Tải bản đầy đủ (.pdf) (373 trang)

Cục diện châu á thái bình dương trọng tâm là đông bắc á và đông nam á trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.64 MB, 373 trang )

Viện khoa học x hội việt nam

Báo cáo tổng kết
đề tài độc lập cấp nhà nớc

Cục diện châu á-thái bình dơng
(trọng tâm là đông bắc á và đông nam á)
trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI
Mã số: ĐTĐL 2004/20
Chủ nhiệm đề tài: ts . vũ văn hà

6450
07/8/2007
Hà Nội- 2006


MỤC LỤC
Lời nói đầu .....................

1

Phần I: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUAN HỆ TRUNG QUỐC3

ASEAN- NHẬT BẢN
Chương 1. Bối cảnh quốc tế mới và tác động của nó đến quan hệ Trung Quốc
ASEAN-Nhật Bản

3

I. Những biểu hiện của bối cảnh quốc tế mới


3

II.Tác động của bối cảnh quốc tế mới đến quan hệ Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản 45
Chương 2. Chủ nghĩa khu vực Đông Á và ảnh hưởng của nó đến quan hệ

55

Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản
I. Cơ sở của chủ nghĩa khu vực Đông Á

56

II. Ảnh hưởng của chủ nghĩa khu vực Đông Á

75

Phần II:QUAN HỆ SONG PHƯƠNG GIỮA TRUNG QUỐC-ASEAN-NHẬT
BẢN

78

Chương 3. Quan hệ ASEAN-Trung Quốc

78

I. Các cơ chế quan hệ hợp tác ASEAN-Trung Quốc

78

II. Quan hệ ASEAN-Trung Quốc trên lĩnh vực chính trị, an ninh


80

III. Quan hệ ASEAN-Trung Quốc trên lĩnh vực kinh tế

86

IV. Quan hệ trên lĩnh vực văn hóa-xã hội, khoa học-kỹ thuật

96

V. Người Hoa trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc

98

VI. Triển vọng quan hệ ASEAN-Trung Quốc

106

Chương 4. Quan hệ ASEAN-Nhật Bản

110

I. Quan điểm, sự tiến triển và cơ chế quan hệ ASEAN-Nhật Bản

110

II. Thực trạng quan hệ ASEAN-Nhật Bản

121


III. Triển vọng quan hệ ASEAN-Nhật Bản

137

i


Chương 5. Quan hệ Trung Quốc-Nhật Bản

142

I. Quan hệ chính trị ngoại giao

142

II. Quan hệ kinh tế

149

III. Hợp tác giao lưu văn hóa Trung –Nhật

158

IV. Triển vọng quan hệ Trung – Nhật

167

Phần III. QUAN HỆ ĐA PHƯƠNG TRUNG QUỐC-ASEAN-NHẬT BẢN


176

Chương 6. Các quan niệm hợp tác khu vực

176

I. Một số khía cạnh lịch sử của quan hệ hợp tác đa phương khu vực

176

II. Quan niệm về quan hệ hợp tác ba bên Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản

182

Chương 7. Quan hệ hợp tác đa phương Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản trên
các lĩnh vực

194

I. Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế

194

II. Quan hệ chính trị-an ninh

208

Chương 8. Thể chế quan hệ hợp tác đa phương Trung Quốc -ASEAN-Nhật
Bản


228

I. Quá trình thể chế hóa khu vực trước ASEAN + 3 và nguyên nhân

229

II. Thể chế hóa ở Đông Á sau chiến tranh lạnh

233

Phần IV: TÁC ĐỘNG CỦA QUAN HỆ TRUNG QUỐC –ASEAN -NHẬT
BẢN ĐẾN VIỆT NAM

244

Chương 9. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam

244

I. Các cơ hội và thách thực từ xu thế hòa dịu và gia tăng quan hệ quốc tế khu vực 245
II. Ảnh hưởng từ sự gia tăng FTA giữa các quốc gia khu vực

255

III. Những cơ hội và thách thức từ tiến trình hợp tác đa phương

266

Chương 10: Định hướng chính sách của Việt Nam trong hợp tác với Trung
Quốc-ASEAN-Nhật Bản


271

I. Việt Nam trong quan hệ hợp tác với Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản

271

ii


II. Những định hướng chính sách của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với Trung
Quốc-ASEAN-Nhật Bản

281

Kết luận

309

Tài liệu tham khảo chính

315

iii


Lời nói đầu
Sau chiến tranh lạnh kết thúc quan hệ quốc tế khu vực có điều kiện mở
rộng, các quốc gia và vùng lãnh thổ khu vực Đông Á đã tăng cường quan hệ
hợp tác. Các quan hệ này diễn ra trên nhiều cấp độ và với các hình thức đa

dạng khác nhau. Chính điều này ngày càng tạo ra sự gắn kết, tùy thuộc lẫn nhau
giữa các các quốc gia khu vực.
Là một nước nằm trong khu vực Đông Á, Việt Nam chịu tác động mạnh
mẽ từ chính quá trình vận động của các mối quan hệ nhiều chiều trong khu vực.
Để có thể " Mở rộng quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ" theo tình thần
Báo cáo Chính trị Đại hội lần thứ IX của Đảng, thì việc nghiên cứu khu vực,
trong đó có việc phân tích quan hệ quốc tế khu vực là hướng nghiên cứu thực
sự cần thiết. Đặc biệt Văn kiện Đại hội X đã nhấn mạnh cần tiếp tục nghiên cứu
"dự báo tình hình và xu thế phát triển của thế giới, khu vực và trong nước; cung
cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và nhà nước"1.
Để góp phần vào định hướng chung trên, mục tiêu nghiên cứu của Đề tài
là: làm rõ bản chất, đặc điểm và xu hướng phát triển quan hệ của ba thực thể
(Trung Quốc, ASEAN và Nhật Bản) trong bối cảnh mới; đánh giá tác động của
mối quan hệ đó đến Việt Nam và trên cơ sở đó sẽ đề xuất các giải pháp chính
sách trong quan hệ song phương và đa phương của Việt Nam với các thực thể
nêu trên. Từ mục tiêu này, đề tài nhận được các nhiệm vụ cụ thể theo hợp đồng
với Bộ Khoa học và Công nghệ là:
- Làm rõ sự tác động của bối cảnh mới (trong khoảng 10 năm trở lại đây)
đối với quan hệ giữa ba thực thể Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản
- Làm rõ bản chất, đặc điểm và xu hướng phát triển quan hệ Trung QuốcNhật Bản, quan hệ ASEAN-Trung Quốc, quan hệ ASEAN-Nhật Bản và đánh
giá thực trạng, triển vọng của hợp tác đa phương giữa ba thực thể đó
- Làm rõ tác động của sự điều chỉnh chính sách trong quan hệ của ba
thực thể nêu trên đến khu vực, nhất là đến Việt Nam, đề xuất các giải pháp
chính sách nhằm tranh thủ thời cơ phát triển qua hệ của Việt Nam với các thực
thể đó

1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, H.2006, tr.99


1


Có thể nói đây là đề tài rộng lớn và phức tạp. Các nghiên cứu trước đây
thường tập trung vào phân tích các quan hệ song phương riêng lẻ, chứ chưa đặt
trong mối quan hệ giàng buộc lẫn nhau. Quan hệ đa phương khu vực nói chung,
giữa ba thực thể nói riêng cũng mới ở giai đoạn đầu. Hiện nay chưa có một cơ
chế riêng cho quan hệ giữa ba thực thể Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản. Tuy
quan hệ giữa ba thực thể này chưa phải có tính chất toàn Đông Á, song có thể
thấy đây chính là những mối quan hệ cơ bản nhất của khu vực, quyết định
chiều hướng vận động của quan hệ khu vực hiện nay và trong những năm tới.
Chính vì vậy đề tài tập trung phân tích quan hệ đa phương giữa ba thực thể và
tất nhiên luôn được đặt trong bối cảnh quan hệ hợp tác chung của cả khu vực
Đông Á cũng như rộng hơn để thấy được vai trò và tác động của quan hệ đan
xen giữa các thực thể này.
Để đề xuất các quan điểm, giải pháp đối với Việt Nam không thể không
phân tích quan hệ của Việt Nam với các thực thể. Tuy nhiên, do giới hạn của đề
tài, và quan hệ của Việt Nam với các thực thể nay cũng đã có không ít các
chuyên luận và bài báo đề cập đến, hơn nữa hiện nay Bộ Khoa học và Công
nghệ đang triển khai các đề tài cấp nhà nuớc về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc,
Việt Nam-Nhật Bản....Do vậy ở đề tài này chỉ tổng kết những kết quả, những
hướng hợp tác chính cùng những vấn đề đặt ra làm cơ sở cho đề xuất các giải
pháp chính sách.
Để thực hiện được các nhiệm vụ nghiên cứu trên ngoài các phương pháp
truyền thống của nghiên cứu quan hệ quốc tế đề tài luôn xuất phát từ cách nhìn
Việt Nam. Các quan hệ quốc tế phản ánh các lợi ích khác nhau, chúng đan xen,
chồng lấn lẫn nhau, do vậy công trình sẽ xuất phát từ lợi ích hợp lý của Việt
Nam để phân tích, đánh giá.
Với mục tiêu và phương pháp như vậy, cơ cấu của công trình ngoài mở

