Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Vận dụng phương pháp abc trong phân bổ chi phí tại công ty cổ phần kem ki do.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.51 KB, 55 trang )

MỤC LỤC




MỞ ĐẦU ...............................................................................................................................0
U
1. Tính cấp thiết của đề
tài
.............................................................................................0
2. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................................0
3. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................1
CHƯƠNG 1 ...........................................................................................................................2
TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN VÀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ.................................................2
1.1. Tổng quan về kế toán............................................................................................2
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của kế toán .................................................2
1.1.2. Định nghĩa về kế toán ....................................................................................3
1.1.3. Chức năng và mục tiêu của kế toán ...............................................................4
1.2. Tổng quan về kế toán quản trị ...............................................................................5
1.2.1. Lược sử hình thành và phát triển của kế toán quản trị...................................5
1.2.2. Vai trò của kế toán quản trị:.........................................................................12
1.3. Phương pháp kế toán chi phí dựa trên mức độ hoạt động (Activity Based
Costing-ABC) ..................................................................................................................13
1.3.1. Tiến trình phát triển của phương pháp ABC................................................13
1.3.2. So sánh phương pháp ABC với phương pháp kế toán chi phí truyền thống
(traditional costing accounting-TCA)..........................................................................13
 Điểm giống nhau:.................................................................................................13
 Điểm khác nhau: ..................................................................................................14
1.3.3. Một số điểm thuận lợi và và không thuận lợi trong việc vận dụng phương
pháp ABC ....................................................................................................................19


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1......................................................................................................21
CHƯƠNG 2 .........................................................................................................................22
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TỔNG HỢP VÀ PHÂN BỔ CHI PHÍ Ở CÔNG TY CỔ
PHẦN KEM KI DO.............................................................................................................22


2.1. Khái quát chung về công ty .................................................................................22
2.1.1. Nguồn gốc hình thành..................................................................................22
2.1.2. Sơ đồ tổ chức (Sơ đồ 2.1) ............................................................................22
2.1.3. Tổ chức thực hiện công tác kế toán .............................................................23
2.2. Khảo sát việc tổng hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm kem.........................24
2.2.1. Nguyên tắc kế toán: .....................................................................................24
2.2.2. Quy trình sản xuất và tính giá thành sản phẩm (Sơ đồ 2.2).........................25
2.3. Khảo sát hệ thống phân phối và phương pháp phân bổ chi phí phân phối cho sản
phẩm .............................................................................................................................32
2.3.1 Hệ thống phân phối......................................................................................32
2.3.2 Tập hợp và phân bổ chi phí phân phối.........................................................33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2:.....................................................................................................34
CHƯƠNG 3 .........................................................................................................................35
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP ABC TRONG PHÂN BỔ CHI PHÍ TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN KEM KI DO.............................................................................................................35
3.1. Phương pháp ABC với tính giá thành sản phẩm .................................................35
3.2. Phương pháp ABC với phân bổ chi phí phân phối..............................................41
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3:.....................................................................................................50
KẾT LUẬN..........................................................................................................................51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU



1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu hướng hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, nền kinh tế thị trường cạnh
ngày một gay gắt đã và đang đặt ra nhiều thử thách cho sự tồn tại và phát triển của
các doanh nghiệp Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng hoàn
thiện công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, mà việc nâng cao chất
lượng thông tin cung cấp cho các nhà quản trị doanh nghiệp đóng một vai trò
quyết định.
Công ty cổ phần kem Ki Do, sản phẩm chủ yếu là kem ăn với nhiều chủng
loại, hương vị khác nhau. Việc quyết định loại bỏ nhãn kem nào? thay thế nhãn
kem nào? giá bán sản phẩm kem mới là bao nhiêu?… ảnh hưởng rất lớn đến hiệu
quả kinh doanh của công ty, mà thông tin làm cơ sở cho việc ra các quyết định
này chính là nguồn lực tiêu hao tính cho mỗi loại kem.
Phương pháp ABC với việc lựa chọn những tiêu thức phân bổ nguồn lực hợp
lý được các nước phát triển xem đó là sự lựa chọn tối ưu trong việc nâng cao chất
lượng thông tin cho việc ra các quyết định liên quan đến từng nhóm sản phẩm,
từng loại sản phẩm,…
Trong một chừng mực nào đó, nghiên cứu và vận dụng phương pháp ABC
trong việc xác định nguồn lực tiêu hao cho mỗi loại kem chính là gián tiếp nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của công ty trên thị
trường. Đây chính là vấn đề đặt ra cho Ban Giám đốc và các nhà quản trị ở công
ty cổ phần kem Ki Do.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá được lợi ích của việc vận dụng phương pháp ABC trong xác định
nguồn lực tiêu hao tính cho mỗi loại kem, trên cơ sở đó giúp các nhà quản trị


doanh nghiệp đánh giá hiệu quả đóng góp của từng nhóm sản phẩm, từng loại sản
phẩm trong tổng lợi nhuận của công ty và đề ra các quyết định đúng đắn.
3. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là việc tổ chức thực hiện kế toán quản trị,
mà chủ yếu đi sâu phân tích chất lượng của thông tin mà kế toán quản trị cung cấp
liên quan đến chi phí cho từng nhãn kem ở công ty cổ phần kem Ki Do. Đây là
một doanh nghiệp được hình thành từ sự mua lại toàn bộ công nghệ sản xuất kem
của tập đoàn Unilever, cùng với sự chuyển giao công nghệ là sự chuyển giao các
kỹ năng quản lý như: lập kế hoạch, phân tích, tổng hợp, báo cáo,… trong đó có kế
toán quản trị. Qua nghiên cứu, luận văn sẽ đi sâu để giải quyết hai vấn đề:
i. Thực trạng của việc xác định chi phí cho từng sản phẩm kem ở khâu sản
xuất và lưu thông, bên cạnh đó nêu lên những hạn chế của phương pháp phân bổ
chi phí hiện tại trong việc cung cấp thông tin thích hợp cho nhà quản trị ra quyết
định.
ii. Vận dụng phương pháp ABC trong việc phân bổ chi phí để nâng cao độ
tin cậy của thông tin.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp duy vật để
làm phương pháp chung có tính chất chỉ đạo định hướng của đề tài.
Ngoài ra, để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề cụ thể, luận văn còn sử dụng
các phương pháp như: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối
chiếu, phương pháp diễn giải, phương pháp thông kê,…






1

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN VÀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ


