Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Nghiên cứu chiết tách, xác định thành phần hóa học trong một số dịch chiết của lá và hạt cây chùm ngây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 80 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam nằm ở vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm
khác nhau giữa các địa phương…Nhờ có yếu tố về địa hình và khí hậu đa dạng,
nước ta có thảm thực vật phong phú và có nguồn cây cối có giá trị dinh dưỡng, làm
thuốc dồi dào.
Việc sử dụng các loại thuốc thảo dược theo cách cổ truyền hay từ các hợp chất
nguồn gốc tự nhiên có xu hướng ngày càng tăng đã chiếm một vị trí quan trọng
trong nền y học. Chế phẩm thảo dược dù chỉ có một loại dược liệu nhưng lại là hỗn
hợp của nhiều hợp chất khác nhau và trong mọi trường hợp hầu hết đều chưa xác
định rõ hoạt chất của từng chất. Vì vậy, những bài thuốc sử dụng thảo dược là đối
tượng để cho các nhà khoa học nghiên cứu một cách đầy đủ về bản chất các hoạt
chất có trong cây cỏ thiên nhiên.
Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng về công dụng làm thuốc của các cây cỏ
hiện có ở nước ta, tôi chọn một loài cây có nhiều giá trị kinh tế đặc biệt làm thuốc,
là cây chùm ngây trong họ chùm ngây để nghiên cứu.
Cây chùm ngây tên khoa học là Moringa oleifera Lam, phân bố tại nhiều quốc
gia nhiệt đới và cận nhiệt đới, được biết đến và sử dụng hàng ngàn năm nay ở Hi
Lạp, Ấn Độ, Ý… Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy rằng, chùm ngây vừa là một
thực phẩm, vừa là một dược liệu quý. Các bộ phận như rễ, hạt, vỏ cây, quả và hoa
của cây chùm ngây có hoạt tính kích thích sự hoạt động của tim và hệ thần kinh,
chống u bướu, chống oxi hóa, bảo vệ gan, chống nám... Dầu chùm ngây giàu
vitamin A, C và các chất béo không bão hòa, có đặc tính khử trùng và chống viêm,
giúp chữa lành các vết thương ngoài da như vết cắt, vết bầm tím, bỏng, vết côn
trùng cắn. Lá chùm ngây được hai tổ chức thế giới WHO và FAO dùng như một
giải pháp ưu việt cho các bà mẹ thiếu sữa và trẻ em suy dinh dưỡng, và là giải pháp
lương thực cho thế giới thứ ba. Hiện nay có khoảng 80 quốc gia trên thế giới trồng
chùm ngây làm rau ăn.



2

Ở Việt Nam, trước đây, cây chùm ngây được biết đến như một vị thuốc nam
dùng để điều trị một số bệnh thông thường trong dân gian. Thế nhưng gần đây, nhờ
phát hiện của y học, hoa, quả và đặc biệt là lá cây chùm ngây còn là món ăn bổ
dưỡng cho cơ thể nên nhiều địa phương đã bắt đầu trồng, kinh doanh loại rau này.
Với những tính năng đa dạng và phong phú như thế, nghiên cứu chiết tách, xác
định thành phần hóa học, ứng dụng các phương pháp hiện đại để xác định cấu trúc
và nghiên cứu hoạt tính sinh học của một số hợp chất có trong cây chùm ngây ở
Việt Nam là một hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng, có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu chiết tách, xác định thành phần
hóa học trong một số dịch chiết của lá và hạt cây chùm ngây ” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Tìm các điều kiện thích hợp chiết tách các chất trong lá và hạt chùm ngây.
- Định danh, xác định thành phần hóa học từ dịch chiết từ lá và hạt chùm ngây.
- Thăm dò hoạt tính kháng vi sinh vật của một số dịch chiết từ lá và hạt chùm
ngây.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Lá, hạt chùm ngây được thu hái tại xã Tam Đàn, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng
Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chiết.
- Xác định thành phần một số hợp chất trong dịch chiết từ lá và hạt chùm ngây.
- Quá trình thí nghiệm được tiến hành tại phòng thí nghiệm hóa học, phòng thí
nghiệm vi sinh, trường Đại học Sư Phạm, Đại học Đà Nẵng.
4. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Thu thập, tổng hợp tài liệu, tư liệu về nguồn nguyên liệu, phương pháp nghiên
cứu các hợp chất tự nhiên, thành phần hóa học và ứng dụng của cây chùm ngây.

- Tổng hợp tài liệu về phương pháp lấy mẫu, chiết tách và xác định thành phần
hóa học các chất từ thực vật.


3

- Tổng hợp tài liệu về đặc điểm hình thái thực vật, thành phần hóa học và ứng
dụng của cây chùm ngây.
4.2. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
- Phương pháp lấy và xử lí mẫu.
- Phương pháp trọng lượng xác định độ ẩm.
- Phương pháp tro hóa mẫu xác định hàm lượng hữu cơ.
- Phương pháp AAS xác định hàm lượng các kim loại nặng.
- Phương pháp chiết: Chiết soxhlet bằng các dung môi: n-hexan, diclometan,
etyl axetat, ethanol.
- Phương pháp xác định thành phần hóa học, định danh, xác định cấu trúc các
cấu tử chính bằng phương pháp sắc kí khí khối phổ (GC-MS).
- Phương pháp thăm dò hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định của một số dịch
chiết bằng phương pháp sinh học.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Những kết quả nghiên cứu sẽ góp phần cung cấp các thông tin có ý nghĩa khoa
học về thành phần hoá học và hoạt tính sinh học các chất chiết tách từ lá và hạt cây
chùm ngây, qua đó góp phần nâng cao giá trị ứng dụng của cây chùm ngây trong
ngành dược liệu.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn bao gồm 81 trang, 26 bảng, 32 hình, 20 tài liệu tham khảo và 52 phụ
lục. Ngoài phần mở đầu, danh mục bảng, hình, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham
khảo. Bố cục luận văn gồm:
Chương 1 – Tổng quan
Chương 2 – Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu

Chương 3 – Kết quả và thảo luận
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI


4

CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÂY CHÙM NGÂY
1.1.1. Phân loại khoa học
Chùm ngây hay còn gọi là chùm ngây cải ngựa, cây dùi trống, câu dầu bel có tên
khoa học là Moringa oleifera Lam, nằm trong hệ thống phân loại sau:
Giới:

Thực vật

Plantae

Ngành:

Ngọc lan

Magnoliophyta

Lớp:

Ngọc Lan


Magnoliophyta

Phân lớp:

Sổ

Dilleniidae

Bộ:

Màn màn

Capparales

Họ:

Chùm ngây

Moringaceae

Chi:

Chùm ngây

Moringa adans

Loài:

Chùm ngây cải ngựa


Moringa oleifera Lam

Hình 1.1. Cây chùm ngây
Chi chùm ngây (Moringa) là chi duy nhất trong họ chùm ngây (Moringacese).
Chi này có 13 loài, tất cả trong số chúng là các cây thân gỗ sinh sống trong khu vực
nhiệt đới và cận nhiệt đới. Loài phổ biến nhất là chùm ngây Moringa oleifera Lam.
Loài cây này được trồng nhiều nơi trong khu vực nhiệt đới, và loài duy nhất của chi
Moringa có mặt tại Việt Nam.[1],[2]


5

1.1.2. Đặc điểm thực vật
Hình dáng: Chùm ngây là cây thân mộc cao cỡ trung bình, ở độ tuổi trưởng
thành cây có thể cao hàng chục mét. Cây 1 năm tuổi nếu không cắt ngọn cây có thể
cao tới 5-6 m và có đường kính 10 cm, 3-4 năm tuổi là cây ở độ tuổi trưởng thành.
Thân cây óng chuốt, không có gai.[4], [5], [10]
Lá: Lá kép lông dài 30–60 cm, hình lông chim, màu xanh mốc; lá chét dài 12–
20 mm hình trứng, mọc đối có 6-9 đôi, lá kèm bao lấy chồi.
Hoa: Cây trổ hoa vào các tháng 1–2. Hoa trắng kem, có cuống, vểnh lên, hình
dạng giống hoa đậu, rộng khoảng 2.5 cm, mọc thành chùm ở nách lá, có lông tơ,
nhiều mật. Bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu noãn một buồng do 3 lá
noãn, đính phôi trắc mô.[4], [5]

Hình 1.2. Lá chùm ngây

Hình 1.3. Hoa chùm ngây

Quả: Quả dạng nang treo, dài 25–40 cm, ngang 2 cm, có 3 cạnh, chỗ có hạt hơi
gồ lên, dọc theo quả có khía rãnh.

Hạt: Hạt chùm ngây màu đen, tròn có 3 cạnh, tròn dẹp, to khoảng 1 cm.

Hình 1.4. Quả chùm ngây

Hình 1.5. Hạt chùm ngây


6

1.1.3. Phân bố
Cây chùm ngây có nguồn gốc ở vùng phụ cận dãy Himalaya, tây bắc Ấn Độ, có
lịch sử phát hiện và sử dụng hơn 4000 năm, nhưng ngày nay được trồng rộng rãi
ở Châu Phi, Trung Mỹ, Nam Mỹ, Đông Nam Á…
Ở Việt Nam, chùm ngây là loài duy nhất của chi chùm ngây được phát hiện mọc
hoang từ lâu đời tại nhiều nơi như Thanh Hóa, Ninh Thuận, Bình Thuận, vùng Bảy
Núi ở An Giang, đảo Phú Quốc ... Tuy vậy, trước đây cây ít được chú ý, có nơi
trồng chỉ để làm hàng rào, và chỉ trong vài chục năm trở lại đây cây được trồng có
chủ định và có nhiều nghiên cứu liên quan.
1.1.4. Trồng trọt
Chùm ngây là loài cây nhiệt đới và cận nhiệt đới, thích hợp với đất cát khô và có
khả năng chịu hạn hán. Theo một số báo cáo thì chi chùm ngây chịu được nhiệt độ
từ 18.7 – 28.5oC và pH khoảng 4.5 – 8.
Cây chùm ngây rất dễ trồng, có thể trồng từ hạt, hom cành và trồng được quanh
năm. Cây được trồng nhiều ở những vùng đất khô hạn khắc nghiệt nhiệt
đới hoặc bán nhiệt đới. Cây chuộng đất ráo nước, nhiều cát, dù là đất xấu cũng dễ
mọc, chịu được hạn hán, ưa nắng, hầu như không bị sâu bệnh hại, do đó chăm sóc
cây không cần điều kiện gì đặc biệt về phân bón và nước tưới. Tuy nhiên cây không
chịu được úng ngập và dễ chết nếu không được thoát nước tốt.
Gỗ chùm ngây khá mềm, giòn nên thân cành dễ bị gãy trong mưa bão. Do đó
nếu trồng cây để khai thác sử dụng người trồng thường cắt ngọn cây khi đạt độ cao

nhất định, vừa tiện thu hái; vừa kích thích cây đâm tược, nảy cành theo cấp số nhân
như tán dù; vừa hạn chế thiệt hại do gãy đổ.
1.2. GIÁ TRỊ SỬ DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY
1.2.1. Giá trị dinh dưỡng
Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, giàu chất đạm,
vitamin, beta-caroten, axit amin và nhiều hợp chất phenol. Cây chùm ngây cung cấp
một hỗn hợp gồm nhiều hợp chất quý hiếm như zeatin, quercetin, alpha-sitosterol,
axit caffeoylquinic và kaempferol. Một số nguồn nghiên cứu cho biết chùm ngây


7

chứa hơn 90 chất dinh dưỡng tổng hợp bao gồm 7 loại vitamin, 6 loại khoáng chất,
18 loại acid amin, 46 chất chống oxi hóa, liều lượng lớn các chất chống viêm
nhiễm, các chất kháng sinh, kháng độc tố, các chất giúp ngăn ngừa và điều trị ung
thư, u xơ tiền liệt tuyến, giúp ổn định huyết áp, hạ cholesterol, bảo vệ gan.
Lá chùm ngây còn chứa nhiều dưỡng chất hơn cả quả và hoa, tính theo trọng
lượng, trong đó vitamin C hơn cam 7 lần, vitamin A hơn cà rốt 4 lần, canxi gấp 4
lần sữa, sắt gấp 3 lần cải bó xôi, đạm nhiều gấp đôi sữa chua và kali gấp 3 lần trái
chuối.[13]
Trong ẩm thực, lá non và thậm chí cả lá già của chùm ngây được sử dụng để
nấu canh với thịt, tôm, nấm hoặc nấu suông, trộn salad, ăn sống, xào thịt, trứng, xay
nhuyễn thành nước sinh tố. Lá chùm ngây phơi khô tán bột có thể để rất lâu mà
không mất dinh dưỡng, sử dụng cho nhiều món ăn như cháo, bột trẻ em, nhào bột
bánh, pha nước uống. Trái non được dùng xào, nấu canh, hầm xương, ninh súp
như đậu cô ve và cho hương vị gần tương tự măng tây. Khi già, hạt chùm ngây có
thể rang ăn như đậu phộng. Rễ non của cây ăn sống hoặc làm gia vị như cải
ngựa (mù tạt).
1.2.2. Giá trị về y học
Rễ chùm ngây

