuyên mục thông tin về TGPL trên Đài phát thanh và truyền hình tỉnh,
báo Ninh Bình...
8


9

+ Đảm bảo từ 85% – 90% người dân được biết về quyền được TGPL của họ
và các thông tin liên quan đến Trung tâm TGPL và Chi nhánh của Trung tâm,
điều kiện, trình tự, thủ tục TGPL.
+ Đảm bảo 100% cán bộ ở các cơ quan tiếp dân, cơ quan hành chính nhà
nước, cơ quan tiến hành tố tụng nắm được các quy định về TGPL và quyền của

người dân về TGPL.
b, Kiện toàn tổ chức thực hiện TGPL và mạng lưới TGPL ở cơ sở
+ Tiếp tục củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, viên chức của Trung
tâm TGPL theo hướng hướng đảm bảo hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế
xã hội, nhu cầu TGPl, nguồn nhân lực thực hiện dịch vụ TGPL ở tỉnh Ninh Bình
bảo đảm mỗi lĩnh vực TGPL
+ Củng cố kiện toàn lại các Câu lạc bộ TGPL nâng cao chất lượng hoạt
động của các Câu lạc bộ TGPL
c, Tăng cường nguồn nhân lực trợ giúp pháp lý
+ Rà soát, đánh giá trình độ, năng lực của trợ giúp viên pháp lý, cộng tác
viên TGPL của Trung tâm TGPL; phát triển từ 03 đến 05 TGVPLvà trên 150
Cộng tác viên TGPL trở lên;
+ Bảo đảm 60 -70% TGVPL và viên chức luân phiên được bồi dưỡng kiến
thức quản lý nhà nước tương đương ngạch chuyên viên; bồi dưỡng kiến thức
pháp luật, và kỹ năng TGPL cho đội ngũ người thực hiện TGPL.
d, Nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ TGPL và tăng cường
TGPL ở cơ sở. Phấn đấu 100% các xã, phường, thị trấn trong được Trung tâm
TGPL tổ chức TGPL lưu động ít nhất 1lần/năm. Đặc biệt ưu tiên các xã nghèo,
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân dân tộc thiểu số, các xã xây dựng nông
thôn mới .
đ) Thu hút được 100% các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp ở địa phương; 90% các tổ chức xã hội – nghề nghiệp ở địa
phương tham gia vào hoạt động TGPL miễn phí cùng với Trung tâm TGPL thuộc
9


10

Sở Tư pháp Ninh Bình để thực hiện hỗ trợ pháp lý cho các đối tượng được miễn
phí và cho các thành viên của các tổ chức.
e) Phấn đấu đến hết năm 2020 xây dựng được bộ máy tổ chức của Trung

tâm TGPL thuộc Sở Tư pháp Ninh Bình có đủ năng lực và trình độ để đáp ứng
kịp thời, có kết quả, chất lượng, hiệu quả yêu cầu hỗ trợ pháp lý của các đối
tượng thuộc diện được hỗ trợ pháp lý miễn phí.
g) Phấn đấu đến kết thúc giai đoạn thực hiện Đề án thì kết quả, chất lượng,
hiệu quả hoạt động hỗ trợ pháp lý miễn phí của Trung tâm TGPL, Sở Tư pháp
Ninh Bình được nâng lên cao, rõ nét, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân trên địa
bàn tỉnh nói chung, của những đối tượng được hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí
nói riêng.
3. Giới hạn của Đề án
3.1

. Đối tượng nghiên cứu của Đề án

Đề án nghiên cứu một cách khoa học và khách quan về tổ chức bộ máy,
cán bộ, công chức, viên chức của Trung tâm TGPL tỉnh Ninh Bình trong thời
gian qua đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao đến chưa? Còn những
vấn đề gì khó khăn, khuyết điểm, hạn chế cần phải kiện toàn củng cố trong thời
gian tới (trong giai đoạn 2016 - 2020)? thực trạng về tổ chức và hoạt động của
Trung tâm TGPL tỉnh Ninh Bình một khoảng thời gian nhất định đủ để có thể
đánh giá đánh giá một cách khoa học, khách quan, đúng thực trạng về kết quả
thực hiện hoạt động TGPL miễn phí trong những năm qua của Trung tâm TGPL
tỉnh Ninh Bình; đồng thời tìm ra được những khó khăn, khuyết điểm, hạn chế đã
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động TGPL, tìm ra và nguyên nhân khách
quan, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiệu quả hoạt động
TGPL của Trung tâm TGPL tỉnh Ninh Bình chưa đạt được như yêu cầu để từ đó
Đề án đề ra những giải pháp hữu hiệu khắc phục kịp thời những khó khăn,
khuyết điểm, hạn chế đó đưa hoạt động trợ giúp pháp lý đạt hiệu quả tốt hơn
trong giai đoạn 2016 – 2020.
10



11

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề án thực hiện nghiên cứu về kết quả hoạt động trợ giúp pháp lý của
Trung tâm TGPL trên phạm vi địa bàn tỉnh Ninh Bình kể từ khi có Luật TGPL
năm 2007 có hiệu lực pháp lý cho đến nay.
3.3. Thời gian thực hiện đề án.
Đề án được thực hiện trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2020, với thời
gian này đủ điều kiện để Đề án đạt được mục tiêu chung và những mục tiêu cụ
thể mà Đề án cần phấn đấu đạt được.