1.1. Tổng quan về kế toán
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của kế toán
Có rất nhiều nhà nghiên cứu lịch sử kế toán đã nỗ lực để có thể xác định thời
điểm và địa điểm mà hệ thống kế toán ra đời. Tuy nhiên, có rất nhiều kết quả khác
nhau, nhưng hầu hết các kết quả thừa nhận sự tồn tại của một số hình thức ghi
chép sổ sách ở những nền văn minh cổ xưa, như nền văn minh của người At-xi-ri
và người Xume, nền văn minh Ai cập, nền văn minh Trung hoa, nền văn minh Hy
lạp và nền văn minh La mã với kế toán đơn là chủ yếu, nhằm mục đích quản lý
của cải, tài sản của gia đình, bộ lạc và nhà nước thời kỳ này.
Phương pháp kế toán kép được sử dụng đầu tiên bởi các thương gia người Ý
như là một công cụ để kiểm soát, nhưng chắc chắn một điều là ở thời điểm này
các thương gia người Ý vẫn chưa thấy hết được các tiềm năng của phương pháp
kế toán kép.
Người có công lớn nhất cho việc phổ biến phương pháp kế toán kép phải kể
đến là Luca Pacioli, một nhà tu người Pháp với quyển sách “Summa de
Arithmetica, Geometria, Proportioni et Proportionalita” được xuất bản năm 1494
cho thấy bản chất của việc thực hiện phương pháp kế toán kép ở Venice, mà được
mọi người biết đến như là “Phương pháp của Venice” hay “Phương pháp của
người Ý”. Ông không phải là người phát minh ra phương pháp kế toán kép, mà
chỉ mô tả những gì được thực hiện tại thời điểm này.
“Phương pháp của người Ý” được phát triển rộng sang các quốc gia ở Châu
Âu vào thế kỷ 16-17, sau đó tiếp tục phát triển và trở thành khuôn mẫu kế toán
kép với những nét đặc trưng mới mà được vận dụng cho đến ngày nay.

2

1.1.2. Định nghĩa về kế toán
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kế toán, mỗi một định nghĩa cố gắng
vạch rõ phạm vi nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, việc phát triển một định nghĩa
kế toán đơn lẻ luôn gặp phải những khó khăn:

Khó khăn đầu tiên là do bản chất năng động của kế toán. Glautier và
Underdown (1986, p.3) đã cho rằng chính sự thay đổi của môi trường đã liên tục
mở rộng ranh giới của kế toán làm cho phạm vi ban đầu của định nghĩa trở nên
không chắc chắn.
Khó khăn thứ hai là hệ quả của khó khăn thứ nhất, đó chính là vấn đề về ranh
giới. Kế toán có thể được mô tả đồng thời là chiết trung và không giới hạn phạm
vi, vì thế các định nghĩa về kế toán có khuynh hướng mờ nhạt và thay đổi ranh
giới.
Khó khăn thứ ba bắt nguồn từ những tranh luận xoay quanh vấn đề kế toán là
một khoa học hay nghệ thuật. Theo Ủy ban thuật ngữ của Học viện kế toán viên
công chứng của Mỹ (1953) cho rằng “kế toán là một nghệ thuật ghi chép, sắp xếp
và tổng hợp theo một cách có ý nghĩa và thể hiện dưới dạng tiền tệ, các giao dịch
và các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhằm thể hiện được đặc điểm tài chính và từ đó
làm sáng tỏ những kết quả”
Việc sử dụng các phương pháp khoa học trong công tác kế toán ngày càng
tăng, đây chính là cơ sở cho rằng kế toán là một khoa học ứng dụng – là một khoa
học do bởi phương pháp của kế toán, là một ứng dụng do bởi tính định hướng mục
tiêu của kế toán.(Mattessich, 1984; Steele, 1991; Belkaoui, 1996). Như vậy rõ
ràng kế toán không chỉ đơn thuần là một nghệ thuật.
Gần đây hơn, Hiệp hội các nhà kế toán Mỹ (AAA) (1966, p.1) đã đưa ra một
định nghĩa rộng hơn về kế toán: “Kế toán là quá trình nhận dạng, đo lường và
truyền đạt thông tin kinh tế cho người sử dụng ra quyết định”.
3

Tuy nhiên, định nghĩa này không chuyên sâu vì thông tin kinh tế mà định
nghĩa đề cập rộng hơn nhiều so với thông tin mà kế toán cung cấp.
Năm 1970, Ủy ban nguyên tắc kế toán Mỹ (APB) định nghĩa “Kế toán là một
hoạt động dịch vụ. Chức năng của nó là cung cấp các thông tin tài chính định
lượng về các nghiệp vụ kinh tế hữu ích cho việc ra các quyết định kinh tế,..”
Mặc dù định nghĩa này đủ rộng để hoàn thiện phạm vi của kế toán, tuy nhiên

một hạn chế nghiêm trọng là kế toán chỉ cung cấp những thông tin định lượng,
trong khi khuynh hướng hiện đại thì kế toán còn cung cấp cả những thông tin định
tính.
Một định nghĩa toàn diện hơn được đưa ra bởi Ansari, Bell, Klammer &
Lawrence (1997,p.2), tác giả cho rằng kế toán bao gồm 4 ý:
- Bản chất là một quá trình đo lường,
- Phạm vi bao gồm cả những thông tin định lượng và định tính,
- Mục đích là giúp cho tổ chức đạt được những mục tiêu mang tính chiến
lược,
- Những thuộc tính là nâng cao sự hiểu biết về các hiện tượng được đo lường
và cung cấp thông tin cho việc ra quyết định.
Định nghĩa này có sức thuyết phục mạnh hơn khi cho rằng thông tin của kế
toán bao gồm cả thông tin định lượng và định tính, cũng như nhấn mạnh tầm quan
trọng của kế toán đối với mục tiêu mang tính chiến lược của tổ chức.
Tóm lại, kế toán là một quá trình thu thập, đo lường, ghi chép và truyền đạt
những thông tin cần thiết cho người sử dụng thông tin ra các quyết định.
1.1.3. Chức năng và mục tiêu của kế toán
1.2.1.1. Các chức năng của kế toán:
Hoạt động kế toán có hai chức năng cơ bản, đó là chức năng thông tin và
chức năng kiểm tra.
4

- Với chức năng thông tin: Kế toán sẽ cung cấp các thông tin hữu ích cho
việc ra các quyết định liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp,
đánh giá hiệu quả tổ chức và lãnh đạo.
- Với chức năng kiểm tra: Kế toán thực hiện việc kiểm tra, giám sát các hoạt
động kinh tế tài chính, tình hình sử dụng và bảo quản tài sản trong doanh nghiệp,
đảm bảo cho các hoạt động của doanh nghiệp không bị gián đoạn, đạt được các
mục tiêu đã đề ra, đồng thời tuân thủ pháp luật và sự quản lý của nhà nước.
1.1.3.2. Mục tiêu cơ bản của kế toán:

Mục tiêu cơ bản của kế toán là cung cấp những thông tin hữu ích (bao gồm
cả những thông tin tài chính và phi tài chính) về hoạt động của doanh nghiệp cho
những người sử dụng bên trong và bên ngoài làm cơ sở ra các quyết định kinh tế.
1.2. Tổng quan về kế toán quản trị
1.2.1. Lược sử hình thành và phát triển của kế toán quản trị
1.2.1.1. Trên thế giới:
Về sự phát triển của kế toán quản trị, các nhà nghiên cứu về tập quán kinh
doanh đã kết luận rằng ngành dệt ở Mỹ suốt những năm đầu thế kỷ 19 là tiêu biểu
cho thời kỳ chuyển tiếp từ kế toán thương nghiệp sang kế toán công nghiệp, và
đặc trưng là các nhà máy dệt với quy mô lớn. Trước thời điểm này kế toán thuộc
về trách nhiệm các nhà buôn với việc thiết lập rất đơn giản cho các thành phần của
báo cáo tài chính. Tuy nhiên, do bởi công nghiệp dệt phát triển nhanh chóng, cạnh
tranh ngày một khốc liệt hơn ở cả thị trường trong nước lẫn ngoài nước nên các
nhà quản lý cần có những thông tin kế toán rõ ràng, cụ thể hơn so với những thông
tin mà từ trước đến giờ được cung cấp cho các doanh nghiệp nhỏ, mang tính gia
đình.
Hệ thống các nhà máy dệt ở Lowell được các nhà nghiên cứu cho rằng đã áp
dụng kế toán quản trị đầu tiên ở Mỹ, các nhà máy này thuộc những công ty cổ
phần được thành lập bởi một nhóm các thương gia ở Boston năm 1814. Nghiên
5

cứu cho thấy sự tương tác và trao đổi thư từ giữa thủ quỹ, quản lý nhà máy và
giám đốc liên quan đến hoạt động của các nhà máy được mở rộng và chứng minh
bằng tài liệu, chứng từ liên quan - điều này làm nổi bật lên ý nghĩa quan trọng của
những thông tin kế toán.
Mặc dù không có những nhà quản lý phân cấp cho mỗi nhà máy, thay vào đó
là những đốc công sẽ có chức năng như là người đứng đầu và chịu trách nhiệm
quản lý nhà máy về sản lượng sản xuất, chất lượng sản phẩm, nhân sự nhà máy và
giữ sổ sách. Như vậy, thời điểm này những đốc công chính là thành viên quản trị
nồng cốt.

Đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt ở thị trường trong và ngoài nước mà đánh
dấu của nó là sự giảm giá liên tục trên thị trường và sự du nhập những công nghệ
dệt tiên tiến từ nước Anh nên các thông tin tài chính ở các nhà máy cần phải được
tuân thủ và cung cấp thường xuyên cho các cổ đông của công ty. Ví dụ, báo cáo
năm 1867 của Thủ quỹ cho Hội đồng quản trị công ty Lawrence bao gồm chi phí
lao động thường niên cho 4 bộ phận của quy trình sản xuất, tiền lãi cổ tức, tăng
trưởng vốn và chi phí cho việc sửa chữa và tái sinh,…
Theo các nhà nghiên cứu, các thủ tục và hệ thống báo cáo ở các nhà máy dệt
ở Lowell được chuẩn bị rất chi tiết và cung cấp thông tin quan trọng cho việc ra
các quyết định quản lý. Mặc dù vậy, mục đích và tính hữu dụng của các thông tin
chi phí trong thời gian này vẫn còn là một vấn đề không mấy chắc chắn đối với
các nhà nghiên cứu kế toán. Tuy nhiên, việc tồn tại những báo cáo chi phí rõ ràng
cho thấy các nhà quản lý sử dụng chúng trong việc phân bổ nguồn lực và ra các
quyết định dựa trên cơ sở khác biệt chi phí hợp lý, cho dù các báo cáo này còn
thiếu cơ sở để có thể xác định trách nhiệm liên quan đến lãng phí và tiêu hao vượt
định mức cho từng đối tượng cụ thể. Hơn nữa, xét trong bối cảnh kinh tế, công
nghệ và các yếu tố xã hội đương thời thì các báo cáo này đã cung cấp những thông
tin tài chính cần thiết và phát họa một bức tranh toàn cảnh về lãi-lỗ của công ty,
cụ thể:
6

- Báo cáo so sánh chi phí sản xuất: một trong những đặc điểm ấn tượng nhất
cho báo cáo của các nhà máy dệt ở Lowel là so sánh chi phí của các nhà máy ứng
với từng thời kỳ và từng dây chuyền sản xuất. Kết hợp tất cả các yếu tố này có thể
thấy rằng báo cáo so sánh chi phí có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác
nhau. Ví dụ, báo cáo năm 1827 cung cấp chi phí đơn vị và tổng chi phí cho từng
loại vải ở công ty Merricmack Manufacturing (MM), bao gồm các tính toán về
“hao phí” và “hao hụt thực sự” cho mỗi nhà máy, điều này cho thấy chất lượng
của sản phẩm luôn được đo lường một cách thường xuyên và yếu tố cạnh tranh đã
thiết lập nên các chỉ tiêu hao hụt. Báo cáo tổng kết năm 1828 biểu thị được lợi

nhuận cho mỗi nhà máy của MM, bởi vì mỗi nhà máy chỉ sản xuất một công đoạn
và khả năng sinh lời của mỗi công đoạn được xác định một cách rõ ràng. Ví dụ,
báo cáo năm 1830 gồm doanh thu cho từng loại vải; chi phí trực tiếp (sợi bông),
chi phí công đoạn chải, công đoạn xoay, công đoạn dệt; phân bổ chi phí chung và
chi phí sửa chữa; tổng lợi nhuận và chi phí trung bình cho mỗi yard sợi bông tính
cho mỗi nhà máy. Mặc dù vậy, các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng kế toán chi
phí ở những nhà máy dệt thế kỷ 19 đã tạo được sự phối hợp, kiểm soát và gia tăng
hiệu quả của các quy trình sản xuất nhiều công đoạn, nhưng chưa gắn kết được sự
nỗ lực thực hiện ở mỗi quy trình, mỗi bộ phận gắn với mục tiêu lợi nhuận tổng thể
của công ty.
Tóm lại, báo cáo so sánh chi phí sản xuất trong thời kỳ này là một kỹ thuật
quan trọng khuyến khích việc cắt giảm chi phí và nâng cao hiệu quả.
- Báo cáo lợi nhuận - chi phí đơn vị: thông tin chi phí chính xác là cần thiết
để duy trì mức lãi gộp hợp lý cho thành phẩm. Ví dụ, các báo cáo năm 1826 bao
gồm việc xác định chi phí cho các quy trình sản xuất và phân bổ chi phí cho các
loại vải có kiểu dáng, chủng loại khác nhau.
Trong một báo cáo mà quản lý nhà máy gửi cho giám đốc đã chứng minh
được chi phí đơn vị có ý nghĩa như thế nào trong việc phân bổ khả năng sản xuất
sản phẩm và quyết định thuê ngoài gia công. Ví dụ, tháng 6 năm 1830, khi nhu
7

cầu thị trường tăng 25%, các nhà quản lý của MM đã đề nghị thuê công ty
Hamiton thực hiện công đoạn tẩy trắng vải cho sản phẩm của họ.
- Các báo cáo chi tiêu khác: một vài báo cáo khác về chi phí cũng đáng được
chú ý. Một báo cáo 1830 chỉ ra các khoản chi vượt mức kế hoạch hàng năm về
tiền thưởng động viên; một báo cáo khác năm 1831 trình bày chênh lệch về sản
lượng khi các khung cửi hoạt động ở cường cao và cường độ trung bình, Tác giả
đã giám sát hoạt động của 80 khung cửi ở cường độ cao trong vòng 3 tuần làm
tăng thêm 3.083 yard so với hoạt động ở cường độ trung bình. Như vậy, việc gắn
kết chi phí với sự khác biệt của sản lượng sản xuất sẽ giúp cho các nhà quản lý