đầu và kết luận được chia làm bốn phần
Phần I: Các yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ Trung Quốc-ASEAN-Nhật
Bản
Phần II: Quan hệ song phương giữa Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản
Phần III: Quan hệ đa phương Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản
Phần IV: Tác động của Quan hệ Trung Quốc-ASEAN-Nhật Bản đến Việt
Nam.
Tập thể tác giả

2


Phần I
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUAN HỆ
TRUNG QUỐC - ASEAN - NHẬT BẢN
Chương 1
BỐI CẢNH QUỐC TẾ MỚI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN
QUAN HỆ TRUNG QUỐC- ASEAN- NHẬT BẢN
Quan hệ Trung Quốc- ASEAN- Nhật Bản luôn chịu tác động của nhiều
yếu tố khác nhau. Bên cạnh những yếu tố do chính ba chủ thể này tạo ra thì bối
cảnh quốc tế có tác động rất lớn đến diễn tiến của quan hệ đa phương nói trên.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu và phân tích bối cảnh quốc tế có một tầm quan
trọng đặc biệt và hết sức cần thiết.
Khái niệm “bối cảnh quốc tế mới” là một khái niệm “mở” bởi chữ “mới”
ở đây luôn đòi hỏi phải xác định khung thời gian rõ ràng. Bấy lâu nay chúng ta
đã quen với việc cho rằng bối cảnh quốc tế mới là bối cảnh được hình thành sau
khi chiến tranh lạnh kết thúc. Có lẽ sẽ không có sự tranh luận nào về mốc thời
gian này, tuy nhiên từ thời điểm chiến tranh lạnh kết thúc đến nay lịch sử các
quan hệ quốc tế đã trải qua thêm 16 năm. Chính vì vậy, nội hàm của khái niệm
này đã có thêm nhiều yếu tố bổ sung và được biểu hiện bằng những nét mới mà

cách đây 16 năm chưa đề cập đến.
Mục đích của chương này là làm rõ những nét mới của bối cảnh quốc tế
từ sau chiến tranh lạnh đến nay, từ đó chỉ ra các tác động của nó đến quan hệ
giữa ba chủ thể rất quan trọng của khu vực Đông Á hiện nay là Trung Quốc,
Nhật Bản và Hiệp hội các nước Đông Nam Á.

I. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA BỐI CẢNH QUỐC TẾ MỚI
1. Toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển song hành với nhịp độ khẩn
trương hơn, cách mạng khoa học- công nghệ tiếp tục khẳng định vị trí tiên
phong, xu hướng thông tin hoá ngày càng lan rộng và sâu sắc hơn
Toàn cầu hoá:

3


Mặc dù làn sóng toàn cầu hoá thứ ba bắt đầu diễn ra từ những năm 1980
song ảnh hưởng và tác động của nó cũng như việc nói nhiều đến nó là từ sau
chiến lạnh đến nay. Định nghĩa về toàn cầu hoá đã được đưa ra rất nhiều, từ
phía các tổ chức quốc tế cho đến các tổ chức khu vực cũng như quan điểm cá
nhân của các học giả. Song, nhìn chung khái niệm toàn cầu hoá đều được hiểu
khá thống nhất, đó là sự mở rộng hay tự do hoá của thương mại, đầu tư, dịch
vụ, chuyển giao công nghệ, lao động trên phạm vi toàn cầu, thúc đẩy các quan
hệ giao dịch song phương, đa phương, tăng cường sự liên kết giữa các quốc
gia, khu vực trên toàn thế giới2. Những yếu tố phản ánh sự gia tăng của quá
trình toàn cầu hoá là: các tập đoàn kinh doanh toàn cầu, các công ty xuyên quốc
gia là những chủ thể chính trong mạng lưới sản xuất toàn cầu; có sự gia tăng
của thương mại, đầu tư, tài chính quốc tế và tăng cường liên kết kinh tế quốc tế;
có sự đẩy mạnh vai trò của các tổ chức kinh tế quốc tế trong quá trình điều tiết
các quan hệ kinh tế giữa các nước. Quan sát quá trình toàn cầu hoá có thể nhận
thấy sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết, tác động phụ thuộc lẫn

nhau, sự mở rộng quy mô và cường độ các hoạt động giữa các khu vực, các
quốc gia, các dân tộc trên phạm vi toàn cầu.
Toàn cầu hoá là một xu hướng khách quan, nó được diễn ra dưới tác
động có tính chất thúc hối của những thay đổi về dân số, chính trị, kinh tế và
công nghệ. Xu hướng này lại được đẩy nhanh bởi các phương tiện thông tin
liên lạc siêu tốc toàn cầu.
Mặt tích cực của toàn cầu hoá là không thể phủ nhận. Chính quá trình
khách quan này tạo ra các khả năng tiếp cận với các nguồn vốn, công nghệ kỹ
thuật tiên tiến và phương thức quản lý hiện đại để thúc đẩy sự phát triển. Có thể
coi toàn cầu hoá như một cuộc cách mạng, các doanh nghiệp, các chủ thể tham
gia vào toàn cầu hoá có thể sử dụng vốn, kỹ thuật, thông tin, quản lý và cả sức
lao động ở mọi nơi trên thế giới, tổ chức sản xuất ở nơi mà họ muốn và đưa đi
tiêu thụ ở đâu có nhu cầu. Nhờ quá trình cơ động và linh hoạt như vậy nên mọi
người đều có cơ hội để tận hưởng các sản phẩm cũng như dịch vụ mới và rẻ
của toàn thế giới. Quá trình toàn cầu hoá cũng tạo ra các cơ hội cho các nước
đang phát triển được tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, từ đó hình
thành một cơ cấu kinh tế- xã hội mới thích ứng và góp phần rút ngắn quá trình
2

Nguyễn An Hà, Toàn cầu hoá kinh tế, một số tác động tới quá trình liên kết kinh tế EU- ASEAN, T/c
Nghiên cứu châu Âu, số 2/ 2003

4


hiện đại hoá của các nước này. Các cơ hội về công ăn việc làm, về tăng thu
nhập, về nâng cao mức sống cũng được mở ra cho công nhân và nhân dân ở các
nước đang phát triển. Hiện nay, loài người phải đối mặt với rất nhiều vấn đề
mang tính toàn cầu, điển hình là vấn đề môi trường, dân số hay dịch bệnh... và
quá trình toàn cầu hoá đã tạo ra khả năng cho các quốc gia, các dân tộc có thể

phối hợp và chia sẻ với nhau các nguồn lực để giải quyết các vấn đề nan giải
đó.
Bên cạnh những cái được do toàn cầu hoá mang lại thì các chủ thể tham
gia quá trình này cũng phải chịu những thách thức không nhỏ do chính toàn cầu
hoá đẻ ra. Những thách thức đó có nhiều, trong đó không thể không kể đến tình
trạng bị tổn thương, thậm chí bị nghèo đi của nền kinh tế ở những quốc gia
không xác định được chiến lược phát triển phù hợp, không đủ sức chống đỡ
trước sự cạnh tranh quyết liệt mang tính toàn cầu; bất công xã hội có thể bị tăng
lên; vấn đề bản sắc văn hoá- dân tộc bị mai một... Các nước kém phát triển
cũng như các nước đang phát triển rất dễ bị thua thiệt trong “cuộc chơi” toàn
cầu hoá này bởi khả năng cạnh tranh yếu, trình độ công nghệ- kỹ thuật thấp,
khả năng quản lý kém, vốn lại bị thiếu trầm trọng. Một trong những vấn đề đặc
biệt nghiêm trọng đang nổi lên hiện nay là nạn nghèo đói và cuộc chiến chống
lại nó tại các quốc gia, nhất là những quốc gia đang và chậm phát triển. Người
ta phân loại nghèo khổ thành hai loại là nghèo khổ tuyệt đối và nghèo khổ
tương đối. Nghèo khổ tuyệt đối được xác định theo mức độ thoả mãn các nhu
cầu thiết yếu, còn nghèo khổ tương đối được xác định trên cơ sở phân phối thu
nhập. Ngân hàng thế giới dựa vào giá trị cố định 365 hoặc 730 USD/ năm để
xác định mức đói nghèo. Do vậy, theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới thì mức
thu nhập 1 USD/ ngày là mức nghèo tuyệt đối, nghèo cùng cực. Số người thuộc
diện nghèo cùng cực hiện đang tập trung chủ yếu tại 3 nơi là Nam Á, Đông Á
và Nam Xahara thuộc châu Phi. Điều đáng mừng là tỷ lệ nghèo đói ở khu vực
Đông Á của chúng ta, đặc biệt là ở Trung Quốc đã giảm xuống. Tuy nhiên, tỷ
lệ này ở châu Phi vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện nào đáng kể, thậm chí có nơi
còn gia tăng.
Thực tế cho thấy những người nghèo luôn luôn là những người bị thua
thiệt và dễ bị tổn thương. Tình trạng nghèo đói không bao giờ giảm đi nếu
không có được một sự tích luỹ đặc biệt về vốn vật chất và nhân lực. Khách
quan mà nói, sự phân hoá giàu- nghèo và gia tăng bất công không phải chỉ gắn
5