Rễ có vị đắng, được xem như một loại thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh,
long đàm, lợi tiểu nhẹ. Dịch rễ được dùng ngoài để điều trị chứng mẫn ngứa do dị
ứng. Trong rễ và hạt cũng có chất kháng sinh pterygospermin.
Pakistan dùng vỏ rễ sắc lấy nước trị đau răng, đau tai. Hay rễ tươi của cây non
dùng trị nóng sốt, phong thấp, gout, sung gan và lá lách.[15], [19]
Vỏ thân chùm ngây
Vỏ cây được dùng điều trị chứng thiếu vitamin C, đôi khi dùng trị tiêu chảy.
Ở Ấn Độ, người ta hay dùng vỏ thân chùm ngây để trị nóng sốt, đau bao tử, đau
bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc, chữa đau cổ họng (dùng
chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen), trị tiểu ra máu, trị thổ tả.
Nhựa cây có công dụng giảm đau, chống sưng tấy.


8

Lá chùm ngây
Lá dùng để uống điều trị chứng hạ huyết áp và vò xát vào vùng thái dương để trị
chứng đau đầu.
Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy xướt, sưng tấy, nổi mẩn
ngứa hay các dấu hiệu lão hóa da. Dịch chiết lá có tác dụng chống nhiễm trùng da.
Dùng lá giã nát đắp lên vết thương bị sưng, nhọt, trộn với mật ong để đắp bên ngoài
mắt trị sưng mắt đỏ. [12]
Bột làm từ lá tươi có khả năng cung cấp năng lượng cho cơ thể. Lá cũng được
dùng chữa sốt, viêm phế quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, diệt giun sán
và làm thuốc tẩy xổ. Sản phụ ăn lá sẽ làm tăng tiết sữa. Lá được chỉ định dùng
chống thiếu máu, do chứa lượng sắt cao.[19]
Hoa chùm ngây
Hoa chùm ngây có giá trị y học cao như một chất kích thích, kích dục, tác nhân
gây sẩy thai, thông mật, dùng để chữa viêm, những bệnh về cơ, hội chứng rối loạn
phân ly, khối u, sự phình to của lách, làm giảm cholesterol huyết thanh,

phospholipid, trigliceride trong máu, tỉ lệ VLDL, LDL cholesterol thành
phospholipid và làm giảm chỉ số xơ vữa động mạch, giảm thành phần lipid ở gan,
tim và động mạch chủ trong bệnh cao cholesterol máu ở thỏ và giảm sự thải ra các
cặn cholesterol.[18]
Quả, hạt chùm ngây
Quả dùng trị bệnh đau gan và tỳ, đau khớp, uốn ván.
Hạt điều trị viêm dạ dày. Dầu hạt được dùng để điều trị nấm da. Nhiều nơi trên
thế giới dùng bột nghiền từ hạt để khử trùng, làm trong nước.[18]
1.3. MỘT SỐ CHẤT CÓ TRONG CÂY CHÙM NGÂY
1.3.1. Vitamin E
Vitamin E là tên gọi chung để chỉ hai lớp các phân tử (bao gồm các tocopherol
và các tocotrienol). Vitamin E là một chất chống oxi hóa tốt do cản trở phản ứng
xấu của các gốc tự do trên các tế bào của cơ thể.


9

HO

O

Hình 1.6. Công thức cấu tạo của vitamin E
Vai trò:
- Ngăn ngừa lão hóa: do phản ứng chống oxi bằng cách ngăn chặn các gốc tự do
mà vitamin E có vai trò quan trọng trong việc chống lão hóa.
- Ngăn ngừa ung thư: kết hợp vitamin C tạo thành nhân tố quan trọng làm chậm
sự phát sinh của một số bệnh ung thư.
- Ngăn ngừa tim mạch: vitamin E làm giảm các cholesterol xấu và làm tăng sự
tuần hoàn máu nên làm giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch.
- Hệ thống miễn dịch: kích thích hệ thống miễn dịch hoạt động bình thường

bằng việc bảo vệ các tế bào,…[7]
1.3.2. Axit oleic
Axit oleic là một axit béo có một nối đôi omega-9 được tìm thấy trong nhiều
động vật và thực vật. Theo IUPAC, tên của axit oleic là axit cis-octadec-9-enoin
O

OH

Hình 1.7. Công thức cấu tạo của axit oleic
Vai trò:
- Axit oleic có tác dụng đáng kể trong việc ngăn ngừa sự hoạt hóa màng trong tế
bào, giảm bớt sự phân hủy của quá trình oxi hóa trên các tế bào màng và ngăn sự
sản sinh các hợp chất gây viêm trong cơ thể.
- Axit oleic còn góp phần ngăn chặn các tế bào bạch cầu thâm nhập vào thành
mạch máu (nguyên nhân chính dẫn đến quá trình hoạt hóa màng trong tế bào).
- Axit oleic cũng có tác dụng giảm tốc độ phát triển của các vệt chất béo bằng
cách loại bỏ các chất béo bão hòa khỏi màng tế bào.


10

1.3.3. Axit n-hexadecanoic
Axit n-hexadecanoic (còn gọi là axit palmitic) là một axit béo bão hòa thường
được tìm thấy ở cả động vật và thực vật. Nó là một thành phần chính trong các loại
dầu từ cây cọ, chẳng hạn như dầu cọ, dầu hạt cọ và dầu dừa.
O

OH

Hình 1.8. Công thức cấu tạo của axit n-hexadecanoic

Vai trò:
- Axit n-hexadecanoic được sử dụng rộng rãi như một chất bôi trơn và là một
phụ gia trong chế phẩm công nghiệp.
- Người ta sử dụng axit n-hexadecanoic trong dược phẩm, xà phòng, mỹ phẩm
và đóng gói thực phẩm.[7]
1.4.3. Stigmasterol
Stigmasterol là một sterol thực vật được tìm thấy trong các loại dầu, nhiều loại
rau, hạt và trong một số dược liệu.