xác định được tác động về mặt tài chính của việc điều chỉnh tiền lương.
Hạn chế của các báo cáo trong thời kỳ này là thiếu chi phí tiêu chuẩn. Một số
nhà quản lý giải thích rằng lý do tại sao chi phí tiêu chuẩn, các chỉ tiêu cụ thể và
tính toán các chênh lệch không được thực hiện trong các nhà máy ở Lowell suốt
thời kỳ này là do hạn chế về kiến thức, sự quá độ liên tục và tốc độ phát triển
nhanh chóng của công nghệ đã ngăn cản việc cung cấp các dữ liệu cho việc thiết
lập các tiêu chuẩn chi phí. Tuy nhiên, các yếu tố như năng suất sản xuất tăng do
việc điều chỉnh tiền lương theo sản phẩm, tăng cường độ của máy móc thiết bị,
xác định rõ trách nhiệm đối với các bộ phận của quy trình và dựa vào thị trường
để định hướng tiến độ sản xuất và thuê mướn lao động là cần thiết cho một hệ
thống chi phí tiêu chuẩn.

Tóm lại, những báo cáo chi phí của các nhà máy ở Lowell được đánh giá là
toàn diện, tính toán chính xác và biểu thị rõ ràng về tính hữu dụng trong quản lý.
Bởi các báo cáo này cung cấp thông tin chí phí hỗ trợ cho việc ra các quyết định
trong nhiều lĩnh vực khác nhau của ban giám đốc, cho dù tư liệu nghiên cứu chưa
đầy đủ đã làm ít nhiều hạn chế hiểu biết về thực tế báo cáo ở các công ty trong
thời kỳ này. Một nhà nghiên cứu nổi tiếng kết luận rằng: những nhà quản lý ở
Lowell “ là những người khởi đầu cho sự phát triển các thủ tục kế toán quản trị”,
những báo cáo và phương pháp xác định chi phí đã đáp ứng một cách đầy đủ cho
8

nhu cầu quản lý các nhà máy ở Lowell, việc thiếu một số báo cáo như báo cáo chi
phí tiêu chuẩn, báo cáo phân tích chênh lệch nên được xem là do hạn chế về kiến
thức hay là một sự phát triển chưa đầy đủ.
Bắt đầu từ ngành dệt, kế toán quản trị được áp dụng rộng rãi ở các ngành
công nghiệp khác. Công ty Louisville & Nashville hoạt động trong ngành đường
sắt vào năm 1840, khi phạm vi hoạt động của công ty ngày càng mở rộng và công
việc quản lý ngày càng phức tạp, để có thể kiểm soát thu, chi trên địa bàn rộng lớn
công ty này đã chia kế toán thành hai bộ phận theo dõi chi phí và thu nhập theo

từng khu vực để lập báo cáo cho các nhà quản trị. Trên cơ sở của hệ thống hạch
toán chi phí, Albert Fink- phó chủ tịch công ty là người đầu tiên tính toán được
chi phí cho 1 tấn/km vận chuyển vào cuối thập kỷ 60 của thế kỷ này.
Trong ngành luyện kim, kế toán quản trị cũng được áp dụng từ rất sớm.
Andrew Carnegie một doanh nhân lớn của thế kỷ XIX đã áp dụng kế toán quản trị
để quản lý doanh nghiệp của mình từ năm 1872. Dựa trên lập luận việc tiêu hao
chi phí như nhau thì phải tạo ra được lợi nhuận bằng nhau, ông đã chia doanh
nghiệp của mình thành nhiều bộ phận để theo dõi và hạch toán. Carnegie đã kiểm
soát và đánh giá hoạt động của từng bộ phận thông qua các báo cáo sử dụng vật
tư, nhân công hàng tháng. Hơn nữa, việc kiểm soát chất lượng và cơ cấu vật liệu
của từng loại sản phẩm cũng được ông thực hiện trong quá trình sản xuất. Kết quả
là Carmegie đã giảm được chi phí thấp hơn các đối thủ cảnh tranh, phát huy hết
các khả năng sản xuất và đưa ra được giá bán hợp lý.
Kế toán quản trị tiếp tục phát triển mạnh vào những năm đầu của thế kỷ XX
mà Pierre du Pont, Donaldson Brown và AlFred Sloan là những người đóng góp
nhiều cho sự phát triển của kế toán quản trị trong giai đoạn này. Để có thể dễ dàng
kiểm soát và đánh giá hiệu quả hoạt động của từng bộ phận, Du Pont chia công ty
thành các bộ phận nhỏ và thay đổi từ mô hình quản lý tập trung sang mô hình
quản trị phân quyền. Trong mô hình quản trị mới, mỗi bộ phận sẽ do một nhà
quản trị đứng đầu chịu trách nhiệm quản lý và điều hành. Các bộ phận và các
9

phòng ban trong công ty được giao quyền tự chủ, tự ra quyết định và tự chịu trách
nhiệm trong định giá, liên kết sản xuất, tìm kiếm khách hàng, thiết kế sản phẩm,
mua vật tư và điều hành quá trình sản xuất. Nhờ áp dụng cơ chế phân quyền, công
ty tạo điều kiện cho các nhà quản trị phát huy hết năng lực và sự chủ động sáng
tạo của họ trong điều kiện được trực tiếp tiếp cận với thông tin do kế toán quản trị
cung cấp để ra các quyết định phù hợp và kịp thời, tăng khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường.
Nghiên cứu sự phát triển của kế toán quản trị cho thấy, kế toán quản trị hình

thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu thông tin quản trị doanh nghiệp. Môi
trường cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp mở rộng và phát
triển thị trường, giảm chi phí nâng cao lợi nhuận. Kế toán quản trị là công cụ hữu
hiệu cho phép các nhà quản trị kiểm soát quá trình sản xuất, đánh giá hiệu quả
hoạt động của từng bộ phận trong doanh nghiệp để có các quyết định phù hợp và
hiệu quả.
1.2.1.2. Ở nước ta:
* Giai đoạn trước năm 1995:
Trong suốt thời gian này hệ thống kế toán Việt nam chỉ nhằm điều chỉnh
hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Các báo cáo chủ yếu phục vụ cho công
tác điều hành, chỉ đạo của cơ quan quản lý cấp trên, tuy nhiên cũng đòi hỏi chi
tiết, cụ thể như chi phí sản xuất theo yếu tố, giá thành theo khoản mục, các yếu tố
làm tăng giảm giá thành,…các báo cáo giai đoạn này cũng có một số nội dung
tương đồng với các báo cáo kế toán quản trị hiện nay. Tóm lại, có thể nói trong
giai này về mặt hình thức kế toán quản trị có những biểu hiện nhất định, nhưng về
mặt bản chất thì chưa thể gọi là kế toán quản trị vì các báo cáo không phục trực
tiếp cho các nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp.
* Giai đoạn từ 1996 đến nay:
Từ ngày 01/01/1996, chế độ kế toán ban hành theo Quyết định 1141/QĐ-
BTC/CĐKT của Bộ trưởng Bộ Tài chính có hiệu lực và áp dụng thống nhất trong
10

cả nước, với những quy định đầy đủ về hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống tài
khoản kế toán, hệ thống sổ sách kế toán và hệ thống báo cáo kế toán. Hệ thống
chứng từ kế toán gồm 2 loại: chứng từ bắt buộc và chứng từ hướng dẫn, cho phép
doanh nghiệp tự thiết kế, thay đổi một số chỉ tiêu trên chứng từ cho phù hợp với
yêu cầu quản lý khác nhau ở mỗi doanh nghiệp. Hệ thống tài khoản với những
quy định trong việc hướng dẫn thiết lập các tài khoản cấp 2, 3 để theo dõi chi tiết
doanh thu, chi phí và các loại tài sản khác nhau. Hệ thống sổ sách kế toán với việc
quy định mở sổ chi tiết theo dõi các đối tượng kế toán phức tạp và nhiều biến

