Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài tập về Các biện pháp phòng vệ thương mại trong WTO có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.4 KB, 12 trang )

Bài tập 1.
Năm 1998, Hàn Quốc tiến hành phân tích mức độ thiệt hại vật chất của
hành vi phá giá dựa trên cơ sở mức độ thiệt hại của 17 doanh nghiệp “tiêu biểu”
trong 35 doanh nghiệp của Hàn Quốc sản xuất sản phẩm X. Các doanh nghiệp
đại diện này đại diện cho 61.6% tổng sản lượng hàng hóa tương tự thể hiện quan
điểm đối với hành vi phá giá của sản phẩm X nhập khẩu từ Trung Quốc.
Để xác định “giá thông thường” của sản phẩm X, Hàn Quốc đã chọn một
doanh nghiệp xuất khẩu C của Trung Quốc làm đối tượng xem xét. Thực tế có 05
doanh nghiệp xuất khẩu khác cũng có sản phẩm được bán trên thị trường Trung
Quốc đồng thời xuất khẩu vào Hàn Quốc, tuy nhiên Hàn Quốc không chọn điều
tra các doanh nghiệp này vì cho rằng các sản phẩm của họ được bán không đúng
với điều kiện thương mại thông thường.
Giả sử sau đó trong quá trình điều tra Hàn Quốc thay đổi quan điểm cho
rằng tất cả các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm X của Trung Quốc đều bán hàng
trong nước theo điều kiện thương mại thông thường nhưng Hàn Quốc vẫn xác
định như sau:
“Giá thông thường” của sản phẩm X được xác định thông qua giá trị thông
thường tự tính toán của sản phẩm X (phương thức cấu thành giá) được cơ quan
điều tra xác định dựa vào dữ liệu thực tế do các doanh nghiệp của Trung Quốc
đang bị điều tra cung cấp phản ánh những khoản chi phí cần thiết để sản xuất ra
sản phẩm X.
“Giá xuất khẩu” được xác định trên cơ sở giá bán sản phẩm X được ghi
trên hợp đồng mua bán giữa các Doanh nghiệp của Trung Quốc và Hàn Quốc.
Anh/chị hãy phân tích các nội dung pháp lý thể hiện trong vụ việc trên trên
cơ sở các quy định của Hiệp định chống bán phá giá – ADA.
Trả lời:
Các nội dung pháp lý thể hiện trong vụ việc trên:
- Ngành sản xuất trong nước
+ Tình tiết: Hàn Quốc tiến hành phân tích mức độ thiệt hại vật chất của hành vi
phá giá dựa trên cơ sở mức độ thiệt hại của 17 doanh nghiệp “tiêu biểu” trong 35
doanh nghiệp của Hàn Quốc sản xuất sản phẩm X. Các doanh nghiệp đại diện này đại


diện cho 61.6% tổng sản lượng hàng hóa tương tự thể hiện quan điểm đối với hành vi
phá giá của sản phẩm X nhập khẩu từ Trung Quốc.
+ Phân tích: đã có đơn yêu cầu bằng văn bản của người nhân danh cho ngành
sản xuất trong nước.