11


12

Phần B.NỘI DUNG ĐỀ ÁN
1. Căn cứ xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học để xây dựng đề án
Đề án “Nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý của Trung tâm
trợ giúp pháp, Sở Tư pháp Ninh Bình” nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Đề án này được thực hiện trên nền
tảng lý luận về Nhà nước và pháp luật đã được học trong chương trình cao cấp lý
luận chính trị.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm trợ giúp pháp lý
Hiện nay trên thế giới có nhiều nước thực hiện dịch vụ hỗ trợ pháp lý miễn
phí cho các đối tượng, phạm vi, phương thức và chi phí TGPL có khác nhau nên
cũng có quan niệm (khái niệm) về TGPL khác nhau, còn ở Việt Nam về khái
niệm về TGPL miễn phí đã được quy định trong Luật TGPL được hiểu đó là việc

cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL theo quy định của Luật
TGPL, giúp người được TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng
cao hiểu biết pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ công bằng xã hội, phòng ngừa,
hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Và theo khái niệm hỗ trợ pháp lý miễn
phí được quy định trong pháp luật Việt Nam được hiểu là rất rộng. Như vậy, việc
xây dựng Đề án phải trên cơ sở khoa học lý luận về Nhà nước và pháp luật, về
chức năng của nhà nước, về mục tiêu xây dựng nhà nước và phải xuất phát từ
mục tiêu của Nhà nước cần vươn tới phấn đấu đạt được trong việc nhà nước tổ
chức, thực hiện dịch vụ hỗ trợ pháp lý miễn phí để nghiên cứu xây dựng Đề án có
tính khả thi và hiệu quả.
Với những phân tích về nội hàm thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” nêu trên, quy
định khái niệm TGPl theo Luật TGPL đã khái quát được bản chất, thể hiện đặc
thù của TGPL ở Việt Nam nhằm phân biệt với các hoạt động nghiệp vụ pháp lý
khác như sau:

12


13

Thứ nhất: Đây là dịch vụ pháp lý miễn phí, đối tượng thụ hưởng dịch vụ
không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào, kể cả lệ phí giấy tờ khi yêu cầu
TGPL và việc thuê luật sư. Đối tượng được hưởng dịch vụ TGPL ở đây là:
Người nghèo, người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số và những
đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác. Dịch vụ được cung cấp là tư vấn pháp
luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, hòa giải và thực hiện những công
việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy
định của pháp luật. Các chi phí cho hoạt động TGPL sẽ do ngân sách Nhà nước
bảo đảm hoặc được huy động trong cộng đồng, sự hỗ trợ của các tổ chức nước
ngoài và quốc tế thông qua các Dự án hoặc Quỹ TGPL. Tính chất miễn phí đã

trở thành nguyên tắc hoạt động TGPL được quy định trong Luật TGPL đó
là :“TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL”
[ Điều 3 Luật TGPL]; nguyên tắc hoạt động “ Không thu phí, lệ phí, thù lao từ
người được TGPL” [Điều 4 Luật TGPL] và là một trong những hành vi bị
nghiêm cấm là “Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ người
được TGPL; sách nhiễu người được TGPL” [Điều 9 Luật TGPL]”.Tính chất này
xuất phát từ quan điểm của Đảng và nhà nước ta là thực hiện công bằng xã hội
trong từng bước phát triển đất nước. Mặc dù điều kiện kinh tế của nước ta còn
khó khăn nhưng Nhà nước vẫn dành khoản ngân sách nhất định để chi cho hoạt
động TGPL. Bởi vì những người được xác định là người nghèo, người có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn thì trong cuộc sống, họ không đủ kinh phí để trang trải
cho cái ăn, cái mặc, học hành nên không thể bắt buộc họ phải trả một phần kinh
phí cho các dịch vụ pháp lý mà họ được hưởng. Đây là điểm đặc thù của TGPL ở
Việt Nam và là sự nỗ lực của chúng ta trong điều kiện đất nước còn khó khăn (ở
nhiều nước trên thế giới, người được TGPL phải trả một phần chi phí hoặc phải
trả chi phí khi thắng kiện trong các vụ án tranh tụng).
Thứ hai: TGPL thể hiện tính chính trị - xã hội và được xác định là trách
nhiệm của Nhà nước, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt nhằm góp phần khắc phục
13


