Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

Truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong tương quan với truyền thuyết về Đức Thánh Cha Trần Hưng Đạo ở vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.78 KB, 132 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1. Văn học dân gian là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa dân gian.
Một thành phần không nhỏ trong nội hàm khái niệm Folklore, văn học dân gian gắn bó
mật thiết với những sinh hoạt văn hóa xã hội của nhân dân. Mối quan hệ giữa văn học
dân gian trong đó có thể loại truyền thuyết với những sinh hoạt tín ngưỡng dân gian là
mối quan hệ có tính chất bổ trợ, tương tác lẫn nhau. Truyền thuyết tạo cho những hoạt
động sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng thêm phong phú, thiêng liêng, cao cả, ngược lại
chính những hoạt động văn hóa này nhằm minh chứng, khẳng định cho sự tồn tại của
thể loại truyền thuyết.
Trong đời sống của người Việt Nam có hai nhân vật được nhân dân coi trọng
nhất là cha và mẹ. Đó là bởi vì hai vị đã ban cho họ đời sống, nuôi nấng họ, dạy dỗ họ,
nâng đỡ họ trong những bước thăng trầm của cuộc đời. Dù họ có lớn đến bao nhiêu
tuổi, và chính họ cũng có con đàn cháu đống, có quyền cao chức trọng thế nào đi nữa,
hai vị vẫn lo lắng đủ điều cho đến khi hai tay buông xuôi vĩnh biệt trần thế. Vì thế đời
sống tâm linh của người Việt quay quanh hai nguyên lý chính trong vũ trụ là nguyên lý
cha và nguyên lý mẹ, nguyên lý càn và nguyên lý khôn, nguyên lý trời và nguyên lý
đất. Người Việt Nam đã chọn đại diện cho nguyên lý cha là Đức Thánh Trần và
nguyên lý mẹ là Liễu Hạnh Thánh Mẫu. Một người là vị anh hùng hiển hách đã làm
nên kỳ tích trong lịch sử ngót năm ngàn năm của dân tộc Việt ba lần đánh tan tan quân
Nguyên - Mông xâm lược. Còn một người là nàng tiên giáng trần "làm môi giới cho
những lý tưởng và nguyện vọng thiên thai của người phụ nữ bình dân Việt Nam” (GS.
Nguyễn Đăng Thục).
Tín ngưỡng dân gian là một lĩnh vực rộng lớn, vô cùng phong phú, đa dạng.
Trong đó, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần là hai loại tín
ngưỡng đang có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam. Đã từ
lâu trong dân gian lưu truyền câu ca “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ” như một
lời nhắc nhớ tới tất cả những người con Việt hướng về nguồn cội, về những vị Thánh
được tôn thờ với niềm ngưỡng vọng đối với Cha, với Mẹ. Hai nhân vật này đều có sức
ảnh hưởng mạnh mẽ trong tâm thức dân gian, “sống trong lòng dân tộc, giữa dòng
đời, trên cửa miệng của nhân dân”(*) qua hệ thống những truyện kể, truyền thuyết về


thân thế, sự nghiệp, cuộc đời, hành trạng. Cũng chính vì vậy lễ hội phủ Dầy, lễ hội
Đồng Bằng và Kiếp Bạc… không còn là những hội làng, hội vùng mà đã trở thành
quốc lễ, tiêu biểu nhất của lễ hội Việt Nam cổ truyền.
(*)

PGS.TS Vũ Anh Tuấn

1


2. Hình tượng Mẫu Liễu và hình tượng Đức Thánh Trần là đề tài sáng tác cho
cả văn học dân gian và văn học viết. Nhiều truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện truyền
kỳ… đã làm nên “rừng tự sự” về hai vị chân Thánh này. Đã có rất nhiều công trình,
nhiều chuyên luận tập trung khai thác những yếu tố thuộc về tín ngưỡng, về văn hoá
dân tộc qua những sinh hoạt cộng đồng mang tính thiêng. Chúng tôi nghiên cứu truyền
thuyết về Thánh Mẫu trong tương quan với truyền thuyết về Đức Thánh Trần là một
hướng đi mới, hấp dẫn. Dựa trên cơ sở về lý thuyết văn học dân gian và đặc biệt là về
thể loại truyền thuyết để khẳng định những lôgich vĩnh cửu của văn hóa Việt Nam
thông qua hai hiện tượng này.
3. Văn học dân gian là một thành phần cơ bản trong chương trình ngữ văn nhà
trường, đi sâu nghiên cứu, khai thác những vấn đề của văn học dân gian giúp chúng tôi
trang bị những kiến thức căn bản góp phần hiểu hơn về diện mạo nền văn học dân tộc.
Tìm hiểu văn học dân gian còn cho chúng ta một cái nhìn đa chiều về đời sống văn hóa
dân tộc, kích thích hứng thú say mê với môn học Ngữ văn. Truyền thuyết là một thể
loại lớn trong văn học dân gian, được giảng dạy một cách hệ thống trong chương trình
đào tạo sư phạm Ngữ văn, qua thực tiễn giảng dạy chúng tôi thấy thực sự hấp dẫn bởi
tính gần gũi với đời sống, tính lý thú với lịch sử dân tộc của thể loại này. Những kết quả
nghiên cứu của đề tài “Truyền thuyết về Mẫu Liễu Hạnh trong tương quan với truyền
thuyết về Đức Thánh Trần” góp phần làm phong phú hơn những hiểu biết về môn học
và có ý nghĩa thiết thực với đời sống, nhận thức sâu hơn về mối quan hệ giữa truyền

thuyết và tín ngưỡng dân gian. Quá trình thực hiện đề tài là quá trình chúng tôi không
ngừng học tập, tìm tòi, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phục vụ trực tiếp cho
công việc giảng dạy bộ môn Văn học dân gian trong nhà trường.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Truyền thuyết về Thánh Mẫu
Liễu Hạnh trong tương quan với truyền thuyết về Đức Thánh Cha Trần Hưng Đạo ở
vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc”
II. Lịch sử vấn đề
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến những vấn đề về Mẫu Liễu Hạnh
và Đức Thánh Trần, nhưng hầu hết các công trình nghiên cứu này đều tiếp cận Mẫu
Liễu Hạnh và Đức Thánh Trần dưới góc độ văn hóa tâm linh người Việt, khai thác

2


Mẫu Liễu Hạnh, Đức Thánh Trần trong sự soi chiếu với tín ngưỡng thờ Mẫu, tín
ngưỡng thờ Thành hoàng ở Việt Nam.
1. Lịch sử nghiên cứu về Mẫu Liễu
Khi nghiên cứu về Đạo Mẫu, Đạo Tam Phủ, Tứ Phủ các học giả đều thừa nhận
Thánh Mẫu Liễu Hạnh có ảnh hưởng nhiều đến đời sống tâm linh văn hóa người Việt.
Có nhiều bài viết, những công trình có giá trị của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian
từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến những năm đầu của thế kỷ XXI, tiêu biểu là những bài
viết của các học giả: Nguyễn Văn Huyên, Vũ Ngọc Khánh, Ngô Đức Thịnh, Đinh Gia
Khánh, Đặng Văn Lung, Phan Đăng Nhật, Lã Duy Lan, Trần Thị An, Lê Sỹ Giáo,
Phạm Quỳnh Phương, Nguyễn Minh San… tiếp đó là các công trình của Phạm Kế, Hồ
Đức Thọ, Đặng Anh, Nguyễn Quốc Tuấn, Đặng Việt Bích, Phạm Minh Thảo, Lê Xuân
Quang, Ngô Thị Quý, Trương Thìn…
Ngay từ những năm cuối thế kỷ XVIII, với tác phẩm Vân Cát thần nữ, tác giả
Đoàn Thị Điểm đã ghi dấu một công trình nghiên cứu đầu tiên về Mẫu Liễu Hạnh. Tác
phẩm là truyện viết đầu tiên và đầy đủ nhất về Mẫu Liễu, nhân vật được miêu tả một
cách trân trọng với nhiều phẩm chất đẹp đẽ, đậm màu sắc huyền thoại thiêng liêng.