với toàn cầu hoá mà có nguồn gốc từ bản chất của chế độ phân phối thu nhập.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá đã góp phần làm sâu sắc hơn tình trạng phân hoá giàu
nghèo ở chỗ nó đặt các cá nhân, các quốc gia ở những lợi thế và cơ hội không
giống nhau. Như nhận xét của các học giả kinh tế cho thấy, sự thao túng của
các quốc gia tư bản phát triển cùng các tập đoàn xuyên quốc gia với mục đích
tối đa hoá lợi nhuận gắn với tối thiểu hoá lao động đã dẫn đến việc phân bổ lợi
ích của tăng trưởng theo xu hướng “từ dưới lên trên”. Theo đánh giá của Ngân
hàng Thế giới năm 2002, 85% thu nhập toàn cầu nằm trong tay 18% dân số thế
giới3. Các báo cáo còn chỉ rõ rằng trong 40 năm qua, khoảng cách chênh lệch
giàu- nghèo giữa các nước giàu và các nước nghèo đã tăng gấp đôi. Thu nhập
bình quân của 20 nước giàu nhất thế giới gấp 37 lần so với 20 nước nghèo nhất
thế giới. Có nhiều ý kiến còn cho rằng sự chênh lệch giàu- nghèo là một trong
những nguyên nhân dẫn đến khủng bố- hành động đe doạ sự ổn định của thế
giới.
Toàn cầu hoá có ảnh hưởng như thế nào đến các nền văn hoá -dân tộc
cũng đang là vấn đề gây tranh cãi. Trong tác phẩm “Trung Quốc trước thách
thức thế kỷ XXI”4 tác giả Lưu Kim Hâm đã thể hiện sự lo lắng của mình qua
nhận xét như sau: “Văn hoá là nền tảng quan trọng để duy trì sự ổn định của xã
hội, cũng là một bộ phận quan trọng trong sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Ngôn ngữ, văn tự, tín ngưỡng, đạo đức, quy phạm... thành vòng văn hoá của
quốc gia và dân tộc. Đi đôi với sự phát triển của mạng lưới thông tin thì văn
hoá sẽ chịu một làn xung kích mạnh... Trước làn sóng toàn cầu hoá, đối diện
với sự xâm nhập của văn hoá phương Tây, đối mặt với những tin tức truyền qua
vệ tinh, với các cơ quan thông tin của phương Tây, đối mặt với sự bùng nổ tin
tức của mạng Internet, Trung Quốc làm thế nào để bảo vệ văn hoá truyền thống
trước những xung kích này?”. Có lẽ câu hỏi này được đặt ra không chỉ đối với
Trung Quốc- một đất nước có nền văn minh, văn hoá rất lớn và lâu đời. Câu hỏi
này không phải chỉ liên quan đến các nền văn hoá lớn khác, chẳng hạn như Ấn

Độ, Nga, Pháp hay Đức. Trên thực tế, hầu như mọi quốc gia- dân tộc, dù lớn
hay nhỏ đều tự hào và có quyền tự hào về nền văn hoá của mình, đều mong
muốn giữ gìn bản sắc riêng của nền văn hoá đó. Song thực tế cũng cho thấy
cùng với làn sóng toàn cầu hoá về kinh tế thì văn hoá Mỹ cũng thẩm thấu khắp
3
4

Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN, ngày 11/ 1/ 2002
Lưu Kim Hâm, Tri thức không biên giới-Trung Quốc trước thách thức thế kỷ XXI, NXB VH-TT, tr. 407

6


thế giới. Một thí dụ rất dễ nhận thấy là điện ảnh. Các hãng điện ảnh thu lợi lớn
nhất trên thị trường toàn cầu về cơ bản vẫn là hãng phim Hollywood của Mỹ.
Tỷ lệ phim Mỹ trên thị trường văn hoá phim ảnh của các nước khác càng ngày
càng tăng lên. Chẳng hạn, trên thị trường phim của châu Âu, nếu năm 1987 tỷ
lệ phim Mỹ chiếm 56% thì đến năm 1996, tỷ lệ này đã lên thành 70%. Rồi
phong cách ăn, uống của Mỹ với Coca- cola, với Mac Donal... đều có sức hút
và lôi cuốn kỳ lạ, đặc biệt là đối với thanh niên ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Về cơ bản, cuộc tranh luận về đa dạng văn hoá không phải là mới, song
quá trình toàn cầu hoá đã làm cho nó nổi lên rõ rệt. Tác động trực tiếp của toàn
cầu hoá đến các ngành văn hoá, chẳng hạn như điện ảnh hay âm nhạc... được
thể hiện ở mức độ tập trung hoá cao độ, ngân sách hỗ trợ tăng mạnh và các
khoản chi phí ngày càng cao để được tiếp cận các sản phẩm văn hoá lưu hành.
Một nền văn hoá toàn cầu xuyên quốc gia đang ngày càng định hình rõ nét
xung quanh các sản phẩm, chẳng hạn như của Nike, McDonald, Pokemon,
Hollywood...Như vậy, quá trình toàn cầu hoá các sản phẩm văn hoá là một hiện
tượng vừa mang tính chất xã hội, vừa mang tính chất kinh tế và quản lý quá
trình này hoàn toàn không dễ dàng chút nào.

Dù sao, mỗi quốc gia- dân tộc chắc chắn đều có những biện pháp riêng
để bảo vệ bản sắc của nền văn hoá truyền thống, bởi vì “văn hoá là một mốc
quan trọng trong việc đánh giá lực lượng tổng hợp của đất nước, là lãnh thổ
mềm, lãnh thổ vô hình của mỗi quốc gia; xây dựng và an toàn quốc thổ văn
hoá” cũng là nhiệm vụ quan trọng của mỗi đất nước khi tham gia vào quá trình
toàn cầu hoá kinh tế hiện nay.
Khu vực hoá
Như trên đã nhận định chủ nghĩa toàn cầu hoá và khu vực hoá diễn ra
song hành với nhau. Có ý kiến cho rằng trong quan hệ với toàn cầu hoá thì xu
thế khu vực hoá được xem là bước chuẩn bị để tiến tới toàn cầu hoá. Mặt khác,
xu thế khu vực hoá hiện nay phản ánh một thực trạng co cụm nhằm bảo vệ
những lợi ích tương đồng giữa một số nước trước những nguy cơ, những tác
động tiêu cực do toàn cầu hoá đặt ra. Do đó, xét về ngắn hạn, khu vực hoá
dường như đối nghịch với toàn cầu hoá, nhưng về dài hạn thì chính khu vực

