Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

sáng kiến một số biện pháp dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.49 KB, 14 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số: ………………………………………………
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng
đổi mới
2. Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục tiểu học
3. Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết
Phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các phân
môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản,
đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng,
thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy, trao đổi tư tưởng, tình cảm,
quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống.
Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức
cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn
Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn lớp 3 nói rêng. Vấn đề đặt ra là:
người giáo viên dạy tập làm văn theo hướng đổi mới như thế nào để đáp ứng
được khả năng tiếp thu của học sinh? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Tập
làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn.
Qua thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là
phân môn khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn
Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả
năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể
chuyện, viết thư, tường thuật, kể lại bản tin, tập tổ chức cuộc họp giới thiệu về
mình và những người xung quanh.Trong quá trình tham gia vào các hoạt động
học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu
bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó, giờ


dạy chưa đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi tiến hành nghiên cứu và


thực nghiệm “Một số biện pháp dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới”.
a) Ưu điểm
- Học sinh lớp 3 đang ở lứa tuổi rất thích học và ham học;
- Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội
dung phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị
dạy học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em;
- Các em đã được học chương trình thay sách từ lớp 1, đặc biệt là các em
ở lớp 2 đã nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập Làm Văn như kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ
sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
b) Hạn chế
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau
quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao;
- Sự hiểu biết của học sinh lớp 3 về phân môn tập làm văn còn hạn chế.
Bước đầu kế thừa, tập làm quen phân môn tập làm văn của lớp 2;
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến
việc tiếp thu bài học;
- Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực
hành độc lập. Cụ thể là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgic; tính
sáng tạo trong thực hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách
chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động;
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy
móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví
dụ: phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
3.2.1. Mục đích của giải pháp
Tính mới của giải pháp:
Luôn chú trọng “tích hợp lồng ghép” khi dạy phân môn Tập làm văn lớp
3; dạy học theo quan điểm giao tiếp; tổ chức tốt việc quan sát tranh, hướng dẫn
2



học sinh cách dùng từ, giọng kể, điệu bộ khi làm bài nghe, nói, viết; sử dụng
linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm văn theo hướng đổi mới;
dạy học hướng tập trung vào học sinh và chú trọng hình thức dạy học cá nhân;
dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Các bước thực hiện của giải pháp:
a) Luôn chú trọng “tích hợp lồng ghép” khi dạy phân môn tập làm
văn lớp 3
Khi dạy tập làm văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa
các phân môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện
từ và câu, Tập viết để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn
Tập làm văn. Mối quan hệ này thể hiện rất rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa:
các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh
một chủ điểm ở tất cả các phân môn.
Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong 2 tuần gồm các bài Tập đọc, Luyện từ
và câu…Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài đọc cung cấp cho
học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình ảnh về chủ đề
Cộng đồng. Cụ thể khi dạy bài tập đọc: Kể chuyện: Các em nhỏ và cụ già-Tuần
8, giáo viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau:
+ Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại?
(Các bạn gặp một cụ già đứng ven đường, vẻ mặt mệt mỏi, cặp mắt lộ vẻ
u sầu)
+ Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào?
(Các bạn băn khoăn và trao đổi với nhau. Có bạn đoán: a) Hay ông cụ bị
ốm, b) Hay cụ bị mất cái gì đó. Cuối cùng cả tốp đến tận nơi để hỏi thăm ông
cụ)
+ Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ?
Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:
Vì các bạn là những trẻ ngoan.

Vì các bạn là nhữngngười nhân hậu.
Vì các bạn muốn quan tâm, giúp đỡ ông cụ.
3


+ Ông cụ gặp chuyện gì buồn?
(Cụ bà bị ốm nặng đang nằm trong bệnh viện, khó mà qua khỏi)
+ Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn?
Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:
- Ông cảm thấy nỗi buồn được chia sẻ;
- Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có người trò chuyện;
- Ông cảm thấy lòng ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho mình.
Qua các câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức
biết quan tâm chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp cho các em khi
viết đoạn văn kể về những người thân, hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên
được nội dung: con người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của
những người xung quanh làm cho mỗi người dịu bớt những nỗi lo lắng, buồn
phiền, và cảm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn.
Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp cho học sinh bày tỏ được thái độ,
tình cảm, ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học.
Song song với quá trình đó, giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về
câu trả lời của bạn để học sinh rút ra được câu trả lời đúng, cách ứng xử hay.
Như vậy, qua tiết học này, học sinh được mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt
mạch lạc, lôgic, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của
các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em
cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về mối
quan hệ tương thân tương ái giữa mọi người trong cộng đồng; rèn cho học sinh
thói quen quan tâm, chia sẻ giúp đỡ những người trong cộng đồng.
Cũng với chủ đề này thì phân môn Luyện từ và câu-Tuần 8 cũng cung cấp
cho học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng thông qua hệ thống các bài tập. Cụ

thể:
Bài 1: Sắp xếp những từ ngữ vào ô trống trong bảng phân loại sau
Các từ: Cộng đồng, cộng tác, đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương
Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa các từ trên và sắp xếp vào các nhóm từ:

