Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Biểu tượng cá từ cội nguồn văn hóa đến ca dao trữ tình người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

===

===

NGUYỄN HỒNG ANH

BIỂU TƯỢNG CÁ
TỪ CỘI NGUỒN VĂN HÓA
ĐẾN CA DAO TRỮ TÌNH NGƯỜI VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học dân gian

Người hướng dẫn khoa học
TS.GVC. NGUYỄN THN NGỌC LAN

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu, triển khai đề tài “Biểu tượng cá từ cội
nguồn văn hóa đến ca dao trữ tình người Việt”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, các thầy cô trong Tổ Văn
học Việt Nam và đặc biệt là TS. GVC Nguyễn Thị Ngọc Lan – người hướng
dẫn trực tiếp. Tôi xin được gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới các thầy cô!
Do sự hiểu biết còn có hạn cũng như năng lực nghiên cứu khoa học còn
hạn chế nên khóa luận chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót vì vậy
tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của quý thầy cô cũng như các bạn
sinh viên.


Hà Nội, ngày 5 tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Hồng Anh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Biểu tượng cá từ cội nguồn văn hóa
đến ca dao trữ tình người Việt” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có sự
tham khảo ý kiến, kiến thức chuyên ngành của những người đi trước, dưới sự
hướng dẫn của TS. GVC Nguyễn Thị Ngọc Lan.
Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, công trình có sẵn nào.
Hà Nội, tháng 05 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Hồng Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 5
5 . Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 5
7. Cấu trúc khóa luận...................................................................................... 6
NỘI DUNG ................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. BIỂU TƯỢNG CÁ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA

NGƯỜI VIỆT ............................................................................................... 7
1.1. Biểu tượng cá trong tín ngưỡng dân gian ................................................. 7
1.2. Biểu tượng cá trong nghệ thuật tạo hình dân gian .................................. 12
1.2.1. Cá trong hội họa ................................................................................. 13
1.2.2. Cá trong điêu khắc, kiến trúc .............................................................. 17
1.3. Biểu tượng cá trong đời sống văn hóa – cơ sở hình thành biểu tượng cá
trong văn học dân gian ................................................................................. 22
1.3.1. Cá trong truyện cổ dân gian ................................................................ 22
1.3.2. Cá trong ca dao ................................................................................... 24
CHƯƠNG 2. GIẢI MÃ CÁC NÉT NGHĨA CỦA BIỂU TƯỢNG CÁ
TRONG CA DAO TRỮ TÌNH NGƯỜI VIỆT ......................................... 30
2.1. Cá – hình ảnh biểu trưng cho người con gái .......................................... 30
2.2. Cá – hình ảnh biểu trưng cho chàng trai ................................................ 38
2.3. Cá – hình ảnh biểu trưng cho “đôi ta” .................................................... 43
2.4. Cá – hình ảnh biểu trưng cho thân phận con người ................................ 47
KẾT LUẬN ................................................................................................. 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 55


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cá được xem là biểu tượng đặc trưng, xuất hiện đa dạng trong văn hóa
người Việt cũng giống như các biểu tượng khác như: biểu tượng rùa, chim,
mặt trời, hoa sen,... Văn hóa người Việt được xuất phát từ nền văn hóa nông
nghiệp do đó các biểu tượng cũng xuất hiện gắn bó với các sự vật xung quanh
cuộc sống sinh hoạt của con người. Cá cũng là một trong số những biểu tượng
ấy. Nhắc đến “Cá”, người ta hình thành ý niệm về một biểu tượng xuất hiện
từ lâu đời. Người Việt có câu: “Nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng”, cho
thấy “ngư” có một vị trí quan trọng trong tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên, tôn
sùng vật tổ của dân gian. Biểu tượng cá được phản ánh trong thế giới ý niệm

