Tải bản đầy đủ (.pdf) (200 trang)

Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.19 MB, 200 trang )

9

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TP. HỒ CHÍ MINH - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ:

62.38.01.07

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐỖ VĂN ĐẠI
PGS. TS. PHẠM HỮU NGHỊ

TP. HỒ CHÍ MINH - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong
luận án là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận án chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án


MỤC LỤC



PHẦN MỞ ĐẦU

1

1.

Tính cấp thiết đề tài

1

2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2

4.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

3

5.


Những điểm mới của luận án

3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN

5

CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.1.

Tình hình nghiên cứu và đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu

5

1.1.1.

Tình hình nghiên cứu

5

1.1.2.

Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu

15

1.2.


Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

17

1.2.1.

Cơ sở lý thuyết

17

1.2.2.

Phương pháp nghiên cứu

19

1.3.

Kết cấu của luận án

20

CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT

21

THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
2.1.

Lý luận về thu hồi đất nông nghiệp


21

2.1.1.

Khái niệm, vai trò của đất nông nghiệp

21

2.1.2.

Đặc điểm của việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

25

2.1.3.

Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp

36

2.2.

Lý luận pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp

39

2.2.1.

Cơ sở xây dựng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp


39

2.2.2.

Nội dung của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp

41

2.3.

Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta trong giai đoạn từ

47

năm 1945 đến trước ngày 01/7/2004
2.3.1.

Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980

47

2.3.2.

Giai đoạn từ năm 1980 đến trước ngày 01/7/2004

49

2.4


Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp của một số nước và những

55

gợi mở đối với Việt Nam


2.4.1.

Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp của Cộng hòa Pháp

55

2.4.2.

Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp của Úc

56

2.4.3.

Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp của Cộng hòa nhân dân Trung

58

Hoa
2.4.4.

Một số gợi mở đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng và hoàn


59

thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
Kết luận Chương 2

60

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT

61

NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.

Quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất - Cơ sở pháp lý ban

61

đầu để Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
3.1.1.

Quy định về vai trò của quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất

61

3.1.2.

Quy định về nguyên tắc lập, công bố quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch

61


sử dụng đất
3.1.3.

Quy định về thẩm quyền quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

63

3.2.

Quy định về nội dung; trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp

67

3.2.1.

Quy định về các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp

67

3.2.2.

Quy định về thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp

80

3.2.3.

Quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp


83

3.3.

Quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

90

nghiệp
3.3.1.

Quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

90

3.3.2.

Quy định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

100

3.4.

Quy định về khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

111

Kết luận Chương 3

112


CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

114

PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP
LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
4.1.

Quan điểm và những yêu cầu đặt ra về hoàn thiện pháp luật thu

114

hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam
4.1.1.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam

114

4.1.2.

Những yêu cầu đặt ra trong việc hoàn thiện pháp luật thu hồi đất nông

116

nghiệp ở nước ta hiện nay


4.2.


Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông

123

nghiệp
4.2.1.

Hoàn thiện quy định pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

123

4.2.2.

Hoàn thiện quy định pháp luật về nội dung; trình tự, thủ tục thu hồi

124

đất nông nghiệp
4.2.3.

Hoàn thiện quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

138

nông nghiệp
4.2.4.

Hoàn thiện quy định pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất


145

4.2.5.

nông nghiệp
Hoàn thiện quy định pháp luật về khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp

148

4.3.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về

150

thu hồi đất nông nghiệp
Kết luận Chương 4

153

Kết luận

155

Những công trình liên quan đến luận án đã được công bố

157

Danh mục Tài liệu tham khảo


158

Phần Phụ lục

175


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BLDS
GCN

Bộ Luật Dân sự
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

HĐND

Hội đồng nhân dân

HP

Hiến pháp

HVHC

Hành vi hành chính

LĐĐ



Luật Đất đai
Nghị định

NQ
NSDĐ

QĐHC

Nghị quyết
Người sử dụng đất
Quyết định
Quyết định hành chính

QH, KHSDĐ

Quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất

QSDĐ
UBND
VPĐKQSDĐ

Quyền sử dụng đất
Ủy ban nhân dân
Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau ba mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới, để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách,
pháp luật để cải thiện cuộc sống, thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế. Đất đai đã
được coi là một trong những nguồn vốn quan trọng, được đưa vào tham gia vốn liên
doanh với một bên là doanh nghiệp Nhà nước và bên kia là đối tác tham gia vốn lưu động,
thiết bị, khoa học công nghệ, tiêu thụ sản phẩm,…
Đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt
không có gì thay thế được, là thành phần quan trọng của môi trường sống và là địa bàn
phân bổ các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng.
Trong những năm qua, đất đai đã đóng góp đáng kể trong quá trình hội nhập và xây dựng
phát triển kinh tế xã hội đất nước. Đặc thù ở nước ta có khoảng 70% dân số sống bằng
nghề nông, họ đã gắn bó đất đai với cả đời người1; do vậy việc Nhà nước tiến hành thu
hồi đất nông nghiệp để sử dụng cho dù với mục đích gì, với lý do gì cũng là vấn đề dẫn
đến đảo lộn sinh kế, tập quán canh tác, sinh hoạt,… của một cộng đồng dân cư không nhỏ,
cần được các nhà hoạch định chính sách quan tâm, nhằm đảm bảo an sinh xã hội.
Theo thống kê, trong tổng số các đơn khiếu nại, ước tính có khoảng 80% số vụ việc
liên quan đến lĩnh vực quản lý và sử dụng đất, trong đó có liên quan đến việc thu hồi đất2.
Mặc dù ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, song QSDĐ cơ bản thuộc về các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Bên cạnh đó, QSDĐ lại có nguồn gốc hình thành
từ nhiều nguồn khác nhau; trong đó có việc Nhà nước công nhận QSDĐ. Ngoài ra NSDĐ
còn được giao đất có thu tiền hay không thu tiền sử dụng đất hoặc nhận chuyển QSDĐ từ
phía Nhà nước, từ các chủ thể sử dụng đất khác. Việc Nhà nước thu hồi đất chính là thu
hồi quyền tài sản, và cũng là tài sản của người sử dụng đất - điều chưa được quy định
trong Hiến pháp năm 1992 trở về trước, chỉ đến khi thông qua Hiến pháp năm 2013 mới
đề cập với nội dung: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong
trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế
- xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và
được bồi thường theo quy định của pháp luật.”3.
1


Đỗ Mai Thành (2015), Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, truy cập tại địa
chỉ:
/>ngày
30/01/2017.
2
Thanh tra Chính phủ (2010), Báo cáo số 2280/BC-TTCP Tổng kết việc thi hành Luật khiếu nại, tố cáo (từ năm
2005 đến tháng 6/2009), ngày 04/8, tr. 1.
Nguyễn Thanh Hải - Thảo Trang (2014), Một số vấn đề về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực đất đai, truy cập tại địa chỉ: ngày 13/02/2017.
3
Quốc hội (2013), Hiến pháp, Khoản 3 Điều 54.