Theo Điều 5 Hiệp định chống bán phá giá – ADA:
Điều 5: Bắt đầu và Quá trình Điều tra Tiếp theo
5.1 Trừ phi có qui định khác tại khoản 6 dưới đây, một cuộc điều tra để quyết
định xem thực sự có tồn tại việc bán phá giá không cũng như quyết định mức độ và
ảnh hưởng của trường hợp đang bị nghi ngờ là bán phá giá sẽ được bắt đầu khi có đơn
yêu cầu bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc của người nhân danh cho
ngành sản xuất trong nước.
5.4 Một cuộc điều tra sẽ không được bắt đầu căn cứ theo khoản 1 trừ phi các cơ
quan có thẩm quyền, trên cơ sở đánh giá mức độ ủng hộ hoặc phản đối với đơn yêu
cầu của các nhà sản xuất sản phẩm tương tự trong nước, đã quyết định được rằng đơn
đúng là được ngành sản xuất trong nước yêu cầu hoặc được yêu cầu thay mặt cho
ngành sản xuất trong nước. Đơn yêu cầu sẽ được coi là được yêu cầu bởi ngành sản
xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như đơn này được
ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương
tự được làm bởi các nhà sản xuất đã bầy tỏ ý kiến tán thành hoặc phản đối đơn yêu cầu
đó. Tuy nhiên, điều tra sẽ không được bắt đầu nếu như các nhà sản xuất bầy tỏ ý tán
thành điều tra chiếm ít hơn 25% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành
sản xuất trong nước làm ra.
Ở đây có đơn yêu cầu được coi là được yêu cầu bởi đại diện cho ngành sản
xuất trong nước vì như đơn này được ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm 61,6%
(>50%) tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được làm bởi các nhà sản xuất đã bầy
tỏ ý kiến tán thành hoặc phản đối đơn yêu cầu đó.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý: điều tra sẽ không được bắt đầu nếu như các nhà sản
xuất bầy tỏ ý tán thành điều tra chiếm ít hơn 25% tổng sản lượng của sản phẩm tương

tự được ngành sản xuất trong nước làm ra.
Như vậy, cần xác định 61,6% đã nêu có ít hơn 25% tổng sản lượng của sản
phẩm tương tự được ngành sản xuất trong nước làm ra không. Nếu ít hơn, điều tra sẽ
không được bắt đầu.
- Doanh nghiệp bị điều tra
+ Tình tiết: Hàn Quốc không chọn điều tra các doanh nghiệp này vì cho rằng
các sản phẩm của họ được bán không đúng với điều kiện thương mại thông thường.
+ Phân tích: Phải điều tra tất cả các nhà xuất khẩu và sản xuất hàng hóa đó ở
Trung Quốc có nhập khẩu sản phẩm bị điều tra vào Trung Quốc
CSPL: Điều 5.2.(ii) Hiệp định chống bán phá giá – ADA


(ii) mô tả đầy đủ về sản phẩm bị nghi ngờ là bán phá giá, tên nước xuất xứ của
hàng hóa đó, tên của các nhà xuất khẩu và sản xuất hàng hóa đó ở nước ngoài và
những nhà nhập khẩu hàng hóa đó.
- Giá thông thường
+ Tình tiết: “Giá thông thường” của sản phẩm X được xác định thông qua giá
trị thông thường tự tính toán của sản phẩm X (phương thức cấu thành giá) được cơ
quan điều tra xác định dựa vào dữ liệu thực tế do các doanh nghiệp của Trung Quốc
đang bị điều tra cung cấp phản ánh những khoản chi phí cần thiết để sản xuất ra sản
phẩm X.
+ Phân tích: Tuy TQ có nền kinh tế phi thị trường nhưng Hàn Quốc đã xác định
5 doanh nghiệp trên có sản phẩm được bán đúng với điều kiện thương mại thông
thường phải áp dụng theo Điều 1 chứ không áp dụng Điều 2 Hiệp định chống bán phá
giá – ADA.
Giá thông thường là giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu
dùng tại nước xuất khẩu (Trung Quốc) theo các điều kiện thương mại thông thường.
- Giá xuất khẩu:
+ Tình tiết: “Giá xuất khẩu” được xác định trên cơ sở giá bán sản phẩm X được
ghi trên hợp đồng mua bán giữa các Doanh nghiệp của Trung Quốc và Hàn Quốc.

+ Phân tích:
Theo Điều 2.3 Hiệp định chống bán phá giá – ADA, giá xuất khẩu là giá trên
hợp đồng giữa nhà xuất khẩu nước ngoài với nhà nhập khẩu (hoặc giá bán cho người
mua độc lập đầu tiên) không phải giữa các doanh nghiệp của TQ & HQ nếu họ không
phải nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu.

