Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

sáng kiến một số biện pháp bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.05 KB, 13 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIẾT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số: ………………………………………...
Tên sáng kiến: Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh
lớp 2.
1. Lĩnh vực áp dụng: công tác chủ nhiệm
2. Mô tả bản chất của sáng kiến
2.1. Tình trạng giải pháp đã biết:
Mỗi giáo viên chủ nhiệm ai cũng muốn học sinh của mình ngoan và đạt kết
quả học tập cao. Để phát huy năng lực, phẩm chất của các em giáo viên cần nắm
bắt đầy đủ về đặc điểm tâm lý học sinh, những vấn đề mới trong giáo dục kết hợp
với kinh nghiệm bản thân để có phương pháp bồi dưỡng, uốn nắn hướng các em
vào hoạt động giáo dục có chủ định. Bồi dưỡng năng lực tự học và giải quyết vấn
đề không phải tập trung các em lại để dạy như bồi dưỡng học sinh giỏi Toán, Tiếng
Việt,...mà phải dần hình thành và phát triển cả một quá trình thông qua nhiều cách
theo hình thức thẩm thấu dần thói quen học tập, bằng việc trải nghiệm trong học
tập và ứng xử;
Nhưng năng lực tự học và giải quyết vấn đề của học sinh tiểu học hiện nay
như thế nào? Đa số các em vẫn thích chơi hơn học, các em có thói quen chờ đợi
các câu hỏi gợi ý hay lời hướng dẫn của thầy cô mới giải quyết được vẫn đề mà
không chịu khó suy nghĩ, tìm tòi cách giải quyết. Những học sinh vùng nông thôn
phần đông rất rụt rè, năng lực giao tiếp rất hạn chế. Hầu hết các em vẫn còn sợ áp
lực từ phía giáo viên. Khi hoạt động nhóm, chỉ một số em có năng lực hoạt động
còn những em học yếu chỉ hưởng thụ kết quả và thường bị các bạn bỏ rơi vì các em
không hiểu gì cả. Sau khi đi học về, các em chưa chủ động học bài và chuẩn bị bài
cho ngày hôm sau mà phải chờ người lớn hướng dẫn, nhắc nhở. Cụ thể là học sinh
lớp 2, các em còn quá nhỏ nên chưa quen với việc học tập nhóm. Tôi đã nhiều lần


tổ chức cho các em tham gia hoạt động nhóm nhưng khi chia nhóm tôi chưa nêu rõ


yêu cầu, không quy định thời gian, không nhắc các em chọn nhóm trưởng và thư
ký nên có một số học sinh còn lúng túng chưa hiểu cách làm bài, có nhóm không
có người điền, thư ký viết quá chậm….
Ưu điểm:
Học theo nhóm tạo ra môi trường hoạt động thân mật, cởi mở, sẵn sàn giúp đỡ
chia sẻ của mỗi cá nhân;
Tham gia hoạt động nhóm là cơ hội để các em phát triển kỹ năng giao tiếp;
Học sinh có tiến bộ trong học tập, các em tích cực phát biểu, thực hiện tốt nội
quy trường lớp.
Hạn chế:
Học sinh chưa có năng lực tự học thật sự, khó hoàn thành những nhiệm vụ mà
giáo viên yêu cầu;
Nhóm hoạt động chưa đạt hiệu quả, có thể không hoàn thành nhiệm vụ do
nhóm trưởng chưa có kĩ năng điều khiển, thư ký chưa nhạy bén;
Hầu hết các em chưa có ý thức suy nghĩ, tìm tòi để giải quyết vấn đề trong các
hoạt động học tập;
Một số học sinh chưa tích cực trong quá trình thảo luận, có thể phát sinh tình
trạng ganh đua, đối nghịch quá mức;
Nhiều học sinh không có ý thức tự học nên các em giỏi sẽ có ít thời gian để
tham khảo và tiếp cận kiến thức nâng cao vì có trách nhiệm giúp đỡ bạn gặp khó
khăn trong nhóm;
Học sinh thỏa mãn với thành tích hay tự ti, mặc cảm;
Phần đông các em khó hệ thống, nắm vững kiến thức vì có quá nhiều kiến
thức mới;
Mất nhiều thời gian cho tiết dạy vì các em chuẩn bị bài chưa tốt, không khí
lớp học trở nên nặng nề.
2