7


hoá là bước chuẩn bị để thực hiện toàn cầu hoá5. Nội dung chủ yếu của khu vực
hoá là thành lập các khu vực kinh tế mới, mở rộng các khu vực đang tồn tại,
tăng cường hơn nữa quyền tự chủ, quyền tự trị cho các khu vực... Cho đến nay
đã hình thành rất nhiều các tổ chức khu vực ở khắp các châu lục. Đó là EU
(Liên minh châu Âu), EFTA (Khu vực tự do thương mại châu Âu) ở châu Âu;
NAFTA (Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ) ở châu Mỹ, ASEAN (Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế CA-TBD), Tổ
chức hợp tác khu vực Nam Á, SCO (Tổ chức hợp tác Thượng Hải) ở châu Á,
AU (Liên minh châu Phi) ở châu Phi....
Động lực gia tăng xu thế khu vực hoá trong giai đoạn hiện nay xuất phát
từ mục đích phát huy những lợi thế so sánh, những nét tương đồng của các
quốc gia trong mỗi nhóm khu vực. Các quốc gia có những điểm tương đồng đã

tìm đến nhau tạo lập các tổ chức kinh tế, tạo cho nhau các điều kiện thuận lợi
hơn các quy định quốc tế hiện hành. Chẳng hạn như châu Phi là nơi làn sóng
toàn cầu hoá lan đến muộn hơn các nơi khác, song cũng phải đến năm 2002
mới chính thức thành lập ra AU. Mục tiêu của AU là đưa châu Phi vượt qua đói
nghèo, xung đột và bệnh tật tiến tới ổn định và phát triển. Rõ ràng là các vấn đề
phổ biến của hầu hết các nước châu Phi hiện nay như đói nghèo, xung độtchiến tranh và dịch bệnh đã làm cho họ xích lại gần nhau trong một khối thống
nhất, cùng nhau hành động, cùng nhau chia sẻ, hỗ trợ lẫn nhau để đạt được mục
tiêu chung của mình. Bước tiếp theo của AU như đã được khẳng định trong
NEPAD (Đối tác mới vì sự phát triển châu Phi) phải là thúc đẩy tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững ở châu Phi.
Tóm lại, việc nâng cao trình độ hợp tác khu vực về lâu về dài là cơ sở
cho việc thực hiện toàn cầu hoá kinh tế. Sự ra đời hàng loạt các tổ chức khu
vực và sự phát triển quy mô địa lý của các tổ chức khu vực trên cơ sở bổ sung
các thành viên (chẳng hạn như EU) , hay hợp nhất các tổ chức khu vực là bước
tiến ngày càng gần hơn đến tự do hoá trên phạm vi toàn cầu. Khu vực hoá là
bước đi tất yếu đến toàn cầu hoá; khu vực hoá càng mạnh sẽ là điều kiện và
động lực cho toàn cầu hoá. Đồng thời, sự tăng tốc của toàn cầu hoá cũng sẽ
thúc đẩy xu hướng khu vực hoá trên thế giới. Các quốc gia đã trở nên chủ động
hơn trong việc tìm kiếm sự hợp tác khu vực về kinh tế, chính trị, an ninh. Hiện
5

Dương Phú Hiệp- Vũ Văn Hà (chủ biên), Toàn cầu hoá kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr.
127

8


nay có đến 184 Hiệp định mậu dịch tự do đang được thực thi trên thế giới.
Theo đánh giá của giới kinh tế, triển vọng sẽ có 4 khu vực kinh tế tự do lớn là
EU mở rộng, NAFTA, Đông Á, Trung Đông- Châu Phi đóng vai trò trung tâm

trong nền kinh tế toàn cầu.
Cách mạng khoa học công nghệ và tin học hoá
Từ cuối những năm 1970 trở lại đây, khoa học và công nghệ ngày càng
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu khoa học mới được
phát minh và ứng dụng vào sản xuất làm cho sức sản xuất phát triển mạnh mẽ,
làm xuất hiện những công nghệ mới như công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới, nhiều ngành kinh tế mới và đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ
thông tin. Về mặt kinh tế- kỹ thuật, khoa học và công nghệ phát triển đã thúc
đẩy quá trình toàn cầu hoá cũng như việc hình thành nền kinh tế tri thức. Quá
trình khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp được biểu hiện qua một số
đặc điểm như:
Tri thức khoa học là nền tảng cho nền sản xuất hiện đại bởi các khâu của
quy trình sản xuất hiện đại như xây dựng báo cáo chiến lược, quy hoạch, xây
dựng quy trình công nghệ, phối hợp các nguồn lực chiếm lĩnh thị trường...đều
phải dựa vào tri thức khoa học.
Quá trình từ kết quả nghiên cứu khoa học đến sản phẩm thương mại liên
tục được rút ngắn. Công nghệ thông tin phát triển nên một phần lao động trí tuệ
của con người đã chuyển sang cho máy móc. Nguồn nhân lực không còn chủ
yếu dựa vào lao động cơ bắp như trước kia mà đã dần chuyển sang sử dụng lao
động trí óc. Một loại hình kinh tế mới đã dần xuất hiện, đó là kinh tế tri thức.
Các nhà khoa học cho rằng những thập niên đầu của thế kỷ XXI là sự khởi đầu
của một quá trình cách mạng to lớn của lịch sử loài người, đó là chuyển từ một
nền sản xuất dựa vào vật chất là chính sang một nền sản xuất dựa vào tri thức
khoa học là chính.
Trong số các công nghệ mới, công nghệ thông tin phát triển với tốc độ
rất nhanh và lan toả đi khắp hang cùng ngõ hẻm của thế giới. Người ta cũng
cho rằng thế kỷ XXI là thế kỷ thông tin hoá. Sự phát triển cao độ của kỹ thuật
tin tức, tài nguyên tin tức trên toàn cầu được mở rộng về lượng đã làm bùng nổ
tin tức trên thế giới. Tổng lượng tin tức toàn cầu năm 1995 gấp 2400 lần so với
năm 1985. Hiện nay, tổng lượng tin tức trong 1 ngày tương đương với 6,5 lần

9


tổng lượng tin tức của cả năm 1985. Việc sử dụng, lưu trữ, truyền đạt và lợi
dụng tin tức ngày càng lớn. Sự ổn địn chính trị, tăng trưởng kinh tế hay phát
triển xã hội đều dựa vào một phần rất lớn của việc sản xuất, khuếch tán và ứng
dụng của tin tức. Kỹ thuật về tin tức được coi là quyền sở hữu trí tuệ. Ngành tin
tức trở thành một điểm tăng trưởng mới về kinh tế. Mạng Internet đang ngày
càng ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ mọi lĩnh vực hoạt động của thế giới, từ
kinh tế, chính trị đến an ninh, quốc phòng và văn hoá, xã hội. Nếu nói về khía
cạnh kinh tế có thể thấy thương vụ điện tử, mạng Internet sẽ dần chiếm chủ đạo
cho sự nhất thể hoá thương vụ điện tử toàn cầu, xúc tiến định chế của quy mô
thị trường. Do nắm được ưu thế khoa học và ưu thế mạng hoá kinh tế nên các
nước phát triển chèn ép và bóc lột bằng hình thức mới đối với các nước chưa
phát triển. Đặc biệt rõ nét nhất là trong lĩnh vực quân sự- quốc phòng, kỹ thuật
Internet đang làm thay đổi hình thái lực lượng quân sự, thay đổi hình thái chiến
tranh. Các loại vũ khí công nghệ cao, hoả lực mạnh rất chính xác và được điều
khiển từ xa đã xuất hiện và đã được sử dụng trong các cuộc chiến tranh của Mỹ
tại Côsôvô, vùng Vịnh, Apganixtan, Irắc. Xét một cách tổng thể, tất cả những
ảnh hưởng của Internet sẽ thể hiện trên phương diện tăng nhanh tiến trình toàn
cầu hoá hoạt động xã hội của loài người, do vậy việc khống chế mạng sẽ trở
thành điểm khống chế cao nhất trong cạnh tranh quốc tế tương lai. Trong thời
đại kinh tế tri thức, một nước có năng lực giành được tin tức và giành được
quyền khống chế tin tức trong đời sống sản xuất của xã hội sẽ trở thành then
chốt trong việc chiếm quyền chủ động trong cuộc cạnh tranh phát triển và tồn
tại của đất nước trong thế kỷ mới6.
Đối với các nước đang và kém phát triển thì sự hình thành và phát triển
của nền kinh tế tri thức chắc chắn cũng sẽ tạo ra những cơ hội to lớn để phát
triển. Trước tiên, nền kinh tế mới mẻ này mở ra khả năng cho các nền kinh tế
đang phát triển tiếp nhận các công nghệ mới, trong đó có công nghệ thông tin

giúp cho việc điều chỉnh mô hình và cơ cấu kinh tế tại các nền kinh tế đó. Kinh
tế tri thức cũng tạo điều kiện để các nước đang phát triển thực hiện chiến lược
phát triển rút ngắn nhờ việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản
lý. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, các nước đang phát triển cũng sẽ phải
đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức mới, nếu không có nhận thức đúng và

6

Lưu Kim Hâm, nguồn đã trích, tr. 509

10


không đưa ra được các chiến lược và chính sách phát triển đúng đắn, phù hợp
thì họ sẽ bị nhấn chìm bởi chính nền kinh tế mới này.
2. Mặc dù hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu hướng chủ đạo
của thế giới, song tình hình quốc tế vẫn bị xen kẽ bởi những biến đổi phức
tạp, căng thẳng, nguy hiểm, bởi các cuộc khủng hoảng, tranh chấp hay
xung đột có tính chất khu vực và đặc biệt chịu tác động mạnh mẽ của chủ
nghĩa khủng bố và cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động
Khủng hoảng, tranh chấp và xung đột mang tính chất khu vực
Trong gần hai thập kỷ qua kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc đúng là cả
thế giới đều tập trung vào phát triển kinh tế, đều hướng vào hội nhập và toàn
cầu hoá kinh tế, đều cố gắng duy trì nền hoà bình và an ninh chung của nhân
loại. Tuy nhiên, hoà bình không phải có được ở mọi nơi, mọi lúc. Những mâu
thuẫn, cọ sát, thậm chí xung đột và chiến tranh vẫn xảy ra cục bộ tại nhiều khu
vực trên thế giới. Bên cạnh những cuộc chiến do Mỹ đơn phương phát động
còn có rất nhiều các cuộc xung đột khác ở châu Phi, ở khu vực Trung Đông,
Trung và Nam Á, đặc biệt là cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều
Tiên và gần đây nhất là vấn đề hạt nhân của Iran.