động để có thể ghi lại số liệu quá khứ của doanh nghiệp một cách đầy đủ theo thời
gian. Như vậy, nội dung của chế độ kế toán ban hành theo Quyết định 1141/QĐ-
BTC có những biểu hiện khá rõ nét của kế toán quản trị.
Nhận thức sự cần thiết của thông tin kế toán quản trị trong hệ thống thông tin
của doanh nghiệp tăng dần theo từng bước đổi mới của nền kinh tế. Tuy nhiên,
tiếp cận và vận dụng kế toán quản trị chỉ bắt đầu khi có sự gia tăng cả về số lượng
và chất lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà đặc biệt là các
công ty đa quốc gia.
Cùng với sự vận động tất yếu của nền kinh tế, nhận thức được vai trò của kế
toán quản trị trong việc cung cấp thông tin cho các nhà quản lý doanh nghiệp,
Luật kế toán được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp
thứ 3 thông qua ngày 17/6/2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2004 đã có
những quy định về kế toán quản trị như:
- Tại điều 4 khoản 3 định nghĩa “Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý,
phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết
định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”.
- Tại điều 10 khoản 1 quy định “Kế toán ở đơn vị kế toán gồm kế toán tài
chính và kế toán quản trị”.
Như vậy, đây là lần đầu tiên trong hệ thống Luật điều chỉnh về hoạt động kế
toán ở Việt Nam đề cập đến kế toán quản trị, những quy định này tuy chưa đầy đủ,
11

cụ thể về kế toán quản trị nhưng đó là những cơ sở ban đầu rất quan trọng để thực
hành kế toán quản trị ở doanh nghiệp.
1.2.2. Vai trò của kế toán quản trị:
- Hỗ trợ cho công tác lập kế hoạch:
Kế toán quản trị hỗ trợ lập kế hoạch bằng việc cung cấp những thông tin,
những thông tin này có thể bao gồm giá cả, các kế hoạch chi tiêu, chi phí sản xuất
sản phẩm hay cạnh tranh trên thị trường. Để làm cơ sở cho việc thiết lập kế hoạch
ngắn hạn về ngân sách, kế toán quản trị cung cấp những thông tin lịch sử về chi

phí và doanh thu.
- Hỗ trợ cho công tác kiểm soát:
Kế toán quản trị cung cấp các báo cáo so sánh thực hiện thực tế so với kế
hoạch, qua đó làm nổi bật lên những hoạt động không tuân thủ kế hoạch đề ra.
- Hỗ trợ cho công tác tổ chức:
Để đảm bảo hệ thống kế toán thích hợp với cấu trúc tổ chức, kế toán quản trị
góp phần tăng cường, cũng cố các mục tiêu của cơ cấu tổ chức.
- Hỗ trợ trong việc thúc đẩy các hoạt động:
Các ngân sách được chuẩn bị bởi kế toán quản trị nhằm phục vụ cho việc
thúc đẩy các nhà quản lý và các thuộc cấp trong việc nổ lực để đạt được các mục
tiêu đề ra của tổ chức. Những mục tiêu chính thức thích hợp cho việc thúc đẩy
hơn là các diễn giải không rỏ ràng.
Các báo cáo thực hiện được kế toán quản trị đưa ra nhằm mục đích kiểm soát
cũng như thúc đẩy thông qua việc chuyển giao các thông tin liên quan đến các
mục tiêu đã thiết lập.
- Hổ trợ cho việc ra quyết định:
Kế toán quản trị là một vị trí thiết yếu cho việc ra quyết định của tổ chức. Kế
toán quản trị thu thập, phân tích dữ liệu và đưa ra các thông tin giúp những nhà
quản trị ra các quyết định quản lý.

12

1.3. Phương pháp kế toán chi phí dựa trên mức độ hoạt động (Activity Based
Costing-ABC)
1.3.1. Tiến trình phát triển của phương pháp ABC
Kết toán quản trị đã chuyển đổi một cách mạnh mẽ trong hơn 10 năm trở lại
đây. Quyển sách “Relevant cost: The Rise and Fall of Management Accounting”
của 2 tác giả Johnson và Kaplan năm 1987 đã nhận định về sự phát triển của kế
toán quản trị cũng như thảo luận các vấn đề liên quan được xem là mốc phát triển
của kế toán quản trị. Những chuyển đổi có thể nhận thấy rõ ở nhiều hướng như:

những kỹ thuật mới về kế toán quản trị; sắp xếp, tổ chức lại hệ thống kế toán theo
hướng mới và những ý tưởng mới về vai trò của kế toán quản trị trong một tổ
chức. Liên tục 10-15 năm trở lại đây rất nhiều ấn phẩm về kế toán chi phí được
phát hành, trong đó chủ yếu đề cập đến phương pháp ABC.
Một số lượng lớn các ấn phẩm viết về phương pháp ABC dưới hình thức
những bài báo ngắn đăng tải trên các tạp chí chuyên đề như Accoutancy, Harvard
Business Review, Journal of Cost Management, Management Accounting
(London) và Management Accounting (New York). Các bài báo này có ý nghĩa
chính yếu nhất khi xem xét sự tồn tại của toàn bộ các ấn phẩm viết về ABC, khi
nó mô tả, bình luận về ABC trước đây và sự phát triển của học thuyết ABC cũng
như gia tăng nổ lực thực hiện phương pháp ABC. Những năm 1990s, ABC được
xem là đề tài rất phổ biến trong nhiều hội nghị các nhà quản lý và các khóa đào
tạo, huấn luyện và đặc biệt là đề tài rất nóng cho việc thực hiện quản lý trong thực
tiễn.
1.3.2. So sánh phương pháp ABC với phương pháp kế toán chi phí truyền
thống (traditional costing accounting-TCA)
 Điểm giống nhau:
Theo cách truyền thống, chi phí được phân bổ cho sản phẩm chủ yếu dựa vào
sự phân chia chi phí trực tiếp hoặc chi phí gián tiếp. Chi phí nguyên vật liệu được
xem là một loại chi phí trực tiếp được tính trực tiếp cho sản phẩm (thông qua định
mức nguyên vật liệu hay các cách thức khác). Chi phí nhân công trực tiếp thì cũng
13