2.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:

Mục đích của giải pháp:
Cùng với Nghị quyết số 29 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là sự đổi mới cả về tư duy và
định hướng phát triển con người. Để đáp ứng nhu cầu lao động trong nước và hội
nhập quốc tế, chúng ta cần có một lực lượng lao động năng động về tư duy nhận
thức, khả năng ứng xử, thích ứng và xử lý công việc trong mọi môi trường. Để đạt
được điều đó, chúng ta cần nỗ lực phát huy những phẩm chất tốt đẹp của người
Việt Nam đồng thời phải học tập cách giáo dục và đào tạo của các nước tiên tiến
nhưng vẫn phát huy tối ưu phương pháp giáo dục truyền thống ta đã thực hiện;
Nhà tâm lí học Mĩ E. Toocđai cho rằng: “Tự nhiên ban cho mỗi người một
vốn nhất định, giáo dục cần phải làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử dụng nó
bằng phương tiện tốt nhất”. Việc bồi dưỡng năng lực tự học và tự giải quyết vấn đề
trong học tập là vấn đề quan trọng và rất cần thiết trong quá trình giảng dạy trong
giai đoạn hiện nay. Tôi nghĩ phương pháp giáo dục hay nhất không phải là phương
pháp “dạy” hay nhất mà là phương pháp “tổ chức hoạt động giáo dục” hay nhất.
Chính vì thế từ đầu năm học, tôi đã nghiên cứu và chủ động bồi dưỡng năng lực tự
học và tự giải quyết vấn đề; ý thức hợp tác trong học tập cho học sinh lớp 2 thông
qua mô hình dạy học nhóm.
Tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ:
Phương pháp dạy học có ý nghĩa quyết định đến khả năng thích ứng học tập của
học sinh đầu cấp tiểu học, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục
tiểu học. Mô hình dạy học mới (VNEN) thực hiện đổi mới phương pháp dạy học
theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, chuyển việc truyền thụ của giáo viên
thành việc hướng dẫn học sinh tự học, lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức
với hình thức làm việc theo cặp, nhóm, cá nhân nhưng học theo nhóm là chủ yếu.
Vì vậy, việc rèn cho học sinh tiểu học các kỹ năng hợp tác nhóm là rất cần thiết,
tạo điều kiện để các em có cơ hội giao lưu, học hỏi và giúp đỡ lẫn nhau; hình thành
3



và phát triển các năng lực và phẩm chất tốt đẹp góp phần giáo dục toàn diện nhân
cách cho học sinh;
Hoạt động nhóm theo mô hình VNEN có nhiều điểm khác với hoạt động
nhóm trong dạy học tích cực hiện hành. Hợp tác nhóm không phải là xếp các em
vào cùng một nhóm để cùng giải quyết một vấn đề khó, một câu hỏi khó mà học
nhóm trên cơ sở đảm bảo 9 vấn đề sau: học sinh được trải nghiệm, khám phá; tự
đọc thông tin, được biết yêu cầu và mục tiêu công việc; được làm việc cá nhân
dưới sự chỉ đạo của nhóm trưởng; được trao đổi, chia sẻ với bạn để hoàn thành
nhiệm vụ riêng; báo cáo kết quả riêng trong nhóm; được góp ý cho bạn; biết lắng
nghe bạn và sửa chửa hoặc tranh luận; có sự thống nhất chung trong nhóm; luôn tự
học có sự giúp đỡ của giáo viên.
Cách thực hiện giải pháp:
Nhà giáo dục người Nga AS.Makarencô nói: “Để có không khí làm việc thân
mật trong giờ lên lớp thì khi vào lớp giáo viên nên có bộ mặt rạng rỡ, nhiệt tình
nhìn toàn lớp để học trò ai cũng thấy được thầy đang quan tâm mình”. Từ thực tiễn
kinh nghiệm giảng dạy, tôi giúp các em hiểu được phải thay đổi cách học, biến
hoạt động học thành hoạt động khám phá, trải nghiệm. Giải pháp này được thực
hiện như sau:
Giải pháp kĩ thuật
Giáo viên sớm bồi dưỡng nhận thức, giúp các em hiểu được thế nào là
tự học và giải quyết vấn đề? Thế nào là hợp tác trong học tập? Đầu năm học,
tôi tổ chức cho các em thảo luận và trao đổi về để trả lời các câu hỏi dựa theo vốn
kiến thức sẵn có và sự hiểu biết của mình. Ngoài ra, tôi còn cung cấp tài liệu để các
em tự đọc, tự điều chỉnh nhận thức của mình về vấn đề trên. Tổ chức cho các em
trả lời trắc nghiệm để nhận biết: Tự học là tự đọc sách giáo khoa, tài liệu, các yêu
cầu học tập, tự thực hiện nhiệm vụ học cá nhân trên lớp, chủ động trao đổi với bạn
hoặc thầy cô để tự rút ra kiến thức mới, tự thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà, vận
dụng kiến thức giải quyết các yêu cầu học tập. Tự học vừa mang ý nghĩa củng cố,
trau dồi tri thức vừa có ý nghĩa mở rộng hiểu biết. Tự giải quyết vấn đề là tự