H
H

H

H

HO

Hình 1.9. Công thức cấu tạo của stigmasterol
Vai trò:
- Stigmasterol được xem như một chất trung gian trong quá trình tổng hợp các
nội tiết tố androgen, estrogen và corticoid . Nó cũng được sử dụng như là tiền thân
của vitamin D3.
- Stigmasterol có tác dụng hạ đường huyết, phòng trị ung thư, bao gồm cả ung
thư buồng trứng, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú và ung thư ruột kết.


11

Stigmasterol đã được chứng minh rằng có thể ức chế sự suy thoái viêm xương khớp

do thoái hóa sụn và là chất chống oxi hóa mạnh.[7]
1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÂY CHÙM NGÂY
1.4.1. Trên thế giới
Chùm ngây được xem là một cây đa dụng, rất hữu ích tại những quốc gia nghèo,
vì vậy nó được nghiên cứu rất nhiều về trồng trọt, thu hái, cũng như nghiên cứu về
các hoạt tính y dược, giá trị dinh dưỡng… đa số các nghiên cứu được thực hiện ở
Ấn Độ, Philippines và Châu Phi. Theo nghiên cứu tại Đại học Nông nghiệp
Falsalabad – Pakistan: Moringa oleifera vừa là nguồn gốc dược liệu vừa là nguồn
thực phẩm rất tốt. Các bộ phân của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng và là
nguồn gốc cung cấp chất đạm, vitamin, beta-caroten, axit amin và nhiều hợp chất
phenol…
Nghiên cứu tại Institute of Bioagricultural Sciences, Academica, Đài Bắc: dịch
chiết từ lá và hạt chùm ngây có các hoạt tính diệt nấm gây bệnh loại Trichophyton
rubrum, Trichophyton mentagrophyltes…, dầu trích từ lá chùm ngây có đến 44 hóa
chất.
* Nghiên cứu về chống tăng huyết áp, lợi tiểu và giảm cholesterol
Các hợp chất trong cây chùm ngây rất có giá trị trong việc điều trị tim mạch vì
chúng có khả năng trị bệnh tăng huyết áp và giảm mỡ trong máu, ngoài ra còn có
tác dụng lợi tiểu. Dịch chiết từ lá chùm ngây có tác dụng ổn định áp suất trong máu
(Tạp chí sức khỏe Ấn Độ, 1962; Dahot, 1988). Các hợp chất nitrile, glycoside
thiocarbamate được phân lập từ lá chùm ngây có tác dụng hạ huyết áp (Faizi và
cộng sự, 1995) và hầu hết các hợp chất này rất hiếm trong tự nhiên. Một nghiên cứu
khác các phân đoạn trên cao EtOH của quả chùm ngây, trích ly được các glycoside
thiocarbamate và isothiocyanate có tác dụng hạ huyết áp (Faizi và cộng sự, 1995).
[14]
* Nghiên cứu về chống co thắt, chống loét và bảo vệ gan
Gilani cùng cộng sự (1992, 1994) công bố lá chùm ngây có nhiều tác dụng dược
lý, hợp chất 4-[α-(L-rhamnosyloxy) benzyl]-O-methylthiocyanate trích từ dịch chiết



12

EtOH còn là thành phần trong thuốc chống co thắt với nguyên nhân tắc nghẽn là các
hạt sỏi của các hợp chất canxi. Pal và cộng sự (1995) công bố cao EtOH của lá
chùm ngây có tác dụng chống lở loét và có chức năng bảo vệ gan trên chuột, dịch
chiết nước lá chùm ngây cũng có khả năng chống lở loét. Ruckmani và cộng sự
(1998) cũng nghiên cứu cho thấy rễ chùm ngây có chức năng bảo vệ gan. Ngoài ra,
dịch chiết EtOH và nước của hoa chùm ngây cũng có tác dụng trị các bệnh lý về
gan do chúng có chứa Quercetin, một flavonoid có hoạt tính sinh học mạnh.[14]
* Nghiên cứu về trị khối u và chống ung thư
Makonnen cùng cộng sự (1997) đã công bố lá chùm ngây chứa nhiều thành phần
có khả năng trị khối u. Đó là các hợp chất O-ethyl-4-(α-L-rhamnosyloxy)benzyl
carbamate, 4-(α-L-rhamnosyloxy)benzylisothiocyanate, Niazimicin, 3-O-(6'-Ooleoyl-β-D-glucopyranosyl)-β-sitosterol đã được thử nghiệm in vitro cho kết quả là
chúng có khả năng ức chế đáng kể virut kháng nguyên sớm Epstein Barr. Song song
đó, Guevara cùng cộng sự (1999) cũng đã đề xuất Niazimicin là một chất có khả
năng phòng ngừa ung thư hiệu quả. Bharali cùng cộng sự (2003) đã nghiên cứu dịch
chiết hạt chùm ngây cho thấy khả năng chuyển hóa enzyme chống ung thư gan,
chống oxi hóa và chống ung thư da ở chuột. [14]
S. Sreelatha & P. R. Padma đã thử nghiệm hoạt tính chống oxi hóa và xác định
tổng hàm lượng poliphenol và tổng hàm lượng flavonoid từ dịch chiết nước từ lá
cây chùm ngây. Hàm lượng poliphenol trong lá già và lá non tương ứng là 45.81
mg/g và 36.02 mg/g trong dịch chiết nước và hàm lượng flavonoid tổng trong lá già
và lá non tương ứng là 27 mg/g, 15 mg/g.[20]
Kawo, A.H. cùng cộng sự xác định hạt chùm ngây chứa 18.63% protein, 322.9
mg/100 g tanin, 8.24 mg/100 g alkaloid, 9.13% saponin.[16]
* Nghiên cứu về khả năng lọc nước
Nghiên cứu tại đại học Jiwaji, Gwalior (Ấn Độ) cho thấy rằng: Hạt chùm ngây
có chứa một hợp chất “đa điện giải” (polyetronlytes) tự nhiên có thể dùng làm chất
kết tủa để làm trong nước. Kết quả lọc nước: Nước đục (độ đục 15-25 NTU, chứa
các vi khuẩn tạp 280-500 cfu ml -1) dùng hạt chùm ngây làm chất tạo trầm lắng và