Năm 1990, viết Vân Cát thần nữ, tác giả Vũ Ngọc Khánh khẳng định: “Đề tài
nữ thần từ lâu rất được giới nghiên cứu quan tâm trên khắp thế giới. Ở nước ta việc
phụng thờ nữ thần lại có liên quan mật thiết với sinh hoạt văn hóa dân tộc. Nữ thần
Liễu Hạnh là trường hợp nổi bật hơn cả. Song tư liệu liên quan lại chưa được khai
thác nhiều và chưa có ai tổng hợp…”

[28,3]

. Công trình là sự tập hợp những nguồn tư

liệu quý giá, vừa lần tìm nguồn gốc, lai lịch Mẫu Liễu trong sự tích và huyền thoại,
vừa tìm hiểu sinh hoạt về Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong tâm thức và tín ngưỡng dân
gian. Ngoài ra còn bổ sung những nguồn tư liệu chính của văn bản thành văn từ Hồng
Hà nữ sĩ đến bây giờ, cả những bài giáng bút và văn chầu Thánh Mẫu.
Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh chiếm một vị trí đặc biệt trong Tứ bất tử của Việt
Nam. Mẫu gia nhập vào điện thần Việt Nam muộn hơn cả, nhưng lại có cội nguồn xa
xưa. Là một phụ nữ bình thường, có sinh, có tử, có quê quán, cha mẹ, có cuộc sống gia
đình, chồng con. Từ cuộc sống trần gian ấy Mẫu đi vào bất tử. Năm 1990 Nguyễn Văn
Huyên đã viết: “Nghiên cứu việc phụng thờ các vị thánh bất tử, một ngày kia người ta
có thể thấy vai trò lịch sử của dân tộc Việt Nam ở Đông Nam Á trong việc xây dựng
những khái niệm tôn giáo và luật đề văn chương. Dân tộc này không chịu sao chép

3


những gì của Trung Quốc, mà tự tạo lấy cuộc sống riêng trong trường kỳ lịch sử vẫn
luôn luôn được thanh xuân hóa” [28, 4]
Trong hội thảo khoa học Bước đầu tìm hiểu thần thoại và truyền thuyết Mẫu
Liễu, tổ chức 2 - 6 - 1992 tại Văn Miếu - Hà Nội, các học giả đã đề cập đến những vấn
đề của văn học dân gian viết về Mẫu Liễu. Các tác giả xoay quanh mấy vấn đề chính

sau: vấn đề thời đại sản sinh ra hình tượng Mẫu Liễu; vấn đề môtip cấu thành hình ảnh
Địa Tiên Thánh Mẫu; điểm giống và khác nhau giữa văn bản bác học và văn bản bình
dân; sự vận động của truyền thuyết Mẫu Liễu qua những truyện kể về Liễu Hạnh và
truyền thuyết về nữ thần Chăm, hình tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong đối sánh với
Mẫu Quan Âm. Nhà nghiên cứu văn hoá Vũ Ngọc Khánh đã có một bài đóng góp giá
trị: Tìm hiểu chúa Liễu qua nguồn thư tịch. Tác giả đã liệt kê các loại sách Hán Nôm
gồm 17 cuốn, sách chữ Quốc ngữ và chữ Pháp có 8 cuốn. Ông đã phân tích các tài liệu
để tìm ra sự tích Mẫu. Qua tham luận, ông đã xác thực về nguồn gốc và ảnh hưởng
hình tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong đời sống tinh thần, tâm linh người Việt: “Vân
Cát Lê gia ngọc phả vẫn là tài liệu trước nhất ghi chép về Liễu Hạnh”. Ông khẳng
định: “Liễu Hạnh chắc chắn là một con người có thực. Cho nàng gia nhập vào thế
giới huyền thoại, tôn vinh thành một nữ thần, một Thánh Mẫu là những câu chuyện về
sau, trên cơ sở con người có thực” [58,35].
Cùng năm 1992, khi nghiên cứu tục thờ Mẫu và ý nghĩa của nó với đời sống
cộng đồng mỗi nhà nghiên cứu lại có cái nhìn và lối kiến giải riêng. Đinh Gia Khánh
nghiên cứu tục thờ Mẫu, một tín ngưỡng gắn với nhiều truyền thống văn hóa dân gian.
Tác giả khẳng định: “Tục thờ Mẫu đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân… gắn với
một số truyền thống tích cực của văn hóa dân tộc” [58,13] “Mẫu Liễu Hạnh đó xuất hiện
trong đạo Tam Phủ như là một sự bổ sung tất yếu cho đạo Tam Phủ để đáp ứng lại
tình cảm này của nhân dân. Mẫu Liễu Hạnh tục gọi là chúa Liễu gắn với yêu cầu của
muôn mặt đời thường và do đó gần gụi, thân thiết với quần chúng nhân dân. Khác với
Mẫu Cửu Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, tức là những vị Mẫu ở nơi nào đó
xa xôi, chúa Liễu là một nữ thần xuất thân từ xã hội loài người…”[58,11].
Năm 1992 Nguyễn Thị Huế soi chiếu từ Phật Mẫu Man Nương đến Thánh Mẫu
Liễu Hạnh và khẳng định có ba nơi bà hiển linh và được gọi bằng những danh hiệu
gắn với những địa điểm ấy: Mẫu Sòng, Mẫu Phủ Dầy, Mẫu Tây Hồ. Hoàng Văn Trụ
xem xét Mẫu Liễu và Quan Âm Thị Kính qua cảm quan sáng tạo dân gian; Lê Sỹ Giáo

4



- Phạm Quỳnh Phương viết Tục thờ Liễu Hạnh trong hệ thống thờ nữ thần của người
Việt. Cũng giống như Ngô Đức Thịnh, hai tác giả khẳng định: “Trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt, tục thờ nữ thần có vai trò và vị trí khá đặc biệt”

[58,57]

. Các tác giả

đã khái quát nên một luận điểm rất quan trọng: Trên cơ sở nguyên lý Mẹ, với căn
nguyên sâu xa của một đời sống kinh tế xã hội, và đời sống tâm linh của con người có
thể khẳng định: Tín ngưỡng thờ nữ thần, thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian
độc đáo của người Việt.
Ngoài ra, một số công trình của các tác giả khác đề cập đến những thể loại văn
học dân gian viết về hình tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Năm 1999, Đặng Văn Lung viết cuốn Tam toà Thánh Mẫu, trong đó ông có
khẳng định:“…Nhiều truyền thuyết, cổ tích, giai thoại khác làm nên rừng tự sự về
Liễu Hạnh, bởi nó đều là truyện kể khách quan, nhằm nêu lên sự tích của một nhân
vật anh hùng văn hóa… một số bài văn chầu cũng được xem là những dị bản đáng tin
cậy vì đó là loại dị bản kể sự tích Thánh Mẫu bằng thơ” [39,61].
Trong bài Thử tìm hiểu cách xây dựng linh tượng Mẫu Liễu, ông Đặng Văn
Lung viết: “Có lẽ cần hiểu rằng, hình tượng Mẫu được xây dựng theo ba mô hình: Mô
hình sự sống của thế giới tự nhiên; Mô hình sự sống của con người sinh vật; Mô hình
sự sống của xã hội, tức là mô hình lịch sử” [58,25].
Năm 1999 Tác giả Lại Nguyên Ân khi giới thuyết về truyền thuyết cũng đã đề
cập đến Thánh Mẫu Liễu Hạnh: “Truyền thuyết vừa là sản phẩm trí tưởng tượng của
dân gian, vừa là kết quả những nỗ lực biên soạn và bổ sung các trí thức nho sĩ. Ví dụ,
từ lúc xuất hiện ở phạm vi một địa phương hẹp đến khi truyền thuyết Liễu Hạnh lan
tỏa, phát triển nhập vào tín ngưỡng Tam Phủ để biến nó thành Tứ Phủ, hiển nhiên có
phần đóng góp đáng kể của Phùng Khắc Khoan và Đoàn Thị Điểm”


[6, 643]

. Từ đó, tác

giả Lại Nguyên Ân cũng nói về mối quan hệ ảnh hưởng giữa truyền thuyết với thể loại
truyền kỳ: “Rất nhiều truyền thuyết Việt Nam đã được biên chép trong văn bia, thần
phả, nhân vật chí, địa phương chí… như một loại trước tác sử học và văn học, kết quả
là tạo ra một thể loại văn học lịch sử trong văn học thành văn thời trung đại: đó là thể
truyền kỳ” [6, 643]
Như vậy, ở đây các tác giả không chỉ nói về một hay nhiều thể loại văn học dân
gian nói chung mà còn tìm ra mối liên hệ ảnh hưởng, tiếp thu kế thừa văn bản hóa văn
học dân gian của những sáng tác văn học viết sau này.

5


Năm 1999, Đặng Văn Lung viết cuốn Tam toà Thánh Mẫu, đã khẳng định:
“Mẫu Liễu đã ấn định vận mệnh văn hóa dân tộc và cả vận mệnh tôn giáo nước ta từ
cách đây gần 500 năm và còn mãi sau này nên là bất tử… Mẫu Liễu biến hóa linh dị
và trở thành một phương tiện nghệ thuật - tư tưởng cơ bản để thể hiện cái cảm quan
mãnh liệt của nhân dân ta về lịch sử và sự sang trang lịch sử. Cái cảm quan đã đánh
thức với một sức mạnh vô song: cởi bỏ văn hóa nô dịch, làm ra lịch sử văn hóa của
mình, cho mình” [38,10].
Năm 2000, Hồ Đức Thọ khẳng định: “Riêng tục thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh là
nét độc đáo mang bản sắc của cư dân vùng lúa nước, vùng châu thổ sông Hồng và các
tỉnh trong cả nước có liên quan”

[77,5]