4


mình tìm tòi, khám phá, trải nghiệm, tìm kiếm sự trợ giúp kịp thời của bạn bè, giáo
viên hoặc người khác để lựa chọn cách giải quyết các vấn đề học tập và các vấn đề
trong cuộc sống; phát hiện những tình huống mới có liên quan tới bài học và tìm
cách giải quyết. Hợp tác trong học tập thể hiện qua các việc làm như: chia sẻ với
mọi người, trao đổi, tranh luận và lắng nghe các bạn, tranh thủ sự đồng thuận của
các bạn; cùng bổ sung, hỗ trợ cho nhau để giải quyết vấn đề. Sau khi thu được kết
quả, tôi đánh giá mức độ nhận thức của học sinh và tiếp tục giúp đỡ học sinh chưa
hiểu vấn đề;
Làm thế nào để hình thành động cơ học tập ở học sinh? Động cơ học tập
không tự có, cũng không được áp đặt từ bên ngoài mà phải hình thành dần dần
trong chính quá trình học sinh đi sâu vào chiếm lĩnh đối tượng học tập dưới sự tổ
chức của giáo viên. Tôi giúp học sinh hiểu rõ: học để làm gì? Học cái gì? Học tập
tốt sẽ có ích lợi và ý nghĩa như thế nào? Từ đó bồi dưỡng cho học sinh cách học
hiệu quả; trang bị cho học sinh tư duy sáng tạo, tư duy tổng hợp... Tôi luôn giao
việc vừa sức để mọi học sinh đều có cơ hội thành công. Thường xuyên biểu dương,
ghi nhận bất kì thành công trong học tập của học sinh; kiểm tra đôn đốc việc học
của học sinh. Nếu tổ chức thành công các tình huống dạy học (học sinh tự mình
phát hiện ra những điều mới lạ) và giải quyết hiệu quả các nhiệm vụ học tập tạo ấn
tượng tốt đẹp đối với việc học thì nhu cầu đối với tri thức khoa học dần được hình
thành ở học sinh;
Xây dựng nền nếp tự quản, tự học cho học sinh như thế nào? Đầu tuần, tất
cả học sinh đều được dự sinh hoạt dưới cờ nghe báo cáo, nhận xét đánh giá các
hoạt động trong tuần theo quy định của trường. Cuối tuần, có tiết sinh hoạt tập thể
nhằm đánh giá các hoạt động diễn ra trong tuần, giáo dục vai trò và nhiệm vụ của
mỗi học sinh trong việc xây dựng tập thể vững mạnh, hình thành một số kĩ năng
xây dựng tập thể, kĩ năng tổ chức, đánh giá, tự đánh giá... và định hướng các hoạt
động cho tuần tới. Đồng thời, qua giáo dục các ngày lễ lớn, tổ chức các hoạt động

văn hóa nghệ thuật cũng giúp học sinh vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Giải pháp ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật
5