13

kết tụ, đưa đến kết quả rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU, vi khuẩn tạp còn 5 - 20 cfu
ml-1). Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo
và được áp dụng rộng rãi tại Ấn Độ.
1.4.2. Tại Việt Nam
Trong những năm gần đây, tại Việt Nam bắt đầu có những nghiên cứu tập trung
vào đối tượng chùm ngây, chủ yếu là các nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt
tính sinh học, tác dụng dược lý, nhằm có những biện pháp nghiên cứu, chế biến và
sử dụng hiệu quả đối tượng này. Trong số đó, một số công trình nghiên cứu nổi bật
đã được công bố:
Đại học Y dược TP.HCM, 2011, cũng đã có công trình nghiên cứu về tác dụng
chống oxi hóa và bảo vệ gan của các dạng cao chiết từ lá cây chùm ngây. Kết quả
cho thấy, cao lá chùm ngây trồng tại Việt Nam có khả năng chống oxi hóa và bảo vệ
gan.
Trung tâm Sâm và dược liệu TP. HCM, 2010 đã khảo sát được trong lá chùm
ngây có những hợp chất là chất béo, tinh dầu, carotenoid, flavonoid, tannin, axit
hữu cơ.
Lương y Nguyễn Công Đức - giảng viên khoa Y học cổ truyền (ĐH Y Dược,
TP.HCM), cho biết: Chùm ngây được dùng chữa các bệnh như: trị u xơ tiền liệt
tuyến - bằng cách, dùng 100 gam rễ chùm ngây tươi và 80 gam lá trinh nữ hoàng
cung tươi (hoặc dùng rễ chùm ngây khô 30 gam và lá trinh nữ hoàng cung khô 20
gam). Đem nấu với 2 lít nước, nấu còn lại nửa lít thuốc, uống ấm 3 lần trong ngày;
trị suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, giúp ổn định huyết áp, ổn định đường
huyết, bảo vệ gan - bằng cách, mỗi ngày dùng 150 gam lá chùm ngây non rửa sạch,
giã nát, thêm 300 ml nước sạch vắt lấy nước cốt (hoặc dùng máy xay sinh tố), thêm
2 muỗng canh mật ong trộn đều, chia uống 3 lần dùng trong ngày; trị tăng
cholesterol, tăng lipid máu, tăng triglyxerid, hoặc làm giảm axit uric, ngăn ngừa sỏi

oxalate - bằng cách, mỗi ngày dùng 100 gam rễ chùm ngây tươi (hoặc 30 gam khô)
rửa sạch, nấu với 1 lít nước, nấu sôi 15 phút, để uống cả ngày. Ngoài ra, chùm ngây
còn có công dụng ngừa thai, đây là loại cây được đồng bào người Raglay dùng làm


14

thuốc ngừa thai - cứ 5 ngày thì dùng 2 nắm rễ cây chùm ngây còn tươi (150 gam)
rửa sạch băm nhỏ nấu với 2 lít nước, nấu còn nửa lít thuốc, chia uống 2 lần trong
ngày. Phụ nữ Raglay trong tuổi sinh đẻ nếu uống nước sắc rễ chùm ngây thì sẽ
không có thai. Tuy nhiên, cần lưu ý, phụ nữ đang có thai thì không được dùng cây
chùm ngây.
Nghiên cứu tại Đại học Kỹ thuật công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy
hạt cây chùm ngây trồng và thu hái ở Việt Nam có khả năng làm giảm trên 80% độ
đục của nước nhân tạo, ngay cả khi độ đục ban đầu chỉ là 50 NTU. Trong giới hạn
khảo sát, nước càng đục thì hiệu quả giảm độ đục của hạt chùm ngây càng cao ở
cùng một ngưỡng nồng độ hạt chùm ngây, và nồng độ tối ưu cần sử dụng của dịch
chiết chùm ngây gần như tuyến tính với độ đục ban đầu của nước cần xử lý. Khi sử
dụng hạt chùm ngây để thực hiện quá trình keo tụ với nước sông, hiệu quả giảm độ
đục đạt được khoảng 50% đối với nước đục trung bình (44 NTU) nhưng lên tới 76%
với nước đục nhiều (170 NTU).[11]
 Nhận xét:
Trước đây khi chưa có sự xuất hiện của y học hiện đại, các phương thuốc và
cách thức điều trị bệnh hoàn toàn xuất phát từ thảo dược. Người ta ước tính trên thế
giới khoảng 80% dân số sống ở các vùng nông thôn vẫn đang sử dụng đa dạng các
nguồn thực vật để chữa bệnh trong đó có cây chùm ngây.
Ngày nay, có nghiều công trình nghiên cứu về thành phần cũng như tác dụng của
cây chùm ngây trên thế giới đối với sức khỏe con người. Qua các công trình nghiên
cứu chúng ta càng thấy rõ hơn giá trị của loài cây này, từ đó mở ra khả năng khai
thác hiệu quả loài cây này trong y học hiện đại để bào chế các dạng thuốc chữa

bệnh hoặc thực phẩm chức năng có lợi cho sức khỏe con người.
1.5. KHÁI QUÁT VỀ VI KHUẨN
1.5.1. Vi khuẩn Bacillus subtilis
Bacillus subtilis (B.subtilis) được Ferdinand Cohn mô tả và đặt tên năm 1872.
Về cơ bản theo phân loại, Bacillus subtilis thuộc:


15

Giới: Bacteria
Ngành: Firmicutes
Lớp: Bacilli
Bộ: Bacillales
Họ: Bacillaceae
Chi: Bacillus
Hình 1.10. Vi khuẩn Bacillus subtilis
1.5.1.1. Đặc điểm phân bố
Vi khuẩn Bacillus subtilis thuộc nhóm vi sinh vật bắt buộc ở đường ruột, chúng
được phân bố hầu hết trong tự nhiên như: cỏ khô, bụi, đất nước, không khí, xác và
bã thực vật bị thối rửa. Bacillus subtilis hiện diện trong đất với số lượng phổ biến là
106-107 CFU/g. Vi khuẩn này có khả năng sinh bào tử để chịu đựng các điều kiện
khắc nghiệt và những thay đổi bất lợi của môi trường sống, thông thường có khoảng
60% số lượng Bacillus subtilis trong đất tồn tại ở dạng này. Đất nghèo dinh dưỡng,
đất hoang thì Bacillus subtilis rất hiếm. Nước, bùn ở cửa sông cũng như nước biển
có sự tồn tại của bào tử cũng như tế bào sinh dưỡng Bacillus subtilis.[9]
1.5.1.2. Đặc điểm hình thái
Bacillus subtilis là trực khuẩn nhỏ, hai đầu tròn, bắt màu tím Gram dương, kích
thước 0.5-0.8 µm x 1.5-3 µm, đứng đơn lẻ hay tạo thành chuỗi ngắn. Vi khuẩn có
khả năng di động, có 8-12 tiêm mao, sinh bào tử hình bầu dục nhỏ hơn tế bào vi
khuẩn và nằm giữa tế bào.