của người Việt vô cùng phong phú, là hình ảnh cổ truyền có nguồn gốc từ xa
xưa. Cá đã trở thành biểu tượng mang ý nghĩa gần gũi với đời sống thường
nhật của người nông dân Việt Nam. Biểu tượng cá xuất hiện trong tín ngưỡng
người Việt với đa dạng các nét nghĩa, dưới cái nhìn đa chiều, trở thành biểu
tượng đặc thù cho nền văn hóa của cư dân nông nghiệp vùng sông nước. Biểu
tượng cá không chỉ xuất hiện trong đời sống văn hóa người Việt mà còn đi
vào trong văn học dân gian, đặc biệt là ca dao và mang nhiều nét nghĩa sâu
sắc.
Trong ca dao, hệ thống biểu tượng khá đa dạng, được hình thành từ
những hình ảnh thực tồn tại trong đời sống sinh hoạt của con người. Những
hình ảnh ấy được sử dụng với ý nghĩa khái quát cao, trở thành những biểu
tượng mang tính ký hiệu bền vững. Trên cơ sở khảo sát tư liệu, chúng tôi tập
trung tìm hiểu ý nghĩa biểu tượng của con cá trong ca dao trữ tình người Việt
và nhận thấy ở từng hoàn cảnh diễn xướng cụ thể, từ cội nguồn văn hóa đến
ca dao trữ tình, cá có thể là hình ảnh tượng trưng cho nhân vật trữ tình cô gái
hoặc chàng trai trong quan hệ tình duyên. Cũng có khi, cá trở thành hình ảnh

1


tượng trưng cho cả chàng trai và cô gái, mà không có sự phân biệt rạch ròi
chủ thể trữ tình. Ngoài ra cá còn mang ý nghĩa biểu trưng cho thân phận con
người, đặc biệt là người con gái chịu nhiều thua thiệt. Bằng lối diễn đạt hàm
Nn, hình ảnh cá trong ca dao trữ tình người Việt xuất hiện với nhiều ý nghĩa
biểu đạt khác nhau, đem đến cho người tiếp nhận những liên tưởng đa chiều,
mới mẻ và vô cùng thú vị về một loài động vật đặc trưng của nền văn hóa
nông nghiệp.
Việc lựa chọn đề tài “Biểu tượng cá từ cội nguồn văn hóa đến ca dao trữ
tình người Việt” thực sự có ý nghĩa khoa học trong việc khám phá và nghiên
cứu biểu tượng, một loại mã văn hóa tiêu biểu nhất.

2. Lịch sử vấn đề
Có thể thấy, tiếp cận và khai thác biểu tượng cá trong đời sống văn hóa
và văn học dân gian, trong đó có ca dao trữ tình đã được một số nhà nghiên
cứu quan tâm, có thể kể tới:
1. Trần Văn Nam, trong bài viết: “Câu – cá” trong ca dao Nam Bộ
(2008), đã khảo sát hình ảnh “cá, câu - cá” chủ yếu trên phương diện phương
tiện nghệ thuật của ca dao. Với tư cách phương tiện nghệ thuật, trong quá
trình biểu trưng hóa (quá trình chuyển nghĩa để những hình ảnh trở thành
những Nn dụ, những biểu trưng nghệ thuật) hình ảnh cá, câu - cá với những
nét nghĩa biểu trưng của nó, đã để lại dấu ấn văn hóa của cư dân nông nghiệp
vùng sông nước.
2. Trần Thị Mai Phương, trong Luận văn thạc sĩ: Biểu tượng cá trong ca
dao dân tộc Kinh và một số dân tộc thiểu số vùng núi phía bắc (2014), đã
thống kê tần số xuất hiện của biểu tượng cá trong ca dao dân tộc Kinh, Tày,
Nùng, Giáy, Thái, Mường. Từ đó giải mã một số ý nghĩa tiêu biểu của biểu
tượng cá trong ca dao dân tộc Kinh và một số dân tộc thiểu số miền núi phía
bắc. Luận văn cũng phân tích, so sánh những điểm tương đồng, khác biệt giữa

2


nội dung, hình thức nghệ thuật của biểu tượng cá trong ca dao dân tộc Kinh
và các dân tộc Tày, Nùng, Giáy, Thái, Mường, từ đó góp phần tìm hiểu thêm
về nền văn hóa Việt Nam, nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.
3. Trong tạp chí Nghiên cứu văn hóa của trường Đại học Văn hóa Hà
Nội, tác giả Nguyễn Văn Cương có bài: Ý nghĩa và biểu tượng của một số mô
típ trang trí tiêu biểu trong điêu khắc đình làng (2014), trong phần “Các mô
típ về động vật”, bên cạnh các hình ảnh: con rồng, kỳ lân, phượng hoàng, rùa,
hổ, hạc thì con cá cũng được đề cập đến khá rõ ràng. Qua bài viết, tác giả
muốn khẳng định ý nghĩa điềm báo của con cá: “Ở phương Đông quan niệm

