Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình giai đoạn 20152020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.27 KB, 50 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

PHẠM NGỌC DU

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
HÒA BÌNH GIAI ĐOẠN 2015-2020

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2015


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
HÒA BÌNH GIAI ĐOẠN 2015-2020

Người thực hiện: Phạm Ngọc Du
Lớp: B5-14
Chức vụ: Phó trưởng phòng theo dõi công tác phòng, chống tham
nhũng
Đơn vị công tác: Ban Nội chính Tỉnh ủy Hòa Bình
Người hướng dẫn khoa học: Giảng viên Nguyễn Thanh Hà
Phó trưởng khoa Chính trị học



HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2015
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề án Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham
nhũng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2015-2020, em xin được gửi lời
cảm ơn trân trọng đến giảng viên hướng dẫn Tiến sĩ Nguyễn Thanh Hà – Phó
Trưởng khoa Chính trị học, Học viên Chính trị Khu vực I.
Đề án là kết quả không chỉ kinh nghiệm của bản thân mà là cả quá trình
nghiên cứu, học tập tại Học viện Chính trị khu vực I, xin trân trọng gửi lời
cảm ơn tới Lãnh đạo Học viện cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo của Học
viện đã giúp em lĩnh hội được những kiến thức quý báu về lý luận, thực tiễn,
về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong việc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đề án cũng nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí lãnh đạo,
cán bộ công chức, phòng chuyên môn về theo dõi công tác phòng, chống
tham nhũng cơ quan Ban Nội chính Tỉnh ủy Hòa Bình.
Do trình độ và thời gian đều có những hạn chế nhất định, nên đề án này
không tránh khỏi có thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý
báu của các thầy cô giáo để đề án được hoàn thiện và có hiệu quả, tác dụng
cao trong thực tế.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên: Phạm Ngọc Du


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADB

Ngân hàng phát triển Châu Á

GPMB


Giải phóng mặt bằng

HĐND

Hội đồng nhân dân

IMF

Quỹ Tiền tệ Quốc tế

NSNN

Ngân sách Nhà nước

PCTN

Phòng, chống tham nhũng

TCCSĐ

Tổ chức cơ sở Đảng

TI

Tổ chức minh bạch quốc tế

UBKT

Ủy ban kiểm tra


UBMTTQ

Ủy ban Mặt Tổ quốc

UBND

Ủy ban nhân dân

WB

Ngân hàng thế giới

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới


MỤC LỤC
Học viên: Phạm Ngọc Du..............................................................................3
1.1.2. Nguyên nhân và tác hại của tham nhũng.........................................8
* Nguyên nhân:.........................................................................................8
- Về nguyên nhân chủ quan:......................................................................8
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý........................................................................13
1.3. Cơ sở thực tiễn......................................................................................16
2. Nội dung thực hiện của đề án..................................................................17
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án......................................................................17
* Vị trí địa lý............................................................................................18
* Điều kiện tự nhiên................................................................................18
* Điều kiện về văn hóa – xã hội và những tác động đến công tác PCTN
.................................................................................................................18

2.2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết trong đề án.......................................19
2.2.1. Những thành tựu đã đạt được trong công tác PCTN và những vấn
đề đặt ra...................................................................................................19
2.2.2. Một số hạn chế trong công tác PCTN...........................................20
2.2.3. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế.....................................21
2.3. Những nội dung cụ thể của đề án cần thực hiện...................................23
2.4. Các giải pháp thực hiện đề án...............................................................24
3. Tổ chức thực hiện đề án..........................................................................27
3.1. Phân công trách nhiệm thực hiện đề án................................................27
3.2. Tiến độ thực hiện đề án........................................................................28
3.3. Kinh phí thực hiện các hoạt động của đề án.........................................31
3.3.1. Nguồn kinh phí: lấy từ nguồn ngân sách tỉnh................................31
3.3.2. Nội dung chi gồm:.........................................................................31
3.3.3. Lập dự toán, giao dự toán, phân bổ dự toán và quyết toán:..........32
4. Dự kiến hiệu quả của đề án.....................................................................32
4.1. Ý nghĩa thực tiễn của đề án..................................................................32
4.2. Đối tượng được hưởng lợi của đề án....................................................33
4.3. Những thuận lợi, khó khăn khi thực hiện và tính khả thi của đề án.....34
4.3.1. Những thuận lợi trong việc triển khai thực hiện đề án..................34
4.3.2. Một số khó khăn khi triển khai đề án............................................34
4.3.3. Phương hướng vượt qua khó khăn để đảm bảo tính khả thi của đề
án.............................................................................................................37
1. Kiến nghị.................................................................................................39
2. Kết luận...................................................................................................40