2

Nhằm góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp - vấn đề
tương đối bức xúc trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng yêu cầu sử dụng đất cho các mục
đích khác nhau của Nhà nước và của các thành phần kinh tế; tăng cường công tác quản lý
nhà nước về đất đai; đồng thời thỏa mãn nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên: Nhà nước, nhà đầu tư, đảm bảo đời sống, sinh kế của người đang sử dụng đất nông
nghiệp bị thu hồi; tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt
Nam” để thực hiện luận án Tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và phân tích
thực trạng pháp luật Việt Nam về thu hồi đất nông nghiệp, đề tài đề xuất phương hướng
và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của NSDĐ nông nghiệp
bị thu hồi đất và các bên có liên quan.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu một số nội dung lý luận về thu hồi đất nông nghiệp: Luận giải để làm
rõ khái niệm, vai trò của đất nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; đặc điểm, khái niệm thu hồi đất nông nghiệp; cũng như lý luận về pháp luật thu
hồi đất nông nghiệp như: Cơ sở xây dựng pháp luật, nội dung pháp luật thu hồi đất nông
nghiệp; nội dung pháp luật có liên quan đến thu hồi đất nông nghiệp qua các giai đoạn;
tìm hiểu pháp luật của một số quốc gia về thu hồi đất nông nghiệp.
- Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về thu hồi đất nông
nghiệp và thực tiễn trong quá trình áp dụng; những kết quả đã đạt được cũng như những
bất cập trong các quy định của pháp luật nước ta liên quan đến nội dung Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp.
- Trên cơ sở quan điểm và những yêu cầu đặt ra về hoàn thiện pháp luật thu hồi đất
nông nghiệp ở Việt Nam, luận án đã đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm những vấn đề sau:
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất
đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; trong đó có nội dung liên quan
đến thu hồi đất nông nghiệp.
- Một số công trình nghiên cứu khoa học về thu hồi đất, trong đó có đất nông nghiệp
đã được công bố trong thời gian qua.


3

- Pháp luật đất đai hiện hành và các quy định pháp luật có liên quan đến nội dung
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Luận án cũng nghiên cứu pháp luật về thu hồi đất
nông nghiệp của một số quốc gia trên thế giới như: Cộng hòa Pháp, Úc, Trung Quốc.

- Các số liệu, vụ việc áp dụng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta hiện
nay của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thu hồi đất nông nghiệp là vấn đề rất rộng. Trong phạm vi của luận án, tác giả tập
trung nghiên cứu những vấn đề là: Các quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy
định về nội dung, trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp; quy định về bồi thường, hỗ trợ
và khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Ngoài ra, trong phạm vi nghiên cứu của Luận án, tác giả không có điều kiện nghiên
cứu việc thu hồi các loại đất trong nhóm đất nông nghiệp: đất đồng cỏ dùng vào chăn
nuôi, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất làm muối. Bên cạnh đó, do LĐĐ năm
2013 mới có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2014 nên những phân tích pháp luật thực
định, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật, tác giả có so sánh, đề cập tình huống đã xảy
ra trong thời gian áp dụng LĐĐ năm 2003, song những bất cập đó vẫn chưa được giải
quyết trong LĐĐ năm 2013.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về phương diện lý luận, luận án đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan
đến thu hồi đất nông nghiệp, pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp bao gồm: cơ sở xây
dựng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp, nội dung của pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp
Về phương diện thực tiễn, nội dung kiến nghị của luận án sẽ góp phần nâng cao việc
bảo đảm thực hiện pháp luật đối với cả cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người được nhà
nước trao quyền và người bị thu hồi đất nông nghiệp. Kết quả nghiên cứu mà luận án đưa
ra có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành luật đất đai trong
các trường đào tạo về luật, quản lý đất đai hoặc có thể sử dụng trong việc xem xét, áp
dụng pháp luật của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền liên quan đến công tác thu hồi
đất nông nghiệp.
5. Những điểm mới của luận án
Luận án là công trình khoa học nghiên cứu tương đối toàn diện pháp luật về thu hồi
đất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Luận án có những điểm mới sau đây:
Thứ nhất, luận án là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý

luận về thu hồi đất nông nghiệp; trong đó đã luận giải, làm rõ bản chất của việc thu hồi
đất nông nghiệp là thu tài sản của NSDĐ.
Thứ hai, luận án phân tích một cách cụ thể về pháp luật thu hồi đất nông nghiệp ở
Việt Nam theo các nội dung là: Các quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy


4

định về nội dung, trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp; quy định về bồi thường, hỗ trợ
và khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Qua đó tìm ra những điểm hợp lý và chưa hợp lý, xác định tính khả thi của các quy
phạm pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp hiện hành nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của
Nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi. Đồng thời cần tăng cường việc giám sát
của cơ quan quyền lực nhằm phát huy hiệu quả của thiết chế dân chủ đại diện.
Thứ ba, cần thiết phải đặt việc xây dựng các quy định về bồi thường cây trồng, đất
đai trong mối quan hệ với các quy luật sinh học, nhằm đảm bảo quyền lợi của NSDĐ.
Bên cạnh đó cần quan tâm tới sự biến đổi môi trường, gìn giữ giá trị văn hóa của cả cộng
đồng dân cư do tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp với diện tích lớn gây ra.
Thứ tư, trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật về hỗ trợ được áp dụng tại các
địa phương trong phạm vi cả nước cho thấy bản chất của việc bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp không những phải đảm bảo nguyên tắc ngang giá mà còn là việc
hướng đến sự cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và người có đất nông nghiệp bị thu hồi, thể
hiện ở kinh phí hỗ trợ đôi khi gấp nhiều lần giá trị tài sản bị thiệt hại.
Thứ năm, qua phân tích, tham khảo nội dung có liên quan trong pháp luật của một
số nước, kết hợp với việc đánh giá thực trạng pháp luật nêu trên, luận án đề xuất phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thu hồi đất nông nghiệp.


5


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu và đánh giá tỏng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu
Theo tổng hợp của nghiên cứu sinh, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở cấp độ
Tiến sĩ, các công trình khoa học thuộc nhiều cấp khác nhau đã được in thành sách, cũng
như các bài viết khoa học được đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập nội dung có
liên quan đến thu hồi đất nông nghiệp với các nội dung sau:
Thứ nhất, về mặt lý luận có liên quan đến chế độ sở hữu đất đai, về quyền sử dụng
đất, các khái niệm pháp lý, quyền được tiếp cận thông tin đã được một số tác giả đề cập
đến trong các công trình nghiên cứu sau:
- Bài viết: “Quyền sử dụng đất - một khái niệm pháp lý, một khái niệm kinh tế” của
tác giả Lê Văn Tứ, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 232, tháng 9/1997. Trên cơ
sở nghiên cứu các quy định của Luật Đất đai 1993 và các văn bản có liên quan, tác giả đã
nhận xét nội dung QSDĐ với tư cách là một khái niệm pháp lý rộng hơn nghĩa của từ
QSDĐ rất nhiều, còn với tư cách là một khái niệm kinh tế, QSDĐ là một tài sản của
NSDĐ hợp pháp. Đây là khái niệm rất quan trọng, tạo cơ sở để nhận thức và giải quyết
nhiều vấn đề thực tế có liên quan đến QSDĐ như chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê,
thừa kế,…
- Cuốn sách: “Chuyên khảo Luật Kinh tế”của tác giả Phạm Duy Nghĩa, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2004, trong phần “Pháp luật tài sản” đã nêu, QSDĐ của tổ
chức, cá nhân là quyền tài sản tư cần được nhà nước tôn trọng và bảo hộ. QSDĐ là một
khái niệm sở hữu kép, một khái niệm sở hữu đa tầng, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, song
QSDĐ lại thuộc về cá nhân hoặc tổ chức. Trong giáo trình “Luật Kinh tế”, Nxb. Công an
nhân dân năm 2011 của cùng tác giả, đã khẳng định, QSDĐ tuy chưa đạt tới quyền sở
hữu tư, song đã trở thành một quyền tài sản quan trọng.
- Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Xã hội học: “Xung đột xã hội về đất đai ở nông
thôn thời kỳ đổi mới (Nghiên cứu trường hợp tỉnh Hà Tây)” (năm 2008) của Phan Văn
Tân, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Trong Luận án, tác giả đã đề
cập đến tình trạng xung đột đòi công bằng trong đền bù, đòi hỗ trợ kinh tế khi Nhà nước