Giáo viên bồi dưỡng cho các em cách giải quyết vấn đề một cách khoa
học. Muốn tự giải quyết vấn đề cần có sự hiểu biết khá đầy đủ về vấn đề. Nếu vội
vàng hay chủ quan dễ dẫn tới đưa ra quyết định sai lầm. Do vậy, trong mọi tình
huống: học tập, sinh hoạt, giao tiếp, vui chơi... tôi đều hướng dẫn các em thói quen
giải quyết theo các bước sau:
Bước 1: Cần hiểu rõ nguồn gốc của vấn đề
Bước 2: Phân tích vấn đề (chỉ ra trọng tâm của vấn đề)
Bước 3: Đơn giản hóa vấn đề
Bước 4: Nhìn nhận vấn đề (vấn đề đó khó hay dễ, đúng hay sai)
Bước 5: Chọn cách giải quyết
Bước 6: Đề ra mục tiêu (giải quyết vấn đề mất bao nhiêu thời gian, đạt được
bao nhiêu phần của vấn đề...)
Bước 7: Thực hiện
Bước 8: Đánh giá kết quả (kiểm chứng lại hiệu quả từ việc giải quyết vấn đề
mang lại).
Sau khi học sinh hiểu rõ cách giải quyết một vấn đề cụ thể, việc bồi dưỡng
thói quen tự học và tự giải quyết vấn đề là công việc hết sức cần thiết. Để làm được
điều này, giáo viên cần từ bỏ thói quen dạy học cũ, chủ động đổi mới phương pháp
dạy học kết hợp với việc tổ chức đa dạng các hoạt động giáo dục (ví dụ: vận dụng
kĩ thuật mảnh ghép, khăn phủ bàn, kĩ thuật sơ đồ tư duy...; phương pháp đóng vai,
trò chơi, nêu vấn đề, phương pháp bàn tay nặn bột...), ứng dụng công nghệ thông
tin và truyền thông trong giảng dạy để thu hút các em và phát huy năng lực của
mỗi học sinh. Giáo viên phải có lòng tin với học sinh, sẵn sàng giao việc và chấp
nhận khả năng, mức độ giải quyết không đồng đều giữa các em. Đối với học sinh
thực hiện các yêu cầu chưa nhanh nhẹn, thiếu chính xác, tôi nhẹ nhàng động viên,

trợ giúp và giao nhiệm vụ phù hợp với năng lực từng học sinh. Tôi không giảng
giải, hướng dẫn ngay sau khi nêu yêu cầu, không kết luận kiến thức một cách máy
móc, tuyệt đối; không làm thay học sinh những vấn đề phức tạp hay rất đơn giản.
6


Đặc biệt, tôi luôn chú ý đến các biểu hiện thể hiện năng lực tự học và giải quyết
vấn đề của từng học sinh để tiếp lửa giúp các em tự tin hơn. Trải nghiệm sáng tạo
được thực hiện lặp đi lặp lại các em sẽ nhanh nhẹn, điêu luyện và làm việc nhóm
có hiệu quả hơn;
Ví dụ: Vận dụng kĩ thuật mảnh ghép khi thực hiện bài tập 1 (Luyện từ và
câu bài Mở rộng vốn từ: từ ngữ về cây cối. Đặt và trả lời câu hỏi để làm gì?) Sử
dụng bài giảng Powerpiont trong tiết kể chuyện bài Quả tim khỉ, Bác sĩ Sói và tiết
luyện từ và câu bài từ ngữ về muông thú...
Giải pháp quản lý
Giải pháp tiếp theo là bồi dưỡng tinh thần hợp tác và phát huy vai trò
của cá nhân thông qua mô hình dạy học nhóm. Từ những ngày đầu năm, tôi lựa
chọn hình thức hợp lý để hình thành các nhóm học tập (mỗi nhóm khoảng 4 học
sinh) và sắp xếp vị trí của mỗi nhóm sao cho thuận lợi trong quá trình giảng dạy
nhưng không để học sinh ngồi quay lưng lên bảng lớp. Để nhóm hoạt động có hiệu
quả, tôi hướng dẫn học sinh hiểu rõ mục đích, yêu cầu của làm việc nhóm, xây
dựng các nhóm thành một tổ chức có người đứng đầu, thư ký và các thành viên.
Nhóm trưởng là học sinh có năng lực học tập tốt, nhanh nhẹn và nổi trội trong các
hoạt động để điều khiển hoạt động của nhóm. Thư ký là học sinh ghi chép nhanh
nhẹn, chữ viết rõ ràng, nhạy bén để ghi nhận lại kết quả làm việc của nhóm. Hàng
tháng, tùy tình hình của nhóm, giáo viên có thể thay đổi nhóm trưởng nhằm phát
huy khả năng của các thành viên. Điều quan trọng là giáo viên phải hướng dẫn cho
các em biết cách thức và nguyên tắc làm việc của nhóm. Nhóm tự học, tự quản
theo hướng kỉ luật, chất lượng, linh hoạt. Mỗi học sinh được giáo viên rèn kĩ năng
đọc, hiểu (hiểu các chỉ dẫn, các yêu cầu của hoạt động học tập), kĩ năng làm việc