Bài tập 2.
Quốc gia A gia nhập WTO từ 2006 với cam kết thuế nhập khẩu nông sản
trung bình từ 25-30%. Sau nửa năm gia nhập, tại quốc gia này xảy ra tình trạng
nông sản ngoại nhập chiếm lĩnh thị trường nội địa. Trong đó, một số mặt hàng
nông sản từ quốc gia B chiếm đa số.
1. Dựa vào những kiến thức đã được cung cấp, Anh/Chị hãy tư vấn cho
quốc gia A những biện pháp pháp lý cụ thể để xử lý tình huống nêu trên phù hợp
với quy định của WTO.
2. Từ nội dung trên hãy bình luận quan điểm cho rằng: “sự phấn khích với
hội nhập làm cho nhiều chính sách bảo hộ bị quên đi.”


Trả lời
1. Biện pháp pháp lý cụ thể
Nông sản ngoại nhập chiếm lĩnh thị trường nội địa nếu việc đó gây ra hoặc đe
doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của quốc gia A hay
thực sự làm chậm chễ sự thành lập một ngành sản xuất trong nước thì:
1.1 Thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng.
Nếu có cơ sở thể hiện có thể có bán phá giá hoặc trợ cấp, quốc gia A có thể tiến
hành điều tra bán phá giá và điều tra trợ cấp trên cơ sở đơn của hay đại diện cho ngành
sản xuất trong nước hoặc các cơ quan hữu quan quyết định bắt đầu một cuộc điều tra
mặc dù không có đơn yêu cầu tiến hành điều tra của hay đại diện cho ngành sản xuất
trong nước khi có đầy đủ các bằng chứng về việc phá giá về thiệt hại và mối quan hệ
nhân quả như được qui định tại khoản 2 Điều 5 Hiệp định chống bán phá giá – ADA

để biện minh cho hành động bắt đầu điều tra.
Nếu qua điều tra xác định có bán phá giá, có trợ cấp vượt mức cho phép; quốc
gia A có thể tiến hành áp thuế chống bán phá giá nhưng không lớn hơn biên độ bán
phá giá của sản phẩm đó.
Nếu qua điều tra xác định có trợ cấp vượt mức cho phép, quốc gia A có thể áp
Thuế đối kháng vào một sản phẩm có xuất xứ từ lãnh thổ của một bên ký kết được
nhập khẩu vào lãnh thổ của quốc gia A ở mức ít hơn hoặc tương ứng với khoản hỗ trợ
hay trợ cấp đã xác định.
CSPL: Điều VI GATT 1994.
1.2 Tự vệ thương mại
Nếu do hậu quả của những diễn tiến không lường trước được và do kết quả của
những nhân nhượng thuế quan của quốc gia A theo GATT 1994, một sản phẩm được
nhập khẩu vào lãnh thổ của quốc gia A với số lượng gia tăng và với các điều kiện đến
mức gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất những
sản phẩm tương tự hay sản phẩm cạnh tranh trực tiếp trong nước, quốc gia A có quyền
ngừng hoàn toàn hay một phần các cam kết của mình, rút bỏ hay điều chỉnh nhân
nhượng thuế quan, đối với sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để ngăn chặn hoặc
khắc phục tổn hại đó.
Trước khi quốc gia A áp dụng những biện pháp trên, quốc gia A sẽ thông báo
trước bằng văn bản sớm nhất có thể cho Các Bên Ký Kết biết. Quốc gia A sẽ dành cho
Các Bên Ký Kết cũng như các bên ký kết khác với tư cách là nước xuất khẩu các sản
phẩm nói trên cơ hội cùng xem xét các biện pháp được dự kiến áp dụng. Nếu thông
báo về một nhân nhượng liên quan tới một ưu đãi, trong thông báo sẽ nêu rõ tên bên
ký kết đã đề nghị áp dụng biện pháp đó. Trong các hoàn cảnh khó khăn mà mọi sự


chậm trễ sẽ dẫn đến những hậu quả khó có thể khắc phục được, các biện pháp đã dự
kiến nêu lúc đầu có thể được tạm thời áp dụng mà không cần tham vấn trước, với điều
kiện là tham vấn được tiến hành ngay sau khi các biện pháp được áp dụng.
CSPL: Điều XIX GATT 1994.