được xem là chi phí liên quan trực tiếp đến sản phẩm và được phân bổ dựa trên
giờ công lao động. Chi phí sản xuất chung là vấn đề lớn nhất cũng được tính cho
sản phẩm thông qua giờ công lao động và giờ máy hoạt động. Tiêu biểu là quy
trình phân bổ 2 bước được phát họa bên dưới (Sơ đồ 1.1)
Nhìn chung, ABC cũng theo phương pháp phân bổ 2 bước (Sơ đồ 1.2)để tính
chi phí cho sản phẩm sản xuất, ABC cũng tập hợp các yếu tố chi phí vào một tổ
hợp chi phí (cost pool) - và sử dụng cơ sở (cost driver) hợp lý để phân bổ chi phí

cho sản phẩm. Tuy nhiên, thực tế không phải lúc nào cũng có thể tập hợp tất cả
các chi phí vào các tổ hợp chi phí dựa trên sự phân chia các hoạt động, mà có
những trường hợp chi phí sản xuất chung được phân bổ dựa trên những cơ sở bất
kỳ.
Do đó, ABC và TCA thực chất là không khác biệt, nhưng cách tập hợp và
phân bổ chi phí thì khác nhau cơ bản ở hai phương pháp

Sơ đồ 1.1 - Tập hợp và phân bổ chi phí theo phương pháp truyền thống








Sơ đồ 1.2 - Tập hợp và phân bổ chi phí dựa trên mức độ hoạt động









 Điểm khác nhau:
NVL
LĐ SXC
TRUNG TÂM

CHI PHÍ
CƠ SỞ PHÂN BỔ
TRUNG TÂM
CHI PHÍ
CÁC SẢN PHẨM
NVL

SXC
TRUNG TÂM
HOẠT ĐỘNG
CÁC SẢN PH ẨM
TRUNG TÂM
HOẠT ĐỘNG
TRUNG TÂM
HOẠT ĐỘNG
CƠ SỞ PHÂN
BỔ

CƠ SỞ PHÂN
BỔ

CƠ SỞ PHÂN
BỔ
CƠ SỞ PHÂN
BỔ
TRUNG TÂM
HOẠT ĐỘNG
14

9 Trung tâm chi phí/trung tâm hoạt động (cost center/activity center)

Theo cách truyền thống, chi phí được tập hợp vào các trung tâm chi phí vì
các trung tâm này dựa trên việc thiết lập theo chức năng hoặc theo mục đích tổ
chức nên sẽ thuận tiện trong việc thu thập chi phí phát sinh ở trung tâm.
Theo phương pháp ABC, các hoạt động của công ty là đối tượng phân tích và
các chi phí được tính cho các hoạt động này. Các hoạt động với tổ hợp chi phí
(cost pool) thì hẹp hơn nhiều so với trung tâm chi phí (cost center). Ví dụ, trung
tâm gia công cơ khí ở một nhà mày có thể phân chia ra: khoan, tiện, lắp ghép….,
các hoạt động ứng với các quá trình này và các chi phí liên quan là khác nhau ở
những sản phẩm khác nhau. Có rất nhiều cách xác định các hoạt động, tuy nhiên
có thể nói rằng một tổ chức sẽ xác định các hoạt động được mô tả phù hợp với các
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều hoạt động xảy ra ở doanh
nghiệp mà không có một chút liên quan gì đến sản phẩm, thí dụ như hoạt động
đào tạo, huấn luyện. Chi phí của các hoạt động gián tiếp này được tính cho các
hoạt động chính yếu mà có liên quan trực tiếp đến sản phẩm.
9 Cơ sở phân bổ bất kỳ/cơ sở phân bổ phù hợp với hoạt động phát sinh chi phí
(arbitrary recovery bases/cost dirvers):
Theo cách truyền thống, chi phí được phân bổ chủ yếu dựa vào giờ công lao
động hoặc giờ hoạt động của máy. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp cơ sở phân bổ
này là tùy ý (kém thuyết phục) và không có mối liên hệ gì đối với việc sử dụng
nguồn lực, làm cho chi phí bị méo mó, không đáng tin cây.
Một trong những lý luận mạnh mẽ ủng hộ phương pháp ABC cho rằng ứng
xử chi phí cần phải được hiểu một cách thấu đáo để có thể thực hiện tốt hệ thống
ABC. Hai tác giả Ward và Patel ủng hộ quan điểm này khi cho rằng “giá trị lớn
nhất của phương pháp ABC chính là sự am hiểu về ứng xử của chi phí chung và
mối liên hệ của nó với sản phẩm, dịch vụ, khách hàng và thị trường”
Việc phân tích và am hiểu cấu trúc chi phí của tổ chức có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định những cơ sở phân bổ phù hợp (cost drivers) như thể là những
15

yếu tố tác động đến ứng xử của chi phí. Nhiều cơ sở phân bổ chi phí được xác

định phù hợp cho một tổ chức không những có thể giải thích tốt hơn về các chi phí
phát sinh mà còn gia tăng đáng kể khả năng quản lý chi phí. Ví dụ, các cơ sở phân
bổ như: số đơn đặt hàng, số lần vận hành máy, thời gian vận hành máy, diện tích
mặt bằng sử dụng,…
Theo cách truyền thống, chi phí tính cho sản phẩm dựa trên giờ công lao
động hoặc giờ máy chạy hay dựa trên số lượng các sản phẩm khác nhau được sản
xuất, điều này chắc chắn sẽ dẫn đến sự sai lệch về chi phí sản phẩm.
9 Sự tập trung vào chi phí:
Hệ thống ABC khác so với hệ thống TCA ở chổ là nó tập trung vào tất cả các
chi phí chứ không chỉ là các chi phí sản xuất sản phẩm. Một bằng chứng kinh
nghiệm chỉ ra rằng chi phí không liên quan đến sản xuất sản phẩm tăng nhanh hơn
chi phí sản xuất ở nhiều tổ chức, nên một hệ thống xác định chi phí chỉ tập trung
chủ yếu vào chi phí sản xuất thì không thể tính toán được chi phí thực tế của tổ
chức, những chi phí khác như chi phí quản lý, chi phí quảng cáo, chi phí tài
chính…cũng nên được tính đến một cách phù hợp cho sản phẩm, dịch vụ hay
khách hàng.
Đối tượng tập hợp chi phí trước đây là những sản phẩm hữu hình, tuy nhiên
theo phương pháp ABC thì bao gồm cả những sản phẩm vô hình hoăc dịch vụ
được cung cấp bởi tổ chức. Những đối tượng tập hợp chi phí khác tương thích với
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thể là khách hàng, kênh phân phối,
đơn đặt hàng hoặc bất cứ thứ gì mà tổ chức muốn tính chi phí.
9 Sự dồn tích chi phí/sự quản lý chi phí (cost accummulation/cost
management)
Hệ thống kế toán chi phí truyền thống chủ yếu được khai thác dựa trên việc
dồn tích và đo lường chi phí. Nhiều hệ thống kế toán đơn thuần chỉ để cung cấp
phương tiện cho việc định giá tài sản với mục đích chủ yếu là báo cáo cho các đối
tượng sử dụng bên ngoài. Yêu cầu hiện nay là phải chuyển từ sự đơn thuần là dồn
tích chi phí sang quản lý chi phí, thiết lập một hệ thống kế toán mà có thể cung
16