1

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) là một nhiệm vụ trọng
tâm của công tác xây dựng đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội. Tình hình hiện nay đòi hỏi các cấp uỷ và tổ
chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu
dài, phức tạp và khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, có
quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết, kiên trì, liên tục từ Trung ương
đến cơ sở, trong Đảng, Nhà nước và toàn xã hội nhằm “ngăn chặn và từng
bước đẩy lùi tham nhũng”.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nghị
quyết và các văn bản pháp luật về PCTN, đồng thời, kiên quyết xử lý nghiêm
minh những người vi phạm, kể cả cán bộ cao cấp, từ kỷ luật hành chính đến
cách chức, truy tố, bỏ tù, tịch thu tài sản… Chỉ tính trong nhiệm kỳ Đại hội
XI của Đảng, số người đứng đầu bị xử lý do để xảy ra tham nhũng là 678
người (trong đó xử lý hình sự là 101 người, xử lý kỷ luật là 577 người). Sự
vào cuộc mạnh mẽ và thái độ chỉ đạo dứt khoát của lãnh đạo Đảng và Nhà
nước đối với những vụ án tham nhũng lớn xảy ra trong thời gian gần đây đã
thể hiện quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh PCTN,
làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh PCTN vẫn còn có những hạn chế, bất cập,
nạn tham nhũng vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, thậm chí có mặt biểu hiện
trầm trọng hơn, với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X chỉ rõ: “Cuộc
đấu tranh PCTN, lãng phí còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp.
Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp,
nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều


2

mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe

doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”.
Tham nhũng đã trở thành “quốc nạn”, đang cản trở tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế quốc dân, làm chệch hướng những mục tiêu tốt đẹp của Chủ
nghĩa xã hội (CNXH), làm băng hoại giá trị, chuẩn mực đạo đức xã hội, làm
cho lòng dân không yên, đe dọa đến sự an nguy của Đảng và chế độ ta. Do
vậy, PCTN hiện nay là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thực tế ở Hòa Bình trong những năm qua, công tác PCTN đã được các
cấp ủy đảng, chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện; bước
đầu đã đem lại kết quả nhất định trong công tác đấu tranh PCTN trên cả hai
mặt; công tác tuyên truyền về pháp luật PCTN đã được quan tâm và đi vào
chiều sâu. Các biện pháp phòng ngừa tham nhũng đã được chỉ đạo triển khai
thực hiện tương đối đồng bộ. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và đạt được những
kết quả quan trọng bước đầu nhưng còn nhiều hạn chế, bất cập trong công tác
PCTN; đội ngũ cán bộ quản lý còn nhiều yếu kém, đời sống của cán bộ, công
chức còn nhiều khó khăn; lương và thu nhập chính thức của đa số cán bộ,
công chức chưa đáp ứng được nhu cầu cuộc sống, không ít người phải tìm
kiếm thêm từ các nguồn thu nhập khác.
Từ những lý do trên, tôi chọn xây dựng đề án“Nâng cao hiệu quả công
tác phòng, chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình giai đoạn 20152020” làm đề án tốt nghiệp cao cấp lý luận Chính trị.

2. Mục tiêu của đề án


3

2.1.Mục tiêu chung:
Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, loại bỏ dần các cơ hội, điều
kiện phát sinh tham nhũng, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hoạt động hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính; lành

mạnh hóa các quan hệ xã hội thông qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp
phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng; củng cố lòng tin của nhân dân,
thúc đẩy kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh phát triển.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
+ Ngăn chặn làm giảm tối đa các điều kiện và cơ hội phát sinh tham
nhũng trong việc hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật, nhất là
trong quá trình ban hành và tổ chức thi hành các văn bản áp dụng pháp luật.
+ Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước,
ngăn ngừa việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi trên cơ sở xây dựng
nền công vụ hiệu quả, minh bạch, phục vụ nhân dân và xã hội, với đội ngũ
cán bộ, công chức trung trực, công tâm, liêm khiết, tận tụy, chuyên nghiệp và
được trả lương hợp lý; các chuẩn mực đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp
được củng cố và phát triển.
+ Cụ thể hóa các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tạo lập
môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch nhằm thu
hút đầu tư trong và nước ngoài nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các tầng lớp nhân dân; từng bước xóa
bỏ tệ hối lộ trong các mối quan hệ với những người có vị thế trong cơ quan
nhà nước và trong giao dịch thương mại.
+ Nâng cao trách nhiệm, tính chuyên nghiệp, sức chiến đấu và hiệu quả
hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan, đơn vị chuyên trách


4

chống tham nhũng được nâng cao, giữ vai trò nòng cốt trong phát hiện và xử
lý tham nhũng.
+ Nâng cao nhận thức, vai trò của xã hội về tham nhũng, về chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong phòng, chống
tham nhũng; thúc đẩy sự tham gia chủ động của các tổ chức, đoàn thể xã hội,