14

sự bất bình đẳng trong tiếp cận với pháp luật, xóa nghèo về pháp luật, giúp
người được TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết
pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến,
giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn
chế tranh chấp vi phạm pháp luật; qua đó, góp phần thiết lập sự ổn định chính trị,
tăng cường pháp chế XHCN.
Thư ba: TGPL là một dịch vụ mang đậm tính nhân văn, bởi mục tiêu hướng

tới không chỉ người nghèo mà còn đối với người có công với cách mạng, người
dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn, người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa, người được
TGPL theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Những vụ việc về tố
tụng (hình sự, dân sự, lao động, đất đai...) liên quan đến quyền và lợi ích của
người nghèo và đối tượng chính sách nhưng họ không có tiền thuê Luật sư ngoài
thị trường để đại diện, bào chữa bảo vệ hoặc những vụ việc do cơ quan, cán bộ
nhà nước giải quyết chưa thỏa đáng, có vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của người dân. Thông qua nhiều hình thức TGPL, đối tượng phục vụ
là những người có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm: Người nghèo, người có công và
các đối tượng yếu thế khác cần phải được Nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ,
hỗ trợ. Sự hỗ trợ này sẽ làm giảm bớt những khó khăn của nhóm đối tượng yếu
thế, góp phần tạo sự công bằng trong xã hội. Ngoài ra, TGPL Việt Nam còn có
điểm đặc thù là kiến nghị thi hành pháp luật (gồm: kiến nghị giải quyết vụ việc
TGPL, kiến nghị hành vi công vụ và kiến nghị sửa đổi, bổ sung văn bản pháp
luật).
Thứ tư: TGPL là một loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. TGPL
được xác định là một trong những chức năng xã hội của Nhà nước; đối tượng
được hưởng TGPL là những người yếu thế, không có đủ điều kiện tiếp cận với
các loại dịch vụ pháp lý có thu phí, cần có sự trợ giúp của Nhà nước; các chi phí
cho hoạt động TGPL do ngân sách Nhà nước bảo đảm. Đây là một loại hình dịch
14


15

vụ pháp lý cấu thành nên thị trường pháp lý, do những người có trình độ am hiểu
pháp luật thực hiện trên cơ sở pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp luật
của người nghèo và đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội
thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, giúp đỡ

thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu nại…
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của trợ giúp pháp lý
Cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây
dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; nhu cầu giúp đỡ pháp luật
của nhân dân ngày một tăng đã trở thành động lực quan trọng mang tính quyết
định thúc đẩy sự ra đời và phát triển của hoạt động TGPL.
Có thể khẳng định vai trò của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện
nay là hết sức cần thiết và quan trọng. TGPL thể hiện được bản chất của Nhà
nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tạo lập cơ chế bảo đảm công
bằng xã hội, mọi công dân dù giàu hay nghèo đều bình đẳng trước pháp luật, đều
được tiếp cận dịch vụ pháp lý như nhau trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường. TGPL là một trong những hình thức đưa chủ trương chính sách xóa đói,
giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà
nước đi vào cuộc sống, nhằm tăng cường pháp chế XHCN, góp phần hoàn thiện
bộ máy Nhà nước, hoàn thiện pháp luật và nâng cao trách nhiệm công vụ; đồng
thời TGPL góp phần thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí để người dân biết cách tự ứng xử
phù hợp với các quy định pháp luật, góp phần lành mạnh hóa quan hệ xã hội,
một phần củng cố lòng tin của người dân vào Nhà nước, pháp luật, giữ gìn ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Sau hơn 19 năm hình thành và phát triển, công tác TGPL đã đạt được
nhiều kết quả, khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong giúp đỡ về mặt
pháp luật cho đông đảo người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào
dân tộc thiểu số và các đối tượng khác. Đối với Nhà nước, hoạt động TGPL thể
15