tổ chức thu hồi đất, phân tích và đề xuất: (i) Công tác quy hoạch các khu công nghiệp
phải gắn liền với an ninh lương thực; (ii) Công tác đền bù phải đảm bảo tính công bằng,
công khai, minh bạch; (iii) Cần gắn quy hoạch khu công nghiệp với việc tạo việc làm cho
nông dân; (iv) Tạo dựng mối quan hệ tự nguyện giữa người dân với doanh nghiệp; (v)
Xung đột về đất đai chủ yếu liên quan đến thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng cơ sở hạ
tầng, khu công nghiệp, khu đô thị. Tác giả đưa ra dự báo, sẽ xuất hiện loại hình xung đột


6

mới là xung đột giữa cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp tư nhân thuê đất tại
địa phương về “quyền sở hữu” và “sử dụng” đất đai.
- Bài viết: “Vấn đề lí luận xung quanh khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất” được đăng trên Tạp chí Luật học, số tháng 1/2009 của tác giả Nguyễn Quang Tuyến.
Trên cơ sở phân tích khái niệm bồi thường theo Luật Đất đai năm 2003, tác giả đã phân
biệt giữa “bồi thường” với “đền bù” khi Nhà nước thu hồi đất; phân biệt “bồi thường thiệt
hại” khi Nhà nước thu hồi đất với “bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” trong pháp luật
dân sự; phân biệt giữa “bồi thường thiệt hại” khi Nhà nước thu hồi đất với khái niệm “bồi
thường nhà nước” trong Dự thảo Luật bồi thường nhà nước. Quan điểm của tác giả, sử
dụng thuật ngữ “bồi thường” là phù hợp.
- Công trình nghiên cứu “Báo cáo khảo sát tình hình công khai thông tin trong quản
lý đất đai” của nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phát triển
(DEPOCEN) theo yêu cầu của World Bank (Ngân hàng Thế giới) và Bộ Phát triển Quốc
tế Vương quốc Anh (DFID), Hà Nội, 2011. Trên cơ sở thu thập dữ liệu về thông tin liên
quan đến đất đai cần công bố trên trang web, đối chiếu với số liệu khi đi kiểm tra thực tế;
tác giả đã phát hiện những vướng mắc trong việc công khai, tạo điều kiện cho người dân
tiếp cận thông tin và đưa ra các khuyến nghị: (i) Cần phổ biến cho người dân biết các
quyền của mình về tiếp cận thông tin trong lĩnh vực đất đai; (ii) Thực hiện việc công bố
thông tin một cách toàn diện cả cấp huyện và cấp xã; (iii) Tăng cường đầu tư nguồn lực
vật chất và con người cho chính quyền địa phương để hỗ trợ cho việc công khai thông tin.

Kết quả nghiên cứu với việc triển khai điều tra và tổng hợp số liệu thứ cấp là tài liệu
quan trọng cho nghiên cứu sinh trong việc kế thừa, đề nghị hoàn thiện quy định pháp luật
có liên quan.
- Bài viết: “Vấn đề đất đai trong quá trình thực hiện Hiến pháp năm 1992” được
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 105, tháng 2/2012 của Vũ Tiến Anh. Tác giả đã
đề nghị: (i) Việc đổi mới chính sách phát triển kinh tế xã hội hiện nay trước hết phải bao
hàm đổi mới quan điểm về chế độ sở hữu đối với đất đai, chuyển từ quan điểm và hệ
thống quản lý dựa trên hình thức sở hữu duy nhất và một tầng sang hệ thống sở hữu nhiều
hình thức, nhiều tầng; (ii) Để điều tiết việc sử dụng đất, Nhà nước không cần phải nắm
quyền sở hữu, mà sử dụng công cụ quy hoạch, kế hoạch và các công cụ quản lý hành
chính, pháp lý và kinh tế khác; (iii) Tiến trình chuyển mục đích sử dụng đất, “hàng hóa
hóa” và “vốn hóa” đất đai trong kinh tế thị trường và công nghiệp hóa đất nước phải luôn
đi liền với việc đảm bảo lợi ích hợp pháp của nông dân. Do vậy, lối suy nghĩ “thu hồi” và
“cưỡng chế’ phải được thay thế bằng tư duy “trao đổi bình đẳng” và “đồng thuận”, nhằm
đảm bảo cho tiến trình phát triển bền vững cả về kinh tế và xã hội ở mỗi địa phương và
trên phạm vi cả nước.


7

- Bài viết: “Quyền sử dụng đất - Một số quan điểm tiếp cận và đề xuất hướng giải
quyết trong khoa học pháp lý của Việt Nam” được đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp lý,
số 04/98 năm 2016 của Nguyễn Thùy Trang. Tác giả đã phân tích ba cách tiếp cận quyền
sử dụng đất trong khoa học pháp lý Việt Nam: là một quyền năng trong quyền sở hữu, là
vật quyền, là tài sản hoặc được nhận định tùy thuộc vào từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Từ đó tác giả đề xuất: (i) Quy định về “quyền sở hữu đối với quyền sử dụng đất”; (ii) Sửa
đổi đăng ký đất đai thành đăng ký quyền sử dụng đất; (iii) Xây dựng cơ chế quản lý
quyền sử dụng đất trên cơ sở tách biệt quản lý hoạt động sử dụng đất và quản lý quyền sử
dụng đất với tư cách là tài sản.
Thứ hai, về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là cơ sở pháp lý ban đầu để Nhà nước

tiến hành thu hồi đất đã được một số tác giả đề cập đến trong các công trình nghiên cứu
sau:
- Bài viết: “Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo pháp luật đất đai Việt Nam: Thực
trạng và kiến nghị” được đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2008 của tác giả
Phạm Hữu Nghị - Viện Nhà nước Pháp luật. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá những bất
cập của các quy định hiện hành về QH, KHSDĐ như: Tính tương thích, gắn kết giữa các
loại QH, chưa tập trung giải quyết những vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi cấp, chưa đảm bảo tính bền vững, minh bạch, tính dự báo chưa
cao; quản lý quy hoạch kém, còn có tình trạng lợi ích cục bộ;…; tác giả đã đề xuất
phương hướng hoàn thiện. Kết quả nghiên cứu trên có ý nghĩa trong việc xem xét, sửa
đổi luật đất đai, bởi lẽ, quy hoạch sử dụng đất là nền tảng cơ bản trong việc thực hiện
nhiệm vụ quản lý đất đai của cơ quan Nhà nước các cấp, trong đó có nội dung quản lý
Nhà nước về công tác thu hồi đất nói chung và thu hồi đất nông nghiệp nói riêng.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề
xuất việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện luật đất đai” (năm 2011) của Viện Chiến lược
Chính sách Tài nguyên và Môi trường (thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường). Các tác giả
đã đề nghị sửa đổi, bổ sung các nội dung có liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, giải
phóng mặt bằng như sau: (i) LĐĐ cần quy định rõ mục đích, vai trò và vị trí của QH,
KHSDĐ trong tổng thể quy hoạch, kế hoạch phát triển của cả nước, ngành, vùng và cấp
địa phương, có thời hạn đủ dài (25 - 50 năm), có tính đến các kịch bản biến đổi khí hậu
và các dự báo khác; (ii) Ban hành Luật Quy hoạch để điều chỉnh mối quan hệ giữa quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội - QHSDĐ - quy hoạch các ngành; (iii) Đề nghị bỏ QH,
KHSDĐ cấp huyện.
- Bài viết: “Đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất trong công tác quy hoạch sử
dụng đất” được đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4/2012 của tác giả Đặng Anh
Quân. Từ cách tiếp cận, mục đích của QH SDĐ không chỉ nhằm định hướng cho việc sử
dụng đất được hiệu quả, bền vững, mà hơn hết là vì lợi ích của người dân - chủ sở hữu