. Và “Ảnh hưởng của Mẫu Liễu, một xu hướng

“hồi cổ” của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước thuộc nhiều tỉnh, nhiều vùng, đặc
biệt là trên địa bàn châu thổ sông Hồng như Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Ninh
Bình, Hà Nội, Hà Nam…Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện khi xã hội có đủ yếu tố chủ quan,
khách quan của tâm thế xã hội. Nó biểu hiện truyền thống tín ngưỡng văn hóa của dân
tộc. Nó cũng thể hiện xu hướng bài trừ “vọng ngoại” do đó mà diện mạo tục thờ Mẫu
Liễu Hạnh vừa phong phú, đa dạng vừa có ý nghĩa độc lập tự chủ” [77,7].
Đức Mẫu Liễu được thờ phụng ở khắp mọi nơi, từ miền xuôi đến miền núi, từ
Bắc đến Nam: những nơi thờ chính, quy mô lớn và có những ngày lễ hội trọng đại
được gọi là Phủ: Phủ Dầy (Nam Định), phủ Sòng (Thanh Hóa), phủ Tây Hồ (Hà Nội),
phủ Thượng Đoạn (Hải Phòng)… Ngoài ra, có hàng nghìn đền thờ mà Thánh Mẫu
Liễu Hạnh cùng được phối tự, rồi trong tất cả các ngôi chùa ở miền Bắc đều có thờ tự
Thánh Mẫu. Tại những phủ, điện thờ Đức Mẫu Liễu, việc cầu cúng diễn ra quanh năm.
Những phủ lớn hàng năm có những ngày hội hè tấp nập. Lớn nhất là lễ hội đền Sòng
và lễ hội phủ Dầy. Các nghi thức lễ bái cũng được tiến hành như ở nhiều đến miếu
khác, năm 2001 tác giả Mai Ngọc Chúc trong cuốn Thần nữ và liệt nữ Việt Nam đã chỉ
ra chức năng của Mẫu Liễu trong những hành động hội lễ: “Hình thức hầu đồng, lên
đồng tại các hội hè tế lễ, tỷ lệ đậm nhất ở những nơi thờ các mẫu, các cô… đều có liên
quan đến việc thờ phụng Liễu Hạnh”[22,118].
Năm 2004 tác giả Nguyễn Quốc Tuấn trong bài báo “Mẫu Liễu Hạnh qua góc
nhìn tôn giáo” in trong tạp chí Tôn giáo, số 6 có đề xuất: “Tôn giáo này đáp ứng nhu
cầu của lớp người nào và có phạm vi ảnh hưởng đến đâu… nhiều tầng lớp người tìm
thấy ở sự thờ phụng Mẫu Liễu một sự phù hộ và ban phép… Mẫu Liễu là tôn giáo của

6


sự Sinh, không phải là tôn giáo của sự Tử hay Sinh Tử. Câu trả lời về hạnh phúc và
phồn vinh được đặt ngay nơi cuộc sống, không phải là sau cuộc sống” [66,53].

Năm 2004 Tác giả Đặng Anh cung cấp thêm một tư liệu tìm thấy ở đền Sòng
(Thanh Hóa). Đó là cuốn sách bằng đồng gồm 5 tờ ghi những chi tiết Lê Tư Vĩnh gửi
hậu cho con gái là Giáng Tiên vào năm 1939, khi tổng đốc Thanh Hóa cho trùng tu lại
ngôi đền. Tác giả còn minh chứng bằng chính những bức ảnh chụp lại ở đền Sòng: bức
1, ảnh đền Sòng năm 1939, bức 2, cuốn sách bằng đồng và cái tráp [1,40] bức 3, cuốn
sách “có tờ bằng đồng”; bức 4, nơi phát hiện ra cuốn sách “có tờ bằng đồng” ở đoạn
giữa cây bên trái và bình phong gần đó [2,41] bức 5, 6 là cảnh lễ hội đền Sòng đang diễn
ra từ ngày 10 đến 26 - 2 âm lịch[2, 42].
Năm 2005 Vũ Ngọc Khánh trong phần truyện dân gian về Liễu Hạnh cũng
nói:“ Câu chuyện Liễu Hạnh không phải chỉ có như thế. Nội dung được biến hóa khá
nhiều” [32,132]. Sang mục Sòng Sơn đại chiến, ông tiếp: “Truyện Liễu Hạnh theo lời kể
trong truyền kỳ tân phả là truyện dân gian được nhà nho sắp đặt lại. Những người
theo Đạo gia thấy Liễu Hạnh được nhân dân kính mộ cũng tìm cách khai thác để đề
cao đạo phái của mình. Do đó mà từ khoảng giữa thế kỷ XVIII, truyện Liễu Hạnh
được chắp nối thêm”

[32,132]

. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian này biên soạn cuốn Nữ

thần và Thánh Mẫu, ông đã đảo ngược vấn đề: “Liễu Hạnh xuất hiện từ thời Lê, cũng
không phải là nhân vật lịch sử nên không chép đến bà”[32, 129].
Năm 2007 Phạm Minh Thảo khi biên soạn cuốn Thánh Mẫu Việt Nam đã khái
quát lại: “Mẫu Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh bất tử ở Việt Nam. Bà là biểu
tượng cho sức sống giải phóng tự do, lòng nhân đạo, là chỗ dựa cho tầng lớp bình
dân…Bà trừ họa mang phúc đến cho con người” [71,69].
Cùng năm 2007, khi nghiên cứu về tín ngưỡng và phong tục Việt Nam Trương
Thìn đã đưa ra một kết luận về vị trí của Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong tín ngưỡng Tứ
bất tử của Việt Nam: “Dân ta chọn Liễu Hạnh để làm Mẫu trong Tứ phủ và cũng là
trong Tứ bất tử, là sự lựa chọn thông minh và thể tất nhân tình. Trong huyền thoại Việt

Nam có nhiều người mẹ xứng đáng ở ngôi tôn, nhưng xét ra, Liễu Hạnh đáp ứng được
trọn vẹn hơn niềm tín ngưỡng. Người đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm, chia sẽ với trần
gian những phút cảm thông, cũng am hiểu văn chương, đạo lý, cũng đánh giặc cầm
quân, cũng đi chữa bệnh cho người”

[73, 115]

. Tứ bất tử là bức tranh phản ánh lịch sử của

đất nước và dân tộc. Những sự tích và huyền thoại về các vị thần linh, trong đó có

7


Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã thâu tóm tính lịch sử cụ thể và hiện thực thành một thứ lịch sử
tinh thần, một thứ lịch sử mang đầy thi hứng và thẩm mĩ vang lên như một bản trường
ca được truyền tụng và vang vọng tới mai sau. Đó là ý thức hệ nhân sinh Việt Nam đã
được ký thác vào các biểu tượng thuần túy Việt Nam, mà bao thế hệ từ xưa đến nay suy
tôn, thờ phụng.
Năm 2010, nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Ngô Đức Thịnh cho ra đời cuốn
Đạo Mẫu Việt Nam, công trình dày hơn 800 trang, là sự tổng kết một chặng đường dài
nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian Thánh Mẫu ở Việt Nam. Đây là công trình nghiên
cứu có tầm rộng và chứa đựng nội dung văn hoá rất phong phú và sâu sắc. Ngoài
những vấn đề chung, Đạo Mẫu Việt Nam còn đi sâu nghiên cứu việc thờ Mẫu tam phủ,
tứ phủ ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam, và sự tích hợp các giá trị văn hoá, xã hội trong
loại hình tín ngưỡng dân gian này. Công trình cũng đã dành rất nhiều sự quan tâm tới
Mẫu Liễu Hạnh, vị Mẫu được coi là thần chủ của Đạo Mẫu Việt Nam.
Gần đây nhất, năm 2012 khi Vũ Ngọc Khánh viết Tục thờ Thánh - Mẫu ở Việt
Nam đã chú ý đến một hình thức diễn xướng độc đáo trong sinh hoạt văn hóa tín
ngưỡng thờ Mẫu của nhân dân ta: “Nói đến tín ngưỡng thờ Mẫu còn phải nói đến các

hình thái diễn xướng như âm nhạc, hát chầu văn, hát bóng và lên đồng. Khi nghiên
cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu, không thể không chú ý đến hiện tượng lên đồng, mà về
bản chất đây là hiện tượng mượn thân xác của ông đồng bà đồng để thần linh đạo
Mẫu nhập vào nhằm xin tài lộc, sức khỏe, còn về nghệ thuật, hầu đồng là nghệ thuật
diễn xướng tổng hợp của âm nhạc, lời ca, điệu múa… trên một sân khấu tâm linh”(30).
Tục thờ Mẫu đã trải qua trường kỳ lịch sử, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân
dân. Nó là một hiện tượng đầy sức sống, là truyền thống tích cực của văn hóa dân tộc.
Phải chăng sức sống ấy, cái làm nên truyền thống ấy, là do bởi chính nó đã mang
những đặc trưng riêng. Vậy nên các nhà nghiên cứu đã thống nhất rằng: tín ngưỡng
thờ Mẫu là một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, mà gắn bó với tín ngưỡng thờ
Mẫu là hệ thống các huyền thoại, thần tích, các bài văn chầu, các truyện thơ Nôm, các
bài giáng bút…
Trong sáng tác dân gian, Đức Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện trong hầu khắp các thể
loại: truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ, câu đối, văn bia, văn chầu… Tuy
nhiên, hình tượng Mẫu Liễu được nghiên cứu trong văn học dân gian không nhiều. Phải