cá nhân (tập trung suy nghĩ để hoàn thành nhiệm vụ, tự trình bày ý kiến cá nhân...),
kĩ năng làm việc hợp tác theo nhóm... Hoạt động nhóm được tiến hành như sau:
giáo viên phân nhóm, giao nhiệm vụ học tập, phát đồ dùng học tập cho các nhóm
và quy định thời gian. Nhóm trưởng nhận nhiệm vụ và thông báo cho tất cả các
thành viên trong nhóm đều nắm rõ yêu cầu, phân chia công việc; các thành viên bắt
7


đầu thực hiện các bước giải quyết vấn đề cá nhân; trao đổi khó khăn, chia sẻ trong
nhóm; trao đổi kết quả làm việc của cá nhân; thư ký ghi kết quả và thông qua cho
cả nhóm nghe; các thành viên lắng nghe và tranh luận; nhóm trưởng tâp hợp, kiểm
chứng kết quả cá nhân, nếu nhóm không thống nhất thì phát tín hiệu cứu trợ bằng
cách giơ tay; cuối cùng là nhóm trưởng báo cáo hoạt động của nhóm sau thảo luận
và trình bày kết quả;
Ví dụ: tổ chức hoạt động nhóm khi thực hiện bài tập 1 bài Mở rộng vốn
từ: từ ngữ về muông thú. Đặt và trả lời câu hỏi như thế nào? Giáo viên chia
nhóm, yêu cầu mỗi nhóm chọn 1 bạn làm nhóm trưởng điều khiển, 1 bạn làm thư
ký ghi nhận lại kết quả từng ý. Nhóm trưởng chỉ định mỗi bạn nêu ý kiến của mình
về thú dữ, nguy hiểm hay thú không nguy hiểm. Các bạn khác lắng nghe và góp ý,
nhóm trưởng chốt lại. Thư ký ghi nhận và đọc lại kết quả cho cả nhóm nghe (thú
dữ, nguy hiểm là gấu, báo, hổ...; thú không nguy hiểm là ngựa vằn, vượn, thỏ...);
Trong hoạt động nhóm, giáo viên là người tổ chức, giao nhiệm vụ (nêu rõ
mục tiêu, nhiệm vụ của từng nhóm), quan sát các nhóm làm việc, động viên,
khuyến khích tinh thần hợp tác giữa các thành viên; kịp thời ngăn chặn, uốn nắn
các biểu hiện tiêu cực (chưa tích cực tham gia, học sinh giỏi làm thay hoặc bỏ mặc
các bạn học yếu...), hỗ trợ (nếu cần thiết), tránh tình trạng sử dụng kết quả của một
bạn làm kết quả chung cho cả nhóm, kiểm tra đánh giá hiệu quả công việc.
Giải pháp tác nghiệp
Để tất cả các em đều tích cực trong các hoạt động học tập, tôi đã bồi dưỡng
hứng thú cho học sinh bằng cách tạo môi trường học tập thân thiện, không hình