con cá là con vật báo điềm lành. Người ta cũng cho rằng, nhiều giống cá
sống lâu và điều này con cá còn được gắn với biểu tượng của sự trường thọ.
Trong tiếng Hán, chữ “ngư” là cá với chữ “dư” là thừa thãi, có cách phát
âm là “Yu” rất giống nhau, cho nên con cá được xem như biểu tượng của sự
dư thừa, sung túc, giàu có. Từ thời đại Hùng Vương, con cá là nguồn thức ăn
giàu đạm, có mặt trong bữa ăn hàng ngày, được khảo cổ học minh xác qua
những vết tích xương cá ở nơi cư trú. Tác giả cũng đề cập đến hình ảnh cá
được điêu khắc và trang trí trên các công trình kiến trúc đền chùa,... Hình
ảnh cá được khắc vẽ trên đồ gốm Gò Chiền. Cũng vậy hình ảnh con cá, con
ốc đã được khắc vẽ, đúc tạc trên trống đồng, thố đồng, muôi đồng... Và hình
ảnh con cá sau này đã thấm sâu vào sinh hoạt của nhân dân, có mặt khắp
nơi, cái mõ hình con cá ở điếm làng Vân Nội, con cá chép thờ sơn son thếp
vàng trong đền thờ Chử Đồng Tử ở xã Dạ Trạch (Hải Hưng), ở hội làng Me
(Hà Tây) người ta đã tế thần Tản Viên bằng cá nướng. Rồi hình ảnh con cá
và người đi câu xuất hiện ở vị trí thứ hai chỉ sau những người rước bông lúa,
đi cày, đi cấy, trong trình diễn trò Trám ở Tứ Xã (Vĩnh Ph. Trong những ngôi
đình cổ thế kỷ XVI, như đình Tây Đằng, đình Lỗ Hạnh... hình tượng cá chép
hoá rồng đã được thể hiện khá phong phú, sinh động. Một con vật mang tính

3


lưỡng nguyên, đuôi là cá mà đầu đã thành rồng, trở thành gạch nối giữa cái
thiêng và cái tục. Cá chép còn có mặt trong các bố cục với hoa sen, sóng
nước…”.
Biểu tượng cá cũng là đề tài mà người viết yêu thích và tìm hiểu từ lâu.
Trong báo cáo khoa học tại Hội thảo sinh viên nghiên cứu khoa học các
trường Đại học Sư phạm toàn quốc (2014), báo cáo: Biểu tượng cá trong ca
dao trữ tình người Việt của người viết chính là tiền đề và định hướng phát
triển cho khóa luận tốt nghiệp Biểu tượng cá từ cội nguồn văn hóa đến ca dao

trữ tình người Việt này.
Như vậy, có thể nói, tuy đã có một số công trình nghiên cứu về biểu
tượng cá ở cả góc độ văn hóa và văn học dân gian song chưa có công trình
nào nghiên cứu biểu tượng cá với ý nghĩa biểu đạt đa dạng và sự diễn hóa độc
đáo từ cội nguồn văn hóa đến ca dao – một trong những thể loại quan trọng
bậc nhất của văn học dân gian Việt Nam. Vì thế, trên cơ sở kế thừa kết quả
nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi thực hiện đề tài khóa luận với mong
muốn có cơ hội tìm hiểu sâu hơn một biểu tượng động vật độc đáo, phản ánh
sinh động tư duy nghệ thuật cũng như đời sống sinh hoạt của cư dân nông
nghiệp, cư dân sông nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích nghiên cứu:
Biểu tượng cá cũng giống như các hình ảnh biểu tượng khác, xuất hiện
trong văn hóa, trong ca dao trữ tình đều mang những vai trò và tầm quan
trọng nhất định. Nghiên cứu về biểu tượng này không chỉ giúp chúng ta nhận
ra sự xuất hiện các dạng thức biểu hiện, các nét nghĩa biểu trưng của biểu
tượng cá mà còn giúp chúng ta nhận ra quá trình diễn hóa của biểu tượng cá
từ đời sống văn hóa đến ca dao trữ tình. Qua đó, thấy được cá là hình ảnh
mang ý nghĩa biểu tượng gắn liền với sự phong phú trong nét đẹp của tín