2. Sự phấn khích với hội nhập làm cho nhiều chính sách bảo hộ bị quên đi.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú bảo vệ quan điểm, việc cắt giảm
thuế quan khi gia nhập WTO không phải là yếu tố chủ yếu dẫn đến tình trạng nhập
siêu nghiêm trọng ở Việt Nam. Những sản phẩm nhập khẩu tăng rất mạnh trong vòng
hai năm qua như ô tô, linh kiện ô tô, thép thành phẩm, máy móc thiết bị, đồ điện tử ,
máy tính, linh kiện, thức ăn gia súc lại không bị giảm thuế nhập khẩu nhiều.
Nhưng ông Tú không thể phủ nhận tình trạng nhập siêu quá cao trong hai năm
qua. Tuy nhiên, ông Thứ trưởng cho rằng, Chính phủ khó có thể tăng thuế nhập khẩu,
hoặc áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng như trước, hoặc thực hiện một số cơ
chế tự vệ của chính WTO để kìm hãm sự gia tăng quá mức của hàng nhập khẩu. “Vấn
đề là trong bối cảnh chúng ta đang cố gắng mở cửa để thu hút đầu tư nước ngoài thì
các biện pháp trên có thể sẽ được hiểu sai lệch theo hướng tiêu cực, tác động đến cộng
đồng kinh doanh quốc tế”, ông Tú lý giải.
Rõ ràng, xử lý mối quan hệ đánh đổi giữa hai xu hướng tự do hóa và bảo hộ
thương mại để duy trì sản xuất trong nước là câu hỏi không dễ đối với các nhà hoạch
định chính sách. Nhưng đến nay đã xuất hiện những quan điểm trong xã hội rằng, sự
phấn kích quá lớn với hội nhập đã làm cho nhiều cơ quan Nhà nước quên đi chính sách
bảo hộ. Ông Vũ Khoan cảm thán: “Chúng ta mở cửa thị trường, tự do hóa thương mại,
nhưng cũng phải bảo vệ nền sản xuất trong nước, bảo hộ thị trường bằng chính các
công cụ WTO chứ. WTO cho phép làm vậy, nhưng chúng ta không có hành động gì”.

Bài tập 3.
Vena có ba nhà sản xuất (NSX) quan trọng trong ngành công nghiệp đồ gỗ,
AEKI, Schoeder và StyleMark. Sản lượng sản xuất của ba công ty này cùng nhau
chiếm khoảng 70% sản lượng của ngành công nghiệp đồ gỗ trong nước. Những
nhà sản xuất nhỏ chiếm 30% còn lại. Trong vài năm qua, tất cả nhà sản xuất đồ
gỗ tại Vena đều xuất khẩu sản phẩm vào thị trường RichLand và số lượng sản
phẩm này ngày một tăng lên do đáp ứng được yêu cầu về thị hiếu, chất liệu chọn
lọc và giá thành rẻ. Do đó, các sản phẩm gỗ từ Vena khá phổ biến ở thị trường
Richland.

Thị phần của các nhà sản xuất đồ gỗ trong nước đã liên tục giảm trong
những năm qua và nhiều NSX nhỏ đã bị phá sản. Ngành công nghiệp đồ gỗ nội
địa của Richland không hài long với việc thị phần của mình bị lấn chiếm ngay