Chẳng hạn tại châu Phi thuộc khu vực Nam Xahara người ta có thể
chứng kiến nhiều loại xung đột khác nhau. Đó là chiến tranh cổ điển giữa các
quốc gia dưới hình thức đối đầu quân sự giữa các lực lượng quân đội chính quy
được dàn xếp bằng nền hoà bình do quốc tế kiểm soát như chiến tranh giữa
Eritơria và Êtiôpi. Đó là xung đột nội bộ kéo dài có sự tham gia của các lực
lượng phiến quân được bên ngoài hậu thuẫn như ở Cộng hoà dân chủ Cônggô.
Đó là cuộc nội chiến được nước thực dân cũ can thiệp trực tiếp và được dàn
xếp bằng hoà bình song vẫn làm tình hình khu vực không giảm bớt được căng
thẳng, chẳng hạn như ở Xiêra Lêôn.
Tiến trình hoà bình tại Trung Đông trong những năm đầu tiên của thế kỷ
XXI cũng đã bị sa lầy nghiêm trọng. Tình trạng leo thang quân sự ở đây đã
không thể kiểm soát nổi khiến người ta phải dùng từ “chiến tranh” mới diễn tả
được tình hình. Thống kê cho thấy hậu quả của cuộc xung đột Ixraen- Palextin
chỉ từ tháng 9/ 2000 đến tháng 7/ 2002 làm 1.467 người Palextin và 560 người
Ixraen bị chết. Tính chất của cuộc chiến rất phức tạp, nó vừa là xung đột cộng
đồng sắc tộc lại vừa mang màu sắc đấu tranh giải phóng dân tộc. Người
11


Palextin thường tiến hành những vụ khủng bố nhằm vào cả thường dân lẫn
quân đội ở bên ngoài “giới tuyến xanh”, còn quân đội Ixraen thì đưa quân vào
vùng A, tháng 4 năm 2002 còn tái chiếm ồ ạt những thành phố và làng mạc tự
trị của người Palextin tại vùng bờ Tây sông Gioocđan. Tình hình sau đó tưởng
chừng như đã được cải thiện hơn rất nhiều khi Ixraen quyết định đơn phương
rút quân song một nền hoà bình thực sự vẫn chưa được thiết đặt tại khu vực
này. Sự phức tạp của mối quan hệ Palextin – Ixraen một lẫn nữa lại nổi lên
trong thời gian gần đây (cuối tháng 1- đầu tháng 2 năm 2006) khi những người
thuộc phong trào Hamas trở thành lực lượng chủ chốt trong Quốc hội (giành
76/ 132 ghế) của Palextin. Sự kiện chính trị này được người Palextin gọi là
“trận động đất”, song trận động đất đó lại làm cho Mỹ, phương Tây và Ixraen

hoàn toàn không muốn chấp nhận bởi dưới con mắt của họ thì Hamas bị coi là
một tổ chức khủng bố. Nhìn chung, sau hàng loạt các sự kiện quan trọng như
đã nói ở trên, bạo lực và khủng bố vẫn diễn ra, máu vẫn tiếp tục đổ, hoà bình
tại đây cũng như một vài nơi khác của Trung Đông vẫn chỉ là mục tiêu và hy
vọng.
Một vấn đề khác cũng đang làm cho tình hình khu vực trở nên rất căng
thẳng và nguy hiểm đó là vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên ở khu vực
Đông Bắc Á. Cuộc khủng hoảng hiện tại đã kéo dài từ năm 2002 trở lại đây.
Sau khi kết thúc chuyến thăm Bình Nhưỡng tháng 10/ 2002 trợ lý Ngoại trưởng
Mỹ James Kelly đã đưa ra thông tin Bắc Triều Tiên bí mật khôi phục chương
trình phát triển hạt nhân và đã có vũ khí hạt nhân. Phản ứng của Mỹ trước việc
CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt nhân cũng như phản ứng của CHDCND
Triều Tiên trước việc Mỹ xếp nước này vào “trục liên minh ma quỷ” đã đẩy
cuộc khủng hoảng hạt nhân tại bán đảo này lên cao. Mỹ lo ngại rằng nếu
CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt nhân sẽ đe doạ đến lợi ích của Mỹ, đặc biệt
lo ngại việc CHDCND Triều Tiên có thể sẽ bán vũ khí hạt nhân cho những kẻ
khủng bố có khuyng hướng chống lại nước Mỹ. Mặc dù các cuộc đàm phán đã
được tiến hành, từ ba bên đến 6 bên, từ vòng 1 đến vòng 5, song để giải quyết
triệt để cuộc khủng hoảng này chắc chắn đòi hỏi phải có thời gian dài cũng như
cố gắng cao độ của các bên tham gia đàm phán, nhất là CHDCND Triều Tiên
và Mỹ cũng như của cộng đồng quốc tế. Một khi vấn đề hạt nhân ở đây vẫn
chưa được giải quyết thì an ninh của khu vực và của thế giới vẫn bị đe doạ. Một
mặt, cuộc khủng hoảng này đang tạo ra thế đối kháng toàn diện về chính trị,
12


kinh tế, quân sự giữa Mỹ với CHDCND Triều Tiên. Mặt khác, ai cũng thấy rõ
đằng sau cuộc khủng hoảng này là lợi ích thiết thân của các nước lớn đang
tham gia vào cơ chế đàm phán hiện nay. Cho đến giờ phút này cả hai khả năng,
hoặc tình hình tiếp tục xấu đi, hoặc giải quyết hoà bình cuộc khủng hoảng, vẫn

song song cùng tồn tại.
Bên cạnh vấn đề hạt nhân trên bán đảo Tiều Tiên thì tại khu vực Đông Á
còn tiềm tàng nhiều các yếu tố khác có thể dẫn đến nguy cơ bất ổn định, thậm
chí là xung đột. Đặc biệt rõ nét nhất là vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh hải và
lãnh thổ giữa các nước trong khu vực. Chẳng hạn như việc tranh chấp chủ
quyền các đảo và thềm lục địa ngoài khơi giữa Nhật Bản và Hàn Quốc (đảo
Takeshima), giữa Trung Quốc và Nhật Bản (đảo Điếu Ngư hay còn gọi là
Senkaku), giữa Trung Quốc với các nước Đông Nam Á về khu vực biển Đông;
hay sự tranh chấp lãnh thổ và các nguồn nước giữa Trung Quốc với các nước
Đông Nam Á và giữa các nước Đông Nam Á với nhau.
Khu vực Trung Á trong những năm qua cũng đã có nhiều diễn biến phức
tạp. Tầm quan trọng về địa chiến lược cũng như sự giàu có về năng lượng của
khu vực này biến nơi đây thành sàn đấu của các thế lực quốc tế. Mỹ muốn
thông qua các tổ chức phi chính phủ để bồi dưỡng các thế lực thân phương Tây
nhằm lật đổ chính quyền đương thời không cần bạo lực. Nga vốn là nước luôn
coi Trung Á như sân sau của mình nên không thể nào từ bỏ khu vực ảnh hưởng
truyền thống của họ và bằng mọi kênh Nga sẽ cố gắng bảo vệ các lợi ích chính
trị, kinh tế, an ninh, quân sự và văn hoá của mình tại khu vực này. Trung Quốc
cũng lo ngại nếu tình hình an ninh ở Trung Á không được bảo đảm thì sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến công việc phát triển miền Tây của Trung Quốc. Nhìn
chung, Trung Á được coi như trái tim của lục địa Âu- Á và là nơi có nhiều
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nên đã thu hút sự chú ý đặc biệt của
các nước lớn. Vốn là khu vực đã nổi cộm với các loại mâu thuẫn sắc tộc, tôn
giáo nay lại thêm sự tranh chấp của các nước lớn và sự va chạm của hai nền
văn hoá Tây- Đông nên Trung Á càng thêm phức tạp và càng tiềm ẩn thêm
những nguy cơ bất ổn.
Chủ nghĩa khủng bố và cuộc chiến chống khủng bố
Tình hình quốc tế từ những năm đầu thế kỷ XXI đã có những biến đổi
sâu sắc, đặc biệt là từ sau vụ nước Mỹ bị khủng bố bởi 4 chiến máy bay cảm tử
13