các phương tiện truyền thông và mọi công dân trong nỗ lực phòng, chống
tham nhũng; xây dựng văn hóa và tạo ra thói quen phòng, chống tham nhũng
trong đời sống của cán bộ, công chức và trong các tầng lớp nhân dân.
+ Ngăn ngừa và phát hiện kịp thời các vụ việc, vụ án tham nhũng; xử
lý nghiêm khắc đối với các đối tượng có hành vi tham nhũng, góp phần làm
giảm thiểu tệ nạn tham nhũng xảy ra trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
3. Giới hạn của đề án
+ Về không gian: Đề án chủ yếu tập trung nghiên cứu việc triển khai
công tác PCTN của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp từ tỉnh đến cơ sở;
bao gồm 11 huyện, thành phố; các sở, ban, ngành; các ban Đảng thuộc Tỉnh
ủy; các tổ chức đoàn thể; các cơ quan Trung ương, doanh nghiệp nhà nước
đóng trên địa bàn; các xã, phường, thị trấn trong tỉnh Hòa Bình.
+ Về thời gian: Đánh giá thực trạng công tác PCTN của tỉnh Hòa Bình
từ 2010-2015; đề xuất các nội dung, nhiệm vụ phòng ngừa nhằm nâng cao
hiệu quả công tác PCTN trong giai đoạn 2015-2020.

B. NỘI DUNG


5

1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Khái niệm về tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội phức tạp với nhiều biểu hiện
khác nhau. Các quốc gia ở trình độ phát triển khác nhau, điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội khác nhau quan niệm về tham nhũng cũng rất khác nhau.
Trong từng quốc gia ở mỗi giai đoạn phát triển, khái niệm tham nhũng
đưa ra cũng thay đổi tương ứng để chỉ ra những loại hành vi tham nhũng nào
là phổ biến. Vì vậy, khó có thể có một khái niệm chung nhất về tham nhũng

cho mọi quốc gia, mọi chế độ chính trị; tham nhũng cũng không phải là một
khái niệm nhất thành bất biến xuyên qua các thời kỳ phát triển đối với từng
quốc gia, khu vực. Cụ thể là:
Ngân hàng thế giới (WB) coi tham nhũng là “Sự lạm dụng chức vụ
công để tư lợi”. Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) quan niệm: “Tham
nhũng là lợi dụng chức vụ công hoặc chức vụ tư để tư lợi”.
Theo tổ chức minh bạch quốc tế (TI) thì “Tham nhũng là hành vi của
công chức trong khu vức công, dù là chính trị gia hay công chức dân sự,
trong đó họ làm giàu một cách không đúng đắn hay bất hợp pháp cho bản
thân hoặc cho người thân của họ bằng việc lạm dụng quyền lực công đã được
giao cho họ”.
Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 không đưa ra
khái niệm về tham nhũng mà chỉ khuyến cáo các quốc gia thành viên cần phải
quy định các hành vi sau đây là tội phạm tham nhũng: Hối lộ (trong khu vực
công và khu vực tư); tham ô; lợi dung ảnh hưởng để trục lợi; làm giàu bất hợp
pháp; biển thủ trong khu vực tư; tẩy rửa tài sản do phạm tội mà có…”.


6

Ở Việt Nam, theo từ điển Việt Nam năm 2006: “Tham nhũng là hành
vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hưởng lợi ích vật chất trái quy định pháp luật,
gây thiệt hại cho tài sản nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động
đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”.
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 thì: “Tham nhũng là hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi”.
Các hành vi tham nhũng được quy định trong Luật phòng, chống tham
nhũng năm 2005 gồm:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.

- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì
vụ lợi.
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ,
quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa
phương vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của nhà nước
vì vụ lợi;
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi;
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;


7

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi
phạm pháp luật vì vụ lợi, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Tham nhũng là một căn bệnh xã hội tồn tại ở mọi xã hội có Nhà nước
và một khi bộ máy Nhà nước càng trở nên trần trọng. Tham nhũng, xét theo
khía cạnh chữ nghĩa, cũng như cách hiểu truyền thống, là hiện tượng những
người có chức vụ quyền hạn cố tình làm trái với những quy định chung nhằm
vơ vét tài sản của công cho bản thân mình hoặc cho người khác. Ở bất cứ đâu,
tệ tham nhũng cũng bị lên án, vì nó đi ngược lại lợi ích của quần chúng nhân
dân lao động. Hành vi của người lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để
chiếm dụng tài sản của cộng đồng thời xâm phạm tới nhiều khách thể khác
nhau được pháp luật bảo vệ. Đó là tài sản của xã hội (bao gồm tài sản của Nhà
nước, tài sản của các tổ chức xã hội, tài sản của hợp tác xã v.v…), quyền và

các lợi ích chính đáng của công dân, hoạt động bình thường của các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức xã hội và các đơn vị kinh tế. Tham nhũng bao giờ cũng
là một vi phạm pháp luật và tuỳ theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội mà nó có thể là một vi phạm hành chính hay là một tội phạm.
Cũng như các tỉnh khác, ở tỉnh Hòa Bình, tuy không xảy ra nhũng vụ
tham nhũng lớn như ở một số tỉnh, thành phố lớn, nhưng tệ nạn tham nhũng
đã và đang len lỏi đi vào từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong những năm
gần đây, tham nhũng phần lớn xảy ra do cán bộ, công chức đã lạm dụng chức
vụ và quyền hạn để tham nhũng, các trường hợp tham nhũng xảy ra chủ yếu
liên quan tới tài chính, các cấp để xảy ra tham nhũng thường là cấp huyện và
cấp xã.