trên sân nhà; do đó 06 NSX đồ gỗ lớn, sản xuất khoảng 60% tổng sản lượng đồ gỗ
trong Richland, muốn thực hiện hành động chống lại việc nhập khẩu gỗ từ Vena.
Họ muốn chính phủ mình áp đặt thuế chống bán phá giá và/hoặc thuế đối kháng
đối với các đồ gỗ nhập khẩu từ Vena hoặc bất kỳ hành động nào khác giúp hạn
chế dòng chảy đồ gỗ từ nước này. Các công ty này tin rằng đồ gỗ từ Vena được
bán trên thị trường Richland với giá thấp hơn nhiều so với chi phí sản xuất. Họ
chỉ ra trường hợp cụ thể đó là các sản phẩm đồ gỗ phòng ngủ được sản xuất bởi
AEKI và StyleMark. Họ cũng lưu ý rằng các NSX đồ gỗ của Vena được cung cấp
điện từ Tổng công ty điện Vena thuộc sở hữu nhà nước với mức giá vô cùng ưu
đãi.
Ngoài ra, các NSX đồ nội thất nhỏ của Vena còn được giảm thuế đáng kể
nếu họ chứng minh được công ty mình đã sử dụng ít nhất 100 lao động thất
nghiệp mỗi năm. Các NSX nhỏ có ý định xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước
ngoài cũng có thể nhận được tư vấn kỹ thuật và hỗ trợ tài chính từ Hội đồng xúc
tiến xuất khẩu của Vena (một cơ quan được lập ra bởi chính phủ). Giả sử anh/chị
là chuyên gia về luật thương mại quốc tế của chính phủ Vena được chính phủ chỉ
định hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ của mình. Các công ty này muốn
biết liệu sản phẩm của mình có bị coi là bán phá giá hoặc nhận được trợ cấp trên
thị trường Richland theo quy định của WTO không vì cả hai quốc gia đều là
thành viên tổ chức này.
2. Nếu có cơ sở để Richland tiến hành các cuộc điều tra áp thuế như vậy;
Anh/chị hãy tư vấn cho các công ty này hành động phù hợp để giảm thiểu thiệt
hại có thể xảy ra từ việc bị áp thuế đối kháng hoặc thuế chống bán phá giá đối với
sản phẩm nêu trên.
Trả lời

1. Bán phá giá, trợ cấp.
- Bán phá giá:
Các công ty của Richland tin rằng đồ gỗ từ Vena được bán trên thị trường
Richland với giá thấp hơn nhiều so với chi phí sản xuất. Họ chỉ ra trường hợp cụ
thể đó là các sản phẩm đồ gỗ phòng ngủ được sản xuất bởi AEKI và StyleMark.
Các công ty của Vena có thể lập luận như sau:
Biên độ phá giá = (Giá Thông thường – Giá Xuất khẩu)/Giá Xuất khẩu
Trong đó Vena la nước có nền kinh tế thị trường, có thể xác định giá thông
thường là giá một sản phẩm tương tự nhằm mục đích tiêu dùng tại nước xuất khẩu
là Vena: chứ không xem xét đến chi phí sản xuất. Như vậy, dù giá bán < chi phí sản
xuất thì vẫn phù hợp với Điều 6.1 GATT.
- Trợ cấp:


Các công ty của Richland lưu ý rằng các NSX đồ gỗ của Vena được cung cấp
điện từ Tổng công ty điện Vena thuộc sở hữu nhà nước với mức giá vô cùng ưu đãi.
Ngoài ra, các NSX đồ nội thất nhỏ của Vena còn được giảm thuế đáng kể nếu
họ chứng minh được công ty mình đã sử dụng ít nhất 100 lao động thất nghiệp mỗi
năm. Các NSX nhỏ có ý định xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài cũng có
thể nhận được tư vấn kỹ thuật và hỗ trợ tài chính từ Hội đồng xúc tiến xuất khẩu
của Vena (một cơ quan được lập ra bởi chính phủ).
- Có thể lập luận không có trợ cấp vì không có tính riêng biệt:
Luật của Vena quy định giảm thuế đáng kể nếu họ chứng minh được công ty
mình đã sử dụng ít nhất 100 lao động thất nghiệp mỗi năm. Khả năng nhận trợ cấp
này được mặc nhiên áp dụng và các tiêu chuẩn, điều kiện đó được tuân thủ chặt
chẽ.
Còn phải chứng minh tất cả các NSX đồ gỗ của Vena đều được cung cấp điện
từ Tổng công ty điện Vena thuộc sở hữu nhà nước với mức giá vô cùng ưu đãi chứ
không chỉ những doanh nghiệp xuất khẩu.
Và, phải chứng minh việc nhận được tư vấn kỹ thuật và hỗ trợ tài chính từ Hội