8


đến những năm đầu thế kỷ XX, việc nghiên cứu mới xuất hiện nhiều và có tính hệ thống.
Thể loại được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất là truyền thuyết, truyện cổ tích.
2. Lịch sử nghiên cứu về Đức Thánh Trần
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn - người anh hùng cứu nước, vị tướng tài
trong lịch sử dân tộc và là người cha được nhân dân bao đời ngưỡng mộ, đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu, rất nhiều bài viết về vị danh nhân này.
Trước hết nguồn tư liệu Hán Nôm về Đức Thánh Trần khá dồi dào, bao gồm một
số bài tán, kinh kệ và các bài văn giáng bút nói về Ngài hoặc thác danh Ngài. Chẳng hạn
Lễ Trần triều hiển thánh khoa tập hợp các bản văn cúng Đức Thánh Trần và các tướng
lĩnh cùng vợ con. Liệt Thánh bản cáo (in năm Duy Tân 2/1918) gồm các văn giáng bút
của Đức Thánh Trần, Phạm Ngũ Lão… khuyên làm điều thiện, tránh ác. Hoàng Trần

miếu hoàng đạo kinh biên do đền Nam Mặc ở Nam Định in năm Thành Thái 17 (1905)
ghi chép về dòng dõi và thế thứ nhà Trần. Trong Trần Gia ngọc phả có các bài kinh
giáng bút, bài huấn - dụ, tự tán… Sách Đạo giáo pháp môn thư pháp dạy cách vẽ bùa,
đọc thần chú, thỉnh Hưng Đạo Vương về trừ tà. Vạn Bảo quốc âm chân kinh và Vương
giả hương nam âm chân kinh gồm nhiều bài thơ ca giáng bút của Đông Thiên Vương,
Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng và Vân Hương Thánh Mẫu. Ngoài ra, còn một loạt
những tài liệu khác cũng viết về Đức Thánh Trần như: “Liệt thánh châm biến chân
kinh” (1802), Minh tâm độ kiếp chân kinh (1911), Sớ văn tập, Thiên thu kim giám chân
kinh, Trần triều hiển thánh tản văn (1902), Hưng Đạo chính kinh bảo lục (1912).
Ngoài những cuốn sách tư liệu Hán Nôm còn một số sách tiếng Việt cũng ghi
chép lại cuộc đời hoặc một số chi tiết có liên quan đến Trần Hưng Đạo như: Nam Hải
dị nhân của Phan Kế Bính, Việt điện u linh tập lục toàn biên của Ngọc Hồ và Nhất
Tâm… một số sách ghi chép phong tục ở đầu thế kỷ XX của Toan Ánh, Phan Kế Bính,
Đào Duy Anh đều ít nhiều có ghi chép về việc thờ phụng Đức Thánh Trần.
Trần Hưng Đạo là vị anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự, cho nên tài liệu và
những công trình nghiên cứu về cuộc đời đánh giặc của ông được các nhà sử học ghi
chép, tái hiện rất chi tiết qua những mốc lịch sử cụ thể. Giữ lòng nhân ái với người,
trung hiếu với quốc gia, tín nghĩa với anh em tướng sĩ, nhưng sau chiến thắng chống
quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng, dù có công rất lớn, Trần Quốc Tuấn vẫn rời
Thăng Long, thanh thản về sống ở thái ấp Vạn Kiếp, nơi ông đã lập vườn Dược Sơn
trồng cây thuốc. Ngay lúc ốm nặng thập tử nhất sinh, ông vẫn canh cánh nỗi niềm với
đất nước, tâu lên vua kế sách sâu rễ bền gốc. Khi ông mất, vua Trần Thánh Tông làm
9


bài văn bia ở sinh từ ví ông với Thượng phụ và tặng danh hiệu “Thái sư Thượng phụ,
thượng quốc công, Nhân võ Hưng Đạo Đại Vương”.
Năm 1992 sử thần Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã viết
lời án: “Danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương không mấy đời có; kiêm cả văn
võ, thừa trí dũng, dựng nên công lao sự nghiệp kỳ vĩ mà giữ vững trung nghĩa cùng

một hàng với Quách Tử Nghi. Ông không những là anh hùng của một thời đại mà cho
đến các bậc tướng thần cổ kim cũng ít ai bì kịp”(12).
Với những chi tiết đặc biệt trong lịch sử, Trần Hưng Đạo đã bước vào đời sống
dân gian, từ đó cuộc đời ông có thêm những chi tiết mới đậm màu sắc huyền thoại.
Nếu trong lịch sử ông là vị tướng tài thì trong tâm thức dân gian ông được hình dung
như một vị Thánh. Các nhà nghiên cứu văn hoá lại xem xét hiện tượng Đức Thánh
Trần dưới sự soi chiếu của dòng tín ngưỡng tôn giáo bản địa.
Năm 1930, Nguyễn Văn Khoan khi nghiên cứu về sự phụng thờ Thành hoàng
của các làng ở Bắc Kỳ đã nhận xét rằng: “Ba việc thờ phụng chính của dân gian chia
theo nguyện vọng của quần chúng: thờ phụng các chư vị, thờ các tướng của Trần
Hưng Đạo và thờ phụng các linh hồn ở dưới cõi âm, quỷ sứ. Những người chuyên thờ
các chư vị là các bà Đồng, những người chuyên thờ các ông tướng của Trần Hưng
Đạo là các ông Đồng hoặc các thầy pháp, những người chuyên thờ các linh hồn âm
phủ là các thầy bùa hoặc các thầy phù thuỷ”. Như vậy ngay từ những năm đầu thế kỷ
XX sự phụng thờ Đức Thánh Trần đã được khẳng định.
Năm 1994, hội văn học nghệ thuật tỉnh Hải Hưng (nay thuộc Hải Dương) đã tổ
chức hội thảo khoa học về Đức Thánh Trần với địa danh Kiếp Bạc và khẳng định:
mảnh đất Vạn Kiếp là nơi hội tụ khí thiêng sông núi, và thực sự gắn bó với cuộc đời
Trần Hưng Đạo khi là nhà quân sự tài ba, cũng như khi đã hoá Thánh.
Năm 1998, thư viện tỉnh Hải Dương cho xuất bản cuốn Sự tích Trần Hưng Đạo.
Cuốn sách là sự tập hợp những câu chuyện dân gian có liên quan đến những di tích
lịch sử của vùng đất Hải Dương. Trong đó có sự giải thích nguồn gốc các địa danh như
núi Dược Sơn, Giếng ngọc, đường kéo thuyền trên dãy núi Phượng Hoàng…
Năm 1999 Giáo sư Vũ Ngọc Khánh viết Đạo Thánh Việt Nam, tác giả khẳng
định: “Đức Thánh Trần đảm bảo được tất cả những yêu cầu của quy luật lịch sử tín
ngưỡng, lịch sử tôn giáo để trở thành một dòng đạo: phải có được vị giáo chủ siêu
trần, được tôn vinh trong huyền sử, có sự sinh hoá diệu kỳ, có nhiều yếu tố kỳ vĩ; có
giáo lý, có học thuyết cụ thể; có quy phạm để ràng buộc những đệ tử”. Ông còn khẳng

10



định thêm: “Trong các vị thần linh của đạo nội (đạo trong nước), Đức Thánh Trần là
nhân vật có vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy không phải là vị thần sớm nhất của đạo
Nội (khi trong dân gian còn lưu danh Chử Đạo Tổ) nhưng Đức Thánh Trần là vị nhân
thần đầu tiên tạo nên được một dòng tín ngưỡng riêng trong hệ thống Đạo Nội Việt
Nam: tín ngưỡng Đức Thánh Trần”(29).
Năm 2000, trên trang nhất báo Nhân dân, Phạm Long Xuyên có bài Nghi lễ
chầu văn của người Việt qua hiện tượng Đức Thánh Trần, ông viết: “Trần Hưng Đạo
vẫn đang “sống”, người là vị Thánh trong lòng dân. Sự phụng thờ Ngài là một hiện
tượng văn hoá xã hội, kinh tế, chính trị và tôn giáo có sự tiếp cận của nhiều luồng văn
hoá hiện đại và truyền thống”.
Trên tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 9/2000, Phạm Quỳnh Phương viết “Từ Trần
Hưng Đạo đến Đức Thánh Trần” bài báo của tác giả tập trung làm rõ vấn đề Đức
Thánh Trần từ con người trở thành vị Thánh: “Từ một nhân vật lịch sử, Trần Hưng
Đạo trở thành một vị Thánh là do hiện tượng văn hoá này đáp ứng được cả ba nhu
cầu của người lãnh đạo quốc gia ở nhiều thời đại (cần một biểu tượng đề cao tinh
thần yêu nước và truyền thống đánh giặc nhằm củng cố sức mạnh cộng đồng trước
mọi biến cố xã hội); nhu cầu của tầng lớp trí thức (cần một biểu tượng về địa linh
nhân kiệt), một anh hùng lịch sử văn hoá và tấm gương để giáo dục truyền thống cho
các thế hệ nối tiếp); nhu cầu của quần chúng bình dân (cần biểu tượng một sức mạnh
siêu phàm trợ giúp sức khoẻ, trừ mọi tà ma bệnh tật)” Từ đó, tác giả đi đến kết luận:
“Trần Hưng Đạo là một biểu tượng đa diện”.
Năm 2009, Trịnh Quang Khanh đã biên soạn cuốn Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn, công trình này được nghiên cứu chia theo hai phần lớn: phần thứ nhất về
cuộc đời và sự nghiệp của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn; phần thứ hai về Hưng
Đạo Đại Vương trong ký ức người đời. Cuốn sách là sự tổng hợp về cuộc đời, sự
nghiệp và thân thế của Hưng Đạo Vương, đồng thời khẳng định sức sống của vị Thánh
nhân trong tâm thức nhân dân.
Năm 2010 nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Hồ Đức Thọ biên soạn “Trần triều