ngày 11/ 9/ 2001 làm cho toà tháp đôi của Trung tâm thương mại thế giới bị
sụp đổ hoàn toàn. Sau đó 3 tháng, Tổng thống G. Bush đã tuyên bố Mỹ đơn
phương rút khỏi Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo (ABM) mà Mỹ và Liên Xô đã
ký năm 1972. Mỹ đã phát động cuộc chiến chống khủng bố trên quy mô toàn
cầu và phân hoá thế giới thành hai phe như tuyên bố của Tổng thống G. Bush:
“Hoặc đứng về phía chúng tôi, hoặc đứng về phía bọn khủng bố”7. Trước đó đã
từng có cảm giác rằng trật tự thế giới “nhất siêu đa cường” của những năm đầu
sau chiến tranh lạnh có vẻ như thăng hoa không biên giới và siêu cực Mỹ phi
mã đến vị trí bá chủ thế giới tưởng như không có một sức mạnh nào có thể
ngăn cản nổi. Tuy nhiên, sau sự kiện 11/ 9, lần đầu tiên trong lịch sử thế giới,
vấn đề khủng bố và chống khủng bố đã trở thành vấn đề toàn cầu và một sắc
thái mới lại xuất hiện trong bức tranh chung về bối cảnh quốc tế mới thời kỳ
hậu chiến tranh lạnh. Sự kiện 11/ 9 được bình luận là sự kiện châm ngòi cho
những chuyển biến lớn trong quan hệ quốc tế và cục diện thế giới những năm
đầu thế kỷ XXI.
Thực ra, khủng bố không phải là một hiện tượng mới mẻ mà đã có cả
một lịch sử phát triển của nó. Các tổ chức khủng bố chẳng hạn như Lữ đoàn đỏ
ở Italia, Gihat ở Palextin, Hécbôla ở Libăng....đã xuất hiện từ lâu do các
nguyên nhân chính trị, kinh tế, tôn giáo khác nhau, nhưng đây đều là những tổ
chức tôn giáo độc lập, hoạt động ở từng thời điểm và địa bàn cụ thể. Còn sự
kiện khủng bố ngày 11/ 9 làm mọi người sững sờ, bàng hoàng là bởi địa điểm,
tính chất, quy mô và trình độ thực hiện nó rất khác thường so với những gì đã
từng xảy ra trước đó. Do Mỹ phát động cuộc chiến chống khủng bố trên quy
mô toàn cầu nên đã làm dấy lên các cuộc thảo luận về khủng bố là gì và chống
khủng bố như thế nào cũng trên phạm vi toàn thế giới. Cho đến nay vẫn chưa
có được một định nghĩa thống nhất thế nào là khủng bố mặc dù vẫn có thể hình
dung được nó là như thế nào.
Theo cách hiểu thông dụng nhất nhiều người cho “khủng bố là tập hợp

các hành vi bạo lực (mưu sát, bắt cóc làm con tin...) do một tổ chức thực hiện
để tạo ra một không khí mất an ninh, nhằm gây sức ép đối với một chính phủ,
để thoả mãn sự căm ghét đối với một cộng đồng, một đất nước, một hệ thống”8.

7
8

Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 263, ngày 13/ 11/ 2001, tr. 11
Le Petit Larousse illustré, Paris, 2000, p. 1003

14


Có ý kiến cho rằng khủng bố phải được nhìn nhận ở hai góc độ là chủ
quan và khách quan. Xét theo góc độ chủ quan, đó là một hành động được phe
này cho là chính đáng và cần thiết nhưng lại bị phe kia cho là không chính đáng
và vô căn cứ. Xét ở góc độ khách quan, khủng bố được coi là một hình thức
bạo lực được một bên sử dụng làm phương tiện để đạt được những mục tiêu
chính trị nhất định. Quan niệm này xuất phát từ lôgich cho rằng sau những năm
1970, 1980, chủ nghĩa khủng bố được coi là hậu quả của hai cuộc xung đột
chính: cuộc xung đột quốc tế mang màu sắc chính trị và địa chính trị giữa hai
khối đối lập, đứng đầu là hai cường quốc và cuộc xung đột mang tính xã hội
trong lòng các nước công nghiệp phát triển giữa phong trào công nhân với giới
chủ tư bản công nghiệp. Với quan niệm như vậy về chủ nghĩa khủng bố, các
học giả phương Tây đã phân loại thành chủ nghĩa khủng bố cực tả - đánh đồng
bạo lực cách mạng theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin với khủng bố và chủ
nghĩa khủng bố cực hữu để chỉ những hành động bạo lực nhằm thực hiện các
mục tiêu mang màu sắc chính trị, có dáng dấp của tư tưởng kỳ thị chủng tộc,
song không đủ sức đe doạ sự tồn tại của chế độ và thường xảy ra trong lòng các
nước công nghiệp phát triển. Các học giả này đều cho rằng tính chất khủng bố

của một hành động bạo lực được xem xét dựa trên mục đích chính trị mà nó
nhằm đạt tới9.
Quan điểm của chúng ta là lên án mọi hành động bạo lực nhằm vào
người dân vô tội cho dù hành động đó có mục đích chính trị gì. Chúng ta không
lẫn lộn bạo lực cách mạng với hành động khủng bố, trái lại còn phân biệt rõ
ràng quan điểm bạo lực cách mạng với chủ nghĩa khủng bố. Mặc dù cách mạng
cần phải có bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, song việc
sử dụng bạo lực cách mạng lại tuỳ thuộc vào việc sử dụng bạo lực phản cách
mạng của đối phương và việc chuẩn bị bạo lực cách mạng là một vấn đề có tính
nguyên tắc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, bạo lực cách mạng là
sức mạnh của quần chúng, được kết hợp các hình thức chính trị, quân sự, lấy
chính trị làm cơ sở.
Không ít người đặt câu hỏi rằng cuộc đấu tranh chính nghĩa của một dân
tộc, trong đó có cả đấu tranh vũ trang có bị coi là khủng bố không? Hiện nay tại
khu vực Trung Đông, những hành động vũ trang của người Palextin chống lại
9

Michel Wieviorka, Chủ nghĩa khủng bố, sự thay đổi mang tính bước ngoặt lịch sử?, RAMSES- Viện
Quan hệ quốc tế Pháp 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 46

15


người Ixraen được đánh giá như thế nào là chính xác? Xét về mặt lịch sử, mâu
thuẫn Palextin- Ixraen là mâu thuẫn mang tính chất dân tộc giữa người Do Thái
và người Arập tại xứ Palextin và được thế giới công nhận cuộc đấu tranh của
người Palextin là chính nghĩa. Tuy nhiên, sau này đã xuất hiện những phần tử
cực đoan trong phong trào đấu tranh của người Palextin gây nên những hành
động khủng bố nhằm vào dân thường vô tội dẫn đến việc bị thế giới phê phán,
không đồng tình. Như vậy, có thể thấy rằng chỉ riêng về phong trào đấu tranh

của người Palextin đã khó xác định chính xác khi nào là khủng bố, lúc nào là
đấu tranh vũ trang. Xuất phát từ việc không thống nhất được trong quan niệm
thế nào là khủng bố nên tiến hành một cuộc đấu tranh trên quy mô toàn cầu
chống lại chủ nghĩa khủng bố là một điều vô cùng khó khăn, nan giải.
Hiện nay khi nói đến chủ nghĩa khủng bố người ta hay bàn luận nhiều
đến mối quan hệ của nó với tôn giáo, đặc biệt là chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan.
Đã có ý kiến đánh giá rằng, chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, một hiện tượng rất
thiểu số trong cộng đồng Hồi giáo nói chung, là sản phẩm của sự kết hợp giữa
tôn giáo và chính trị, biểu hiện bằng các hành động bạo lực cực đoan mà ở đó
yếu tố tôn giáo chi phối yếu tố chính trị.
Đặc điểm của chủ nghĩa khủng bố đầu thế kỷ XXI là nó mang tính chất
toàn cầu rõ rệt. Những điểm mới của nó được thể hiện trong cách thức và
phương pháp khủng bố chứ không chỉ nằm trong ý nghĩa, động cơ của hành
động khủng bố như trước đây. Hình thức khủng bố này là sản phẩm của một
mạng lưới được tổ chức rất linh hoạt và uyển chuyển như vẫn có lãnh thổ để
đặt cơ sở và xây dựng lực lượng. Chẳng hạn, tổ chức khủng bố do Bin Laden
cầm đầu đã mang tính chất toàn cầu rất rõ rệt, được biểu hiện ở chỗ nó có mạng
lưới Al-Qaida với chân rết phủ khắp toàn cầu, nó vượt ra ngoài khuôn khổ của
một quốc gia- dân tộc, tiến hành các hành động bạo lực trên phạm vi toàn thế
giới với mục tiêu không chỉ lật đổ chính quyền tại một quốc gia ngoại đạo cụ
thể nào đó; quy mô chiêu mộ lực lượng của nó cũng ở khắp toàn cầu, còn
phương thức hành động rất bất ngờ không dự đoán được; hình thức khủng bố
được thực hiện là hoàn toàn mới, dựa trên việc sử dụng các phương tiện kỹ
thuật hiện đại, tiên tiến của thời đại thông tin ngày nay.
Nguyên nhân sinh ra khủng bố cũng có nhiều, song có lẽ ít ai phản đối
quan điểm cho rằng một nguyên nhân quan trọng của chủ nghĩa khủng bố thời