đồng xúc tiến xuất khẩu của Vena áp dụng với mọi NSX nhỏ chứ không chỉ NSX
gỗ. Cũng như mức hỗ trợ tài chính là rất nhỏ (biên độ trợ cấp <1%).
CSPL: Điều 2.1.(b) SCM.
2. Giảm thiểu thiệt hại có thể xảy ra từ việc bị áp thuế đối kháng hoặc thuế
chống bán phá giá.
- Đảm bảo chế độ ghi chép kế toán rõ ràng, tuân thủ các tiêu chuẩn kế toán
quốc tế để các số liệu của doanh nghiệp được cơ quan điều tra chấp nhận sử dụng
khi tính toán biên phá giá;
- Lưu giữ tất cả các số liệu, tài liệu có thể làm bằng chứng chứng minh không
bán phá giá;
- Có quỹ dự phòng đảm bảo các chi phí theo kiện tại nước ngoài;
- Khi vụ kiện xảy ra cần chủ động tự yêu cầu được tham gia (tự giới thiệu mình
trước cơ quan điều tra); tích cực hợp tác với cơ quan điều tra và chủ động thực hiện
các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong quá trình điều tra để được tính biên độ phá giá
riêng phản ánh đúng hơn thực tế hoạt động kinh doanh của mình;
- Không gian lận trong và sau cuộc điều tra chống bán phá giá để tránh bị trừng
phạt bởi những mức thuế chống bán phá giá rất cao.


Bài tập 4.
Năm 2012, ngành sản xuất dầu ăn của quốc gia A ghi nhận hiện tượng gia
tăng nhập khẩu ồ ạt dầu ăn từ nước ngoài (lượng nhập khẩu 2012 là 568.896 tấn
so với lượng nhập khẩu năm 2011 là 389.932 tấn). Sau khi nhận được đơn khởi
kiện của một doanh nghiệp chiếm 50% tổng sản lượng dầu ăn được sản xuất
trong nước, quốc gia A tiến hành điều tra để xác định được lượng hàng nhập
khẩu đến từ các nước đang phát triển với thị phần nhập khẩu thực tế (so với tổng
lượng hàng hóa nhập khẩu bị điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thương mại) như
sau: Quốc gia A 3%, quốc gia B 2%, quốc gia C 4%, quốc gia D 2,5%, quốc gia E
2.5%, quốc gia F 0.5%, quốc gia G 1.5%. Kết thúc quá trình điều tra, quốc gia A
áp dụng biện pháp tự vệ thương mại bằng cách tăng thuế nhập khẩu mặt hàng

dầu ăn từ 15% lên 21% không phân biệt xuất xứ hàng hóa.
Anh/chị hãy cho biết:
1. Việc A áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại trên có phù hợp với quy
định của pháp luật WTO hay không? Tại sao?
2. Các quốc gia đang phát triển nêu trên cho rằng lượng xuất khẩu từ các
nước này vào quốc gia A là không đáng kể, do đó phải được loại ra khỏi danh
sách đối tượng áp dụng biện pháp tự vệ thương mại trên. Trình bày quan
điểm của anh/chị về vấn đề này?
Trả lời
1. Việc A áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại trên không phù hợp với
quy định của pháp luật WTO.
Khi xem xét sự gia tăng lượng nhập khẩu, quốc gia A không xem xét sự gia
tăng này là gia tăng tuyệt đối hoặc tương đối so với sản xuất trong nước (ví dụ
lượng hàng nhập khẩu tăng nhưng cùng thời điểm đó lượng hàng sản xuất trong
nước cũng tăng mạnh); cũng không xem xét sự gia tăng này có mang tính đột biến
(diễn ra đột ngột, nhanh và tức thời) theo diễn tiến trong suốt giai đoạn điều tra chứ
không chỉ đơn thuần là so sánh lượng nhập khẩu thời điểm năm 2011 và 2012.
Ngoài ra, Quốc gia A chỉ ghi nhận hiện tượng gia tăng nhập khẩu ồ ạt dầu ăn từ
nước ngoài chứ không thể hiện hàng nhập khẩu gia tăng có trực tiếp gây ra hoặc đe
dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng đối với sản xuất trong nước hay không?
Cuối cùng, quốc gia B trước khi áp thuế lên 21% cũng thông báo trước bằng văn
bản sớm nhất có thể cho Các Bên Ký Kết biết để cùng xem xét các biện pháp được
dự kiến áp dụng cũng không tham vấn sau đó.
CSPL: Điều XIX GATT 1994.
2. Loại ra khỏi danh sách đối tượng áp dụng biện pháp tự vệ thương mại.