Bào tử Bacillus subtilis phát triển bằng cách nảy chồi do sự nứt của vỏ, không
kháng axit, có tính chịu nhiệt, chịu ẩm, tia tử ngoại, phóng xạ.[9]
1.5.1.3. Đặc điểm nuôi cấy
Bacillus subtilis là vi khuẩn hiếu khí nhưng có khả năng phát triển trong môi
trường thiếu oxi, nhiệt độ tối ưu 37oC. Bacillus subtilis thích hợp nhất với pH từ 6.8
– 7.4.
Môi trường thạch đĩa TSA: khuẩn lạc có dạng hình tròn, rìa răng cưa không đều,
có tâm sẩm màu, phát triển chậm, màu vàng xám, đường kính 3-5 mm. Sau 1-4
ngày bề mặt nhăn nheo màu hơi sẩm.


16

Môi trường thạch nghiêng TSA: dễ mọc, tạo thành màu xám, rìa gợn sóng.
Môi trường canh TSB: Bacillus subtilis phát triển làm đục môi trường, tạo màng
nhăn, lắng cặn kết lại như vần mây ở đáy, khó tan khi lắc đều lên.
1.5.1.4. Vai trò của vi khuẩn Bacillus subtilis
Bacillus subtilis tồn tại khắp nơi trong tự nhiên. Tính dễ sống, dễ tồn tại cũng là
lợi thế sử dụng Bacillus subtilis sản xuất chế phẩm sinh học. Trong quá trình hình
thành bào tử, Bacillus subtilis thường sản sinh những chất có hoạt tính sinh học,
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Verschuers (2000) đã nghiên cứu và công bố vi
khuẩn Bacillus subtilis đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện chất lượng nước
do vi khuẩn này đạt hiệu quả cao trong việc chuyển đổi vật chất hữu cơ thành CO 2.
Do vậy, Bacillus subtilis làm giảm tích lũy chất hữu cơ và các chất hòa tan (Phạm
Thị Tuyết Ngân, 2007). Vi khuẩn Bacillus subtilis dùng để làm sạch môi trường nhờ
khả năng sinh các enzyme (proteaza, amylaza, xenlulaza) phân huỷ các hợp chất
hữu cơ và kiểm soát sự phát triển quá mức của vi sinh vật gây bệnh do cơ chế cạnh
tranh dinh dưỡng, giữ môi trường luôn ở trạng thái cân bằng sinh học.[9]
1.5.2. Vi khuẩn Escherichia coli
Escherichia coli (E.coli) được tìm thấy bởi bác sĩ nhi khoa Theodor Escherich

qua những thí nghiệm lâm sàng về bệnh tiêu chảy năm 1885 . Escherichia coli thuộc
phân loại khoa học sau:
Vực: Bacteria
Ngành: Proteobacteria
Lớp: Gamma Proteobacteria
Bộ: Enterobacteriales
Họ: Enterobacteriaceas
Chi: Escherichia
Loài: E.coli

Hình 1.11. Vi khuẩn Escherichia coli

1.5.2.1. Đặc điểm hình thái
Vi khuẩn E.coli là một trực khuẩn hình gậy ngắn, bắt màu gram âm, có kích
thước 2-3 µm x 0.3-0.6 µm; ở môi trường nuôi cấy, trong canh khẩn giả, xuất hiện


17

những trực khuẩn dài 4-8 µm. Trong cơ thể người và động vật, vi khuẩn thường có
hình cầu trực khuẩn, đứng riêng lẻ, đôi khi xếp thành chuỗi ngắn. Phần lớn vi khuẩn
E.coli có khả năng di động do có lông ở xung quanh thân, không sinh nha bào, có
thể có giáp mô. Nếu lấy vi khuẩn từ khuẩn nhầy để nhuộm, có thể thấy giáp mô,
nhưng khi soi tươi thường không nhìn thấy được.[9]
1.5.2.2. Đặc điểm nuôi cấy
Vi khuẩn E.coli là trực khuẩn hiếu khí và yếm khí tùy tiện, có thể sinh trưởng ở
phổ nhiệt độ khá rộng (từ 5-40oC), nhiệt độ thích hợp nhất là 37 oC và phổ pH rộng
từ 5.5-8.0.
Vi khuẩn E.coli phát triển dễ dàng trên các môi trường nuôi cấy thông thường.
Khi nuôi cấy trên các môi trường, để trong tủ ẩm ở 37 oC và sau 24 giờ vi khuẩn sẽ

phát triển:
Môi trường thạch thường: Hình thành những khuẩn lạc tròn, ướt, bóng láng,
không trong suốt, màu tro trắng nhạt, hơi lồi, đường kính từ 2-3 mm, nuôi lâu, lạc
khuẩn có màu nâu nhạt và mọc rộng ra.
Môi trường nước thịt: Phát triển rất nhanh, tốt, môi trường đục, để có lắng cặn
màu tro nhạt ở dưới đáy, đôi khi có màu xám nhạt, canh trùng có mùi phân thối.
Môi trường MacConkey: Khuẩn lạc có màu hồng cánh sen, tròn nhỏ, hơi lồi,
không nhầy, rìa gọn, không làm chuyển màu môi trường.
Môi trường thạch máu: Khuẩn lạc to, ướt, lồi, viền không gọn, màu xám nhạt.
1.5.2.3. Khả năng gây bệnh của E.coli
E.coli là thành viên thuộc nhóm vi khuẩn hệ bình thường của đường tiêu hóa,
chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các vi khuẩn hiếu khí (khoảng 80%). Trong điều kiện
bình thường, E.coli cư trú thường xuyên ở phần sau của ruột, khi có trong dạ dày
hay đoạn đầu ruột non của động vật. Khi gặp điều kiện thuận lợi, chúng phát triển
nhanh về số lượng, độc lực, gây loạn khuẩn, bội nhiễm đường tiêu hóa và nguyên
nhân gây bệnh tiêu chảy. E.coli cũng là 1 vi khuẩn gây một số bệnh như: viêm
đường tiết niệu, viêm đường mật; đứng hàng đầu trong các căn nguyên gây nhiễm
khuẩn huyết. E.coli là căn nguyên thường gặp trong viêm màng não, viêm phổi ở trẻ