4


Nhóm 1: Những người trong

Nhóm 2: Thái độ hoạt động

cộng đồng
trong cộng đồng
Cộng đồng, đồng bào, đồng đội, Cộng tác, đồng tâm
đồng hương
Từ việc hiểu nghĩa của từ ở bài tập 1, học sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ
ở bài tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay không tán thành thái độ ứng xử trong
cộng đồng thể hiện trong các thành ngữ đó:
Chung lưng đấu cật. (Mọi người cùng chung sức chung lòng để thực hiện
một công việc có nhiều khó khăn trở ngại)
Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.(Phê phán thái độ thờ ơ, không
quan tâm , tương trợ người khác lúc khó khăn)
Ăn ở như bát nước đầy. (Ca ngợi con người ăn ở , cư xử với mọi người có
tình có nghĩa , trước sau không thay đổi).
Như vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ về thái độ ứng xử
trong cộng đồng khi nói-viết tập làm văn giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống.
Ở phân môn Chính tả Tuần 8, các em cũng được luyện viết các bài trong
chủ đề Cộng đồng. Ví dụ: Viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già.
Cụ ngừng lại và nghẹn ngào nói tiếp:

- Ông đang rất buồn. Bà lão nhà ông năm bệnh viện mấy tháng nay rồi.
Bà ốm nặng lắm, khó mà qua khỏi. Ông ngồi đây chờ xe buýt để đến bệnh viện,
ông cảm ơn lòng tốt của các cháu. Dẫu các cháu không giúp gì được nhưng ông
cũng thấy lòng nhẹ hơn.
Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các
dấu câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt
nỗi lo lắng, buồn phiền, tăng thêm cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong
cuộc sống. Học sinh vận dụng cái hay , cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để
thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em.
Tương tự, ở phân môn Tập viết-Tuần 8, các em được làm quen với các
thành ngữ, tục ngữ về chủ đề Cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng:
“ Khôn ngoan đá đáp người ngoài
5


Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết
xoay quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết “Kể về người hàng xóm mà em quý
mến” (Tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm, thái độ
đánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hình ảnh.
Cô Loan là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Cô là giáo viên Tiểu học,
tối tối miệt mài bên trang giáo án, và chấm bài cho học sinh. Với dáng nhỏ nhắn
nhưng rất nhanh nhẹn, giọng cô ấm áp. Em thích nghe nhất là khi cô hát. Cô thật
xứng danh là cô ca sĩ của trường.
Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn của Tập làm văn đều nhằm mục
đích giúp học sinh có kỹ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích hợp
lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3.
b) Dạy học theo quan điểm giao tiếp
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ năng diễn
đạt thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng

ngày với thầy cô, cha mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh.
Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho
học sinh nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như
phương pháp dạy học truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các
hoạt động học tập, tích cực, sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn
luyện các kỹ năng nghe-nói-đọc-viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm
văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu.
Ví dụ: Giảng dạy dạng bài tập nghe và tập nói.
Nghe và kể lại câu chuyện “Giấu cày”- Tập làm văn-Tuần 15.
Qua việc kể mẫu của giáo viên, quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa…
học sinh kể nội dung câu chuyện như sau:
Có một người đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác ta liền hét to trả
lời: - Để tôi giấu cái cày vào bụi đã.
Về nhà bác ta liền bị vợ trách: - Ông giấu cày mà la to như thế, kẻ gian
biết chỗ, nó lấy mất cày thì sao.
6