cấp những thông tin thích hợp không chỉ cho việc kiểm soát quá trình hoạt động
và tài sản của tổ chức mà còn cung cấp thông tin cho việc ra các quyết định chiến
lược. Sự phê bình gay gắt đối với hệ thống truyền thống là không cung cấp được
các thông tin về các hoạt động lãng phí, các kênh quảng cáo không hiệu quả, các
khách hàng không sinh lợi…Do đó, một trong những lý do chủ yếu cho việc phát
triển một hệ thống ABC đó chính là quản lý chi phí tốt hơn.
9 Chuỗi giá trị/phân tích chức năng (Value chain/functional analysis)
Các doanh nghiệp hầu hết tổ chức và quản lý theo các tuyến chức năng như
là sản xuất, marketing, tài chính và quản trị...Quá trình sản xuất và phân phối sản
phẩm là sự kết hợp đang xen giữa các tuyến chức năng nhằm đạt được mục tiêu
của tổ chức.
Tuy nhiên, nếu hệ thống xác định chi phí được thiết kế dựa theo các tuyến
chức năng thì chi phí của quá trình hoạt động và sản xuất sản phẩm có thể khó xác
định rõ ràng.
Porter đề nghị nên vận dụng phương pháp chuỗi giá trị cho việc phân tích chi
phí của tổ chức.
Chuỗi giá trị được hiểu là một sự mô tả các quá trình nhờ đó mà giá trị được
cộng thêm vào những nguồn lực đầu vào để chuyển đổi thành sản phẩm và dịch
vụ. Các hoạt động trong chuỗi giá trị gồm hoạt động chính như: lưu trữ nguyên
vật liệu, sản xuất, phân phối, quảng cáo, sửa chữa, bảo trì và hoạt động phụ như:
cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật (kế toán, tài chính, pháp lý và quản trị), nhân sự
(thuê mướn, sa thải, đào tạo và huấn luyện), công nghệ, kỹ thuật (công nghệ thông
tin, nghiên cứu, phát triển và thiết kế sản phẩm) và mua hàng. Nếu chuỗi giá trị
được áp dụng vào quy trình kế toán thì thông qua các hoạt động liên quan việc
tính chi phí cho các sản phẩm trở nên rõ ràng hơn. Một công ty được miêu tả như
là một mạng lưới các quá trình tương tác lẫn nhau nhằm đạt được mục tiêu đề ra
của tổ chức.
17

Thực tế, phân tích chi tiết tất cả quy trình, hoạt động và mối quan hệ lẫn

nhau của chúng phải được đảm bảo, có như vậy thì hệ thống kế toán sẽ phù hợp và
hữu dụng cho mục đích quản lý. Điều này thì không thể có ở những hệ thống kế
toán truyền thống.
Đối với một công ty, để nâng cao tính cạnh tranh thì cần phải có một chuỗi
giá trị mà chỉ việc giảm thiểu số lượng các hoạt động trong chuỗi giá trị sẽ giảm
chi phí ở mức thấp nhất. Một hệ thống ABC đặc biệt được thiết lập để đạt được
chuỗi giá trị với chi phí sử dụng cho là thấp nhất.
9 Kỳ kế toán (accouting horizon)
Kỳ kế toán thông thường được giới hạn là kỳ kế toán năm và một số quyết
định quan trọng được dựa trên những số liệu cung cấp hàng tháng. Xuất phát từ
yêu cầu thực tế, cần xác định rõ chi phí kỳ kế toán và chi phí sản phẩm. Kỳ kế
toán năm trong nhiều tổ chức không liên quan đến chu kỳ của sản phẩm hoặc khả
năng sản xuất. Các chi phí như khấu hao được tính dựa trên những chính sách kế
toán mà không có phụ thuộc vào nguồn lực thực tế sử dụng. Điều này cho thấy
một quan điểm rất hẹp, mà có thể không đúng trong những ngành công nghiệp
như công nghiệp sản xuất ôtô khi chu kỳ của sản phẩm có thể lên đến 5 năm.
Cách tiếp cận trong một thời kỳ ngắn như thế này bị phê bình gay gắt trong
nhiều ấn phẩm gần đây về sự phân chia cứng nhắc chi phí cố định và chi phí biến
đổi. Cooper va Kaplan cho rằng những chi phí cố định trong ngắn hạn có thể là
chi phí biến đổi trong dài hạn, theo quan điểm này có thể cũng tác động đến
những quan điểm quản lý chi phí. Họ cũng chỉ ra rằng tất cả các quyết định liên
quan đến sản phẩm như giới thiệu sản phẩm, quyết định giá, quyết định ngừng sản
xuất...là thời kỳ dài hạn.
9 Đo lường chất lượng và kết quả thực hiện (Quality and performance
measurement)
Những chỉ tiêu đo lường chất lượng và kết quả thực hiện về bản chất là chỉ
tiêu phi tài chính và chủ yếu bắt nguồn từ các hệ thống hỗ trợ như: Lập kế hoạch
nguồn lực sản xuất, hàng tồn kho và vốn vay. Các thước đo này thường không
18


được tích hợp trong hệ thống kế toán. Những hệ thống đánh giá kết quả thực hiện
ngoại trừ phương pháp đánh giá tài chính thông thường đã không tạo thành một bộ
phận đầy đủ của hệ thống báo cáo quản trị.
Sự phát triển về kỹ thuật cơ sở dữ liệu tạo ra sự tích hợp cấu trúc hệ thống.
Tuy nhiên, kỹ thuật kế toán và đặc biệt là sự phát triển hệ thống sổ sách thì chậm
hơn rất nhiều so với các kỹ thuật khác. Điều này đặt ra cho công ty một nghi vấn
rằng liệu hệ thống mà chỉ đơn thuần cung cấp những bảng tóm tắt và hợp nhất các
đặc điểm tài chính của tổ chức là đầy đủ hay chưa?
Một hệ thống hiện đại cung cấp một hệ thống thông tin mà có thể đánh giá
được toàn bộ quá trình thực hiện của tổ chức. Thật không thể tin rằng, một hệ
thống kế toán đơn thuần chỉ phản ảnh một bộ phận thông tin về tổ chức sẽ có thể
tồn tại trước những thử thách của thế kỷ 21. Trong tương lai chức năng cung cấp
thông tin kế toán rất có thể bị lấn áp bởi các chức năng công nghệ thông tin và kỹ
thuật.
Người ta cho rằng, đánh giá kết quả thực hiện của bất kỳ sự kiện hay giao
dịch nào sẽ không đầy đủ nếu không có một kết luận về thời gian hoặc chu kỳ sản
xuất tối thiểu, cường độ sản xuất và chất lượng sản phẩm. Hệ thống kế toán nên
thông báo những yếu tố này thật đầy đủ để có thể duy trì sự thích ứng.
Để có một cái nhìn toàn diện hơn về phương pháp ABC phải xét đến những
mặt thuận lợi và không thuận lợi của hệ thống ABC.
1.3.3. Một số điểm thuận lợi và và không thuận lợi trong việc vận dụng
phương pháp ABC
 Những điểm thuận lợi:
- Khả năng quản lý chi phí của phương pháp ABC được đánh giá là tốt hơn
so với phương pháp TCA
- Phương pháp ABC tập trung đa chiều vào chi phí, điều này có thể thấy rõ
ràng ở chi phí chung. Hầu hết hệ thống ABC cung cấp một báo cáo toàn diện, dễ
hiểu về những cấu trúc chi phí, mà hệ thống TCA không thể cung cấp được.
19