8


đất đai, tác giả đã đề xuất: (i) Đảm bảo quyền được thông tin đóng góp ý kiến đối với QH
SDĐ của người dân bằng cách quy định về quy trình lấy ý kiến, cũng như cơ chế tiếp thu,
xem xét, phản hồi; (ii) Đảm bảo cuộc sống của người dân khi quy hoạch bằng cách Nhà
nước không giới hạn quyền lợi của người có đất thuộc khu QH trong việc khai thác, sử
dụng bất động sản trên đất; (iii) Cho phép và đảm bảo NSDĐ có quyền khiếu nại đối với
công tác QH, KHSDĐ khi quyền lợi của họ bị xâm hại.
- Bài viết: “Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với vấn đề hoàn thiện pháp
luật đất đai”, được đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1/2015 của tác giả Lưu
Quốc Thái. Trên cơ sở đánh giá những nội dung mới của pháp luật đất đai thể hiện tinh
thần Hiến pháp năm 2013, tác giả đã nêu một số vấn đề đặt ra cho pháp luật đất đai hiện
nay; trong đó có nội dung: Pháp luật chưa quy định về việc sử dụng ý kiến đóng góp của
nhân dân về QH, KHSDĐ trong trường hợp đa số người dân trong khu vực lấy ý kiến
không đồng tình với QH, KHSDĐ dự kiến của Nhà nước4.
Thứ ba, về nội dung, trình tự thu hồi đất, trong đó có đất nông nghiệp đã được một
số tác giả đề cập đến trong các công trình nghiên cứu sau:
- Bài viết: “Cơ sở hiến định về thu hồi đất vì mục đích công cộng ở Việt Nam” được
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 12(128), tháng 8/2008 và “Pháp luật về thu
hồi đất khi thực hiện quy hoạch và chế định trưng dụng đất trong pháp luật Việt Nam”
đăng trên Tạp chí Luật học số 3/2011 của cùng tác giả Phan Trung Hiền đã đề nghị quy
định việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia trong Hiến pháp;
đồng thời cần thiết phải xây dựng một đạo luật về thể thức thu hồi vì mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
- Cuốn sách “Land in transition: Reform and Poverty in Rural Vietnam” (Đất đai
trong thời kỳ chuyển đổi: Cải cách và Nghèo đói ở Nông thôn Việt Nam) của World
Bank (Ngân hàng Thế giới), Nxb. Văn hóa Thông tin năm 2008 đã chỉ ra rằng, đối với
người nghèo ở các nước đang phát triển, đất đai là một phương tiện quan trọng nhất để
tạo ra sinh kế, và là phương tiện chính cho đầu tư, tích lũy của cải và chuyển giao giữa
các thế hệ. Đất đai cũng là một yếu tố chính trong tài sản của hộ gia đình. Do vậy, thu hồi
đất nông nghiệp liên quan trực tiếp đến sinh kế của người dân.

- Luận án Tiến sĩ Luật học: “Pháp luật về thị trường quyền sử dụng đất - Thực
trạng và hướng hoàn thiện” của nghiên cứu sinh Lưu Quốc Thái (năm 2009), Trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã đề cập đến quan hệ thu hồi đất và bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất; trong đó có nội dung: (i) Thu hồi đất về cơ bản là việc Nhà nước
“tước quyền sử dụng đất” của người đang sử dụng đất bằng một QĐHC; (ii) QSDĐ là
4

Lưu Quốc Thái (2015), Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với vấn đề hoàn thiện pháp luật đất đai, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 1(321)/2015, tr. 27-34.


9

quyền tài sản; do vậy trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất, để đảm bảo thị trường của
quan hệ đất đai, quyền và lợi ích của hai bên: Nhà nước và NSDĐ cần phải được đảm
bảo. Ngoài ra tác giả còn đề cập về giá đất bồi thường phải được hình thành trên cơ sở
thương lượng giữa hai bên, có sự tham khảo thực tế và giá đất đưa ra của các tổ chức dịch
vụ về tư vấn giá đất. Đây là những cơ sở lý luận nhằm xây dựng pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của NSDĐ.
- Bài viết: “Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt
bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng” được đăng trên Tạp chí
Luật học số 11/2010 của tác giả Nguyễn Thị Nga. Sau khi nghiên cứu quy định pháp luật
trong lĩnh vực nói trên, tác giả đề nghị: (i) Quy định quyền khiếu nại, tố cáo của người
dân được thực hiện ở tất cả các công đoạn của quá trình thu hồi đất; (ii) Cần quy định
việc giải quyết khiếu nại ở quy trình, công đoạn nào thì phải được giải quyết dứt điểm
ngay trong thời hạn luật định ở quy trình công đoạn đó, sau đó mới thực hiện các trình tự,
thủ tục tiếp theo của việc thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng.
- Công trình nghiên cứu: “Báo cáo rà soát Luật Đất đai” của tác giả Trần Quang
Huy và Công ty Luật LEADCO được công bố trên website .
năm 2011. Trên cơ sở rà soát các quy định pháp luật có liên quan dựa trên các tiêu chí:

tính minh bạch, tính thống nhất, tính hợp lý và tính khả thi, các tác giả đã khuyến nghị
các vấn đề liên quan đến công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư như sau: (i)
UBND cấp tỉnh ban hành QĐ thu hồi đất đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng
đất để thực hiện các dự án đầu tư sau khi QH, KHSDĐ đã được cấp có thẩm quyền xét
duyệt và giao cho Tổ chức phát triển quỹ đất quản lý, kêu gọi đầu tư để thực hiện quy
hoạch. Trên cơ sở đó, UBND cấp huyện QĐ thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân; (ii)
Cần quy định sự tham gia bắt buộc của Nhà nước vào việc thu hồi đất trong trường hợp
doanh nghiệp đã thỏa thuận bồi thường từ 70% - 80% các hộ dân trong khu đất quy
hoạch và gặp khó khăn trong các hộ dân còn lại; (iii) Cần có hướng dẫn để UBND cấp
tỉnh xác định và công khai giá đất cho từng giai đoạn thu hồi đất, bao gồm giá đất theo
mục đích ban đầu, giá đất sau khi QH, giá đất sau khi QH vào mục đích khác và giá đất
sau khi đầu tư cơ sở hạ tầng.
- Cuốn sách “Compulsory land acquisition and voluntary land conversion in
Vietnam: The conceptual approach, land valuation and grience redress mechanisms”
(Cơ chế Nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam: Phương
pháp tiếp cận, Định giá đất và Giải quyết khiếu nại của dân) do The World Bank (Ngân
hàng Thế giới) xuất bản năm 2011, trong đó có đề cập đến nội dung chuyển dịch đất đai
bắt buộc (Nhà nước thu hồi đất và giao đất), chuyển dịch đất đai tự nguyện (các nhà đầu
tư trực tiếp nhận chuyển nhượng QSDĐ của người đang sử dụng đất) ở Việt Nam. Cuốn
sách đã có khuyến nghị về hoàn thiện chính sách Nhà nước thu hồi đất và cơ chế chuyển