Lát sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên thấy cày bị mất. Bác
ta liền chạy một mạch về nhà, nói thầm vào tai vợ: “Nó lấy mất cày rồi!”
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho
nhau nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự
phê phán hóm hỉnh, hài hước, và kể lại nội dung câu truyện với giọng kể, cử chỉ,
điệu bộ gây cười ở người nghe, nét mặt phù hợp, nâng kịch tính câu chuyện lên
cao hơn.
Song song với việc rèn luyện kỹ năng nghe-nói, học sinh rèn kỹ năng viết:
nắm kỹ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố
cục, phù hợp văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh
không đơn thuần là kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc mà thông qua đó
thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, thái độ yêu-ghét, trân trọng hay phê

phán của các em. Thông qua bài viết của các em người đọc hiểu được tâm tư
tình cảm của các em về một vấn đề nào đó.
Hổ trợ cho việc rèn kỹ năng nghe-nói trong tiết Tập làm văn, phần kể
chuyện của tiết Tập đọc kể chuyện cũng chú trọng đến rèn kỹ năng giao tiếp.
Ví dụ: Dạy Tập đọc kể chuyện. Tiết 2 - Bài Đất quý đất yêu-Tuần 11.
Nhiệm vụ của học sinh là: quan sát tranh, sắp xếp lại tranh theo trình tự
nội dung câu chuyện Đất quý đất yêu. Sau đó dựa vào tranh kể lại câu chuyện,
đúng nội dung, ngắn gọn, từ ngữ súc tích, dễ hiểu, biết kết hợp lời nói với cử
chỉ, điệu bộ để câu chuyện thêm hấp dẫn sinh động; giúp người nghe thấy được
phong tục tập quán của người Ê-ti-ô-pi-a: họ coi đất đai là thứ thiêng liêng, cao
quý nhất.
Thông qua kể lại câu chuyện theo tranh, học sinh hình thành và rèn luyện
khả năng diễn đạt, phục vụ tốt cho bài tập nói của tiết Tập làm văn.
Tóm lại, học sinh rèn luyện khả năng quan sát, nói-viết, rút ra những nét
điển hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự
hào của mỗi vùng miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu
thương, ý thức giữ gìn, xây dựng quê hương đất nước.

7


Ngoài ra, mỗi giáo viên cần chú trọng vận dung phương pháp dạy học
theo quan điểm giao tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm
năng cảm thụ văn học và có nhu cầu thể hiện, bày tỏ sự cảm thụ đó với người
khác. Như vậy, mỗi bài nói, bài viết sẽ chính là tâm hồn tình cảm của các em,
các em sẽ thêm yêu văn-yêu cái hay, cái đep, yêu tiếng Việt-giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt.
c) Tổ chức tốt việc quan sát tranh, hướng dẫn học sinh cách dùng từ,
giọng kể, điệu bộ khi làm bài nghe, nói, viết
Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn

trong việc nghe, nói, viết, kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, giáo
viên cần tổ chức tốt hoạt động quan sát tranh: quan sát từng đường nét, màu sắc,
hình ảnh, nội dung thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhân được được những nét
đẹp của cảnh vật, con người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô.
Để các em làm tốt hoạt động này, trước hết giáo viên chú ý cho học sinh
sử dụng gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể để nhớ được các ý
chính của nội dung câu chuyện.
Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo
viên cần hướng dẫn các em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để điễn đạt
sao cho dễ hiểu, sinh động. Có như vậy người nghe, đọc sẽ dễ dàng hình dung,
tưởng tượng, nắm bắt được sự việc, suy nghĩ tình cảm mà các em muốn thể hiện
qua bài nói, bài viết. Người nghe, người đọc tuy không trực tiếp nhìn diện mạo
của nhân vật, xem bối cảnh của sự việc như xem phim, xem kịch nhưng vẫn thấy
được thế giới nội tâm của nhân vật, quá trình diễn biến của sự việc qua những
hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những tình cảm, thái độ, sự đánh giá của các
em. Đó chính là điểm mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
Ví dụ: Dạy Tập làm văn-Tuần 12.
Bài tập 2:
Yêu cầu: Học sinh viết đoạn văn qua quan sát tranh (ảnh) về một cảnh
đẹp ở nước ta.

8


Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta, giúp học
sinh nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa
chọn từ ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe-đọc
tuy không quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng
cảnh mà học sinh nói đến.
Bài tập 2 tuần 12: Học sinh quan sát ảnh chụp cảnh biển Phan Thiết. HS