8

1.1.2. Nguyên nhân và tác hại của tham nhũng
* Nguyên nhân:
- Về nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, nguyên nhân và động cơ chủ yếu của tham nhũng là lòng
tham của con người. Vì lợi ích cá nhân, người ta có thể làm tất cả, bất chấp
mọi thủ đoạn, mọi hậu quả để đạt được dù hành vi đó là vi phạm đạo đức,
pháp luật, hay vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng.
Thứ hai là do lối sống “ăn bám”, ỷ lại, lười lao động thích hưởng thụ
của một bộ phận, tầng lớp trong xã hội. Chính lối sống này kết hợp với bản
chất ích kỷ, đam mê lợi ích vật chất của các bậc phụ huynh, cán bộ, công
chức,… là chất xúc tác để thúc đẩy con người ta lao vào các “phi vụ” phạm
pháp. Lối sống hưởng thụ len lỏi vào các cơ quan công quyền thể hiện ở sự
quan liêu và suy đồi của không ít cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
cống hiến thì ít mà muốn hưởng thụ thì nhiều, nên sách nhiễu, làm khó để vòi
vĩnh, “gợi ý”, “lót đường”, “rải thảm”.

Thứ ba là do cuộc sống, áp lực công việc, do môi trường xung quanh;
một bộ phận cán bộ, công chức chưa có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức,
lối sống, tư tưởng chính trị. Điều này dẫn đến sự tha hóa, suy thoái về đạo đức
không thể tránh khỏi của các công chức, viên chức nhà nước, sẵn sàng vì lợi
ích cá nhân mà tham nhũng.
Thứ tư là do tâm lý, “truyền thống văn hóa” và trình độ nhận thức của
một bộ phận người dân còn yếu kém. Với quan niệm “dầu bôi trơn bánh xe”,
“đầu xuôi đuôi lọt”, “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” và nghĩ rằng giải
pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất để giải quyết công việc là “thủ tục đầu tiên”
cũng là nguyên nhân thúc đẩy tham nhũng. Hơn thế, người ta còn dùng hối lộ,


9

quà cáp như một hình thức “kết thân”, “đầu tư chiều sâu”, “đầu tư vào tương
lai” để tạo thuận lợi cho con đường công danh sự nghiệp sau này cho cả bản
thân lẫn người thân. Chính hành vi tâm lý và trình độ nhận thức này đã vô
tình làm cho không ít cán bộ, nhân viên bị tham nhũng thụ động. Tình trạng
này kéo dài làm xuất hiện tư tưởng gây khó dễ ở cán bộ, công chức để nhận
“phong bì” từ dân mới giải quyết công việc, cho rằng nhận hối lộ là một thủ
tục tất yếu trong quá trình xử lý công việc. Bởi vậy, một số cán bộ, đảng viên
khi có quyền lực đã đem địa vị, quyền hành ra để “mặc cả” và cho rằng
“muốn ăn chân giò phải thò chai rượu”. Vô hình trung điều này tạo nên một
cách suy nghĩ, một thói quen xấu trong cả cán bộ công chức và cả những
người muốn dùng tiền để giải quyết công việc, dần dần hình thành nên “văn
hóa phong bì”.
Thứ năm là sự sơ hở, bất cập, thiếu công khai, thiếu minh bạch, cơ chế
“xin - cho” còn tồn tại. Nguyên nhân này thể hiện ở chỗ: cơ chế kiểm tra,
kiểm soát việc sử dụng, quản lý, luân chuyển tài sản có nhiều sơ hở; các thủ
tục, quy định của Nhà nước chưa được công khai, rõ ràng nên nhân dân có

suy nghĩ “tiếp cận, giải quyết” mới xong, tạo điều kiện cho cán bộ tham
nhũng; thiếu công khai, minh bạch trong công tác quản lý, trong công tác kê
khai tài sản, trong công tác sử dụng tài sản, và thiếu minh bạch trong các văn
bản, quy định, thủ tục.
Thứ sáu, đó là tư duy chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn
phảng phất tư duy “truyền thống”, phong kiến, manh mún, chắp vá, thiếu tính
hệ thống dẫn đến thiếu mạnh dạn và quyết tâm trong việc thực hiện đường lối
đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy chính trị.
- Về nguyên nhân khách quan:


10

Thứ nhất, trong quá trình lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước,
để xây dựng, phát triển và bình ổn trật tự xã hội còn nghiêng về “đức trị”,
“nhân trị” mà chưa nghiêng về “pháp trị”. Chính sách thưởng phạt chưa đủ
sức răn đe người phạm tội và khuyến khích người lập công, tố giác tội phạm.
Thứ hai là do hệ thống pháp luật, chính sách ở nước ta thiếu đồng bộ,
chưa thỏa đáng và nhất quán; trong xử lý, chế tài chưa nghiêm minh, pháp
luật còn nhiều kẽ hở, cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém.
Thứ ba là do những bất cập trong triết lý về giáo dục, giáo dục đạo đức
cán bộ, đảng viên trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường chưa được chú
trọng đúng mức. Hơn nữa, việc đưa những người thiếu năng lực và thiếu
phẩm chất đạo đức vào làm cho các cơ quan nhà nước do “quan hệ”, nể nang,
“đi đêm”,... làm suy thoái hệ thống chính trị và làm cho tình trạng tham nhũng
ngày càng phát triển nhanh chóng.
Thứ tư là do sự quản lý, thanh tra, kiểm tra lỏng lẻo, yếu kém của cơ
quan Nhà nước; xử lý qua loa, chỉ mang tính “hình thức” nên chưa mang tính
răn đe. Các cán bộ cấp cao và cấp trên chưa làm gương cho cấp dưới, chưa
thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với phương châm “một tấm

gương sống về đạo đức gấp hàng trăm, hàng nghìn bài diễn thuyết”.
Thứ năm là do việc thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng
chưa đáp ứng được thực trạng tham nhũng hiện nay, thiếu một chương trình
phòng, chống lâu dài, tổng thể mà chỉ chủ yếu tập trung vào việc giải quyết
những vụ “tham nhũng vặt”, nhỏ lẻ. Mặt khác, các chính sách của nýớc ta
chýa khuyến khích toàn dân và cả hệ thống chính trị cùng phòng, chống tham
nhũng. Chúng ta chưa có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ những người phát hiện và
dám tố cáo tham nhũng. Việc tuyên dương người đứng lên tố cáo tham nhũng
hiện nay cũng chưa phải là giải pháp hiệu quả để động viên toàn dân tham


11

gia. Hơn nữa, người “đưa hối lộ” đi tố cáo tham nhũng cũng bị khép tội “đưa
hối lộ” nên cũng làm hạn chế việc tố cáo tham nhũng của nhân dân.
Thứ sáu, là do mặt trái (bản chất) của nền kinh tế thị trường và sự phân
cực giữa các giai tầng trong xã hội ngày càng sâu sắc làm cho các giá trị đạo
đức bị đảo lộn. Đồng tiền đang lên ngôi trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Khi đồng tiền được xem là “thước đo của vạn vật” thì các giá trị đạo đức,
nhân phẩm sẽ đứng trước bên bờ vực. Hơn nữa, chính sách tuyển dụng, trọng
dụng và đãi ngộ các nhân viên công quyền chưa thỏa đáng (chính sách tiền
lương) là nguyên nhân góp phần thúc đẩy mọi người cần phải kiếm thêm để
bù đắp cho gia đình họ làm cho tình trạng tham nhũng phát triển và lan rộng.
* Tác hại của tham nhũng:
Thứ nhất, tham nhũng đe dọa sự bất ổn về tình hình chính trị tại
địa phương.
Thứ hai, tham nhũng gây ra tác hại rất nghiêm trọng đối với phát triển
kinh tế, làm chậm nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội, gây thiệt hại vật chất rất
lớn cho chính quyền và nhân dân. Tham nhũng làm méo sự lựa chọn chính
sách, là một loại hoạt động kinh tế ngầm, khó kiểm soát, bất ổn, cản trở đầu

tư; làm suy giảm cạnh tranh vốn có của thị trường,
Thứ ba, tham nhũng làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội, phá hoại
những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Hơn nữa, tham nhũng đem lại sự
nghèo khổ cho một bộ phận không nhỏ những người lao động chân chính, làm
tha hóa biến chất bộ máy quan chức trong lĩnh vực công.
Thứ tư, tham nhũng còn liên kết với các tội phạm khác, đặc biệt là tội
phạm có tổ chức, tội phạm kinh tế, tội phạm tẩy rửa tiền làm thất thoát nguồn
lực, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ổn định chính trị và phát triển bền vững
của tỉnh.


12

1.1.3. Tính cấp thiết phải phòng, chống tham nhũng
Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
long trọng tuyên bố với thế giới về sự thành lập của Nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Sau một ngày (03/9/1945) trong bài nói về “Những nhiệm vụ cấp
bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Hồ Chí Minh toàn tập, t4,
tr.7). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những thói xấu bị nhiễm từ chế độ thực
dân, trong đó có tham ô. Người đã vạch ra nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục
nhân dân; để cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước,
yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Việc đó
được tiến hành bằng cách “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”.
Tham nhũng là một hiện tượng lịch sử xã hội, tham nhũng xuất hiện
khi xã hội có sự phân chia giai cấp và nó chỉ mất đi khi xã hội không còn giai
cấp. Để nhận thức đúng đắn về nguyên nhân xã hội gây ra hiện tượng tham
nhũng xét về bản chất, là sản phẩm của chế độ bóc lột và giai cấp bóc lột. Chủ
tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam có thái độ rất kiên
quyết trong việc đấu tranh bài trừ tệ tham nhũng, Người nói: “Muốn lúa tốt thì
phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không thì dù có cày bừa cho kỹ, phân có nhiều lúa

vẫn xấu vì lúa bị cỏ át đi”, “Muốn thành công trong việc tăng gia sản xuất và
tiết kiệm phải nhổ cỏ cho thật sạch, nghĩa là phải tẩy cho thật sạch nạn tham
ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Nếu không thì nó sẽ làm hại đến công việc của
chúng ta”, “Nó là kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng
mà nó nằm trang các tổ chức của chúng ta, để làm hư hỏng công việc của
chúng ta”…(Tác phẩm Sửa đổi lề lối làm việc – Hồ Chí Minh -Nhà xuất bản
Sự thật, năm 1948). Nghị quyết lần IV của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII đã đánh giá: “Tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn diễn
biến nghiêm trọng chưa được ngăn chặn, hiệu lực quản lý, điều hành chưa
nghiêm, kỷ cương xã hội còn buông lỏng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân


13

đối với Đảng, Nhà nước ta”. Do đó phải “Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tệ
quan liêu, tham nhũng”. Coi đây là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của
công tác cán bộ và là xu thế tất yếu của mọi quốc gia, yêu cầu mỗi quốc gia
cần có sự nhận thức đầy đủ về vai trò, tầm quan trọng của công tác PCTN.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
Nhận thức đầy đủ tính nghiêm trọng và sự nguy hại của tham nhũng,
trải qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều chủ
trương, giải pháp tích cực để phòng, chống tham nhũng. Ngay sau khi Luật
phòng, chống nhũng được ban hành (năm 2005), Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng đã xác định: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống
tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của
Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững
mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế
độ”. Đại hội X đã đề ra những định hướng và chủ trương lớn cho công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, trong đó xác định: “Đấu tranh quyết
phòng chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác

xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội”. Ngày 3 tháng 7 năm 2009, Việt Nam đã chính thức phê chuẩn và
tham gia Công ước Liên hợp quốc về PCTN.
Đại hội lần thứ XI (nhiệm kỳ 2010-2015) Đảng ta khẳng định: Tích
cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
thực hành tiết kiệm. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành
chính phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí tập trung vào các lĩnh vực
dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về
kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ
công, doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ
ngân sách nhà nước, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công. Thực hiện có hiệu


14

quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo
quy định. Xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị xảy
ra tham nhũng, lãng phí. Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ
tham nhũng, tịch thu sung công tài sản tham nhũng và có nguồn gốc tham
nhũng; có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực. Tổng kết, đánh giá cơ chế, mô hình tổ chức cơ quan Phòng,
chống tham nhũng để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
Tiếp tục khẳng định quyết tâm chính trị, quan điểm, đường lối phòng,
chống tham nhũng, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay" xác định: “Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả
công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí... Kiện toàn và tăng cường trách
nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan phòng, chống tham nhũng.
Xét xử nghiêm những vụ án tham nhũng, trước hết là những vụ nghiêm trọng,
phức tạp, được nhân dân quan tâm”.

Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, Tỉnh uỷ đã tăng cường lãnh đạo các cấp
ủy, chính quyền các địa phương, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trên địa bàn tỉnh
đã tập trung thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quy
định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng (PCTN), các văn bản của
Trung ương, của tỉnh liên quan đến công tác PCTN nhằm nâng cao hơn nữa
nhận thức về công tác phòng, chống tham nhũng đối với cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức và nhân dân. Cụ thể:
+ Luật PCTN năm 2005; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
PCTN năm 2012.
+ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo
của đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Kết luận số 21-


15

KL/TW ngày 22/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về việc tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
+ Nghị định 78/2013/NĐ-CP, ngày 17/7/2013 của Chính phủ về minh
bạch tài sản, thu nhập; Thông tư 08/2013/TT-TTCP, ngày 02/12/2013 của
Thanh tra Chính phủ về Hướng dẫn thi hành các quy định về minh bạch tài
sản, thu nhập.
+ Nghị định 107/2006/NĐ-CP, ngày 22/9/2006 CP quy định xử lý trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách; Thông tư số
08/2007/TT-BNV, ngày 01/10/2007 hướng dẫn thực hiện Nghị định số
107/2006/NĐ-CP của Chính phủ.
+ Nghị định 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy
định về danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí

công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 150/2013/NĐ-CP
ngày 01/11/2013 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số
158/2007/NĐ-CP.
+ Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 22-CT/TU ngày
07/3/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm
soát việc kê khai tài sản, Chỉ thị số 24-CT/TU ngày 14/3/2014 về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác nội chính và phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, Chỉ thị số 33-CT/TU, ngày 02/7/2014 của Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân
và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các cấp ủy, chính quyền các địa phương; các
cơ quan, tổ chức, đơn vị ban hành 96 văn bản, sửa đổi bổ sung 04 văn bản