Lập luận của các quốc gia đang phát triển trên là SAI.
Quốc gia C có thị phần nhập khẩu 4% (>3%) so với tổng lượng hàng hóa nhập
khẩu bị điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thương mại nên dù là quốc gia đang phát

triển vẫn là đối tượng áp dụng biện pháp tự vệ thương mại trên.
Các quốc gia A 3%, quốc gia B 2%, quốc gia D 2,5%, quốc gia E 2.5%, quốc
gia F 0.5%, quốc gia G 1.5% tuy có thị phần nhập khẩu riêng lẻ nhỏ hơn 3%
nhưng thị phần hàng hóa có liên quan được nhập từ tất cả Thành viên đang phát
triển này là 12% vượt quá 9% tổng kim ngạch nhập khẩu nhập khẩu của hàng hóa
liên quan nên vẫn là đối tượng áp dụng biện pháp tự vệ thương mại trên.
CSPL: Điều 9 Hiệp định SA.

Bài tập 5
Tháng 5/2000, quốc gia A nộp đơn gia nhập WTO. Trước thời điểm tham
gia và WTO, A duy trì mức thuế nhập khẩu rất cao đối với hàng hóa nhập
khẩu của các nước thành viên WTO để hạn chế lượng hàng hóa nhập khẩu.
Bên cạnh đó, A còn áp dụng biện pháp hạn ngạch (quota) đối với các sản
phẩm hàng hóa nhập khẩu cũng nhằm hạn chế lượng hàng hóa nhập khẩu.
Anh/chị hãy cho biết:
Nếu trở thành thành viên WTO, A có quyền tiếp tục duy trì những chính
sách này nữa không?
*Tình huống bổ sung:
Sau khi gia nhập WTO năm 2009, chính phủ của A bắt đầu thực hiện chính
sách phát triển thị trường xuất khẩu sang các thị trường mới, đặc biệt là thị
trường nước B. Chính sách này yêu cầu bao gồm các ngân hàng trong nước
dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu các khoản tín dụng ưu đãi để giúp họ
phát triển sản xuất và thâm nhập thị trường B. Tháng 7/2009 A cũng ban
hành quy định giảm thuế thu nhập và thuế kinh doanh cho các doanh nghiệp
có thành tích trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản ra thị trường
nước ngoài.
Nhờ những khoản hỗ trợ của chính phủ, các doanh nghiệp xuất khẩu của A
đã thực hiện những khoản đầu tư phát triển dây chuyền sản xuất hiện đại để
nâng cao chất lượng và giá thành sản phẩm nông sản của mình. Nhờ vào lợi
thế cạnh tranh về giá cả và chất lượng, sản phẩm thủy sản nhập khẩu của A

đã nhanh chóng chiếm được tới 35% thị phần tại thị trường B trong thời gian
ngắn từ năm 2009-2013. Sự gia tăng thị phần sản phẩm của A trên thị trường
B gây thiệt hại nghiêm trọng cho các doanh nghiệp sản xuất nông sản của B.


Hiệp hội ngành sản xuất thủy hải sản của B (SBA) kiến nghị chính phủ của B
áp dụng biện pháp tự vệ thương mại dưới hình thức hạn ngạch để hạn chế
khối lượng hàng nhập khẩu của A, giúp các doanh nghiệp trong nước vượt
qua khó khăn,
Với tư cách là cố vấn pháp lý cho SBA, Anh/chị hãy tư vấn:
- Theo quy định của WTO, liệu SBA có thể yêu cầu áp dụng biện pháp tự
vệ thương mại (hạn ngạch) để bảo vệ quyền lợi của mình hay không?
- Nếu không thể áp dụng biện pháp tự vệ thương mại, liệu SBA có thể áp
dụng biện pháp nào để bảo vệ quyền lợi của mình? Thủ tục và yêu cầu áp
dụng biện pháp thương mại liên quan theo quy định của WTO là gì?
Trả lời
1. Nếu trở thành thành viên WTO, A có không có quyền tiếp tục duy trì những
chính sách này vì WTO có mục tiêu tự do hóa thương mại. Mỗi bên ký kết là thành
viên WTO sẽ cam kết một mức thuế suất ưu đãi dành cho thương mại của các bên
ký kết khác như đã nêu trong phần tương ứng thuộc Biểu nhân nhượng.
2. Theo quy định của WTO, SBA không nên yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ
thương mại (hạn ngạch) để bảo vệ quyền lợi của mình.
SBA chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng
minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:
- Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;
Ở đây có sự tăng về số lượng nhưng không thể hiện sự đột biến.
- Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó
bị thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại
hoặc đe doạ thiệt hại nói trên.