quan sát tổng thể bức ảnh, sau đó quan sát từng hình ảnh cụ thể, màu sắc của
bức ảnh, thấy vẻ đẹp bức ảnh mình vừa quan sát. ngoài ra các em biết cách quan
sát một số bức tranh ảnh mà mình sưu tầm được.
Bài Tập làm văn tuần 25: Đề bài: “Quan sát một ảnh lễ hội dưới đây
(SGK) tả lại quang cảnh và hoạt động của những người tham gia lễ hội”. Khi
quan sát học sinh nhận đâu là hoạt động chính của lễ hội. Đó là hoạt động gì?
Màu sắc trong tranh thể hiện không khí, quang cảnh lễ hội từ đó các em bộc lộ
tình cảm của mình đối với các hoạt động mang đậm nét phong tục tập quán của
địa phương.
Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt,
nét mặt, giọng điệu của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết
phục đối với người nghe. Do đó, giáo viên cũng cần khuyến khích các em rèn
luyện khả năng sử dụng những yếu tố phi ngôn ngữ này.
d) Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm
văn theo hướng đổi mới
Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các
hoạt động học tập một cách chủ động tích cực.
Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận
nhóm, đàm thoại với nhau và với chính thầy cô hoặc hoạt động cá nhân (độc
thoại) về một vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: đóng các
hoạt cảnh, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức… Qua đó
học sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác “học mà chơi-chơi mà học”. Không
khí học tập thoái mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em dần có
khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách lưu
9


loát, rành mạch, dễ hiểu.
So sánh với phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3 truyền thống: mỗi tiết
Tập làm văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề bài thuộc

một thể loại văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. Tiết học diễn ra theo tiến trình:
giáo viên hướng dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa các câu
hỏi gợi ý... khiến học sinh dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo khuôn
mẫu, không khuyến khích học sinh nói, viết những cảm xúc, nhận xét, đánh giá,
sự miêu tả của chính các em.
Trong chương trình thay sách giáo khoa lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là
một hệ thống bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: nghe-nói,
nói-viết, nghe-nói-viết...Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết
dạy, bài dạy nhưng linh hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức các hoạt động
dạy-học, phân bố thời gian hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên
vừa tạo được không khí học tập phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học
sinh.
Ví dụ 1: Tiết tập làm văn (tuần11) với hệ thống bài tập như sau:
Bài 1: Nghe kể lại câu chuyện “Tôi có đọc đâu”.
Yêu cầu: Học sinh nghe và kể lại câu chuyện.
Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học:
- Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuyện;
- Thảo luận theo nhóm, theo cặp: học sinh dựa vào gợi ý, sách giáo khoa,
tranh và việc nghe giáo viên kể để kể lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe;
- Đại diện từng nhóm kể trước lớp;
- Học sinh nhận xét;
- Giáo viên nhận xét, bổ sung.
Cách tổ chức các hình thức hoạt động nêu trên huy động được tất cả học
sinh tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa
từng học sinh với nhau, và giữa các nhóm học sinh.
Bài 2: Nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở.
Yêu cầu: Học sinh làm việc cá nhân với vở bài tập.
10



Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học:
- Cá nhân học sinh làm trong vở bài tập;
- Học sinh trình bày trước lớp;
- Học sinh nhận xét bài làm của bạn;
- Giáo viên nhận xét, bổ sung.
Qua việc giáo viên nhận xét, bổ sung: Đánh giá khả năng tiếp thu kiến
thức của học sinh, khả năng diễn đạt sắp xếp các ý theo đúng trình tự bài học
chưa. Từ nhận thức của học sinh giúp giáo viên lựa chọn phương pháp và hình
thức dạy học phù hợp từ nội dung bài giảng, hệ thống câu hỏi gợi mở, hình thức
luyện tập giúp học sinh phát huy khả năng của mình và đạt hiệu quả cao nhất.
Ngoài ra giáo viên đánh giá cách truyền thụ kiến thức, phương pháp giảng
giải của chính bản thân để điều chỉnh cho phù hợp.
Tóm lại, sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy Tập làm văn lớp
3 theo hướng đổi mới tạo được hứng thú học tập cho học sinh, học sinh tham gia
các hoạt động học một cách hào hứng, tích cực, sáng tạo.
Ví dụ 2: Tiết tập làm văn (tuần 22) với hệ thống bài tập:
Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết.
- Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân (làm trong vở bài tập);
- Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người lao động trí óc;
- Sau khi thống nhất các em cử đại diện nhóm trình bày;
- Học sinh khác nghe nhận xét, bổ sung.
Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành đoạn văn.
Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn
đúng, hay, biết sử dụng hình ảnh, từ ngữ phù hợp.
Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện
viết đoạn văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy
học trong dạy Tập làm văn là nhiệm vụ cần thiết.
đ) Dạy học hướng tập trung vào học sinh và chú trọng hình thức dạy
học cá nhân