thức hay áp đặt. Đó là xây dựng môi trường vật chất thân thiện trong trường học,
lớp học. Phòng học phải được trang hoàng đẹp mắt, bố trí sắp xếp các thiết bị khoa
học và hợp lý, tạo không gian thoải mái, nhẹ nhàng cho giáo viên và học sinh. Chỗ
làm việc của giáo viên ở vị trí có thể quan sát được hoạt động của toàn lớp, con
đường đến giúp đỡ học sinh là ngắn nhất. Bên cạnh đó, cần xây dựng môi trường
học tập thân thiện giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên có tác động giáo dục rất
lớn đối với học sinh tiểu học. Không những thế, giáo viên tiểu học còn là người có
8


uy tín tuyệt đối, là tượng trưng cho sự sáng suốt, chín chắn và ân cần... Vì thế, tôi
luôn trau dồi nâng cao năng lực sư phạm, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, xây
dựng uy tín cho mình để giáo dục tính tổ chức, lòng yêu lao động, thái độ tốt đối
với các giờ học ở học sinh. Trong các tình huống, tôi cố gắng kìm chế cảm xúc,
luôn vui tươi và thân thiện; lời nói ngọt ngào, gần gũi không xúc phạm học sinh;
quan tâm giúp đỡ, động viên, khen ngợi kịp thời; ân cần chỉ bảo khi học sinh
không hiểu; thúc đẩy động cơ học tập của các em. Khi đánh giá kết quả học tập của
học sinh, tôi đánh giá theo các tiêu chí: tính kỉ luật (tự lực, hợp tác, đúng thời gian,
đúng quy trình), các kĩ năng học tập (kĩ năng xác định chủ đề, mục tiêu, kĩ năng tổ
chức nhóm, kĩ năng chia sẻ, thảo luận, sàng lọc ý kiến...), chú ý khả năng vận dụng
vào các bài tập, đánh giá theo sự tiến bộ của từng học sinh, không so sánh học sinh
này với học sinh khác,... Giáo viên phải đặc biệt quan tâm những nhóm học sinh
kém thích ứng, động viên kịp thời những thành công dù nhỏ của các em để dần dần
hình thành lòng tự tin cho học sinh. Tiếp theo là xây dựng môi trường học tập thân
thiện giữa học sinh và học sinh, học sinh được bày tỏ ý kiến về những quyết định
có ảnh hưởng đến môi trường học tập thân thiện nhằm tạo động lực và niềm tin
cho các em đạt kết quả tốt trong học tập. Trong môi trường học tập thân thiện, học
sinh được phát huy tinh thần dân chủ, hợp tác, ý thức tập thể; giáo viên sẽ có nhiều
tình nguyện viên hỗ trợ trong lớp, giúp họ giảm bớt khối lượng công việc.
Giáo dục gia đình cũng có ảnh hưởng rất rõ đến khả năng thích ứng với hoạt

động học tập ở học sinh, nhất là học sinh lớp 1, 2. Vì vậy cần sử dụng giải pháp
tích cực phối hợp với gia đình để phát huy vai trò tự học và giải quyết các vấn
đề ở nhà. Sự chuẩn bị của gia đình cho học sinh cần chú ý cân đối cả hai mặt :
quan hệ xã hội và học tập.
Hiện nay có hai xu hướng lệch lạc cần khắc phục: học sinh sống trong gia
đình khá giả ít được chuẩn bị về nhân cách người học, học sinh nhà nghèo khó ít
được chuẩn bị về nề nếp, kĩ năng học tập nên thường lúng túng trong việc học.
Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay thì học sinh tiểu học phải học
2 buổi/ngày nên giáo viên không giao bài tập về nhà. Vậy thời gian ở nhà các em
sẽ làm gì? Các em chuẩn bị bài mới như thế nào? Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh
9