10

dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam với các nội dung: Đề xuất đổi mới, điều chỉnh cơ chế
chuyển dịch đất đai tự nguyện, bắt buộc; Xác định giới hạn cơ chế chuyển dịch đất đai
bắt buộc và chuyển dịch đất đai tự nguyện; Các biện pháp tăng hiệu quả của triển khai
thực tế.
- Cuốn sách: “Chế độ pháp lý về sở hữu và quyền tài sản đối với đất đai” của tác giả
Phạm Văn Võ, Nxb. Lao động năm 2012 đã đề cập việc thực hiện chế độ sở hữu toàn dân

đối với đất đai, thu hồi đất và những vấn đề đặt ra; trong đó nội dung: (i) Các trường hợp
thu hồi đất như quy định từ Khoản 2 đến Khoản 12 Điều 38 Luật Đất đai năm 2003 là
hợp lý, phù hợp với quản lý và sử dụng đất đai hiện nay; (ii) Khó có thể chấp nhận đối
với trường hợp thu hồi đất vào mục đích phát triển kinh tế để giao QSDĐ cho các doanh
nghiệp thực hiện các dự án đầu tư kinh doanh. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến một số
vấn đề bất cập trong việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất như:
đối tượng được bồi thường thiệt hại; đơn giá để tính thiệt hại về đất, tài sản có trên đất và
chính sách hỗ trợ, tái định cư. Những nội dung có liên quan đến công tác thu hồi đất được
tác giả đưa ra là cơ sở của việc tiếp tục nghiên cứu, nhằm góp phần vào việc hoàn thiện
pháp luật đất đai.
- Giáo trình: “Luật Đất đai” của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tư pháp năm
2013. Trong nội dung “Các quy định về thu hồi đất”; tác giả đã lần lượt trình bày các vấn
đề: (i) Đưa ra định nghĩa về thu hồi đất; (ii) Trên cơ sở Điều 38, Điều 40 LĐĐ năm 2003,
dưới giác độ khoa học, tác giả đã phân chia thành 4 loại: Thu hồi đất do nhu cầu Nhà
nước; Nhà nước thu hồi vì lý do đương nhiên; Thu hồi do vi phạm pháp luật đất đai và
thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế; (iii) Các quy định về bồi thường, tái định cư
cho người bị thu hồi đất; quy định về thẩm quyền thu hồi đất. Đây là tài liệu cần thiết cho
nghiên cứu sinh trong quá trình nghiên cứu thực hiện Luận án.
- Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quản lý đất đai: “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất
đổi mới pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư” (năm 2014) của
nghiên cứu sinh Đào Trung Chính, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Theo tác giả,
quy định của LĐĐ năm 2003 về thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích: “mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”, “mục đích phát triển kinh tế”
chưa được rõ ràng trong các trường hợp vì mục đích phát triển kinh tế dẫn tới sự không
đồng thuận của người dân vì họ cho rằng đã không được quan tâm đến quyền lợi chính
đáng, Nhà nước đang đứng về phía doanh nghiệp. Do vậy cần đảm bảo công bằng cho
NSDĐ.
- Bài viết: “Bản chất, vai trò của hoạt động thu hồi đất trong điều kiện kinh tế thị
trường”, được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 15/2015 của Lưu Quốc Thái;
trong đó tác giả khẳng định, thu hồi đất là một quan hệ của thị trường bất động sản, tuy

nhiên nội dung này chưa được pháp luật đất đai giải quyết thỏa đáng bởi các lý do: (i) Cơ


11

chế xác định giá đất tính tiền bồi thường chưa phù hợp; (ii) Trách nhiệm bồi thường chưa
được quy định hợp lý; (iii) Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã
hội chưa có cơ chế bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư5.
- Bài viết: “Trình tự, thủ tục thu hồi đất và giải phóng mặt bằng theo Luật Đất đai
năm 2013” được đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2(322)/2015 của tác giả
Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Vĩnh Diện. Sau khi đánh giá những thành công các quy
định về trình tự, thủ tục thu hồi đất và giải phóng mặt bằng, các tác giả đã đưa ra những
hạn chế như: (i) Việc thông báo thu hồi đất; (ii) Việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư của
một số địa phương dựa vào thông báo, công văn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện; (iii)
Việc tham vấn, đối thoại khi xây dựng và thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo
sát, đo đạc, kiểm đếm chỉ tiến hành qua quýt, chiếu lệ; (iv) Không ban hành QĐ thu hồi
đất đến từng người sử dụng đất; (v) Việc lấy ý kiến của người bị thu hồi đất. Trên cơ sở
đó, các tác giả có kiến nghị với từng lĩnh vực như đã nêu trên.
Thứ tư, về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, trong đó có đất nông nghiệp đã
được một số tác giả đề cập đến trong các công trình nghiên cứu sau:
- Cuốn sách: “Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng
các khu công nghiệp, các khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình phúc
lợi công cộng phục vụ lợi ích quốc gia” do tác giả Lê Du Phong (Chủ biên), Nxb. Chính
trị Quốc gia xuất bản năm 2007. Các tác giả đã kiến nghị: (i) Chính phủ nên chuyển một
bộ phận đáng kể đất đai, trong đó có đất nông nghiệp sang làm công nghiệp, phát triển đô
thị và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó cần nghiên cứu nâng cao năng suất
sản xuất của đất nông nghiệp; (ii) Kiên quyết chuyển một bộ phận lao động gắn với đất
đai này sang làm công nghiệp và dịch vụ ở các thành phố và khu công nghiệp, không để
họ quay trở về với con đường làm nông nghiệp; (iii) Kết quả điều tra cho thấy, có tới trên
73% những người lao động có đất bị thu hồi chưa được đào tạo dưới bất kỳ một hình thức

nào; do vậy các tác giả đã kiến nghị: một số giải pháp thu hồi đất phải để chính quyền các
cấp làm, kiên quyết không giao cho các chủ dự án; thành lập Quỹ hỗ trợ đào tạo nghề cho
dân có đất bị thu hồi.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Vấn đề bồi thường trong thu hồi đất nông
nghiệp ở Việt Nam: Thực trạng chính sách và giải pháp hoàn thiện” (năm 2009) của
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (thuộc Bộ Kế hoạch đầu tư) do tác giả
Nguyễn Mạnh Hải - Chủ nhiệm đề tài. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá những bất cập
trong công tác thu hồi, bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp; các tác giả đã đề xuất một
5

Lưu Quốc Thái (2015), Bản chất, vai trò của hoạt động thu hồi đất trong điều kiện kinh tế thị trường, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, số 15/2015, tr. 19 - 24.