16

hiện trách nhiệm của mình trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, đồng thời tăng thêm gắn bó giữa Nhà
nước và người dân, nâng cao vị thế, vai trò của pháp luật trong quản lý đất nước,
quản lý xã hội và bảo vệ quyền công dân. TGPL còn góp phần quan trọng cho sự
nghiệp cải cách tư pháp, cải cách hành chính; hỗ trợ các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc thực thi công vụ, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng tuỳ tiện,
lạm quyền, góp phần giải tỏa vướng mắc pháp luật, giảm bớt khiếu kiện, giảm
thiểu các tranh chấp phải đưa ra cơ quan tư pháp giải quyết; đồng thời qua đó kịp
thời phát hiện những vướng mắc, bất cập của hệ thống pháp luật, góp phần hoàn
thiện hệ thống pháp luật. Đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người
có công với cách mạng và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội khác, TGPL
hỗ trợ, giúp đỡ, hướng dẫn họ tự mình hoặc có thể nhờ người khác bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp khỏi sự xâm hại, từng bước nâng cao ý thức pháp luật,
hạn chế, phòng ngừa các vi phạm pháp luật, đặc biệt thông qua việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ việc, bảo đảm các quyền con người,
quyền công dân.
Đối với xã hội, TGPL góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội, bảo vệ pháp chế, đưa pháp luật đến với người dân, tạo lập thói quen và
nếp sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đồng thời góp phần thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển gắn với giải quyết vấn đề an sinh xã hội, góp phần xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hơn nữa trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế đi
đối với bảo đảm công bằng xã hội, chủ động hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì TGPL ngày càng có ý nghĩa, vai
trò quan trọng trong xóa đói, giảm nghèo, động viên người dân tích cực tham gia
các hoạt động xã hội và phát triển kinh tế.
1.1.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý
16



17

Mục tiêu của TGPL là góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng của người dân, giúp họ nâng cao nhận thức pháp luật, ý thức tôn trọng và
chấp hành pháp luật, góp phần vào việc phổ biến giáo dục pháp luật, bảo vệ công
lý, bảo đảo công bằng xã hội, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Để đạt
được mục tiêu này, Nhà nước và xã hội mà ở đây vai trò nòng cốt là nhà nước
phải bảo đảm các điều kiện về cơ chế, chính sách, điều kiện cơ sở vật chất, con
người để triển khai các hoạt động TGPL nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Để
đánh giá hiệu quả hoạt động TGPL, cần đánh giá theo các tiêu chí sau:
Thứ nhất, sự tuân thủ pháp luật của tổ chức thực hiện TGPL, người thực
hiện TGPL trong quá trính tiến hành các hoạt động TGPL;
Thứ hai, sự đáp ứng yêu cầu của Nhà nước về chất lượng vụ việc TGPL,
đây là tiêu chí quan trọng gắn bó chặt chẽ với tiêu chí thứ nhất.Các tiêu chí đánh
giá chất lượng vụ việc gồm: Vụ việc TGPL đạt chất lượng tốt, vụ việc TGPL đạt
chất lượng và vụ việc TGPL không đạt chất lượng (theo Thông tư 02/2013/TTBTP ngày 05/1/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
Thứ ba, kết quả chung của hoạt động TGPL được xác định dựa trên các
nội dung: Nhận thức về vị trí, vai trò của TGPL có được nâng lên không? mục
tiêu nâng cao nhận thức pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối
tượng được TGPL có đạt được không? việc quản lý nhà nước về hoạt động
TGPL có hiệu quả không?.... Đây có thể coi là tiêu chí đánh giá trực tiếp, nó
phản ánh mục tiêu trực diện cần đạt được của hoạt động TGPL;
Thứ tư, tác động của hoạt động TGPL tới sự phát triển kinh tế - xã hội, tiết
kiệm chi phí, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt động
TGPL tác động tới từng đối tượng được TGPL thông qua các yêu cầu TGPL cụ
thể của họ; sau khi được TGPL người được TGPL có thể làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt một quan hệ pháp lý với nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Vì
vậy, muốn biết được chất lượng hoạt động TGPL, cần so sánh, xem xét sư thay
đổi của tình hình kinh tế - xã hội có sự chuyển biết tích cực; quyền và lợi ích của
17



18

người được TGPL được bảo vệ thì điều đó cho thấy hoạt động TGPL đã có chất
lượng;
Thứ năm, sự hài lòng của người được TGPL là một trong những tiêu chí
để đánh giá vụ việc TGPL có hiệu quả hay không?
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý để xây dựng đề án
1.2.1. Cơ sở chính trị để xây dựng đề án
Việc xây dựng và triển khai được thực hiện đề án nâng cao hiệu quả hoạt
động TGPL của Trung tâm TGPL tỉnh Ninh Bình là xuất phát từ yêu cầu thực
hiện nghiêm túc có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
nói chung và của các cấp uỷ Đảng và các cấp chính quyền ở địa phương tỉnh
Ninh Bình nói riêng về tiến bộ và công bằng xã hội, về thực hiện nguyên tắc
Hiến định “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, do đó Đảng và Nhà
nước đã có chính sách hỗ trợ pháp lý miễn phí cho người nghèo, người có công
với cách mạng, người dân tộc thiểu số, người yếu thế trong xã hội, cụ thể: Ban
Bí thư Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ đạo “cần mở rộng loại hình tư vấn
pháp luật phổ thông đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân
dân nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử phù hợp với pháp luật
của công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày…, cần nghiên cứu lập hệ thống
dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm
theo pháp luật”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII tiếp tục khẳng định “tổ chức hình thức tư vấn pháp luật cho các cơ
quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ
tư vấn pháp luật miễn phí…”
1.2.2. Cơ sở pháp lý để xây dựng đề án
Để thể chế chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về tổ chức và hoạt
động hỗ trợ miễn phí cho người nghèo, người có công với cách mạng, người già

cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu số
thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, ngày
18


