Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TIEU LUAN TRIET HOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.72 KB, 14 trang )

Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới


Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu
hút sự quan tâm của nhiều đối tượng. Ngày nay, triết học là một bộ phận không
thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết
học về lý luận nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở,
là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã
hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có
được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề do cuộc sống đặt ra.
Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ
không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý
giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương pháp luận
nhất định chỉ đạo cho hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ
nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết
học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt
hơn cả.
Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học
tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo
chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất
nước. Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn
đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước
ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt.


Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua những năm
đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và
cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành
nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong
quá trình đổi mới hiện nay. Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Lý luận thực
tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam”.


Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

Khái niệm Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong
hai lĩnh vực quan trọng đó là: hoạt động thực tiễn. Thực tiễn: (theo quan điểm
triết học Mác xít): Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính
lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn Đó là hoạt động có mục đích của
xã hội, phải sử dụng những phương tiện vật chất đề tác động tới đối tượng vật
chất nhất định của tự nhiên hay xã hội, làm biến đổi nó, tạo ra sản phẩm vật chất
nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay
đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang tính chất phê phán và cách mạng. Đây
là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ sở đề phân biệt hoạt động thực
tiễn khác với hoạt động lý luận của con người.
Tính chất lịch sử xã hội Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động
thực tiễn diễn ra là khác nhau, thay đổi về phương thức hoạt động. Thực tiễn là
sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ muôn vẻ và vô tận
giữa con người với giới tự nhiên và con người với con người trong quá trình sản
xuất vật chất và tinh thần, là phương thúc cơ bản của sự tồn tại xã hội của con
người.

Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức. Trong quá
trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện thực mới, một ”thiên
nhiên thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện
mới cho sự tồn tại của con người, những điều kiện này không được giới tự nhiên
mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời với quá trình đó, con người cũng phát
triển và hoàn thiện bản thân mình. Chính sự cải tạo hiện thực thông qua hoạt
động thực tiễn là cơ sở của tất cả những biểu hiện khác có tính tích cực, sáng tạo
của con người. Con người không thích nghi một cách thụ động mà thông qua
hoạt động của mình, tác động một cách tích cực để biến đổi và cải tạo thế giới
bên ngoài. Hoạt động đó chính là thực tiễn.
Hoạt động sản xuất vật chất: Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của
xã hội.Thực tiễn sản xuất vật chất là tiền đề xuất phát để hình thành những mối
quan hệ đặc biệt của con người đối với thế giới, giúp con người vượt ra khỏi
khuôn khổ tồn tại của các loài vật.
Hoạt động chính trị xã hội: Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh
vực chính trị xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan


Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi
trường xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng cách đấu tranh giai cấp và
cách mạng xã hội.
Hoạt động thực nghiệm khoa học: Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con
người phải tạo ra một thế giới riêng cho thực nghiệm của khoa học tự nhiên và
cả khoa học xã hội.
II. THỰC TIỄN CÓ VAI TRÒ RẤT TO LỚN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là
tiêu chuẩn của nhận thức.

1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan,
bắt các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính
và quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh
các vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành.
Như vậy, qua hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế
giới quan( tạo điều kiện cho nhận thức cao hơn). Qua hoạt động thực tiễn, não
bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các giác quan ngày càng hoàn thiện
hơn. Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các
phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
Thực tiễn là động lực của nhận thức Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn
từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn
luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát
triển.
Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu
cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài
liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là
mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật
vận động và phát triển của sự vật.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức Những tri thức khoa học chỉ có ý
nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn. Mục đích cuối cùng của
nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thức
khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành


Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.

Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt
động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự
hiểu biết của con người mới có ý nghĩa.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức Bằng thực tiễn mà kiểm chứng
nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển
và ngược lại.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
- Chân lý Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được
thực tiễn khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống
con người) Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví
dụ: chân lý tôn giáo). Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì
tính hai mặt trong quá trình nhận thức của nhân loại.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý Theo quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý không phải là ý thức tư tưởng, tư
duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở
lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất
hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh giá nhận thức
của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không.
- Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con
người cũng được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển. +
Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể
chứng minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được
thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy
mới có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận
thức.
* Ý nghĩa: Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng
nền kinh tế thị trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ

xã hội mới: công bằng, bình đẳng, tién bộ.
- Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế
cụ thể muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản


Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

xuất, kinh doanh cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng
như các giải pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những
bước tiến và những thành tựu to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra
nhiều vấn đề cần giải quyết. Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm
tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của giai đoạn cách mạng hiện nay.
Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói riêng, nhất định
sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể hơn về
mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Lý luận
a. Khái niệm Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn.
Nó phản ánh những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng
nhu cầu của xã hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng
dụng. Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn Được thể hiện bằng mối quan hệ
giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và thực tiễn thống nhất biện chứng với
nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con
người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu

cầu của con người.
a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn
và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con
người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự
nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là
luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.
b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn Ví dụ: lý luận
Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản. Sự thành công
hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được hướng dẫn bởi lý
luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu của
thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu
sự hướng dẫn của lý luận. Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho


Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

thực tiễn các tri thức đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực
khách quan, từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn
cho hoạt động thực tiễn. Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp,
quan hệ đó có thể là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần
tiến bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng
sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một
trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn Xảy ra khi giai cấp thống trị trở
nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm
ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối, chính sách xã hội trở nên
lạc hậu và phản động.