quản lý thời gian ở nhà của học sinh là việc tôi đã thực hiện. Phụ huynh cần tập
cho các em thói quen tự giác: sau khi đi học về các em cần vệ sinh cá nhân, làm
một số việc giúp gia đình phù hợp khả năng, vui chơi giải trí, ôn bài... Khi gia đình
quây quần bên nhau, phụ huynh nên gợi ý để các em chia sẻ về việc học ở lớp;
Đồng thời nên nhắc nhở các em xem lại nội dung bài đã học, nhớ lại những
lời dặn của giáo viên (rèn đọc, rèn viết chính tả, tập làm toán hay rèn chữ viết...).
Hướng dẫn học sinh tự học để nắm vững kiến thức sau giờ học trên lớp sẽ giúp các
em lưu giữ thông tin tốt hơn, có điều kiện củng cố, khắc sâu kiến thức, đồng thời
quá trình này còn giúp học sinh khái quát hóa kiến thức đã học. Nhắc học sinh ôn
tập thường xuyên để củng cố kiến thức (tôi giao nhiệm vụ ở nhà rõ ràng, cụ thể và
kiểm tra theo quy định để kịp thời uốn nắn những thiếu sót trong quá trình tự học ở
nhà);
Phụ huynh nắm vững cách hướng dẫn học sinh tự phục vụ và chăm sóc bản
thân, chuẩn bị bài cho bài học mới cho ngày học hôm sau (biết xem thời khóa biểu)
sẽ giúp các em hoàn thành tốt việc học tập. Những việc trên được thực hiện thường
xuyên sẽ rèn kỹ năng tự học, tự rèn và giải quyết vấn đề của mỗi học sinh, các em
sẽ có tâm thế tự tin khi đến lớp.

Sau khi nắm vững các giải pháp trên các em cần biết cách kiểm tra kết quả
của quá trình hoạt động vì vậy cần bồi dưỡng khả năng kiểm chứng cho các em.
Năm nay là năm thứ hai thực hiện đánh giá học sinh theo Thông tư 30 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, tôi đánh giá học sinh công bằng, đúng nguyên tắc, học sinh tự
đánh giá mình và được tham gia đánh giá bạn... Tôi uốn nắn các em có thói quen
kiểm tra bài làm thật kĩ, thư ký phải đọc lại kết quả làm việc cho cả nhóm nghe để
bổ sung chỉnh sửa kịp thời. Do đó, nếu học sinh có khả năng kiểm chứng thì việc
giải quyết vấn đề sẽ được rút ngắn và các em dễ tìm ra phương án khắc phục
khuyết điểm. Vì thế học sinh cần có thói quen kiểm tra, đánh giá kết quả trong quá
trình hoạt động nhóm.
Ví dụ: Dạy bài Tìm một số hạng trong một tổng (môn Toán). Học sinh
thực hiện tìm x trong phép tính x + 9 = 25. Sau khi tìm được x = 16, tôi hướng dẫn
10


các em thay số 16 vào vị trí chữ x, nếu phép tính phù hợp thì giá trị x vừa tìm là
đúng; nếu thay vào không phù hợp thì phải thực hiện lại để tìm kết quả đúng.
Các giải pháp trên được thực hiện đan xen, thường xuyên sẽ phát hiện những
học sinh tích cực tự học và giải quyết vấn đề, biết chia sẻ trong hoạt động nhóm để
tuyên dương và nêu gương cho các em khác noi theo và phát hiện những biểu hiện
chưa tự tin, tích cực để kịp thời khích lệ các em tiếp tục rèn luyện. Hơn thế, tôi kịp
thời tuyên dương những tiến bộ nhỏ sẽ là động lực phát huy năng lực tự học của
các em. Thưởng cho các em một trò chơi, một bài hát, bài thơ hay món quà hiện
vật...là cách thực hiện giải pháp khích lệ và tiếp sức đối với học sinh.
Giải pháp cuối cùng mà tôi vận dụng để rèn tính tự học cho học sinh là giáo
viên phải kiên trì động viên, khuyến khích, hỗ trợ để học sinh phát huy tính tự
học và giải quyết vấn đề; mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp và hợp tác. Rèn kỹ
năng tự học và giải quyết vấn đề không phải dễ đối với học sinh, nhất là học sinh
tiểu học. Hơn nữa không phải phụ huynh nào cũng chấp nhận phối hợp với giáo
viên. Khi học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ tự học ở nhà, tôi tuyên dương và nêu