- Hưng Đạo Vương trong tâm thức dân tộc Việt” ông viết: “Trần Hưng Đạo là một đại
anh hùng, một người cha thân thương hiếm có và ông là linh hồn của Đại Việt, là Đức
Thánh Trần của trời Nam. Dân gian muốn sự bất tử của ông sẽ còn hiển linh giúp dân
trong đời sống tâm linh. Mờ mờ ảo ảo hoặc bán tín bán nghi nhưng vẫn hy vọng tìm

11


thấy một sự thần hiệu, một việc ban ân nào đó của Đại Vương nên hàng năm không cứ
nhân dân Tức Mặc, Bảo Lộc, nhân dân Trần Thương, Long Hưng, Vạn Kiếp, Chí
Linh… mà đồng bào cả nước kể cả từ thành phố Hồ Chí Minh xa xôi, Vũng Tàu hoặc
kiều bào ở nước ngoài của đến dịp 20/8 là nhớ đến giỗ cha, cũng như tháng ba là nhớ
đến giỗ mẹ (mẫu Liễu)”(79). Như vậy chúng ta thấy sự tôn kính Hưng Đạo Đại Vương
chính là giữ gìn bản chất “chân, thiện, mỹ” của dân tộc, được giáo truyền từ đời ông
cha cho đến các thế hệ con cháu sau này. Đó cũng chính là nét đẹp trong bản sắc văn
hoá Việt Nam ta.
Năm 2012, với công trình nghiên cứu Đức Thánh Trần với Thiên Trường và
cộng đồng dân tộc Việt, nhà nghiên cứu Hồ Đức Thọ lại thêm một lần khẳng định:
“Đức Thánh Trần được cộng đồng dân tộc Việt kính cẩn nghiêng mình, con dân đất
Thiên Trường lại càng thấm thía ngưỡng vọng, và gửi gắm niềm tin, hoài bão được
Ngài xét tới và ban phúc huệ cho dân, đoái tưởng đến lớp người bần cùng, hoạn nạn
để giải tai ương, vận hạn cho cuộc đời bớt đi cảnh gieo neo. Và đâu chỉ có cộng đồng
Thiên Trường cùng dân tộc Việt kính trọng Đức Thánh Trần, kẻ thù xâm lược hung
hãn nhất thế giới ở thế kỷ XIII cũng phải nể sợ, tâm phục, khẩu phục bởi tài làm
tướng, cách dùng binh mà không dám gọi tên huý của Ngài, chỉ nhắc tới tước hiệu An
Nam Hưng Đạo Vương”(81).
Năm 2012 khi Ngô Đức Thịnh chủ biên công trình nghiên cứu Tín ngưỡng và
văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam, ông đã đặc biệt quan tâm tới tín ngưỡng Đức Thánh
Trần một trong những tín ngưỡng tiêu biểu và đặc sắc của dòng văn hoá dân gian Việt
Nam. Ông kết luận: “Tín ngưỡng Đức Thánh Trần có bản chất là tín ngưỡng thờ Phúc

thần, nhưng đồng thời cũng là một tín ngưỡng phưc hợp được hội tụ bởi nhiều dạng
thức tín ngưỡng: sùng bái người anh hùng hiển Thánh (đạo Thánh), tín ngưỡng thần
tiên (đạo Tiên), tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (đạo Tiên), tín ngưỡng thờ cúng Mẫu (đạo
Mẫu) và cả tín ngưỡng thờ thần tự nhiên (thuỷ thần)…”
Gần đây nhất, trong công trình nghiên cứu luận án tiến sĩ, Phạm Quỳnh Phương
Viện nghiên cứu văn hoá đã có sự tổng hợp đầy đủ và khá toàn diện về tín ngưỡng
Đức Thánh Trần trong đời sống văn hoá dân gian. Luận án đi từ truyền thuyết, các di
tích và lễ hội đến sự khẳng định bản chất của hiện tượng Đức Thánh Trần: “Tín
ngưỡng Đức Thánh Trần đúng là đã lập cước trên một nền luân lý bền vững ngàn đời
của dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, ý chí tự lực tự

12


cường cũng như lòng nhân ái bao dung. Đối với các tôn giáo ngoại lai như Phật giáo,
Đạo giáo và cả Ki Tô giáo, nếu điểm nào trong các giáo lý phù hợp với nền luân lý ấy,
trong hệ quy chiếu ấy, đều được người Việt chấp nhận. Ngược lại sẽ bị từ chối, gạt bỏ.
Cái gọi là động cơ tâm lý của dân chúng dẫn tới tôn thờ vị thần linh của Nội Đạo,
hình thành hình thức tín ngưỡng dân gian đặc biệt này thực ra không ngoài việc sùng
bái người anh hùng cứu nước cứu dân đã có được đầy đủ phẩm chất và tài năng theo
chuẩn mực mà họ luôn mong ước: trung hiếu, nhân lễ, trí dũng, tín nghĩa”.
Lịch sử nghiên cứu về Đức Thánh Trần không những trải dài theo chiều dài lịch
sử, mà còn được mở rộng trên nhiều phương diện nghiên cứu khác nhau, thật khó để
có thể thống kê cho hết những công trình, những bài báo, những tạp chí đề cập đến
Ngài. Lược sử các vấn đề nghiên cứu trên, chúng tôi thấy, hầu hết các tác giả đều quan
tâm đến Trần Hưng Đạo như một thiên tài quân sự, một anh hùng dân tộc, và xoay
quanh sức sống trường tồn của Đức Thánh trong đời sống sinh hoạt tín ngưỡng dân
gian. Văn học dân gian về Đức Thánh Trần cũng đã được đề cập đến, nhưng ở một góc
độ khá khiêm tốn. Những truyền thuyết, thần tích, thần phả về Ngài được kể xen kẽ
khi các tác giả nghiên cứu con đường từ người trở thành Thánh của Ngài. Điều đó,

chưa thể nói hết những giá trị mà văn học dân gian mang lại trong việc bảo lưu hình
tượng một anh hùng, một vị Thánh trong lòng nhân dân.
3. Lịch sử nghiên cứu cặp nhân vật “Mẫu Liễu - Đức Thánh Trần”
Trong lịch sử nghiên cứu văn hoá dân gian, cặp nhân vật Mẫu Liễu - Đức
Thánh Trần được nhắc tới không nhiều. Từ đầu thế kỷ XX mọi sự nghiên cứu còn khá
độc lập, người ta đi tìm các giá trị văn hoá trong một hiện tượng cụ thể. Bởi vậy, như
chúng ta thấy có rất nhiều công trình, bài viết về Thánh Mẫu và Đức Thánh Trần
nhưng tất cả đều ở dạng độc lập, như trên đã nêu. Phải đến những năm cuối thế kỷ XX
và đầu thế thế kỷ XXI, khi các nhà khoa học Việt Nam bắt đầu quan tâm nhiều tới
phương pháp so sánh, khi đó mới có một số công trình song song đề cập tới hai hiện
tượng văn hoá một là nữ thần, một là nam thần; một nhiên thần, một nhân thần: Mẫu
Liễu và Đức Thánh Trần.
Năm 2010, Giáo sư Ngô Đức Thịnh soạn thảo cuốn Đạo Mẫu Việt Nam, một
công trình khá bề thế và dày dặn về văn hoá dân gian Đạo Mẫu, ông có đề cập đến
Thánh Mẫu và Đức Thánh Trần trong hệ thống tín ngưỡng tam tứ phủ: “Trong điện
thần Tứ phủ, Mẫu Liễu là vị Thánh xuất hiện khá muộn, khoảng thế kỷ XV - XVI thời

13


Hậu Lê, nhưng nhanh chóng trở thành vị thần chủ của Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ.
Thánh Mẫu Liễu vừa là thiên thần (Tiên) vừa là nhân thần với đời sống trần gian, có
cha mẹ, chồng con, chu du khắp nơi trừ ác, ban lộc, khiến người đời vừa sợ, vừa
trọng. Có lẽ với Mẫu Liễu và với cả Đức Thánh Trần nữa, họ đã trở thành biểu tượng
của sự kết hợp giữa thần linh và đời thường, giữa nhu cầu tâm linh hướng về cái cao
cả, chân thiện mỹ, với việc chữa bệnh trừ ma tà, cứu giúp con người trong những khó
khăn đời thường, cũng như cầu tài lộc”(76).
Năm 2012 nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh viết Tục thờ Thánh - Mẫu ở Việt
Nam, công trình là sự khái quát về những sinh hoạt văn hoá dân gian xung quanh tín
ngưỡng thờ Đức Thánh Trần và tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu, ông khẳng định: “Tục thờ