19

29/6/2006 Quốc hội đã ban hành Luật TGPL, đây là văn bản pháp lý cao nhất
trên cơ sở kế thừa những quy định về TGPL miễn phí được quy định tại các văn
bản quy phạm pháp luật dưới và nâng lên thành Luật và trên cơ sở Luật TGPL và
để các quy định của Luật TGPL đó vào cuộc sống, phát huy hiệu quả Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều Luật TGPL và ban hành Nghị định số
14/2013/NĐ-CP ngày 15/02/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật TGPL; ban hành Nghị định số 80/2015/NĐ-CP
ngày 17/09/2015 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2013/NĐ-CP
ngày 05/02/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật TGPL; chỉ thị số 35/2006/CT-TTg ngày
13/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật TGPL;
Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở; Quyết định
số 749/QĐ-TTg ngày 01/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi
mới công tác TGPL giai đoạn 2015-2025 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác của các Bộ, ngành Trung ương, văn bản Quy phạm pháp luật liên ngành của
các Bộ, ngành Trung ương; văn bản quy phạm pháp luật của địa phương tỉnh
Ninh Bình ban hành về TGPL miễn phí đó là những cơ sở pháp lý quan trọng để
xây dựng Đề án.
1.3. Cơ sở thực tiễn để xây dựng đề án

Sau hơn 19 năm triển khai thực hiện Quyết định 734/QĐ- TTg và 09 năm
thực hiện Luật TGPL, công tác TGPL ở tỉnh Ninh Bình đã đạt được những kết
quả quan trọng, mạng lưới tổ chức TGPL ở cơ sở ngày càng được củng cố và
tăng cường, tạo điều kiện cho người dân dễ tiếp cận, là địa chỉ tin cậy cho những
người nghèo, người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số và các đối
19


20

tượng khác khi họ cần được giúp đỡ khi có vướng mắc pháp luật. TGPL ở tỉnh
Ninh Bình đã khẳng định được vị trí vai trò của mình trong việc giúp đỡ pháp lý
cho đông đảo người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc
thiểu số và một số đối tượng khác, làm tăng niềm tin của nhân dân đối với Đảng
và nhà nước. TGPL đã góp phần hỗ trợ hoạt động Tư pháp để vụ việc xét xử
chính xác, khách quan công bằng và đúng pháp luật; trong nhiều trường hợp đã
giúp cho các cơ quan Nhà nước xem xét lại những bất cập trong giải quyết vụ
việc, từ đó có những tác động tích cực đến đời sống pháp luật trong tỉnh; làm
cho vai trò của pháp luật được phát huy, thực sự là công cụ bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, giảm bớt khiếu kiện vượt cấp, góp phần quan trọng
vào sự nghiệp Cải cách hành chính, Cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN. Nhiều vụ việc phức tạp, vượt cấp, kéo dài nhiều năm đã
được Trung tâm TGPL nhà nước thuộc Sở Tư pháp Ninh Bình hướng dẫn, giải
quyết dứt điểm góp phần gữi vững trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Vì thế, công tác TGPL ở Ninh Bình đã khẳng định
được vị trí, vai trò trong thực tế cuộc sống, bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, thực hiện dân chủ ở cơ sở; tạo được niềm tin của nhân dân và cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương. Tuy nhiên, công tác quản lý cán bộ và bộ máy
điều hành, chất lượng thực hiện vụ việc TGPL ở tỉnh Ninh Bình trong những
năm qua vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, cần phải nghiên cứu để đưa ra

các giải pháp khắc phục để nâng cao hiệu quả TGPL trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
trong thời gian tới.
2. Nội dung thực hiện đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Sau hơn 19 năm thực hiện hoạt động TGPL miễn phí của Trung tâm TGPL
tỉnh Ninh Bình và hơn 09 năm triển khai tổ chức thực hiện Luật TGPL trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình cho thấy hoạt động TGPL miễn phí đang được triển khai tổ
chức thực hiện trong bối cảnh tình hình quốc tế có những diễn biến phức tạp sẽ
20