16

thuộc thẩm quyền để lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng tại
đơn vị mình.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Trong những năm qua, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và các tầng lớp
nhân dân trong tỉnh Hoà Bình đã tích cực triển khai học tập và thực hiện các
văn bản pháp luật về PCTN với những hoạt động cụ thể, thiết thực: tích cực tố
giác tham nhũng thông qua đơn thư tố cáo, khiếu nại; lập các đường dây nóng
tiếp nhận thông tin tố giác tham nhũng; xây dựng chuyên mục về công tác
phòng, chống tham nhũng; phát huy vai trò của các cơ quan Báo chí trong
việc tham gia đấu tranh chống tham nhũng… Nhiều vụ án tham nhũng đã
được phát hiện và đưa ra xét xử nghiêm khắc có tác dụng răn đe, giáo dục
trong cộng đồng. Bên cạnh đó các cấp các ngành trong tỉnh đã nghiêm túc rút
ra những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý, giáo dục cán bộ, công
chức; tiến hành đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực có nhiều tham
nhũng như: thuế, xây dựng, đất đai, đầu tư các dự án, đền bù giải phóng mặt

bằng (GPMB), nhà ở…, công bố công khai các thủ tục hành chính và các
quyết định của Chính phủ và các cơ quan nhà nước trên các phương tiện
thông tin. Hạn chế quan hệ trực tiếp giữa cá nhân công chức với người dân
khi giải quyết các công việc.
Là tỉnh miền núi, đầu tư ngân sách còn hạn hẹp, tuy nhiên thực trạng
tham nhũng cho thấy, trong những năm qua tình hình tội phạm tham nhũng
xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội; tính chất, mức độ nghiêm
trọng, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực kinh tế trọng
điểm và một số cơ quan hành chính, sự nghiệp, gây thiệt hại lớn về vật chất
và tinh thần...tạo ra dư luận bức xúc trong nhân dân như vụ: Vụ án Bạch Đình
Thái tại xã Đú Sáng, huyện Kim Bôi; Vụ án Hoàng Như Huy nguyên Cán bộ
tín dụng Ngân hàng Nông nhiệp và Phát triển nông thôn huyện Cao Phong;


17

Vụ án Trịnh Thị Thanh Xuân nguyên Hiệu trưởng Trường Mần non Hương
Cam, thị trấn Cao Phong huyện Cao Phong; Vụ án Hoàng Công Tám, nguyên
Chủ tịch Hội đồng quản trị Quý tín dụng nhân dân Hòa Sơn, huyện Lương
Sơn; Vụ án Xa Thị Son, Kế toán xã Đồng Chum, huyện Đà Bắc... ngoài ra
còn một số vụ tiêu cực tham nhũng xảy ra ở cấp xã với giá trị không lớn,
nhưng với thủ đoạn tinh vi, liều lĩnh đã gây bất bình trong nhân dân ảnh
hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Từ thực tiễn trên cho thấy tham nhũng là hành vi của người lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để tham ô, nhận hối lộ, cố ý làm trái pháp luật vì động cơ
vụ lợi, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội và nhân dân. Tham
nhũng được thực hiện trong từng lĩnh vực, thời điểm và biểu hiện về mức độ
khác nhau. Do vậy, đấu tranh PCTN là cuộc đấu tranh được thực hiện ở mọi
thời điểm, mọi vị trí, tầng lớp xã hội, đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp
ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp của các tổ chức đoàn thể, tổ chức chính trị

xã hội và mọi tầng lớp nhân dân của Tỉnh Hòa Bình nhằm ngăn ngừa, hạn chế
tối đa tệ nạn tham nhũng xảy ra.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trog nước tạo ra nhiều thời cơ,
thuận lợi, nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức, đòi hỏi toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải nỗ lực rất cao, quyết tâm rất lớn để hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ của năm 2015 và những năm tiếp theo. Trong đó
nhiệm vụ trọng tâm là tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh thực hiện
các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân
dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng, an ninh. Đồng thời tập
trung tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ Tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020, tiến tới


18

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII nhiệm kỳ 2015-2020; tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, Chỉ thị 03 của Bộ
Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng.
* Vị trí địa lý
Hòa Bình là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc Việt Nam với một thành phố
tỉnh lỵ và 10 huyện, nằm ở tọa độ 200 19’ vĩ độ Bắc; 1040 48’ – 1050 40’ kinh độ
Đông, thủ phủ là thành phố Hòa Bình, cách thủ đô Hà Nội 73 km. Diện tích tự
nhiên toàn tỉnh là 4.595km2, chiếm 1,4% diện tích tự nhiên cả nước.
Hòa Bình có 832.543 người (tính đến năm 2014), với 85% người dân
sống ở nông thôn. Hòa Bình là tỉnh có nhiều dân tộc cùng sinh sống (06 dân
tộc), nhiều nhất là dân tộc Mường, chiếm 63% dân số. Tỉnh có vị trí nằm ở

cửa ngõ phía Tây thủ đô Hà Nội, thông với các tỉnh Tây Bắc.
* Điều kiện tự nhiên
Hòa Bình là một tỉnh miền núi, tỉnh có đường Quốc lộ 6 nối với Hà
Nội và các tỉnh lân cận, có giao thông Thủy, lớn nhất là sông Đà và lưu vực
15.000km2 và hồ Sông Đà có diện tích 100 km2, dung tích 9,5 tỷ m3. Nhà máy
Thủy điện Hòa Bình phát khoảng 8 tỷ KWh điện hàng năm, đóng góp nguồn
thu lớn cho ngân sách tỉnh và tạo điều kiện phát triển kinh tế cả nước.
* Điều kiện về văn hóa – xã hội và những tác động đến công tác PCTN
Với điểm xuất phát thấp, 85% dân số sống ở nông thôn, tập quán canh
tác còn lạc hậu, đời sống văn hóa chưa được cải thiện nhiều, trình độ dân trí
còn thấp nhất là trình độ am hiểu để vận dụng các kiến thức Pháp luật, khoa
học vào cuộc sống. Song, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, sự điều hành sát