Sự gia tăng thị phần sản phẩm của A trên thị trường B gây thiệt hại nghiêm
trọng cho các doanh nghiệp sản xuất nông sản của B.
Không nên áp dụng biện pháp tự vệ thương mại vì biện pháp tự vệ thương mại
dùng để đối phó hành vi thương mại hoàn toàn bình thường ( không có vi phạm
pháp luật hay cạnh tranh không lành mạnh) nên nó không miễn phí. Khi áp dụng
phải bồi thường thương mại cho những thiệt hại mà biện pháp này gây ra cho các
nhà sản xuất nước ngoài. Ở đây, hành vi thương mại của quốc gia A có dấu hiệu vi
phạm pháp luật WTO – Trợ cấp xuất khẩu nên SBA không nên áp dụng biện pháp
tự vệ thương mại mà nên điều tra trợ cấp và áp thuế đối kháng.


* Thủ tục và yêu cầu áp dụng thuế đối kháng theo quy định của WTO.
1. Có trợ cấp xuất khẩu dưới dạng :
- Các chương trình có thưởng khuyến khích xuất khẩu.
- Miễn một phần các khoản thuế trực thu mà doanh nghiệp sản xuất phải thanh
toán, chỉ áp dụng riêng với xuất khẩu.
- Ngân hàng thuộc Chính phủ cấp các khoản tín dụng xuất khẩu với lãi suất
thấp hơn mức mà họ thực tế phải trả để có được tiền thực hiện việc này.
CSPL: Điều 1, phụ lục I SCM.
2. Có thiệt hại xảy ra
Sản phẩm thủy sản nhập khẩu của A đã nhanh chóng chiếm được tới 35% thị
phần tại thị trường B trong thời gian ngắn từ năm 2009-2013. Sự gia tăng thị phần
sản phẩm của A trên thị trường B gây thiệt hại nghiêm trọng cho các doanh nghiệp
sản xuất nông sản của B.
CSPL: Điều 15 SCM
3. Có mối quan hệ nhân quả.
CSPL: Điều 11.2, Điều 15.5 SCM.
4. Thủ tục
Bước 1 : Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện (kèm theo chứng
cứ ban đầu);

Bước 2 : Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra (hoặc từ
chối đơn kiện, không điều tra);
Bước 3 : Điều tra sơ bộ về việc bán phá giá và về thiệt hại (qua bảng câu hỏi
gửi cho các bên liên quan, thu thập, xác minh thông tin, thông tin do các bên tự
cung cấp);
Bước 4 : Kết luận sơ bộ (có thể kèm theo quyết định áp dụng biện pháp tạm
thời như buộc đặt cọc, ký quỹ...);
Bước 5 : Tiếp tục điều tra về việc bán phá giá và về thiệt hại (có thể bao gồm
điều tra thực địa tại nước xuất khẩu);
Bước 6 : Kết luận cuối cùng;
Bước 7 : Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá (nếu kết luận cuối
cùng khẳng định có việc bán phá giá gây thiệt hại) ;


Bước 8 : Rà soát lại biện pháp chống bán phá giá (hàng năm cơ quan điều tra có
thể sẽ điều tra lại biên phá giá thực tế của từng nhà xuất khẩu và điều chỉnh mức
thuế)
Bước 9 : Rà soát hoàng hôn (5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế chống bán
phá giá hoặc rà soát lại, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra lại để xem xét chấm
dứt việc áp thuế hay tiếp tục áp thuế thêm 5 năm nữa).



×