Thánh - Mẫu trải qua trường kỳ lịch sử, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân từ
buổi đầu dựng nước đến nay. Nó là một hiện tượng đầy sức sống, là truyền thống tích
cực của văn hoá dân tộc”. Tác giả đặc biệt quan tâm đến hình thái diễn xướng đạo
Mẫu như âm nhạc, hát chầu văn, hát bóng và lên đồng “Khi nghiên cứu về tín ngưỡng
thờ Mẫu không thể không chú ý đến hiện tượng lên đồng, mà về bản chất thì đây là
hiện tượng mượn thân xác của các ông đồng, bà đồng để thần linh đạo Mẫu, nhập vào
nhằm cầu xin tài lộc, sức khoẻ, còn về nghệ thuật hầu đồng là nghệ thuật diễn xướng
tổng hợp của âm nhạc, lời ca, điệu múa… trên một sân khấu tâm linh”(30).
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều quan tâm đến vấn đề trước nhất là tín
ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, họ đặt hai dòng tín ngưỡng này
trong cùng một hệ để đối chiếu, tìm hiểu. Chưa có một công trình nào đi sâu, khai thác
kỹ về sự tương quan của tín ngưỡng Mẫu Liễu và tín ngưỡng Đức Thánh Trần, cũng
như chưa tác giả nào tìm về dòng văn học dân gian, trong đó có thể loại truyền thuyết
lấy đó làm xuất phát điểm để so sánh hai nhân vật thần linh này. Quá trình nghiên cứu
truyền thuyết về Mẫu Liễu và truyền thuyết về Đức Thánh Trần còn khá tản mạn, xuất
hiện sơ lược trong các bài viết của các nhà nghiên cứu lịch sử và văn hoá dân gian. Vì
vậy, đề tài Truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong tương quan với truyền thuyết
về Đức Thánh Cha Trần Hưng Đạo ở vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông
Bắc thực sự là một đề tài hấp dẫn, và là vấn đề mở cho tác giả luận văn nghiên cứu,
tìm hiểu.
III. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu

14


Nghiên cứu truyền thuyết về Mẫu Liễu Hạnh trong tương quan so sánh với
truyền thuyết về Đức Thánh Cha Trần Hưng Đạo ở một số tỉnh ven biển Bắc Bộ - Việt
Nam nhằm phân tích, đánh giá những giá trị văn học của thể loại truyền thuyết thông
qua hệ thống những truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh mà chúng tôi đã sưu tầm

được. So sánh với truyền thuyết về Đức Thánh Cha Trần Hưng Đạo với mục đích mở
rộng phạm vi nghiên cứu, để có cái nhìn và cách đánh giá tổng quan hơn khi tìm hiểu
truyền thuyết về Thánh Mẫu.
2. Đối tượng nghiên cứu
Truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh và Truyền thuyết về Đức Thánh Cha
Trần Hưng Đạo trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát trên một số tư liệu chính:
- Vân Cát thần nữ - Vũ Ngọc Khánh, Phạm Văn Ty, NXB dân tộc, 1990.
- Kể chuyện Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Phạm Trường Khang, NXB Hồng Đức, 2012.
- Mẫu Liễu sử thi - Hồ Đức Thọ, NXB Dân tộc, Hà Nội, 2000.
- Huyền tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh và di sản văn hóa lễ hội Phủ Dầy, NXB Văn
hóa thông tin, 2010.
- Tổng tập văn học dân gian người Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999.
- Sự tích Đức Thánh Trần, Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc
- Sự tích Trần Hưng Đạo - Mai Hồng (dịch), Thư viện tỉnh Hải Dương, 1998.
- Thiên Bản lục kỳ - Huyền thoại đât Sơn Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu mối tương quan giữa hai hệ thống truyền
thuyết về Mẫu Liễu và truyền thuyết về Đức Thánh Trần trên những phương diện cốt
truyện, nhân vật; chủ đề và môtip; tín ngưỡng dân gian.
IV. Đóng góp mới của đề tài
Luận văn là một bước tổng hợp mới có tính chất khảo sát, sưu tầm, đánh giá
một cách có hệ thống các truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh đang được lưu
truyền trên một phạm vi tương đối rộng (các tỉnh ven biển đồng bằng Bắc Bộ).
Nghiên cứu truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh được đặt dưới hệ đối chiếu
so sánh với truyền thuyết về Đức Thánh Cha Trần Hưng Đạo dưới góc nhìn văn học
dân tộc. Ở đây chủ thể so sánh là Mẫu Liễu một nhiên thần do dân gian hư cấu gắn
liền với những sinh hoạt văn hoá đời thường và có sức ảnh hưởng sâu rộng trong lòng
nhân dân. Đối tượng được so sánh là một nhân vật lịch sử có thật, hiển thánh nhờ
những chiến công rực rỡ và lòng ghi ơn của dân tộc. Từ những kiến giải ban đầu của

tác giả luận văn, cho ta thấy được sự tương đồng và khác biệt trong hệ thống truyền
thuyết nữ thần và nam thần qua hai hiện tượng đặc biệt này.
V. Phương pháp nghiên cứu
15


1. Phương pháp điền dã
Người viết đã tiến hành điền dã tại Phủ Dầy - Nam Định, Phủ Tây Hồ - Hà Nội,
Phủ Thượng Đoạn - Hải Phòng nơi thờ tự Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Đồng thời chúng tôi
cũng đã có quá trình khảo cứu tư liệu tại đền Trần - Nam Định, đền Kiếp Bạc - Hải
Dương, một số di tích tại huyện Thủy Nguyên - Hải Phòng.
2. Phương pháp thống kê, phân loại
Thống kê được hệ thống các truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh và hệ
thống các truyền thuyết về Đức Thánh Cha Trần Hưng Đạo.
Phân loại, so sánh các yếu tố, những môtip giống và khác nhau giữa hai hệ
thống truyền thuyết về nữ thần và nam thần qua hai hiện tượng cụ thể là Mẫu Liễu
Hạnh và Thánh Cha Trần Hưng Đạo.
3. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Khi xem xét từng văn bản cụ thể, người viết sẽ kết hợp thao tác phân tích bình
giảng để làm sáng tỏ giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật, khái quát tổng hợp từng
vấn đề được đặt ra. Từ việc phân tích rút ra những kết luận về quan niệm, tư tưởng
thẩm mỹ, tôn giáo tín ngưỡng của người Việt và thi pháp riêng của thể loại truyền
thuyết trong dòng văn học dân gian.
4. Phương pháp so sánh
Đặt hệ thống truyền thuyết về Mẫu Liễu Hạnh trong tương quan với truyền
thuyết về Đức Thánh Cha Trần Hưng Đạo, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh
nhằm đưa ra những nét tương đồng, khác biệt về hai hệ thống truyền thuyết này.
5. Phương pháp liên ngành
Văn học dân gian có mối quan hệ mật thiết với văn hóa dân gian, nghiên cứu
truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh, bên cạnh việc khai thác những yếu tố văn

học, chúng tôi đã vận dụng những hiểu biết về văn hóa dân gian để phân tích, giải mã
một số hiện tượng văn học có nguồn gốc từ trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian.
VI. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình
bày theo 3 chương:
Chương I: Hệ thống truyền thuyết về Mẫu Liễu trong tương quan với truyền
thuyết về Đức Thánh Trần ở phương diện cốt truyện, nhân vật.
Chương II: Truyền thuyết về Mẫu Liễu Hạnh trong tương quan với truyền
thuyết về Đức Thánh Trần ở phương diện chủ đề và môtip.
Chương III: Tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong tương quan với tín
ngưỡng thờ Đức Thánh Trần.
16


17


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I: HỆ THỐNG TRUYỀN THUYẾT VỀ MẪU LIỄU HẠNH TRONG
TƯƠNG QUAN VỚI TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỨC THÁNH TRẦN Ở
PHƯƠNG DIỆN CỐT TRUYỆN, NHÂN VẬT
I. Một số nhận xét chung
1. Về số lượng truyền thuyết
“Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian phản ánh những
sự kiện, nhân vật lịch sử, danh nhân văn hoá hay nhân vật tôn giáo thông qua sự hư
cấu nghệ thuật thần kì” (57), nhà nghiên cứu Lê Chí Quế đã định nghĩa như vậy. Truyền
thuyết nảy nở trong lòng dân tộc, phát triển trên cửa miệng của người đời, được truyền
lưu từ người này sang người khác, từ nơi này sang nơi khác… cứ như vậy số lượng
các truyền thuyết sẽ tăng lên theo cấp số nhân, thông qua hệ thống các dị bản. Truyền
thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh và truyền thuyết về Đức Thánh Cha Trần Hưng Đạo

có một khối lượng đồ sộ trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Tuy nhiên, khối
lượng đồ sộ đó là bao nhiêu thì chưa ai có thể thống kê hết được. Bởi đời sống của
truyền thuyết về hai vị Thánh tôn kính này nằm trong tâm thức mỗi con người, trên
cửa miệng của nhân dân và vẫn được tiếp tục phát triển rộng khắp qua tình cảm mến
yêu của người đời. Thật khó để có thể khơi hết, hệ thống hết những truyền thuyết về
Thánh Mẫu Liễu Hạnh và truyền thuyết về Đức Thánh Trần.Trong khả năng có hạn,
chúng tôi đã sưu tầm và thống kê được một số lượng không nhỏ những truyền thuyết
về Mẫu Liễu và truyền thuyết về Đức Thánh Trần tại một số tỉnh đồng bằng sông
Hồng và duyên hải Đông Bắc. Là một trong ba tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam, đồng
bằng sông Hồng được hình thành bởi sự bồi đắp phù sa của các dòng sông trong hệ
thống sông Hồng và sông Thái Bình. Trải qua thời gian, nó đã mang trong mình những
đặc điểm chung về bối cảnh địa lý, lịch sử và văn hoá của vùng đất này. Người Việt có
mặt ở nơi đây đã nhiều thiên niên kỷ. Trên cảnh quan địa lý đa dạng: sông ngòi, núi
đồi, đồng bằng, duyên hải, biển và hải đảo…, người Việt dần thích nghi với môi
trường để tạo lập cuộc sống và góp phần định hình diện mạo văn hoá của mình.
Trên cơ sở thực tế điền dã tại một số tỉnh của đồng bằng sông Hồng và duyên
hải Đông Bắc: Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hà Nội, Hải Phòng.
Cùng khảo sát trên các nguồn tư liệu chính:
- Vân Cát thần nữ - Vũ Ngọc Khánh, Phạm Văn Ty, NXB dân tộc, 1990.
- Kể chuyện Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Phạm Trường Khang, NXB Hồng Đức, 2012.
- Mẫu Liễu sử thi - Hồ Đức Thọ, NXB Dân tộc, Hà Nội, 2000.