12

số nội dung chính sau: (i) Thành lập Tòa án riêng để giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực thu hồi đất; (ii) Xác định rõ tiêu chí “giá chuyển nhượng trên thị trường
trong điều kiện bình thường” đối với đất nông nghiệp; (iii) Xây dựng phương án chi tiết
về đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp đối với từng đối tượng; thời gian hỗ trợ phải bằng 2 3 chu kỳ sản xuất nông nghiệp để người dân có thời gian điều chỉnh cho việc tìm sinh kế
mới.
- Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị: “Quan hệ tổ chức - Quản lý đất
đai trong nông nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam”
(năm 2010) của nghiên cứu sinh Nguyễn Tấn Phát, Trường Đại học Kinh tế - Luật. Trong
Luận án, tác giả đã kiến nghị: (i) Nâng cao hiệu quả về công tác bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư đối với nông dân có đất bị thu hồi để thực hiện dự án; (ii) Hạn chế sự tác động
của việc phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu dân cư dẫn đến việc thu hẹp
đất nông nghiệp; các địa phương nên chủ động quy hoạch các khu chế xuất, khu công
nghiệp ở những vùng đất hoang hóa, đồi núi và lộ trình xây dựng để nhận được sự hỗ trợ
của Nhà nước và cam kết hỗ trợ các doanh nghiệp; (iii) Bỏ quy định về thời hạn sử dụng

đất nông nghiệp của nông dân; đồng thời xem xét bỏ hoặc mở rộng hạn điền để nông dân
có thể tích tụ và tập trung ruộng đất phát triển sản xuất hàng hóa; (iv) Xem xét ban hành
Luật chống đầu cơ đất nông nghiệp và chống lãng phí đất nông nghiệp; (v) Kỳ QHSDĐ
là 50 năm, nhằm hạn chế các địa phương tùy tiện trong việc điều chỉnh QH, dẫn đến thu
hồi đất tràn lan; (vi) Xem xét lại thẩm quyền thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất
cấp tỉnh, cấp huyện.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề
xuất việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện luật đất đai” (năm 2011) của Viện Chiến lược
Chính sách Tài nguyên và Môi trường (thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường). Các tác giả
đã đề nghị nội dung có liên quan đến công tác bồi thường là: (i) Định hướng tổ chức phát
triển quỹ đất là loại hình doanh nghiệp nhà nước; (ii) Cho phép các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế được tham gia dịch vụ thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư
trên cơ sở ký hợp đồng với Tổ chức phát triển quỹ đất, với nhà đầu tư; (iii) Nhà nước
thành lập quỹ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư từ ngân sách nhà nước, từ quyên góp xã
hội để thực hiện tốt hơn trong việc hỗ trợ dài hạn cho các cộng đồng, người dân bị thiệt
hại trong quá trình chuyển đổi đất đai; (iv) Thực hiện chặt chẽ quy trình định giá đất theo
giá thị trường do các tổ chức định giá cung cấp dịch vụ để làm căn cứ cho cơ quan nhà
nước QĐ giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;…
- Cũng trong cuốn sách “Compulsory land acquisition and voluntary land
conversion in Vietnam: The conceptual approach, land valuation and grience redress
mechanisms” đã đề xuất về hoàn chỉnh quy định của pháp luật định giá đất áp dụng cho
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, bao gồm: (i) Quy định về phương pháp định giá đất phù


13

hợp với thị trường; (ii) Hoàn chỉnh hệ thống khung pháp luật cho hoạt động cung cấp
dịch vụ định giá đất; (iii) Bổ sung quy định về trình tự, thủ tục thực hiện định giá đất, QĐ
về giá đất phục vụ tính bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
- Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: “Tác động của đô thị hóa đối với lao động, việc

làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội” (năm 2012) của nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Hải
Vân, Học viện Khoa học Xã hội. Trong luận án, tác giả đã phân tích thực trạng của đô thị
hóa tới lao động, việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội; từ đó, tác giả đã đề ra các
giải pháp cơ bản điều tiết tác động của đô thị hóa tới việc làm ở nông thôn ngoại thành
Hà Nội; trong đó có nội dung hoàn thiện các chính sách về đất đai, đền bù thu hồi đất
nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa.
- Văn bản số: 193/BC-TNMT ngày 06/9/2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường
“Tổng kết tình hình thi hành LĐĐ 2003 và định hướng sửa đổi luật đất đai” đã đề cập
đến những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân trong việc thu hồi đất; trong đó có nội
dung: (i) Thẩm quyền thu hồi đất đã phân cấp cho UBND cấp tỉnh, cấp huyện, trong đó
có dự án thu hồi diện tích lớn, thu hồi đất trồng lúa, đất rừng để chuyển sang đất phi nông
nghiệp ảnh hưởng đến đời sống và việc làm của nhiều hộ dân, nhưng thực hiện còn thiếu
cân nhắc, tính toán, trong khi việc kiểm tra, giám sát của cơ quan cấp trên còn thiếu chặt
chẽ; (ii) Trong trường hợp nhà đầu tư thực hiện cơ chế tự thỏa thuận đã tạo ra sự chênh
lệch lớn về giá đất so với dự án do Nhà nước thu hồi trong cùng khu vực, việc giải phóng
mặt bằng chậm do người có đất trong khu vực không hợp tác với nhà đầu tư; (iii) Các
quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thường xuyên thay đổi, dẫn tới tình trạng so
bì, khiếu nại của người có đất bị thu hồi qua các dự án hoặc trong một dự án nhưng việc
thực hiện thu hồi đất qua nhiều năm; (iv) Việc chuẩn bị phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư chưa được các cấp chính quyền quan tâm đúng mức, nhất là phương án giải quyết
việc làm cho người bị thu hồi đất; một số nơi chưa chú trọng tạo việc làm mới, chuyển
đổi nghề cho người có đất bị thu hồi; (v) Giá đất bồi thường chủ yếu thực hiện theo bảng
giá nên còn thấp so với giá đất thị trường, có tình trạng chưa có sự thống nhất về cơ chế
bồi thường giữa các dự án đầu tư có nguồn vốn trong nước và dự án từ vốn vay của các
ngân hàng nước ngoài; (vi) Nhà nước chưa thu được đầy đủ phần giá trị tăng thêm từ đất
do chuyển mục đích sử dụng đất mà không do nhà đầu tư mang lại để điều tiết chung; (vii)
Bất cập trong việc giải quyết khiếu kiện về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư,
trong đó có vướng mắc trong thực hiện cưỡng chế thu hồi đất.
- Bài viết: “Hoàn thiện các quy định của Luật Đất đai về Nhà nước điều tiết phần
giá trị tăng thêm từ đất đai không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại” được đăng

trên Tạp chí Luật học, số 7(146)/2012 của các tác giả: Nguyễn Quang Tuyến và Đỗ Xuân
Trọng. Tác giả đã kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về điều tiết phần giá trị tăng
thêm từ đất đai không do người sử dụng đất tạo ra như sau: (i) Sửa đổi, bổ sung quy định