19

sao của các cấp chính quyền, sự nỗ lực phấn đấu của các tầng lớp nhân dân,
kinh tế của tỉnh Hoà Bình đã có bước phát triển mới về quy mô và hiệu quả.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn có
nhiều chuyển biến tích cực; tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá, đời sống kinh tế,
văn hóa của nhân dân ngày càng được nâng cao; các chính sách về kích cầu
kinh tế đã phát huy tác dụng. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội được quan tâm
chăm lo, tiếp tục đạt được nhiều thành tích mới...
Trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển mình của nền kinh tế
đất nước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, tỉnh Hòa Bình đang tập
trung chỉ đạo, đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng, phục vụ cho phát triển
kinh tế - xã hội; Yêu cầu của việc quản lý và sử dụng đất đai, quản lý đầu tư,
xây dựng, tài chính, ngân hàng và một số lĩnh vực khác cần được tăng cường,
đồng thời đó cũng là những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tham nhũng, lãng
phí cần được quan tâm. Vì vậy, cần phải có các biện pháp đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, giáo dục pháp luật về PCTN trong các tầng lớp nhân dân, để
nhân dân có điều kiện tham gia tốt hơn, hiệu quả hơn công tác PCTN.
2.2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết trong đề án
2.2.1. Những thành tựu đã đạt được trong công tác PCTN và những vấn
đề đặt ra

Công tác PCTN đã có những bước tiến triển tích cực, số lượng các vụ
án liên quan đến tham nhũng giảm rõ rệt; hầu hết các cấp ủy, thủ trưởng các
cơ quan, tổ chức, đơn vị đã chủ động hơn trong kiểm tra, thanh tra phát hiện
xử lý kịp thời các hành vi tham nhũng; các ngành tư pháp đã tích cực điều tra,
truy tố và đưa ra xét xử nghiêm các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức
tạp. Từ 2011-2015 trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đã xảy ra 06 vụ 09 bị can
(trong đó Cơ quan Cảnh sát điều tra đã kết thúc điều tra, đề nghị truy tố 02
vụ 05 bị can; chưa kết thúc điều tra 01 vụ 01 bị can; Tòa án đã tiến hành xét


20

xử 03 vụ 03 bị cáo), tổng số tài sản thu được từ các hành vi tham nhũng là
11.944,058 triệu đồng.
Tuy nhiên, tình hình tham nhũng hiện nay vẫn còn có những biểu hiện
diễn biến phức tạp; các hành vi tham nhũng tinh vi hơn xảy ra trên nhiều lĩnh
vực, nhiều ngành, nhiều cấp. Các hành vi tham ô tài sản, lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ vẫn còn xảy ra ở nhiều lĩnh vực như:
Đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, công tác cán bộ, lĩnh vực tài chính,
ngân hàng… Đây chính là vấn đề đặt ra đòi học các cấp ủy Đảng, chính
quyền, các tổ chức mặt trận, đoàn thể phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nghiêm
túc thực hiện các quy định pháp luật của Đảng và Nhà nước trên mặt trận đấu
tranh PCTN góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội – chính trị và nâng
cao uy tín của mình trước toàn thể nhân dân trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.

2.2.2. Một số hạn chế trong công tác PCTN
Công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của Đảng, Nhà nước về
phòng, chống tham nhũng ở một số cơ quan, đơn vị chưa được sâu rộng, chưa
thường xuyên; nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa gắn nội dung phòng,
chống tham nhũng vào sinh hoạt thường xuyên để kiểm điểm trách nhiệm đối
với cán bộ, công chức, viên chức; việc tham gia giám sát của cộng đồng xã
hội, của cơ quan Thông tấn báo chí còn hạn chế; việc vận dụng một số chủ
trương, chính sách và áp dụng các quy định cụ thể về PCTN chưa sát với tình
hình thực tiễn, thiếu sáng tạo; tính tiền phong gương mẫu của một bộ phận
cán bộ, đảng viên nhất là người đứng đầu trong PCTN còn yếu. Việc tự phát
hiện hành vi tham nhũng trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị còn hạn chế; số
vụ việc, vụ án tham nhũng phát hiện còn thấp, chưa tương xứng với tình hình
tham nhũng đang diễn ra; một số vụ việc, vụ án tham nhũng xử lý còn chậm,
kéo dài gây tâm lý hoài nghi trong nhân dân về tính nghiêm minh của pháp
luật.


×