11


Dạy tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra
một câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy
nghĩ và hiểu biết của chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải
vận dụng những vốn tri thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi;
phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra những kết luận và chọn phương án
trả lời tốt nhất. Nói ngắn gọn lại: học sinh tìm ra câu trả lời qua việc thu thập,
sàng lọc thông tin và phân tích dữ kiện.
Ví dụ: Dạy Tập làm văn-Tuần 5.
Bài: Tập tổ chức một cuộc họp.
- Học sinh chọn nội dung cuộc họp cho phù hợp;
- Xác định đúng mục đích cuộc họp, nguyên nhân của cuộc họp;
- Nêu lên tình hình chung;
- Đưa ra cách giải quyết (nhiều thành viên trong tổ, lớp được bày tỏ ý
kiến);
- Người điều hành cuộc họp thống nhất ý kiến, thống phất phương án giải
quyết vấn đề, giao việc cho từng thành viên.
Các em tự lựa chọn nội dung cuộc họp tức là các em nói về vấn đề mình
am hiểu nhất, phù hợp yêu cầu bài. Từ việc hiểu biết đó các em bàn cụ thể chi
tiết có cách giải quyết thoả đáng, giúp cho người điều hành có ý kiến tập trung
sâu sắc.
Từ nhận xét, bày tỏ ý kiến của học sinh, giáo viên định hướng, hướng dẫn
học sinh hình thức tổ chức: Người tổ chức cuộc họp, các thành viên trong tổ bất
kỳ ai cũng có thể là người điều hành và cũng là thành viên. Vì vậy khả năng
diễn đạt mỗi học sinh được điều chỉnh hoàn thiện dần.
Như vậy thông qua một tiết Tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng tạo
của học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh cách làm bài.
e) Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp

Các hoạt động ngoại khoá giúp học sinh có những hiểu biết thực tế ngoài
kiến thức được học trong chương trình chính khoá. Do đó việc phối kết hợp với
các hoạt động ngoài giờ lên lớp là rất cần thiết. Qua các hoạt động ngoài giờ,
12


học sinh được rèn luyện bằng nhiều hình thức khác nhau, có nội dung liên quan
đến bài học của các em. Giáo viên giảng dạy cần có sự kết phối hợp chặt chẽ với
giáo viên tổng phụ trách, thông qua các buổi chào cờ nói về gương người tốt
việc tốt, tổ chức các hoạt động: thi búp măng xinh, thi ca hát tập diễn các tiểu
phẩm, thi kể chuyện-văn nghệ, thi đọc thơ, thi các môn năng khiếu…
Hoặc thông qua buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc,
những kỷ niệm đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học (Bài học Tuần 6).
Hay qua buổi lễ kết nạp đội viên Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh,
học sinh có nguyện vọng viết đơn vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ, tổ
chức của Đội…Ví dụ: Tham dự hội thi tìm hiểu về Đội.
Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội thiếu niên Tiền phong
Hồ Chí Minh, giúp các em viết tốt hơn Đơn xin vào Đội (tiết Tập làm văn Tuần 2)
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Qua quá trình nghiên cứu chuyên đề, chúng tôi đã nhận thấy vai trò và
tầm quan trọng của dạy môn Tập làm văn. Vì vậy chúng tôi không dừng lại ở
khối 3 mà triển khai áp dụng vào các khối lớp trong nhà trường, xây dựng tích
hợp các kiến thức liên quan với nhau giữa các môn học.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp
Thông qua dạy thử nghiệm theo hướng trên, chúng tôi đã thu được rất
nhiều kết quả khả quan: học sinh học tập hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ
của học sinh phong phú hơn, câu văn giàu hình ảnh. Viết câu không còn rời rạc,
dùng từ hợp lý. Biết nói-viết thành câu. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh.
Biết trình bày đoạn văn, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động. Bài
viết học sinh đạt từ trung bình trở lên.

Từ những kết quả nêu trên, tôi rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
- Dạy Tập làm văn theo phương pháp “tích hợp, lồng ghép” các phân môn
trong môn Tiếng Việt. Biết kết hợp mối quan hệ chặt chẽ về yêu cầu kiến thức
phân môn Tập làm văn của các khối lớp;

13


- Chú trọng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, rèn kỹ năng
nghe-nói-đọc-viết cho học sinh;
- Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng
từ, giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu;
Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm
tòi. Giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học
theo hướng đổi mới. Dạy học hướng tập trung vào học sinh, coi học sinh là chủ
thể của hoạt động, tổ chức các hoạt động giúp các em chiếm lĩnh tri thức và rút
ra kết luận phù hợp với bài học;
- Giáo viên biết cách phối hợp hoạt động học tập với các hoạt động ngoài
giờ lên lớp./.
Bến Tre ngày 10 tháng 4 năm 2016

14



×