14

về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; trong đó chú trọng đến quy
định điều tiết phần chênh lệch về địa tô do việc chuyển mục đích sử dụng đất tạo ra; (ii)
Người dân, tổ chức được hưởng lợi từ địa tô chênh lệch phải thực hiện nghĩa vụ tài chính
đối với Nhà nước ngay sau khi địa tô chênh lệch xuất hiện để điều tiết cho người có đất
bị thu hồi; (iii) Bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho người sử
dụng đất góp đất cùng Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và được hưởng lợi theo
tỷ lệ vốn góp từ việc tăng giá trị của đất đai mang lại; (iv) Giao nhiệm vụ xác định giá đất
do các tổ chức tư vấn về giá đất chuyên nghiệp thực hiện, UBND cấp tỉnh lựa chọn, QĐ
bảng giá đất phù hợp làm cơ sở để điều tiết phần giá trị địa tô chênh lệch trong bồi
thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất hoặc trong việc xây dựng chính
sách tài chính về đất đai;...
- Luận án Tiến sĩ Luật học: “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ở Việt Nam” (năm 2014) của nghiên cứu sinh Phạm Thu Thủy, Trường Đại học
Luật Hà Nội. Trên cơ sở đưa ra cơ sở lý luận có liên quan đến bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp và các quy định pháp luật của LĐĐ năm 2003, tác giả đã đưa ra
một số giải pháp hoàn thiện cơ bản như sau: (i) Bổ sung quy định về cơ chế tham vấn
cộng đồng ngay từ lúc lập phương án bồi thường; (ii) Giá bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp là giá đất xác định tại thời điểm người bị thu hồi đất được nhận tiền
bồi thường; (iii) Hoàn thiện quy định pháp luật về cơ chế xác định giá đất bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; (iv) Hoàn thiện quy định pháp luật về cơ chế chuyển
dịch đất đai bắt buộc và tự nguyện; (v) Bổ sung quy định xác định cụ thể và đồng bộ cơ
chế đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi
đất nông nghiệp.

- Cuốn sách: “Pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai ở Việt Nam”do tác giả Phan
Trung Hiền chủ biên, Nxb. Đại học Cần Thơ, năm 2016. Trong nội dung liên quan đến
xác định thiệt hại, bồi thường thiệt hại, giá đất, điều tiết lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất,
tác giả đã nêu: (i) Thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất là những thiệt hại mà người dân
phải gánh chịu có nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp từ hoạt động thu hồi đất; (ii) Thu hồi
đất nông nghiệp không chỉ đơn thuần là gây thiệt hại đối với diện tích của một nông hộ
nào đấy, mà quan trọng hơn là tác động trực tiếp đến tư liệu sản xuất của người nông dân;
(iii) Thiệt hại đối với cây trồng không chỉ là giá trị vườn cây tại thời điểm phải bàn giao
đất, mà trong một số trường hợp nhất định chính là thiệt hại đối với hoạt động sản xuất
nông nghiệp của người nông dân; (iv) Xác định thiệt hại và bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất mang nhiều mục đích và ý nghĩa sau: Bảo đảm tính công bằng; xác định
đúng, đủ các thiệt hại; có phương cách bồi thường thiệt hại có hiệu quả, có tính khả thi;
tạo tiền đề cho các dự án thu hồi đất sau này được tiến hành thuận lợi hơn; (v) Việc xác
định giá đất tính bồi thường phải có sự tham gia của người dân cùng với sự kiểm tra,


15

giám sát của bên thứ ba độc lập về định giá đất,…; (vi) Xây dựng một đạo luật riêng về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nhằm điều tiết lợi ích, đảm bảo
công bằng xã hội và đánh giá hiệu quả của từng dự án thu hồi đất.
Thứ năm, về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đã được một số tác giả đề
cập đến trong các công trình nghiên cứu sau:
- Bài viết: “Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất” được đăng trên Tạp chí
Luật học số 10/2010 của tác giả Trần Quang Huy. Sau khi trình bày sự cần thiết xây dựng
chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, trong đó có đất nông nghiệp; đồng thời đánh
giá các quy định cụ thể về hỗ trợ NSDĐ khi bị thu hồi đất; tác giả đã kiến nghị: (i) Đối
với hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp là suất đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp
cần phải có cam kết của người được hỗ trợ về quá trình sử dụng đất không được chuyển
nhượng trong thời gian 10 năm kể từ ngày được giao đất, tránh tình trạng NSDĐ chuyển

nhượng ngay sau khi nhận được suất hỗ trợ và không còn tư liệu để sản xuất; (ii) Cần
kiểm soát quỹ đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất ao, vườn không được công nhận
là đất ở.
- Bài viết: “Vấn đề hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai năm 2013”
được đăng trên Tạp chí Luật học số 1/2015 của tác giả Phạm Văn Võ; trong đó tác giả
nhấn mạnh, hỗ trợ là trách nhiệm được xác lập trên cơ sở thiện chí của Nhà nước để hỗ
trợ cho chính sách bồi thường và đặt trong mối quan hệ không thể tách rời chính sách bồi
thường. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã đề cập đến các nội dung: (i) Sự cần thiết của chính
sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; (ii) Về đối tượng được hỗ trợ; (iii) Các khoản được
hỗ trợ; trong đó tác giả đã đề nghị không nên theo chế độ bản vị lương thực lỗi thời, mà
nên quy định mức hỗ trợ hàng tháng trên cơ sở mức lương tối thiểu.
1.1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Những vấn đề các công trình nêu trên đã nghiên cứu là:
(i) QSDĐ là quyền tài sản, có tác giả còn khẳng định đó là tài sản. Do vậy, việc Nhà
nước thu hồi đất phải đảm bảo quyền của NSDĐ, điều này chưa được quy định trong
Hiến pháp năm 1992 trở về trước. Tuy nhiên, các tác giả chưa lý giải cụ thể nội dung
QSDĐ là quyền tài sản.
(ii) Từ khi LĐĐ năm 2003 quy định phân cấp thẩm quyền thu hồi đất cho chính
quyền địa phương trong bối cảnh chưa đánh giá toàn diện cơ sở lý luận cũng như thực
tiễn áp dụng, đã cho thấy việc lạm quyền trong công tác thu hồi đất cũng như vi phạm
quy hoạch trong việc giao đất; nhất là cùng với việc phân cấp ngân sách cho địa phương
được sử dụng có khi đến 100% nguồn thu từ đấu giá hoặc giao QSDĐ có thu tiền. Các
nội dung có liên quan đến việc thu hồi đất chưa được công khai các thông tin theo quy
định pháp luật.


16

(iii) Một số công trình còn đề cập, phân tích trong việc sử dụng thuật ngữ “bồi
thường” hay “đền bù” khi Nhà nước thu hồi đất; trong đó các nhà khoa học không thuộc