- Quản lý các hoạt động sẽ dẫn đến việc tái cấu trúc lại chuỗi giá trị với chi
phí thấp nhất.
- Khả năng sinh lợi từ khách hàng được xem là một sự mở rộng hợp lý của
phương pháp ABC, thông qua việc cung cấp những triển vọng khác nhau về lợi
nhuận khi mà lợi nhuận thực sự mang lại từ khách hàng chứ không phải từ sản
phẩm.
- Sự vận dụng hệ thống ABC yêu cầu cần phải có một sự hiểu biết thấu đáo
về cấu trúc chi phí của một tổ chức, mà thiết lập mô hình chi phí (cost modelling)
và chi phí mục tiêu (target costing) có thể thực hiện mà không có một yếu tố bất
thường nào xảy ra.
- Một số quy trình quản lý như: quản lý chất lượng, quản lý thời gian và quản
lý năng lực sản xuất được thực hiện một cách dễ dàng hơn bởi một hệ thống ABC.
- Quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh có thể chuyển đổi từ quản lý theo
chức năng sang quản lý theo quy trình, mà sẽ phản ánh tốt hơn về chức năng thực
sự của tổ chức.
- Cơ sở phân bổ (cost driver) dựa trên những thủ tục rất chi tiết và hợp lý nên
đảm bảo mức độ tin cậy rất cao vào chi phí.
- Thuận lợi quan trọng nhất của hệ thống ABC là sự hấp dẫn của nó với hệ
thống xác định chi phí tiến bộ, phản ảnh một cách riêng biệt, duy nhất và tính
logic của các quy trình sản xuất kinh doanh. Nhiều hệ thống ABC không được
khai thác bởi kế toán mà do bởi những kỹ sư, nhân viên marketing, người quản lý
hàng tồn kho,...
- Đối với những nhà máy sản xuất sản phẩm với sản lượng biến động,
phương pháp ABC sẽ tính được sự khác biệt về chi phí đối với các dây chuyền sản
xuất khác nhau trong 2 trường hợp sản lượng thấp và sản lượng cao, trong khi đó
phương pháp TCA sẽ cào bằng chi phí trong trường hợp này.
 Những điểm không thuận lợi:
- Hệ thống ABC chắc chắn là phức tạp hơn nhiều so với phương pháp truyền
thống. Để có thể cung cấp chi tiết về cấu trúc chi phí đòi hỏi một khối lượng công
20


việc phân tích rất lớn được thực hiện. Kế hoạch phải được thiết lập một cách kỹ
lưỡng và chu đáo, quy trình quản lý chi phí tỉ mỉ hơn sẽ gia tăng yếu tố đầu vào
(tăng chi phí).
- Một hệ thống kế toán phức tạp hơn rất nhiều được triễn khai trong khi tổ
chức không có đủ nhân sự hoặc chuyên gia để quản lý, điều này dễ dàng dẫn đến
sự thiếu tin tưởng vào hệ thống do bởi các thông tin thiếu tin cậy.
Tóm lại, việc tập hợp chi phí có ý nghĩa thiết thực trong việc đánh giá đúng
thực tế sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp cũng như đưa ra các quyết định đầu
tư và giá bán hợp lý. Trong khi, các phương pháp truyền thống phân bổ chi phí
dựa trên tiêu thức đơn và ít thể hiện được mối quan hệ nhân quả thì phương pháp
ABC dựa trên hệ thống các tiêu thức phức hợp phản ánh rõ ràng mối liên hệ nhân
quả giữa đối tượng muốn tính chi phí và chi phí gián tiếp. Việc lựa chọn phương
pháp nào còn tùy thuộc vào hệ thống tập hợp chi phí ở mỗi doanh nghiệp mà thực
chất là từ yêu cầu quản lý của các nhà quản trị ở mỗi doanh nghiệp.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, luận văn đã tiến hành nghiên cứu về lịch sử hình thành và
phát triển của kế toán nói chung và kế toán quản trị nói riêng, nêu bật sự cần thiết
của kế toán quản trị đối với quá trình quản lý điều hành doanh nghiệp, nhất là
trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu hiện nay.
Luận văn đi sâu nghiên cứu phương pháp ABC - một trong những phương
pháp phân bổ chi phí của kế toán quản trị hiện đại, cho thấy sự khác biệt cơ bản
giữa phương pháp phân bổ chi phí theo cách truyền thống và phương pháp ABC,
đồng thời nêu lên được những thuận lợi và không thuận lợi trong vận dụng
phương pháp ABC ở mỗi doanh nghiệp.
Tất cả vần đề nghiên cứu này là cơ sở để luận văn xác lập nội dung và đưa ra
các giải pháp cụ thể cho việc vận dụng phương pháp ABC ở Công ty cổ phần kem
Ki Do.



21

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TỔNG HỢP VÀ PHÂN BỔ
CHI PHÍ Ở CÔNG TY CỔ PHẦN KEM KI DO
2.1. Khái quát chung về công ty
2.1.1. Nguồn gốc hình thành
Thương hiệu kem Wall’s có mặt ở Việt Nam từ năm 1997, nhà máy sản xuất
kem được đặt tại khu công nghiệp Tây Bắc Củ Chi, tổng số vốn đầu tư lên đến cả
chục triệu USD. Nhưng sau nhiều năm hoạt động được đánh giá là thua lỗ, ngày
1/7/2003 tập đoàn Unilever quyết định bán lại công ty kem Wall’s cho công ty cổ
phần bánh kẹo Kinh Đô. Bắt đầu từ thời điểm này, Công ty cổ phần kem Ki Do
được thành lập với 70% vốn cổ phần thuộc sở hữu của các thành viên hội đồng
quản trị công ty cổ phần Kinh Đô và 30% vốn cổ phần còn lại thuộc sở hữu của
công ty VinaCapital.
Với hơn 150 nhà phân phối và 30.000 điểm bán lẻ trên cả nước, hiện sản
phẩm kem Kido’s chiếm 50% thị phần kem cả nước.
2.1.2. Sơ đồ tổ chức (Sơ đồ 2.1)

T.Giám
đốc
Phân
phối
Mua
hàng
IT

Giám
đốc nhà
máy

Kế
hoạch
Kỹ
thuật
Phaùt
trieån SP

Kế
toán
Marketing
Nhân
sự

Bán
hàng
Sản
xuất
QA
Kho
Hội đồng quản trị
22

×