21

có tác động nhất định đến Việt Nam và sẽ tác động đến mọi hoạt động của Nhà
nước, của người dân như: Xung đột vũ trang khu vực, khủng bố có nguy cơ bùng
nổ ra toàn cầu, xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh chấp trên biển Đông, tác hại
xấu do biến đổi khí hậu, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đối với tất cả các
quốc gia trên thế giới và Việt Nam ta nói riêng và hội nhập quốc tế sẽ mang lại
cho Việt Nam những thuận lợi, nhưng cũng đem đến cho Việt Nam không ít
những khó khăn thách thức. Hoặc hoạt động TGPL đang thực hiện trong bối
cảnh xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường có định hướng của Nhà nước
và mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường sẽ tác động đến mỗi một cơ quan, tổ
chức, cán bộ, công chức, viên chức và người dân do đó việc thực hiện hỗ trợ
pháp lý miễn phí của Nhà nước là khó khăn nên việc này đòi hỏi phải có sự
chung tay tiếp sức của cả xã hội. Hay trong bối cảnh hội nhập và yêu cầu bảo vệ
tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước cho thấy những thể chế của Nhà nước
không còn phù hợp cần phải sửa đổi, bổ sung và vừa qua Nhà nước đã sửa đổi
bổ sung Hiến pháp và ngày 28/11/2013 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 có nhiều quy định mới được
bổ sung như quyền của công dân, quyền của con người được đề cao và sau khi

có Hiến pháp năm 2013 thì đòi hỏi nhà nước phải sửa đổi, bổ sung nhiều Bộ
Luật, Luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác cho phù hợp với Hiến pháp
năm 2013 và thực tế Nhà nước đã sửa đổi, bổ sung như: Bộ luật dân sự, tố tụng
dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật ngân sách.. do đó
cũng đặt ra một thách thức cho tổ chức thực hiện TGPL miễn phí và người được
giao nhiệm vụ TGPL nắm việc cập nhật, nắm và hiểu được đầy đủ những quy
định của pháp luật mới để thực hiện nhiệm vụ được giao. Và đặc biệt trong điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Ninh Bình cũng tác động trực tiếp đến việc
thực hiện Đề án do đó việc xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án phải xem xét
trước những vấn đề mang tính đặc thù của địa phương như: Ninh Bình là một
đơn vị hành chính cấp tỉnh thuộc lưu vực sông Hồng có diện tích tự nhiên là
1.378,1 km2; dân số 926.995 người, chiếm 5% dân số vùng đồng bằng sông
Hồng. Dân cư phân bố theo lãnh thổ không đồng đều, có sự chênh lệch về mật
21


22

độ dân số giữa các huyện, thành phố (thành phố Ninh Bình có mật độ dân số
2.467 người/ 1km2; huyện Nho Quan có mật độ dân số 331 người/1km 2). Tỉnh
Ninh Bình có 7 dân tộc là: Kinh, Mường, Hoa, Tày, Thái, Nùng, La Ha. Trong
đó, dân tộc Kinh chiếm 98% tổng dân số của cả tỉnh, dân tộc Mường chiếm 1.7%
trong tổng số của toàn tỉnh, còn lại là các dân tộc khác. Tỉnh Ninh Bình có 8 đơn
vị hành chính cấp huyện bao gồm: Thành phố Ninh Bình, thành phố Tam Điệp,
huyện Nho Quan, huyện Gia Viễn, huyện Hoa Lư, huyện Yên Khánh, huyện Yên
Mô, huyện Kim Sơn. Và có 146 đơn vị hành chính xã gồm: 96 xã, 43 phường và
7 thị trấn. Về vị trí địa lý và địa hình tỉnh Ninh Bình: Phía Bắc giáp tỉnh Hà
Nam; phía Tây Bắc giáp tỉnh Hoà Bình; phía Đông và Đông Nam tiếp giáp với
tỉnh Nam Định và biển Đông; phía Tây Nam giáp tỉnh Thanh Hoá; địa hình đa
dạng, phức tạp có vùng núi đồi ở phía Tây và Tây Bắc; vùng đồng bằng trũng lại