16



nay là tác động của mặt trái của toàn cầu hoá. Đó là việc toàn cầu hoá đã làm
gia tăng khoảng cách giàu- nghèo, làm cho một bộ phận không nhỏ dân thường
bị gạt ra ngoài rìa dòng chảy của lịch sử. Từ đó phát sinh mâu thuẫn xã hội và
dẫn đến xung đột. Cũng có ý kiến cho rằng chủ nghĩa khủng bố phát sinh từ
chủ nghĩa tôn giáo cực đoan và chủ nghĩa dân tộc cực đoan, song như vậy lại
phải tìm hiểu điều gì dẫn đến hai chủ nghĩa cực đoan nói trên. Tóm lại, nguyên
nhân sinh ra khủng bố có rất nhiều, tất cả các loại khủng bố đều có nguyên
nhân của chúng, mỗi loại có thể có một nguyên nhân riêng. Do đó, muốn diệt
trừ tận gốc chủ nghĩa khủng bố thì phải loại bỏ những yếu tố khách quan và chủ
quan nào làm thành nguyên nhân dẫn đến chủ nghĩa khủng bố, đặc biệt là
những yếu tố khách quan10.
Cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động từ năm 2001 đến nay rõ
ràng đã tác động rất mạnh đến mọi lĩnh vực trên quy mô toàn thế giới. Chỉ
riêng trong lĩnh vực chính trị- an ninh của thế giới và khu vực tác động này đã
được cảm nhận ngay bằng trực giác. Tác động đầu tiên là làm cho môi trường
hoà bình, ổn định và hợp tác trở nên rất phức tạp. Thế giới đứng trước tình hình
vô cùng nguy hiểm, có nhiều bất trắc, khó lường. Mỹ có thể đơn phương tiến
hành chiến tranh chống lại bất kỳ nước nào mà Mỹ cho là theo hoặc ủng hộ chủ
nghĩa khủng bố. Với cuộc chiến chống khủng bố như vậy, Mỹ đã nâng cao vị
trí và vai trò của mình trên trường quốc tế, khẳng định vị trí nhất siêu, đơn cực
đầy sức mạnh chi phối của mình trong các quan hệ quốc tế. Những cuộc chiến
tranh đơn cực do Mỹ phát động ở Côsôvô, Apganixtan và Irắc những năm đầu
của thế kỷ này đã cho thấy rõ những điều mà Mỹ muốn khẳng định. Tuy nhiên,
bên cạnh đó cũng cần thấy rằng Mỹ vẫn có những hạn chế trong việc thực hiện
chính sách cường quyền áp đặt của mình. Mỹ không thể hoàn toàn phớt lờ Liên
Hợp Quốc, bỏ qua sự phản đối của các nước khác, đặc biệt là các nước lớn. Sự
kiện ngày 11/ 9 đã làm đảo lộn nhiều vấn đề, buộc người ta phải thay đổi tư
duy, mà trước tiên là thay đổi cách tư duy về nước Mỹ: siêu cường Mỹ không
phải là bất khả xâm phạm. Các hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ dường như
bất lực trước cuộc tấn công trong lòng nước Mỹ như vậy. Điều này cho thấy

khả năng giải quyết các vấn đề quốc tế của Mỹ không phải là vô hạn. Thứ hai,
tính chất của cuộc chiến tranh trong thế kỷ mới mang sắc thái hoàn toàn khác
10

Nguyễn Văn Dân, Khủng bố và chống khủng bố với vấn đề an ninh quốc tế, trong cuốn “Khủng bố và
chống khủng bố, Cuộc chiến không giới hạn”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003, tr. 111 - 132

17


lạ. Đó là cuộc chiến tranh giữa một bên là các nhà nước và các quốc gia với
một bên là những tổ chức vô chính phủ, phi quốc gia, song có tài chính, có kỹ
thuật hiện đại và có sức mạnh nhất định trong tay.
Tác động lớn thứ hai của cuộc chiến khủng bố và chống khủng bố là nó
làm cho nhiều nước, trong đó bao gồm cả các nước lớn phải điều chỉnh chiến
lược và quan hệ của mình. Ví dụ như Nga và Trung Quốc là một minh chứng.
Cả hai nước này đều có vấn đề với chủ nghĩa ly khai và khủng bố trên lãnh thổ
của mình; cả hai nước đều có những tính toán chiến lược ở vùng Trung Á và
không muốn Mỹ sẽ giữ ảnh hưởng độc tôn tại khu vực đó; cả hai nước đều
muốn thông qua việc ủng hộ Mỹ chống khủng bố để tạo thế mặc cả với Mỹ
trong các vấn đề chính trị, an ninh và kinh tế của nước mình.
Tác động lớn thứ ba là cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu đã làm thắt
chặt thêm các quan hệ đồng minh chiến lược của Mỹ với các nước vốn là đồng
minh của Mỹ trên các châu lục, tạo điều kiện cho một số nước trong số đó thay
đổi lập trường đối ngoại và chính sách an ninh của mình. Ví dụ điển hình trong
trường hợp này là Nhật Bản. Cùng với sự thể hiện quyết tâm cao của mình
trong việc tham gia tích cực và luôn sát cánh với Mỹ trong cuộc chiến chống
khủng bố, Nhật Bản cũng nhân cơ hội này muốn tháo gỡ sự cấm kỵ của Điều 9
Hiến pháp Nhật Bản, đã cho thông qua một số đạo luật như Luật về tăng cường
phòng thủ, Luật về sự kiện bất ngờ, đã gửi quân đội của Nhật Bản ra nước

ngoài trong vai trò thực hiện sứ mệnh gìn giữ hoà bình của Liên Hiệp Quốc.
Tóm lại, nhìn vào thực trạng bối cảnh quốc tế từ sau chiến tranh lạnh đến
nay có thể nhận thấy nhiều thay đổi căn bản đã diễn ra từ lĩnh vực kinh tế đến
chính trị- an ninh và quan hệ quốc tế đồng thời được biểu hiện qua những nét
đặc trưng như đã trình bày ở trên. Về bối cảnh kinh tế quốc tế nét đặc thù nhất
của nó hiện nay là sự lan toả với tốc độ nhanh hơn của toàn cầu hoá, khu vực
hoá kinh tế và tác động của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đến việc hình
thành xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức. Về bối cảnh chính trị- an ninh và
quan hệ quốc tế có thể được phác hoạ qua những biểu hiện mới cơ bản như sự
khẳng định ưu thế số 1 thế giới của Mỹ, hình thành cục diện quốc tế nhất siêu
đa cường và sự tranh đấu của các nước lớn nhằm phát triển thế giới theo hướng
đa cực hoá, hoà bình và phát triển là chiều hướng chủ đạo song vẫn có sự xen
kẽ của các cuộc khủng hoảng và xung đột mang tính chất khu vực, đặc biệt là