18


- Huyền tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh và di sản văn hóa lễ hội Phủ Dầy, NXB Văn
hóa thông tin, 2010.
- Tổng tập văn học dân gian người Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999.
- Sự tích Đức Thánh Trần, Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc
- Sự tích Trần Hưng Đạo - Mai Hồng (dịch), Thư viện tỉnh Hải Dương, 1998.

- Thiên Bản lục kỳ - Huyền thoại đất Sơn Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.
Chúng tôi tập hợp được 34 truyền thuyết về Mẫu Liễu và 30 truyền thuyết về
Đức Thánh Trần.
Cụ thể như sau:
Bảng 1: Bảng thống kê số lượng truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh
STT Tên truyền thuyết
1
Sự tích công chúa Liễu Hạnh
2

Nguồn tư liệu
Truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn
Đổng Chi (chủ biên)
Trong sách Truyền kỳ tân phả -

Vân Cát thần nữ truyện

Đoàn Thị Điểm
3
4
5
6
7

Nữ thần Liễu Hạnh
Nữ thần Liễu Hạnh giáng trần
Giáng trần lần thứ hai
Nữ thần Liễu Hạnh trở về trời
Chúa Liễu được Thích Ca giải cứu


Bản kể của Nguyễn Văn Huyên
trích trong Sự phụng thờ các vị
thánh bất tử ở Việt Nam, nhà in
Viễn Đông - Hà Nội

8

Vân Hương Thánh Mẫu - tam thế giáng

9
10
11
12
13
14
15
16
17

sinh (sự tích)
Thánh Mẫu phụng mệnh giáng sinh
Kinh Thánh Mẫu Sòng Sơn, Hội
Thánh Mẫu bị trích xuống trần
Tiên Mẫu Việt Nam ấn tống, nhà
Thánh Mẫu tình nguyện xuống trần
Thông tính khi giáng khi thăng lần thứ nhì in Thanh Bình
Đức Tiên chúa hiện thân
Đức Tiên chúa về thăm nhà lần thứ hai
Đức Tiên chúa thọ giới phật tự
Thông tính khi giáng khi thăng lần thứ ba

Đức Tiên chúa và hai vị Tiên nương hiển

18

thánh
Đức Tiên chúa hiển ứng, vua Lê Thần Tôn

19

sắc phong Thượng đẳng thần
Huyền tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh

“Quảng cung linh từ phả ký”,
“Quảng cung linh từ bi ký”, “Cát
thiên tam thế thực lục” - được lưu
giữ ở Ban quản lý di tích - danh

19


thắng tỉnh Nam Định
20
21
22
23
24
25
26
27
28

29
30
31
32
33

Chuyện nàng Giáng Tiên
Thiên Bản kỳ lục - huyền thoại
Nàng Giáng Tiên xuất thế
Giáng Tiên - người con gái tài sắc vẹn đất Sơn Nam, Bùi Văn Tam (chủ
toàn
biên), NXB Đại học Quốc gia Hà
Giáng Tiên lấy chồng
Nội (sđd)
Giáng Tiên về trời
Gặp Trạng Bùng ở xứ Lạng
Tiên chúa gặp Trạng Bùng ở Tây Hồ
Lấy chồng ở làng Sóc - Nghệ An
Tiên chúa giáng trần ở Phố Cát
Sòng Sơn đại chiến
Chúa Liễu được Phật tổ Thế Tông giải cứu
Chúa Liễu và thầy Pháp Cống
Mẫu Liễu Hạnh với thầy pháp sư
Truyện dân gian vùng Hà Đông
Thánh Mẫu Liễu Hạnh thưởng ngoạn tại Ban quản lý di tích phủ Thượng

34

phủ Thượng Đoạn
Công chúa Liễu Hạnh mở quán bán hàng


Đoạn - Hải Phòng
Ban quản lý di tích phủ Tây Hồ -

Hà Nội
Tổng số = 34 truyền thuyết
Bảng 2: Bảng thống kê số lượng truyền thuyết về Đức Thánh Cha Trần Hưng Đạo
STT
1

Tên truyền thuyết
Hưng Đạo Đại Vương

Nguồn tư liệu
Tổng tập văn học dân gian

2

Thanh Tiên đồng tử giáng trần

người Việt
Theo “Cung lục linh tích

3
4
5
6
7
8
9

10
11
12
13

Sự tích ra đời của Trần Hưng Đạo
Hưng Đạo Vương chọn đất
Giếng mắt rồng
Hưng Đạo Vương chém giặc Phạm Nhan
Thanh kiếm thần của Trần Hưng Đạo
Đường kéo thuyền trên dãy núi Phượng Hoàng
Con đẻ con nuôi
Cái giếng
Dược sơn
Đám tang Trần Hưng Đạo
Con voi của Trần Hưng Đạo

hành trạng”
Văn chầu Trần triều hiển thánh
Ban quản lý di tích đền Kiếp
Bạc, Đền Kiếp Bạc và truyền
thuyết, Hội văn học nghệ
thuật Hải Hưng (sđd)

Ban quản lý đền A Sào (Thái
Bình) cung cấp

14
15
16


Vì đại nghĩa không nghe lời bố
Vì đại nghĩa tuyệt đối nghiêm khắc với con trai
Vì đại nghĩa vun trồng niềm tin đoàn kết
20

Danh nhân lịch sử Việt


17
18
19
20

Vì đại nghĩa giao lưu hoà hiếu
Nam (sđd).
Trần Hưng Đạo gặp sứ nhà Nguyên: Sài Thung
Trần Quốc Tuấn giành được người yêu
Nhân dân Thuỷ Nguyên - Hải Phòng với chiến Bài viết “Di tích và tư liệu
thắng Bạch Đằng 1288

lịch sử về Trần Hưng Đạo
trên đất Hải Phòng” của ông
Ngô Đăng Lợi - chủ tịch hội

21

KHLS Hải Phòng.
Sự tích tên gọi Lưu Kỳ, Lưu Kiếm (Thuỷ Từ điển bách khoa địa danh
Nguyên - Hải Phòng)


22

Hải Phòng do ông Ngô Đăng

Lợi (chủ biên)
Tấm lòng tin theo của nhân dân với Hưng Đạo Bài viết “Di tích và tư liệu
Đại Vương

lịch sử về Trần Hưng Đạo
trên đất Hải Phòng” của ông
Ngô Đăng Lợi - chủ tịch hội

23
24
25
26
27
28
29
30

KHLS Hải Phòng.
Theo thần tích còn lưu tại nội

Trần Quốc Tuấn và ngôi chùa Đỏ
Chùa Vẽ và ký ức về trận chiến trên sông Bạch tự chùa Đỏ
Đằng
Trần Hưng Đạo với đền Phú Xá
Ban quản lý di tích đền Phú

Xá - Hải Phòng
Ban quản lý di tích đền Trần

Giấc mộng phi thường
Đế khuyết giáng trần
Nam Định, tài liệu do bà
Truyền thuyết về ngôi mộ Hưng Đạo Vương ở
Trịnh Thị Nga cung cấp.
đền Bảo Lộc - Nam Định
Chuyện cây quạt vàng
Cung lục linh tích hành trạng
Tổng số = 30 truyền thuyết
Trên đây là bảng thống kê số lượng truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh và

truyền thuyết về Thánh Cha Trần Hưng Đạo mà chúng tôi sưu tập, tìm kiếm được. Đó
mới chỉ là những số lượng thống kê bước đầu, bởi lẽ, kho tàng văn học dân gian là vô
tận, những sáng tác trong dân gian vẫn đang trong quá trình được tập hợp lại. Tuy
nhiên, những thống kê này đã giúp chúng tôi có nguồn tư liệu khá dày dặn để có một
cái nhìn tương đối đầy đủ về hai nhân vật được tôn lên hàng Thánh Cha - Thánh Mẹ
trong lòng nhân dân. Hai bảng thống kê số lượng truyền thuyết trên đã giúp chúng tôi