gương để các bạn khác cố gắng thực hiện tốt. Tự học và giải quyết vấn đề là một
năng lực hết sức cần thiết không chỉ trong học tập mà còn ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống. Bồi dưỡng năng lực tự học là việc làm lâu dài, cần kiên trì, nhẫn
nại và thường xuyên rút kinh nghiệm để có cách hướng dẫn học sinh tốt hơn. Tục
ngữ có câu: “Có công mài sắt, có ngày nên kim” do đó dưới sự hướng dẫn, hỗ trợ
và động viên sẽ hình thành dần năng lực tự học và giải quyết vấn đề cho mỗi học
sinh và đó là cơ sở để các em phấn đấu và nhanh chóng tiến bộ trong học tập.
2.3. Khả năng áp dụng của giải pháp:
Trong công tác chủ nhiệm, tôi đã và đang áp dụng có hiệu quả một số biện
pháp nêu trên cho lớp của mình và có thể áp dụng trong giờ sinh hoạt lớp của tất cả
các khối lớp trong trường Tiểu học của huyện.
2.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp:
11


Thực hiện giải pháp trên, giáo viên thể hiện sự gần gũi với các em, được học
sinh yêu quý và tin tưởng hơn. Trong quá trình giảng dạy, giao tiếp với phụ huynh
và trò chuyện với các em, tôi nhận ra học sinh tự giác thực hiện các nhiệm vụ học
tập ở nhà, biết tự chuẩn bị đồ dùng học tập và tìm hiểu bài cho ngày học hôm sau.
Tiết học nhẹ nhàng thu hút tất cả học sinh, không mất nhiều thời gian cho các hoạt
động. Tinh thần đoàn kết, ý thức tự quản và kĩ năng hợp tác giữa các học sinh có
sự thay đổi rõ rệt, các em đều chăm ngoan và thực hiện tốt 5 nhiệm vụ học sinh;
Mỗi học sinh đều có khả năng điều hành hoạt động nhóm, các em nhút nhát
bước đầu tự tin hơn khi giao tiếp và mạnh dạn giải quyết công việc, không còn tự
ti, mặc cảm, biết chia sẻ hiểu biết trong hoạt động nhóm. Hầu hết các em tích cực
tham gia các hoạt động học tập, hạn chế làm việc riêng trong giờ học và đều cố
gắng giải quyết để hoàn thành nhiệm vụ;
Nhóm học tập đạt kết quả cao hơn, các em tự tin hơn khi giao tiếp với mọi
người. Kết quả học tập của từng học sinh có bước chuyển rõ rệt: những học sinh

yếu đầu năm viết chưa đúng nhiều lỗi chính tả trong bài đến thời điểm này các em
chỉ viết sai 1, 2 lỗi; học sinh đọc bài chậm, chưa đúng nhiều từ, các em đã đọc trôi
chảy, tự tin hơn rất nhiều; kỹ năng tính toán của các em cũng nhanh nhẹn và cẩn
thận hơn so với đầu năm.
Bài học kinh nghiệm:
Giáo viên cần quan tâm đều khắp học sinh trong quá trình giảng dạy;
Từ đầu năm, cần quy định cụ thể nội quy trường lớp, nguyên tắc làm việc
trong nhóm;
Giáo viên chuẩn bị nội dung đầy đủ và phong phú cho các em thảo luận;
Những tháng đầu năm học phải chọn nhóm trưởng thật sự có khả năng quản
lí, điều hành nhóm, thư ký viết rõ ràng và nhanh nhạy;
Tạo không khí thoải mái, vui tươi trong mọi tiết học sẽ giúp học sinh dễ tiếp
thu bài và mau tiến bộ;
Kịp thời động viên khen thưởng những cố gắng và tiến bộ của học sinh;
12


Tôi sẽ không ngừng phấn đấu, học hỏi và sáng tạo, sử dụng phương pháp
phù hợp trong từng phân môn để rèn thói quen tự học và kỹ năng giải quyết vấn đề
cho học sinh cũng như nâng cao chất lượng giáo dục.
3. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu:
Đề tài đã được triển khai trong đơn vị và đã được tập thể giáo viên của
trường trực tiếp áp dụng. Theo phản hồi, kết quả thu được đúng như mục đích
nghiên cứu của đề tài đã đề ra.
…………………., ngày 10 tháng 4 năm 2016
Người viết

.............................................

13




×