18

em mới sinh. E.coli còn gặp trong nhiễm trùng ngoại khoa, nhiễm trùng trong bỏng.
[9]


19

CHƯƠNG 2
NGUYÊN


LIỆU



PHƯƠNG

PHÁP

NGHIÊN

CỨU

2.1. NGUYÊN LIỆU, HÓA CHẤT, THIẾT BỊ NGHIÊN CỨU
2.1.1. Thu gom nguyên liệu
Mẫu lá và hạt chùm ngây được thu hái tại xã Tam Đàn, huyện Phú Ninh, tỉnh
Quảng Nam.

Hình 2.1. Lá chùm ngây

Hình 2.2. Hạt chùm ngây

2.1.2. Xử lý nguyên liệu
Mẫu lá chùm ngây sau khi thu hái được xử lí sơ bộ bằng cách loại bỏ lá sâu, hư,
rửa sạch, phơi khô trong bóng râm. Sau đó, lá được sấy trong tủ sấy đến khô ở nhiệt
độ 50oC, xay nhỏ và bảo quản trong bình thủy tinh kín.
Mẫu hạt chùm ngây sau khi thu hái, tách lấy hạt, phơi 3 nắng, sau đó tách vỏ
cứng, nhân hạt sấy khô trong tủ sấy ở 50 oC trong nhiều giờ rồi xay nhỏ và bảo quản
trong bình thủy tinh kín.



20

Hình 2.3. Lá chùm ngây phơi khô

Hình 2.5. Nhân hạt chùm ngây

Hình 2.4. Bột lá chùm ngây

Hình 2.6. Bột hạt chùm ngây

2.1.3. Hóa chất, dụng cụ và thiết bị nghiên cứu
2.1.3.1. Hóa chất
a. Lựa chọn dung môi chiết
Chọn dung môi phải không hoặc ít độc, không quá dễ cháy, hòa tan được các
chất cần khảo sát, phù hợp với phương pháp mà ta tiến hành phân tích (với phương
pháp GC-MS ta phải chọn dung môi dễ bay hơi và ít phân cực…), phù hợp với điều
kiện kinh tế và phải thông dụng, phù hợp với điều kiện phòng thí nghiệm, dung môi
có thể loại bỏ một cách dễ dàng sau khi chiết tách.
Bảng 2.1. Các dung môi có độ phân cực tăng dần tùy vào hằng số điện môi và
độ nhớt

Tên dung môi

Chỉ

Chỉ số

Nhiệt


Hằng số

Độ

Bước

Độ tan

số

chiết

độ sôi

điện môi

nhớt

sóng

trong

phân

xuất

(oC)

ε (ở


(mN.S

hấp

nước

cực

(20oC)

25oC)

.m-2)

thu

(%W/
W)
0.004
0.001
0.0003
0.01
0.08
0.51

Pentan
Hexan
Heptan
Cyclohexan
Carbon


0.0
0.0
0.0
0.2
1.6

1.358
1.375
1.387
1.426
1.466

36
69
98
81
77

1.90
2.0
2.2

0.23
0.33
0.39
1.00
0.97

UV

200
200
200
200
263

tetraclorur
Toluene

2.4

1.496

111

2.38

0.59

285


21

Xylen
2.5
Benzene
2.7
Dietyl eter
2.8

Diclorometan
3.1
Isopropanol
3.9
Butanol
3.9
Tetrahydrofuran
4.0
Propanol
4.0
Butyl axetat
4.0
Chloroform
4.1
Etyl axetat
4.4
Metyl etylceton
4.7
Dioxan
4.8
Aceton
5.1
Methanol
5.1
Ethanol
5.2
Acetonitrile
5.8
Axit axetic
6.2

Dimetylformami
6.4
Dimetylsulfoxid
7.2
Nước
9.0
Các số liệu trong bảng

1.500
1.501
1.353
1.424
1.399
1.399
1.407
1.384
1.394
1.446
1.372
1.379
1.422
1.359
1.329
1.360
1.244
1.372
1.432
1.478
1.333
cho thấy có


139
80
35
41
118
118
65
92
125
61
77
80
101
56
65
78
82
118
155
189
100
sự chênh

0.61
2.3
0.65
4.34
0.32
8.9

0.44
2.98
2.98
7.58
0.55
20.1
2.27
0.73
4.87
0.57
6.0
0.45
0.45
2.2
1.54
20.7
0.32
33.6
0.6
24.3
1.2
37.5
0.37
62
1.26
0.92
4.7
2.00
78.5
1.0

lệch trong thứ tự

290
0.018
280
0.18
220
6.89
235
1.6
215
7.81
215
7.81
215
100
210
100
254
0.81
254
0.81
260
8.7
329
24
215
100
330
100

205
100
210
100
190
100
230
100
368
100
268
100
200
100
sắp xếp độ phân

cực của dung môi.
b. Dung môi sử dụng
Khảo sát thành phần hợp chất hữu cơ trong lá và hạt chùm ngây cần chiết bằng
các dung môi có độ phân cực khác nhau. Trong đề tài, quá trình chiết tách sử dụng
các dung môi chiết có độ phân cực tăng dần gồm:
+ n-hexan: C6H14, M = 86.16 g/mol, chất lỏng không màu, không tan trong nước,
có khối lượng riêng D = 0.6548 g/ml,

= -95oC,

= 69oC.

+ Diclometan: CH2Cl2, M = 84.93 g/mol, chất lỏng không màu, độ hòa tan trong
nước 1.3 g/ml ở 20oC, khối lượng riêng D = 1.3255 g/ml,


= - 96.7oC,

= 41oC.