chuyên ngành pháp lý thường sử dụng thuật ngữ “đền bù” hơn là “bồi thường” theo quy
định pháp luật, hoặc có khi sử dụng cả hai thuật ngữ này.
Thực tiễn hiện nay, công tác bồi thường chưa phù hợp với giá thị trường; hình thành
nhiều cơ chế giá bồi thường phụ thuộc vào nguồn vốn của dự án, hoặc mục đích thu hồi
đất. Giá đất do Nhà nước xây dựng để áp dụng trong việc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất thường thấp hơn so với giá thị trường, tạo bất bình trong nhân dân. Bên cạnh đó,
cần đặt ra trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp khi được giao đất để thực hiện dự án
trong việc đào tạo nghề, tiếp nhận lao động bị mất đất nông nghiệp để ổn định cuộc sống.
(iv) Đề xuất về điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất đai không do đầu tư của người
sử dụng đất mang lại theo những tỷ lệ nhất định giữa nhà nước, nhà đầu tư và người có
đất bị thu hồi. Bên cạnh đó, một số tác giả cũng đề cập đến việc khó thích ứng trong điều
kiện thay đổi nghề nghiệp của người bị thu hồi đất, công tác bồi thường, hỗ trợ cần phải
xem xét đến nội dung phục hồi thu nhập, đảm bảo tính ổn định lâu dài.
(v) Đất đai là phương tiện sinh sống của đại đa số người dân ở nông thôn; do vậy,
việc thu hồi đất sẽ dẫn đến sự xáo trộn, thay đổi đời sống và là nguyên nhân tạo sự bất ổn
trong xã hội, cần xem xét, dự báo để có biện pháp quản lý sao cho phù hợp. Điều này cần
đặt ra trong việc xem xét thu hồi đất nông nghiệp với việc đảm bảo an ninh lương thực.
(vi) Cần quy định cụ thể về quyền khiếu nại của người có đất bị thu hồi, tránh sự
xung đột pháp luật giữa pháp luật đất đai và pháp luật về khiếu nại tố cáo.
Như vậy, các công trình khoa học nói trên chủ yếu đi sâu vào việc nghiên cứu, phân
tích các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, về sự bất cập
của giá đất. Tuy nhiên các tác giả chủ yếu nghiên cứu LĐĐ năm 2003, chưa phân tích các
trường hợp thu hồi đất; trong đó có đất nông nghiệp chính là một trong những cơ sở pháp
lý trực tiếp làm phát sinh thẩm quyền của cơ quan nhà nước; sự hạn chế của việc áp dụng
phương pháp định giá đất; các thủ tục hành chính khi tiến hành thu hồi đất; chưa đi sâu
vào vấn đề “cốt lõi”, đó là bản chất của việc thu hồi QSDĐ; sự chia sẻ lợi ích giữa Nhà
nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi trên cơ sở tiếp cận từ việc đánh giá thực tế bị
thiệt hại của NSDĐ, lợi ích được thụ hưởng trên phạm vi rộng, không giới hạn ở từng địa
phương riêng lẻ,...
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả các công trình đã nghiên cứu, luận án cần

tiếp tục nghiên cứu các nội dung sau:
Thứ nhất, về mặt lý luận luận án cần tập trung nghiên cứu các khái niệm về đất đai,
đất nông nghiệp, thu hồi đất nông nghiệp, vai trò của đất nông nghiệp; những đặc trưng
pháp lý của việc thu hồi đất nông nghiệp trong bối cảnh đất đai thuộc sở hữu toàn dân
còn NSDĐ chỉ có quyền sử dụng.


17

Thứ hai, luận án cần nghiên cứu về thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
ở nước ta, phát hiện những bất cập trong các quy định pháp luật gián tiếp và trực tiếp tác
động đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng như NSDĐ; thực tiễn áp dụng pháp luật
trên cơ sở nghiên cứu các QĐHC của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và
các nội dung khác như: bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Thứ ba, trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những định hướng chính sách đất đai của
Đảng, và yêu cầu thực tế, luận án sẽ đưa ra phương hướng, đề xuất giải pháp hoàn thiện,
cũng như việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp và một số chế định
pháp luật có liên quan ở nước ta hiện nay; trong đó có quy định pháp luật về hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp như là trách nhiệm của Nhà nước với tư cách là người
đại diện chủ sở hữu trong việc cân bằng lợi ích.
Như vậy, việc kế thừa, tiếp tục phát triển các kết quả nghiên cứu về thu hồi đất nông
nghiệp dưới giác độ lý luận, đánh giá thực trạng của các quy định về nội dung này và đề
xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam là hết
sức cần thiết và chưa trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã thực hiện trước
đây.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
1.2.1.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án được triển khai với những câu hỏi nghiên cứu như sau:
- Về khía cạnh lý luận

+ Câu hỏi nghiên cứu (1): Thu hồi đất nông nghiệp là gì? Đặc trưng của việc thu hồi
đất nông nghiệp.
+ Câu hỏi nghiên cứu (2):
Nội dung của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp và sự tác động của nó đến kinh
tế - xã hội nước ta cũng như các đối tượng có liên quan như thế nào? Vai trò của Nhà
nước được thể hiện ra sao thông qua chính sách hỗ trợ liên quan đến việc ổn định đời
sống, sản xuất, việc làm,… với tư cách là người đại diện sở hữu đất đai.
- Về khía cạnh pháp luật thực định
+ Câu hỏi nghiên cứu: Nội dung và thực tiễn áp dụng pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp có vướng mắc, bất cập gì cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung?
- Về đề xuất, kiến nghị
+ Câu hỏi nghiên cứu: Với những hạn chế, bất cập nêu trên thì cần phải có những
phương hướng và giải pháp gì để sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế để góp phần hoàn thiện
pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp phù hợp trong giai đoạn hiện nay?
1.2.1.2. Lý thuyết nghiên cứu


18

Luận án được thực hiện dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các chủ trương, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của tổ chức, cá nhân. Ngoài
ra, luận án cũng dựa trên quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, trong đó có
pháp luật đất đai nhằm phục vụ các tổ chức, cá nhân và đáp ứng nhu cầu hội nhập.
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng lý thuyết hạn chế quyền lực trong việc thu hồi đất,
trong đó có đất nông nghiệp; lý thuyết vốn hóa thu nhập để luận giải về phương pháp
định giá đất nông nghiệp; lý thuyết sinh lý thực vật để phân tích, đề xuất sửa đổi, bổ sung
quy định pháp luật về bồi thường tài sản trên đất nông nghiệp, cũng như giải quyết khiếu

nại trong trường hợp thu hồi đất để xây dựng công trình thủy lợi, thủy điện.
1.2.1.3. Các giả thuyết nghiên cứu
Luận án được triển khai với giả thuyết nghiên cứu như sau:
- Về khía cạnh lý luận
+ Giả thuyết nghiên cứu: Sự tác động của chế độ Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý đất đai đối với việc thu hồi đất nông nghiệp chưa được nghiên cứu
một cách đầy đủ.
+ Giả thuyết nghiên cứu: Tính tất yếu khách quan phải điều chỉnh bằng pháp luật
đối với lĩnh vực này chưa được luận giải rõ ràng, đầy đủ và các đề tài nghiên cứu trước
đây chưa phản ảnh một cách có hệ thống.
Hiện nay, các vấn đề lý luận về thu hồi đất nông nghiệp chưa được nghiên cứu một
cách đầy đủ, tổng thể; chưa đánh giá được tác động của pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp đến các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật đất đai.
- Về khía cạnh pháp luật thực định
+ Giả thuyết nghiên cứu: Các quy định của pháp luật Việt Nam về thu hồi đất nông
nghiệp được quy định trong LĐĐ năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật hướng
dẫn, thi hành có liên quan. Nhiều quy định trong đó đã, đang bộc lộ những hạn chế và bất
cập khi áp dụng so với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước.
- Về đề xuất, kiến nghị
+ Giả thuyết nghiên cứu: Hiện nay mặc dù LĐĐ năm 2013 đã được Quốc hội thông
qua và các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ vừa được ban hành, có hiệu lực
thực thi kể từ ngày 01/7/2014. Tuy nhiên vẫn chưa khắc phục được những hạn chế đã bộc
lộ trong LĐĐ năm 2003 và yêu cầu thực tiễn đang đặt ra, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên trong thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp cần được phân
tích và kiến nghị phương hướng, giải pháp phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định pháp


×