18


chủ nghĩa khủng bố và cuộc chiến chống khủng bố trên quy mô toàn cầu cùng
với những biến thiên của nó gây ra những tác động nhiều chiều đến nền hoà
bình và an ninh của thế giới. Mối quan hệ giữa chính trị- an ninh và kinh tế
quốc tế có nhiều phức tạp, có vẻ như mâu thuẫn với nhau. Người ta nhận thấy
rằng trong khi ý nghĩa và vị thế của các quốc gia dân tộc đang ngày càng được
nhấn mạnh trong lĩnh vực chính trị- an ninh thì vị thế của yếu tố quốc tế hoá,
toàn cầu hoá lại được đề cao trong lĩnh vực kinh tế. Có cảm nhận rằng kinh tế
đang đi trước khá xa so với chính trị: “Trong khi kinh tế thế giới đã trở thành
một nền kinh tế toàn cầu hoá thì bức tranh chính trị thế giới vẫn ở trong tình
trạng rất bất cân bằng: có những nền chính trị vẫn đang trong quá trình khẳng
định vị thế quốc gia dân tộc, điển hình là nền chính trị Palextin, trong khi đó lại
có những nền chính trị đang muốn trở thành một xã hội công dân hậu dân tộc
như EU... Trong tương lai gần có lẽ thế giới vẫn sẽ phải chứng kiến một sự

sống chung giữa cái quốc gia với cái quốc tế. Đó cũng chính là một khía cạnh
của bộ mặt mới của quan hệ quốc tế trong thế kỷ mới “11.
Để đi đến quá trình toàn cầu hoá hoàn toàn các quốc gia đang lựa chọn
con đường khu vực hoá, là cách để bổ sung cho những gì vẫn còn bị coi là bất
cập của các thể chế toàn cầu. Đồng thời mọi dân tộc đều nhận thức được rằng
cho dù quốc tế hoá, toàn cầu hoá đến mức nào đi chăng nữa thì tính đa dạng về
văn hoá và nhu cầu giữ gìn sự đa dạng đó vẫn không thể mất đi. Trong bối cảnh
quốc tế của sự đa dạng về văn hoá như vậy vị thế của các quốc gia và nhà
nước- dân tộc vẫn phải được duy trì. Một trong những nền tảng quan trọng để
bảo đảm hoà bình và an ninh quốc tế chính là sự tôn trọng lẫn nhau giữa các
quốc gia và các nhà nước- dân tộc, là sự bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Đảm
bảo được nền tảng này thì nguy cơ dẫn đến nạn khủng bố chắc chắn cũng sẽ
giảm thiểu được rất nhiều.
3. Năng lượng trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nền kinh tế
Hơn bất kỳ lúc nào năng lượng lại là vấn đề được quan tâm nhiều như
lúc này. Năng lượng đã trở thành vấn đề thời sự mang tính toàn cầu và nó
không chỉ dừng lại đơn thuần là vấn đề kinh tế. Vấn đề năng lượng thực sự đã
trở nên một biểu hiện đặc trưng của bối cảnh quốc tế mới.

11

Nguyễn Văn Dân, nguồn đã trích dẫn, tr. 128

19


Trong vấn đề năng lượng thì dầu mỏ là chủ đề cơ bản nhất. Dầu mỏ được
ví là “vàng đen” và như bình luận của một số báo chí Pháp (La Tribune hay Le
Point) thì thứ vàng đen quý giá này có thể làm đảo lộn địa- chính trị thế giới.
Hiện nay rất nhiều quốc gia trên thế giới đang tập trung mọi nỗ lực để tìm kiếm

thoả hiệp về dầu mỏ.
Cuối năm 2003, trữ lượng dầu mỏ thế giới đã thăm dò được là 1.150 tỷ
thùng (tương đương 157,5 tỷ tấn). Theo tính toán của các nhà kinh tế, với tốc
độ khai thác như hiện nay thì thế giới có thể tiếp tục khai thác trong khoảng 41
năm. Mặc dù những phát hiện mới về dầu mỏ vẫn được tiếp tục song những
phát hiện lớn (như ở Mêhicô phát hiện trữ lượng 54 tỷ thùng dưới lòng đất) thì
rất hiếm. Trong khi đó, nhu cầu về dầu mỏ của thế giới vẫn không ngừng gia
tăng. Chẳng hạn năm 2003, nhu cầu dầu mỏ toàn cầu là 78,1 triệu thùng/ngày,
ước khoảng 3,9 tỷ tấn/năm. Năm 2004 nhu cầu đó tăng lên thành 81 triệu
thùng/ngày, tương đương khoảng 4,5 tỷ tấn/năm. Các tính toán của Hiệp hội Tư
liệu năng lượng Mỹ cho thấy đến năm 2025 nhu cầu về dầu mỏ của thế giới sẽ
đạt đến con số 121 triệu thùng/ngày, ước khoảng 6,05 tỷ tấn/năm và như vậy sẽ
tăng 50% so với hiện nay.
Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) cho biết trong quý I năm 2005 thế
giới tiêu thụ 84,7 triệu thùng/ngày, quý IV ở mức 86,1 triệu thùng/ngày, so với
quý I đã tăng 2,2%. Trong 30 năm qua sản lượng dầu khai thác mới hàng năm
được ước tình bình quân ở mức 14 tỷ thùng, song những năm gần đây đã thấp
hơn nhiều.
Bên cạnh đó, báo cáo của công ty dầu mỏ Anh cho rằng trữ lượng khí đốt
thiên nhiên như hiện nay của thế giới với lượng sử dụng như hiện nay sẽ chỉ đủ
dùng cho 67 năm. Điểm đáng lo ngại là nhu cầu sử dụng dầu mỏ luôn cao hơn
rất nhiều so với trữ lượng phát hiện mới. Vẫn theo cách tính toán của công ty
dầu mỏ Anh nói trên thì lượng sử dụng dầu mỏ của thế giới hiện nay mỗi năm
tăng lên gấp 2 con số 10 tỷ thùng phát hiện mới mỗi năm.
Mặc dù các con số tính toán và dự đoán không trùng khớp nhau, song
một vấn đề chung đồng nhất ở đây là trong vấn đề dầu mỏ cung luôn thấp hơn
cầu.
Sự lợi hại của những nước có dầu mỏ:

20



Về Nga có thể nói năng lượng là mạch máu kinh tế của nước này bởi giá
trị sản lượng dầu mỏ chiếm đến 1/5 GDP và thu tới 55% ngoại tệ cho Nhà nước
Nga. Năm 2005 lần đầu tiên dự trữ ngoại tệ của Nga vượt 225 tỷ USD chủ yếu
là nhờ xuất khẩu dầu mỏ. Nga được giới phân tích cho rằng đây là nước có
những con át chủ bài cực kỳ quan trọng trong tay là vũ khí hạt nhân và dầu mỏ,
do vậy Nga có thể giành được lợi ích to lớn về kinh tế và đối ngoại nhờ con
bài dầu lửa, giành được ưu thế quân sự và ngoại giao nhờ con bài hạt nhân. Nga
có nguồn năng lượng rất lớn, chiếm 13% trữ lượng dầu mỏ đã được xác định
của thế giới, 34% khí đốt tự nhiên và 1/4 lượng than thế giới12 . Dầu mỏ đang là
chìa khoá để Nga mở cửa châu Á. Trước hết, dầu mỏ làm cho quan hệ NgaTrung được sưởi ấm. Nga quyết định xây dựng đường ống dẫn dầu từ Taishet
đi Nakhôdka nằm ngay biên giới hai nước Trung, Nga, công suất bơm của
đường ống hàng năm đạt 30 triệu tấn và dự kiến tới năm 2008 sẽ hoàn thành.
Lãnh đạo của hai nước đều thống nhất quan điểm cho rằng Nga và Trung Quốc
cần tăng thêm nội dung mới cho quan hệ hợp tác chiến lược của hai nước và
khẳng định rằng hợp tác năng lượng là yếu tố có ý nghĩa to lớn nhất, hiện thực
nhất trong quan hệ hợp tác chiến lược hai nước và là phương hướng ưu tiên
hàng đầu để phát triển và củng cố quan hệ hợp tác hai bên. Thông qua hợp tác
năng lượng, hai nước đã đẩy nhanh hơn quá trình giải quyết đường biên giới
do lịch sử để lại.
Nhật Bản cũng rất quan tâm đến nguồn năng lượng dầu mỏ của Nga và
quyết định lập đường ống dẫn dầu nói trên của Nga cho thấy Nga đã khôn khéo
như thế nào trong việc lợi dụng cơ chế cạnh tranh quốc tế, đưa Nhật Bản vào
cuộc để đạt được lợi ích cao nhất của mình.
Bên cạnh đó, Nga còn có tuyến đường ống dẫn khí đốt xây dựng cùng
Italia chạy từ Bờ biển Đen tới Thổ Nhĩ Kỳ, tuyến “Blue Stream” được khánh
thành vào tháng 11 năm 2005 tạo ra một khả năng xuất khẩu mới của Nga cho
châu Âu thông qua Ucraina. Đồng thời, Nga tỏ ý ủng hộ đề nghị xây dựng một
tuyến đường ống khí đốt chạy từ Tuốcmênia sang Pakixtan và Ấn Độ qua

Ápganixtan.
Arập Xêút là nước đang sở hữu đến 1/4 trữ lượng dầu mỏ thế giới, do
vậy là nước mà bất kỳ nước nào cũng phải cần đến nếu muốn tạo cho mình một
nguồn nhập khẩu dầu từ nơi đây. Nhờ có dầu mỏ, lãnh đạo của Arập Xêút có
12

The Hindu 19/12/2005

21


×