+ Etyl axetat: C4H8O2, M = 88.11 g/mol, chất lỏng không màu, độ hòa tan trong
nước 8.3 g/ml ở 20oC, khối lượng riêng D = 0.8897 g/ml,

= -84oC,

= 77oC.


22

+ Ethanol: C2H6O, M = 46.07 g/mol, chất lỏng không màu, tan hoàn toàn trong
nước, khối lượng riêng D = 0.789 g/ml,

= -114.3oC,

= 78oC.

Ngoài ra còn một số hóa chất khác.
Các hóa chất có nguồn gốc Trung Quốc.
2.1.3.2. Dụng cụ, thiết bị nghiên cứu
- Máy quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) tại Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn
Đo lường Chất lượng II (quatest II), số 2 Ngô Quyền – Đà Nẵng.
- Thiết bị đo sắc ký ghép khối phổ (GC-MS) tại Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn
Đo lường Chất lượng II (quatest II), số 2 Ngô Quyền – Đà Nẵng.
- Thiết bị đo sắc ký ghép khối phổ (GC-MS) tại Trung tâm hóa dầu, khoa Hóa

học, trường Đại học Khoa Học Tự Nhiên Hà Nội.

Hình 2.7. Hệ thống sắc ký khí khối phổ GC-MS
- Tủ sấy (hình 2.8), Lò nung (hình 2.9).


23

Hình 2.8. Tủ sấy

Hình 2.9. Lò nung

- Bếp cách thủy (hình 2.10), Máy cô quay chân không (hình 2.11).

Hình 2.10. Bếp cách thủy

Hình 2.11. Máy cô quay chân không

- Hai bộ chiết soxhlet.
- Cân phân tích.
- Nồi hấp, tủ cấy vô trùng tại phòng thí nghiệm vi sinh, khoa Sinh, trường Đại
học Sư Phạm - Đại học Đà Nẵng.
Ngoài ta còn có các dụng cụ khác: bình tam giác, cốc thủy tinh, chén sứ, đĩa
petri, pipet, ống đong, bình hút ẩm, giấy lọc,…
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Xác định các thông số vật lý
2.2.1.1. Xác định độ ẩm
a. Nguyên tắc



24

Nguyên liệu ẩm có thể xem như hỗn hợp cơ học gồm chất khô tuyệt đối và nước
tự do. Độ ẩm tương đối của nguyên liệu ẩm là tỉ số của khối lượng nước trên khối
lượng chung của nguyên liệu ẩm, tính bằng phần trăm.
Độ ẩm của nguyên liệu phải nằm trong giới hạn cho phép để đảm bảo nguyên
liệu không bị mốc hay hư hỏng, thông thường độ ẩm an toàn của nguyên liệu được
quy định không quá 13%. Do đó, có thể xác định độ ẩm bằng cách:
- Sấy trong tủ sấy ở áp suất thường.
- Sấy trong tủ sấy có áp suất giảm (có hút chân không).
- Sử dụng bình hút ẩm.
Trong đề tài này dùng tủ sấy để sấy, dùng sức nóng làm bay hơi hết hơi nước
trong mẫu. Cân trọng lượng mẫu trước và sau khi sấy khô, từ đó tính được phần
trăm nước có trong mẫu.
b. Tiến hành
Lấy 3 chén sứ rửa sạch và ký hiệu sẵn, sấy trong tủ sấy đến khối lượng không
đổi. Sấy xong cho vào bình hút ẩm để nguội đến nhiệt độ phòng, rồi đem cân chén
sứ, ghi giá trị m1 (gam).
Xác định độ ẩm lá chùm ngây:
+ Lấy vào 3 chén sứ, mỗi chén m (gam) bột lá chùm ngây.
+ Sau đó, sấy trong tủ sấy ở nhiệt độ 100 oC. Cứ 3 giờ, lấy cốc ra cho vào bình
hút ẩm đến khi cốc nguội đến nhiệt độ phòng thì tiến hành cân. Và cứ tiếp tục thực
hiện thao tác trên cho đến khi khối lượng giữa hai lần cân liên tiếp có sai số không
quá 0.001 gam. Cân cốc chứa mẫu m2 (gam).
c. Tính toán
Độ ẩm bột lá chùm ngây được tính bằng công thức:

Trong đó, w: Khối lượng nước chứa trong nguyên liệu (%)
m: Khối lượng của nguyên liệu (gam)
m1: Khối lượng chén sứ (gam)

m2: Khối lượng nguyên liệu và chén sứ sau khi sấy (gam)


25

Độ ẩm chung là độ ẩm trung bình của 3 mẫu.
Phương pháp này cũng dùng để xác định độ ẩm bột hạt chùm ngây.
2.2.1.2. Xác định hàm lượng tro
Tro là khối lượng còn lại sau khi nung cháy hoàn toàn một mẫu thử trong điều
kiện nhất định.
Để xác định hàm lượng hữu cơ tổng và các nguyên tố vô cơ trong cơ thể động
thực vật người ta dùng phương pháp tro hóa mẫu.
a. Nguyên tắc:
* Phá hủy hợp chất hữu cơ bằng cách nung ở nhiệt độ (525 25)oC đến khối
lượng không đổi.
* Dụng cụ: Cốc sứ, bình hút ẩm, cân phân tích, lò nung.
b. Tiến hành:
- Các mẫu sau khi được xác định độ ẩm tiếp tục được đem đi tro hóa. Đem mẫu
đi than hóa trên bếp điện và cho vào tủ nung ở 200 oC trong khoảng 2 giờ, tiếp tục
nâng nhiệt độ lên 500oC tro hóa mẫu trong thời gian 4 giờ, nung xong lấy mẫu ra
khỏi lò, làm nguội trong bình hút ẩm, cân và ghi lại khối lượng chén nung và tro.
Tiếp tục cho cốc vào lò nung và thực hiện quá trình trên cho đến khi khối lượng
liên tiếp giữa hai lần cân chênh nhau không quá 0.001 gam thì dừng, ghi giá trị m 3
(gam).
Sau khi tro hóa lá chùm ngây hoàn toàn, lúc này tro ở dạng mịn, có màu xám
trắng.
c. Tính toán:
Hàm lượng tro được tính bằng công thức:

Trong đó:

m: Là khối lượng nguyên liệu (gam).
m1: Là khối lượng của chén sứ (gam).
m3: Là khối lượng của chén sứ và lá chùm ngây sau khi tro hóa (gam).


×