xen kẽ với những dãy núi đá vôi và vùng đồng bằng bằng phẳng phì nhiêu nằm ở
phía Đông và Đông nam. Ninh Bình có rừng, núi, đồng bằng, biển và nhiều hồ,
sông lớn; có đường giao thông là đường bộ, đường sắt, đường thuỷ; có các khu
danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong đó có quần thể danh thắng Tràng An được
UNSC công nhận là quần thể di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; có nhiều các
di sản văn hóa và điểm du lịch nổi tiếng đối với trong nước và quốc tế như: Cố
đô Hoa Lư, Tràng an, Bái Đính, Vườn quốc gia Cúc Phương, Nhà thờ đá Phát
Diệm, Tam Cốc - Bích Động....Ninh Bình có 2 tôn giáo chính là Thiên chúa giáo
và phật giáo, Thiên chúa giáo du nhập vào Ninh Bình từ thế kỷ 17, có Tòa giám
mục Phát Diệm được coi là Thủ phủ của Thiên chúa giáo tại Việt Nam, 65 sứ
đạo, 121 họ giáo, người theo đạo Thiên chúa chiếm 15% dân số toàn tỉnh, và tập
trung đông nhất ở huyện Kim Sơn. Ninh Bình là một tỉnh có thế mạnh để phát
triển du lịch, công nghiệp, nông nghiệp, trong 10 năm gần đây kinh tế của tỉnh
Ninh Bình có sự phát triển nhanh, tổng thu ngân sách tăng nhanh nhưng không
bền vững, cơ sở hạ tầng . Được nâng cấp, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới,
đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao hơn so với những năm
đầu mới tái lập tỉnh. Tuy nhiên, đánh giá về tổng thể so với các địa phương trong
cả nước thì tỉnh Ninh Bình là một tỉnh còn khó khăn, thu chưa đảm bảo đủ chi,
22


23

còn phải dựa vào sự hỗ trợ, phân bổ ngân sách của Trung ương; tỷ lệ người giầu
còn thấp, tỷ lệ người nghèo chiếm một tỷ lệ không nhỏ, là một tỉnh có số lượng
lớn người có công với cách mạng, gia đình chính sách và các đối tượng chính
sách khác được hưởng hỗ trợ của nhà nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó có hỗ
trợ pháp lý miễn phí. Đặc biệt là đại đa số người dân hiểu biết pháp luật cc̣n hạn
chế, đây là một khó khăn, thách thức đòi hỏi các cấp uỷ Ðảng và chính quyền ðịa
phýõng phải quan tâm giải quyết. Nhý vậy, xuất phát từ thực trạng tình hình kinh

tế - xã hội của địa phương tỉnh Ninh BB́nh đã ðặt ra việc xây dựng Ðề án là hợp
lý, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của địa phương đòi hỏi phải giải quyết.
2.2. Thực trạng về hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý của Trung tâm
thuộc Sở Tư pháp Ninh Bình
2.2.1 Tổ chức bộ máy của Trung tâm trợ giúp pháp lý, Sở Tư pháp Ninh Bình
Ngay sau khi có quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thành lập các tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng
chính sách, địa phương tỉnh Ninh Bình là một trong 07 tỉnh, thành phố Trung
ương được Bộ Tư pháp chọn làm điểm thành lập Trung tâm TGPL trực thuộc Sở
Tư pháp để thực hiện TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình và ngày 06/10/1997 UBND tỉnh Ninh Bình đã ban hành
Quyết định số: 1159/QĐ – UB về viêc thành lập Trung tâm TGPL cho người
nghèo và đối tượng chính sách thuộc Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình và đến năm
2006 có Luật TGPL ngày 07/6/2007 UBND tỉnh Ninh Bình ban hành Quyết định
số 1348/QĐ - UBND về việc đổi tên và bổ sung nhiệm vụ cho Trung tâm TGPL
tỉnh Ninh Bình (thay thế Quyết định số 1159/QĐ-UB ngày 06/10/1997 của
UBND tỉnh Ninh Bình). Theo quyết định của Luật TGPL và theo quy định của
Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và UBND tỉnh Ninh Bình thực hiện cụ thể hoá theo phân
cấp của Thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ thì Trung tâm TGPL là
đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Giám đốc Sở Tư pháp,
hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ Cục TGPL thuộc BộTư pháp. Trung tâm
23


24

TGPL có tư cách pháp nhân, có trụ sở làm việc, có con dấu và tài khoản riêng,
biên chế, kinh phí và các cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của Trung tâm do
UBND tỉnh quyết định và được hỗ trợ vật chật kinh phí và cơ sở vật chất của các