*Ý nghĩa: Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã
hội, đặc biệt là lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý
luận về kinh tế. Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực
tiễn hầu như không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với
bộ mặt xấu xí của con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã
”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không
đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận, đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái
giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn
của khoa học, của lý luận nhận thức... để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và
thuyết bất khả tri”. V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn
phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn
tập” – 1980) Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
nên đối với nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận
và hoạt động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các
mặt của đời sống xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ
nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước là một vấn đề hết sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng
không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới.
Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng và việc nhận thức
quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát


Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

triển. Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế
khách quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình.
Gắn lý luận vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc.
Tinh thần ấy chính là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ

VI.
e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi
nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý
luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách
mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý
luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực
tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác
_ Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng nơi (“Hồ Chí
Minh: toàn tập”-1996)
* Con đường biện chứng của sự nhận thức: Nhận thức của con người diễn
ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động, phát triển. Sự vận động và
phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng
đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự
nhận thức thực tại khách quan”.
+ Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá
trình nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được
hình thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu
tượng...
+Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình
nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang
lại. - Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa
phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn.
Nhận thức phải trở về với thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải
trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.



Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

+ Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện
thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức,
phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+ Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về
với thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức. Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực
tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận
thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản
chất, quy luật của thế giới khách quan.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Vị trí địa lý.
Việt Nam nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm
Đông Nam Á, có một vùng biển rộng, giàu tiềm năng.
-Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển tạo điều kiện cho nước ta có thể
dễ dàng giao lưu với các nước trên thế giới.
+Trên đất liền, nước ta giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thông qua các
tuyến giao thông (đường bộ, đường sắt...) với các cửa khẩu quan trọng, Việt
Nam có thể liên hệ với nhiều nước trên thế giới.
+ Nước ta nằm gần các tuyến đường biển quốc tế. Thông qua đường biển,
có thể quan hệ với nhiều quốc gia.
+ Vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng cho phép phát triển kinh tế biển.
-Việt Nam là nơi giao thoa của các nền văn hoá khác nhau. Điều đó góp phần
làm giàu bản sắc văn hoá.
-Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động
của thế giới. Từ đó cho phép nước ta có thể dễ dàng hội nhập với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Ta có thể tiếp thu và chọn lọc những bài học, kinh
nghiệm thành công cũng như thất bại về phát triển kinh tế của các nước và vận

dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
2. Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.
2.1.Tình hình:
- Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các
nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế


Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức
tổ chức sản xuất và dịch vụ quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc doanh,
hợp tác xã được tổ chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở
hữu toàn dân và tập thể, sở hữu tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở cho tư
nhân phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức rộng rãi vì ta đã
học tập được mô hình tổ chức kinh tế của Liên Xô cũ. Với sự nỗ lực cao độ của
nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó,
mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được những tính ưu việt đó.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng
công cụ kế hoạch hóa, ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật chất
quan trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất
đai, máy móc, tiền vốn để ổn định
2.2. Thời kỳ trước đổi mới ( trước năm 1987)
Hợp tác xã hoá ở miền Bắc bắt đầu thực hiện từ năm 1958, đến năm
1960 cơ bản hoàn thành. Khi đó chúng ta cho rằng làm ăn tập thể ưu việt hơn
làm ăn cá thể, kinh tế cá thể tự phát dẫn đến phân hóa giàu nghèo, phân chia giai
cấp. Làm ăn tập thể sẽ tạo ra sức mạnh, sẽ giải quyết được những vấn đề kinh tế
xã hội của cộng đồng nông thôn. Do vậy, hợp tác xã hoá được thực hiện đồng
nhất với tập thể hoá, xoá bỏ sản xuất theo hộ, chỉ cho phép tồn tại dưới hình
thức kinh tế phụ gia đình, mọi tư liệu sản xuất đều thuộc về tập thể, tổ chức lao

động tập trung dưới sự chỉ huy điều hành của ban chủ nhiệm hợp tác xã và ban
chỉ huy đội, phân phối theo ngày công, sau khi trừ chi phí sản xuất, khấu trừ nộp
cho nhà nước và phúc lợi xã hội ở nông thôn, ban chủ nhiệm làm cả chức năng
của chính quyền cơ sở.
Tuy vậy nhờ lao động tập thể và sử dụng tập trung các nguồn lực nên đã
xây dựng được những công trình thuỷ lợi, kiến thiết đồng ruộng, đường giao
thông, trường học... bộ mặt miền Bắc cũng có những thay đổi đáng kể.
2.3. Thời kỳ sau đổi mới ( Sau năm 1987)
Đại hội Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội,
nhằm đưa đất nước thoát dần ra khỏi khủng hoảng vào những năm cuối của thập
kỷ 80. Đảng ta đã kiên quyết và kiên trì tiến hành đổi mới. Muốn đổi mới thì dứt
khoát phải từ bỏ không thương tiếc những cái cũ lạc hậu, lỗi thời. Trọng tâm của
sự đổi mới lúc bấy giờ là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, là đổi mới
các chính sách kinh tế. Một trong những nội dung cơ bản trong đường lối đổi


Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

mới của Đảng do Đại hội VI đề ra là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quán triệt quan điểm đổi mới đó, Đại hội VII và VIII,
IX, X, XI của Đảng tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hoá bằng các chính sách, cơ
chế nhằm kiên trì xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền
tảng trong nền kinh tế, kinh tế cá thể, tiểu thủ công, kinh tế tư bản tư nhân chiếm
tỷ trọng đáng kể, kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại
phổ biến và có vai trò tích cực trong nền kinh tế. Mọi thành phần kinh tế đều
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật. Tháng 4-2001, Đại hội IX của
Đảng đã chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa” và khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên
cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của
Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Những nét mới trong đường lối và quan điểm của Đảng về cơ cấu thành
phần kinh tế như trên chính là sự điều chỉnh có tính chiến lược, làm cho quan hệ
sản xuất ngày càng phù hợp hơn với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm lực kinh, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Hơn 10 năm qua, kể từ khi Việt Nam
bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền
kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng, làm thay
đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng, hoạt động ngày càng
năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hoá ngày càng
phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước chẳng những
giữ vững được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế giới mà còn
có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân
7%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ
tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu phát triển. Quan hệ
đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng...Tuy nhiên,
cũng có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được nghiên cứu và giải quyết.
Đặc biệt Đại hội XII của Đảng đã đánh giá sau 30 năm đổi mới, Việt
Nam đạt những thành tựu quan trọng trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Từ


Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam
đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước

đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho
phát triển. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng
trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung
bình); đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu và
động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh
nghiệp, doanh nhân thật sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường
lối CNH, HĐH đất nước.
Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt
tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi mới
(1986-1990), với mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, nền
kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 20 năm với mức tăng trưởng rất ấn tượng: giai
đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm, gấp đôi so với 5 năm trước đó;
giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng
hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng
7,6%/năm; giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 20062010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân 6,32%/năm. Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng
GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt
5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới.
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa
trọng đại trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về
mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; là quá trình cải biến sâu sắc, toàn
diện, triệt để; là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân, vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN từng bước hình thành và phát triển; thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN được quan tâm xây dựng và từng bước hoàn thiện.
Môi trường đầu tư không ngừng được cải thiện, thế và lực của nước ta vững
mạnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền
đề quan trọng để đẩy nhanh CNH, HĐH và nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân. Đồng thời, chúng ta cũng nhận thức rõ còn những hạn chế, khó khăn



Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

không nhỏ của nền kinh tế đã và đang đặt ra những vấn đề cần có những quyết
sách trong thời gian tới đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian qua và căn cứ vào
yêu cầu phát triển trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước cần tổng kết lại kinh
nghiệm và tiếp tục nghiên cứu đưa ra để thực hiện một số vấn đề có tính lý luận
sau:
- Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần
- Giữ vững và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản.
- Giải quyết các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã
hội, thực hiện công bằng xã hội.
III. KẾT LUẬN
Sự nghiệp đổi mới do Đảng khỏi xướng lãnh đạo hơn 30 năm qua đã đạt
được những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội và có ý nghĩa lịch sử to lớn “ Đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và có sự thay đổi toàn diện. kinh té
tăng trưởng nhanh, sự nghiệp CHN - HĐH phát triển kinh tế thị trưởng định
hướng xã hội chue nghĩa đang được đẩy mạnh.
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. hệ thống chính trị và khối đại đoàn
kết được tăng cường. Chính trị xã hội ổn định, Quốc phòng an ninh được giữ
vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của
quốc gia được tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực cho đất nước phát triển đi lên
với triển vọng tốt đẹp”.
Những thành tựu ấy do nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân
đó là đảng ta luôn luôn quán triệt tôt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới. Bởi lẽ trên cơ sở quán triệt sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước
không ngường được bổ sung hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam.
Những căn bệnh giáo điều, kinh nghiệm chủ quan duy ý chí được khắc phục. Vì
vậy đất nước có phát triển như nào thì chủ nghiã Mác – LêNin vẫn luôn là kim
chỉ nam cho hành động của chúng ta.
Trước thực tế của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam từ sau cách mạng
tháng 8, một lần nữa tạ lại càng khẳng định vai trò không thể thiếu được của quá


Vận dụng nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn để phân tích tình trạng
tách rời lý luận và đổi mới thời kỳ trước đổi mới

trình lý luận nhận thức và và các chính sách chủ trương xuất phát từ thực tiễn
chi phối nền kinh tế. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của nhân loại, tất yếu
chúng ta sẽ không lạc hậu, thụt lùi mà ngày càng có vị thế, phát triển mạnh mẽ
hơn. Đất nước Việt Nam sẽ phát triển vượt bậc, có cơ sở vững chắc, đứng vào vị
trí những nước có nền kinh tế tăng trưởng mạnh trên thế giới.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×