21


trong việc so sánh truyền thuyết về Mẫu Liễu với truyền thuyết về Đức Thánh Trần
theo nhiệm vụ của luận văn đề ra.
2. Về mật độ của truyền thuyết ở các địa phương
Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc chứa đựng toàn bộ bề dày
lịch sử, văn hoá Việt Nam. Những di tích khảo cổ học minh chứng cho nền văn hóa
Đông Sơn, Hòa Bình nổi tiếng từ hồi tiền sử có giá trị: khoa học, giáo dục truyền

thống, giáo dục kiến thức. Những lễ hội truyền thống như lễ hội phủ Dầy, lễ hội đền
Trần (Nam Định), lễ hội Kiếp Bạc (Hải Dương), lễ hội kéo cờ phủ Thượng Đoạn (Hải
Phòng), Hội Lim (Bắc Ninh), Hội Gióng (Hà Nội), hội chùa Hương…. Là quê hương
của những làn điệu chèo, khúc ca quan họ, câu hát văn, của nghệ thuật tuồng, rối
nước, âm nhạc….
Kho tàng kiến trúc, mỹ thuật độc đáo như chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), Chùa
Keo (Thái Bình), cố đô Hoa Lư (Ninh Bình), chùa Cổ Lễ (Nam Định), Chùa Tây
Phương và Chùa Một Cột (Hà Nội). Những bảo tàng lớn và có giá trị nhất Việt Nam
tạo điều kiện cho du khách tham quan tìm hiểu, nghiên cứu.
Cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ là cư dân sống với nghề trồng lúa nước, làm nông
nghiệp một cách thuần túy. Biển và rừng bao bọc quanh đồng bằng Bắc Bộ nhưng từ
trong tâm thức, người dân nơi đây “xa rừng nhạt biển”. Nghề khai thác hải sản không
mấy phát triển. Có một câu ngạn ngữ: “nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền”.
Phương thức canh tác chính của cư dân đồng bằng sông Hồng vẫn là nghề trồng lúa
nước. Ở đây có hàng trăm nghề thủ công, có một số làng phát triển thành chuyên
nghiệp, có thợ tay nghề cao như: nghề gốm, luyện kim, đúc đồng. Những người nông
dân sống quần tụ thành làng. Sự gắn bó giữa con người và con người trong cộng đồng
làng quê, không chỉ là quan hệ sở hữu trên đất làng, trên những di sản hữu thể chung
như đình làng, chùa làng… mà còn là sự gắn bó các quan hệ về tâm linh, về chuẩn
mực xã hội, đạo đức. Đảm bảo cho những quan hệ này là các hương ước, khoán ước
của làng xã. Các hương ước, khoán ước này là những quy định khá chặt chẽ về một
phương diện của làng, từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy định sản xuất và
bảo vệ môi trường đến quy định về tổ chức làng xã, ý thức cộng đồng làng xã. Cư trú ở
nhiều vùng tự nhiên với kinh tế khác nhau, con người Việt Nam có những phong tục
tập quán khác nhau, có nếp sinh hoạt và lao động khác nhau. Do ảnh hưởng của khí
hậu gió mùa với hai mùa mưa và khô nên thủy chế các dòng sông, nhất là sông

22



Hồng cũng có hai mùa rõ rệt: mùa cạn dòng chảy nhỏ, nước trong và mùa lũ dòng
chảy lớn, nước đục. Ngoài khơi, thủy triều Vịnh Bắc Bộ theo chế độ nhật triều, mỗi
ngày có một lần nước lên và một lần nước xuống. Chính yếu tố nước, tạo ra sắc thái
riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lý ứng xử cũng như sinh hoạt cộng đồng
của dân cư trong khu vực, tạo nên nền văn minh lúa nước, vừa có cái chung và vừa có
cái riêng độc đáo của mình.
Qua quá trình điền dã thực tế, chúng tôi nhận thấy rằng sự xuất hiện của thuyền
thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh và truyền thuyết về Thánh Cha Trần Hưng Đạo có sự
khác nhau giữa các địa phương. Mỗi truyền thuyết khi được lưu truyền từ địa phương
này sang địa phương khác sẽ có những thay đổi cho phù hợp với phong tục tập quán,
nếp sống, nếp sinh hoạt của cộng đồng dân cư đó. Có những truyền thuyết chỉ là đặc
sản riêng của một địa phương, gắn với việc lý giải tên gọi một địa danh cụ thể hay một
phong tục đã trở thành truyền thống. Từ những số lượng thống kê ban đầu, chúng tôi
nhận thấy mật độ xuất hiện các truyền thuyết tại các địa phương là khác nhau. Cụ thể,
chúng ta có bảng phân bố số lượng và tỉ lệ truyền thuyết theo các địa phương ở vùng
đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc như sau:
Bảng 3: Bảng thống kê số lượng, tỉ lệ truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh
phân bố theo các địa phương ở vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc.
STT
1

Tên địa phương
Hà Nội

2

Hải Phòng

-


Nam Định

phong cảnh hữu tình
- Huyền tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh

3

Tên truyền thuyết
Số lượng Tỉ lệ (%)
Tiên chúa gặp Trạng Bùng ở Tây Hồ
Sự tích công chúa Liễu Hạnh
Vân Cát thần nữ truyện
09
27%
Nữ thần Liễu Hạnh
Nữ thần Liễu Hạnh giáng trần
Giáng trần lần thứ hai
Nữ thần Liễu Hạnh trở về trời
Chúa Liễu được Thích Ca giải cứu
Công chúa Liễu Hạnh mở quán bán hàng
Thánh Mẫu Liễu thưởng ngoạn nơi
01
03%

- Chuyện nàng Giáng Tiên
- Nàng Giáng Tiên xuất thế
- Giáng Tiên - người con gái tài sắc vẹn toàn
- Giáng Tiên lấy chồng

23


12

35%


- Giáng Tiên về trời
- Gặp Trạng Bùng ở xứ Lạng
- Lấy chồng ở làng Sóc - Nghệ An
- Tiên chúa giáng trần ở Phố Cát
- Chúa Liễu và thầy Pháp Cống
- Chúa Liễu được Phật tổ Thế Tông giải cứu
4

Thanh Hoá

-

Sòng Sơn đại chiến
Vân Hương Thánh Mẫu
Thánh Mẫu phụng mệnh giáng sinh
Thánh Mẫu bị trích xuống trần
Thánh Mẫu tình nguyện xuống trần
Thông tính khi giáng khi thăng lần thứ nhì
Đức Tiên chúa hiện thân
Đức Tiên chúa về thăm nhà lần thứ hai
Đức Tiên chúa thọ giới phật tự
Thông tính khi giáng khi thăng lần thứ ba
Đức Tiên chúa hiển ứng, vua Lê Thần


11

32%

01
34

03%
100%

Tôn sắc phong Thượng đẳng thần
- Đức Tiên chúa và hai vị Tiên nương
5

Hà Đông

hiển thánh
- Mẫu Liễu Hạnh và thầy pháp sư
Tổng =

Bảng 4: Bảng thống kê số lượng, tỉ lệ truyền thuyết về Thánh Cha Trần Hưng Đạo
phân bố theo các địa phương ở vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc.
STT
1

Tên địa phương
Hải Phòng

Tên truyền thuyết
Số lượng

- Nhân dân Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
với chiến thắng Bạch Đằng 1288
- Sự tích tên gọi Lưu Kỳ, Lưu Kiếm

Tỉ lệ (%)

06

20%

09

30%

(Thuỷ Nguyên - Hải Phòng)
- Tấm lòng tin theo của nhân dân với
Hưng Đạo Đại Vương
- Trần Quốc Tuấn và ngôi chùa Đỏ
- Chùa Vẽ và ký ức về trận chiến trên

2

Hải Dương

sông Bạch Đằng
- Trần Hưng Đạo với đền Phú Xá
- Hưng Đạo Vương chọn đất
- Giếng mắt rồng

24



- Hưng Đạo Vương chém giặc Phạm
Nhan
- Thanh kiếm thần của Trần Hưng
Đạo
- Đường kéo thuyền trên dãy núi
Phượng Hoàng
- Con đẻ con nuôi
- Cái giếng
- Dược sơn
3

Nam Định

-

Đám tang Trần Hưng Đạo
Hưng Đạo Vương (truyện cổ tích)
Thanh Tiên đồng tử giáng trần
Sự tích ra đời của Trần Hưng Đạo
Vì đại nghĩa không nghe lời bố
Hưng Đạo Vương gặp sứ nhà

11

37%

01


03%

03

10%

30

100%

Nguyên: Sài Thung
- Trần Quốc Tuấn giành được người yêu
- Giấc mộng phi thường
- Đế khuyết giáng trần
- Cung lục linh tích hành trạng
- Chuyện cây quạt vàng
- Truyền thuyết về ngôi mộ Hưng Đạo
4
5

Thái Bình
Quảng Ninh

Vương ở đền Bảo Lộc - Nam Định
- Con voi của Trần Hưng Đạo
- Vì đại nghĩa vun trồng niềm tin đoàn kết
- Vì đại nghĩa giao lưu hoà hiếu
- Người cha vì đại nghĩa tuyệt đối
nghiêm khắc với con trai
Tổng =


Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ phân bố truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh giữa
các địa phương thuộc đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc.

25


×