tổ chức trong và ngoài nước theo nội dung của Chương trình, Đề án của các tổ
chức tài trợ liên quan đến hoạt động TGPL miễn phí trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Kể từ khi được thành lập cho đến nay, tổ chức bộ máy của Trung tâm
TGPL tỉnh Ninh Bình đã được quan tâm kiện toàn, cụ thể: Khi mới thành lập
Trung tâm TGPL chỉ có 3 cán bộ ( Giám đốc Trung tâm TGPL tỉnh Ninh Bình do
giám đốc Sở tư pháp kiêm nhiệm, một Phó giám đốc Trung tâm TGPL làm
chuyên trách và một cán bộ kế toán của Trung tâm TGPL do kế toán Sở Tư pháp
Ninh Bình kiêm nhiệm và 28 cộng tác viên TGPL do cán bộ, công chức thuộc
các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể ở địa phương tỉnh Ninh Bình kiêm
nhiệm gồm 20 cộng tác viên cấp tỉnh và 08 cộng tác viên cấp huyện. Nhưng đến
nay (tại thời điểm tháng 6 năm 2016) Trung tâm TGPL tỉnh Ninh Bình hiện có
16/18 biên chế. Về cơ cấu tổ chức bộ máy của Trung tâm TGPL hiện tại gồm có:
Giám đốc; 01 Phó Giám đốc; 02 phòng (phòng hành chính - tổng hợp và phòng
chuyên môn nghiệp vụ) và một Chi nhánh TGPL, trong 02 phòng có một phòng
đã có trưởng phòng chuyên môn nghiệp vụ, riêng phòng hành chính - tổng hợp
chưa có Trưởng phòng; lãnh đạo của Chi nhánh TGPL do Trưởng phòng nghiệp
vụ Trung tâm TGPL đang kiêm nhiệm, trong 16 biên chế của Trung tâm TGPL
hiện có gồm: 07 Trợ giúp pháp lý (trong đó có Giám đốc và Phó giám đốc Trung
tâm TGPL); 07 chuyên viên pháp lý (trong đó, có 03 chuyên viên là hợp đồng
lao động có thời hạn) 01 kế toán và 01 thủ quỹ.
Đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ của Trung tâm TGPL tỉnh Ninh
Bình hiện nay có 01 viên chức là thạc sỹ Luật, 14 viên chức là cử nhân luật, 01
viên chức là cử nhân kinh tế, nhìn chung đội ngũ cán bộ, chuyên môn nghiệp vụ
của Trung tâm TGPL được đào tạo chủ yếu theo hệ tại chức là chính, có 08 cử
nhân Luật được đào tạo theo hệ chính quy nhưng năng lực về chuyên môn còn
24


25


rất hạn chế lại thiếu kinh nghiệm và kỹ năng hoạt động TGPL. Hiện tại ngoài đội
ngũ cán bộ viên chức, lao động của Trung tâm TGPL như đã nêu thì Trung tâm
đang có một đội ngũ Cộng tác viên trợ giúp pháp lý (CTVTGPL) để cùng phối
hợp với Trung tâm TGPL thực hiện các hoạt động TGPL miễn phí trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình với số lượng là 89 CTVTGPL là cán bộ, công chức, viên chức và
lao động thuộc các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể chính trị và tổ chức xã
hội trên địa bàn tỉnh kiêm nhiệm, gồm: 12 cộng tác viên TGPL là Luật sư thuộc
đoàn Luật sư tỉnh Ninh Bình; 25 cộng tác viên TGPL là cán bộ, công chức, viên
chức thuộc các Sở, Ban, ngành, tổ chức đoàn thể ở tỉnh; 20 cộng tác viên TGPL
là cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan nhà nước, đoàn thể cấp
huyện; 32 cộng tác viên TGPL là cán bộ, công chức thuộc các xã, phường, thị
trấn của tỉnh. Ngoài ra, Trung tâm TGPL tỉnh Ninh Bình có 28 Luật sư thuộc 11
văn phòng Luật sư đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và 12 tư vấn viên
pháp luật thuộc các Trung tâm tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị - xã hội
ở tỉnh như: Trung tâm tư vấn pháp luật của Hội luật gia tỉnh Ninh Bình, của Hội
phụ nữ tỉnh Ninh Bình, tham gia phối hợp thực hiện TGPL miễn phí theo
Chương trình dự án có liên quan và có 44 Câu lạc bộ TGPL được thành lập tại
các xã, phường, thị trấn do Trung tâm TGPL tỉnh Ninh Bình phối hợp với các xã,
phường, thị trấn thành lập đã thu hút được hàng nghìn người tham gia sinh hoạt
Câu lạc bộ (CLB). Với đội ngũ CTV và Hội viên của các CLB đông đảo như vậy
đã tạo được thuận lợi nhất định cho Trung tâm TGPL tỉnh Ninh Bình trong tổ
chức thực hiện các hình thức hỗ trợ pháp lý miễn phí cho các đối tượng của
mình. Tuy nhiên, hoạt động phối hợp của các CTV, của các Hội viên CLBTGPL
với Trung tâm TGPL trong thực hiện các cuộc TGPL, trong tư vấn hỗ trợ pháp lý
giải quyết từng vụ việc cụ thể theo từng lĩnh vực cụ thể thì có vụ việc thuộc một
số lĩnh vực đạt được chưa cao như: Hình sự, hành chính, đất đai,…do trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và năng lực giải quyết vụ việc của CTVTGPL và Hội
viên của các CLBTGPL còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu, đồng thời có
25



×