4


ngưỡng người Việt Nam, đề cao cái nhìn thNm mĩ của con người thuộc tầng
lớp bình dân xưa.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu những vấn đề sau đây:
- Làm rõ ý nghĩa của biểu tượng cá trong cội nguồn văn hóa: trong tín
ngưỡng dân gian, trong nghệ thuật tạo hình dân gian (hội họa, kiến trúc, điêu
khắc,...); Sự diễn hóa của biểu tượng cá từ văn hóa dân gian đến văn học dân

gian, đặc biệt là ca dao trữ tình.
- Giải mã các nét nghĩa hàm Nn của biểu tượng cá trong ca dao trữ tình
người Việt.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Biểu tượng cá trong đời sống văn hóa và trong ca dao trữ
tình người Việt.
- Phạm vi: Xác định, phân tích sự hiện diện cũng như ý nghĩa của biểu
tượng cá trong đời sống văn hóa và sự biến đổi ý nghĩa của biểu tượng trong
ca dao trữ tình người Việt. Trong quá trình khám phá, “giải mã” biểu tượng,
chúng tôi có sự liên hệ so sánh, đối chiếu với tư liệu của một số quốc gia trên
thế giới.
5 . Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
6. Đóng góp của khóa luận
- Kết quả nghiên cứu của đề tài “Biểu tượng cá từ cội nguồn văn hóa
đến ca dao trữ tình người Việt” góp thêm một tiếng nói vào quá trình nghiên
cứu biểu tượng nói chung. Đây là một hướng nghiên cứu không mới nhưng

5


vẫn có ý nghĩa trong việc khám phá những tín hiệu được gợi ra từ hình ảnh
một loài động vật quen thuộc với đời sống của người bình dân.
- Khóa luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập văn hóa, văn học dân gian.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Mục lục, Phụ lục,

Nội dung chính của khóa luận bao gồm 2 chương:
- Chương 1: Biểu tượng cá trong đời sống văn hóa người Việt
- Chương 2: Giải mã các nét nghĩa của biểu tượng cá trong ca dao trữ
tình người Việt

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. BIỂU TƯỢNG CÁ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
NGƯỜI VIỆT
Cá là các loài động vật thủy sinh sống trong môi trường nước, là động
vật có xương sống với nhiều chủng loại đa dạng. Từ rất lâu, các loài cá nước
ngọt cũng như cá biển là nguồn thực phNm dồi dào và quen thuộc con người
và vì vậy cá đã đi vào nhiều nền văn hóa của các nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, dân gian có câu: Nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng, đã
cho thấy mức độ ảnh hưởng đậm nét của “ngư” (cá) tới đời sống văn hóa của
con người.
1.1. Biểu tượng cá trong tín ngưỡng dân gian
Trong văn hóa phương Đông và đặc biệt là văn hóa Việt Nam, con cá
gắn với các loài động vật thủy sinh nói chung và coi như một biểu tượng của
thực phNm. Cá là con vật trung tâm trong việc đánh bắt các loài thủy sản, hải
sản, từ Hán Việt: Ngư nghiệp trong đó (chữ Ngư có nghĩa là cá) dùng để chỉ
về nghề khai thác các sản vật từ môi trường nước (và có phạm vi rộng tương
tự như nông nghiệp, lâm nghiệp), người Việt đã dùng cụm từ “nghề đánh
cá” hay “nghề cá” hoặc các thuật ngữ như “câu cá” qua đó nói lên tầm quan
trọng của cá hoặc là “ngư học”, liên tưởng về cá.
Người Việt Nam có câu: “Tôm, cua, rùa, cá” dùng để chỉ về những hải
sản, cá cùng với các loài vật khác xuất hiện trong trò chơi bầu cua tôm cá.
Người ta cũng dùng thuật ngữ “binh tôm tướng cá” chỉ về sự đông đúc. Trong

tiếng Việt còn có câu tục ngữ chỉ về cá: “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi
cha mẹ trăm đường con hư” hay câu “mèo mù vớ phải cá rán”. Một trong
những cơ cấu thực phNm bữa ăn của người Việt là “Cơm - rau - cá”. Cá cũng
là con vật có mức độ phổ biến về Nm thực của người Việt Nam. Thời xưa, cá

7


còn mang ý nghĩa biểu trưng cho sự dư dả bởi cá đọc là “ngư” gần với “dư”
trong “dư dả”.
Người Việt còn quan niệm con cá là con vật báo điềm lành, nhiều
giống cá sống lâu, được gắn với biểu tượng của sự trường thọ. Hình ảnh cá
được khắc vẽ trên đồ gốm Gò Chiền, trên trống đồng, thố đồng, muôi đồng,
cái mõ hình con cá ở điếm làng Vân Nội, con cá chép thờ sơn son thếp vàng
trong đền thờ Chử Đồng Tử ở xã Dạ Trạch (Hải Hưng), ở hội làng Me (Hà
Tây) người ta đã tế thần Tản Viên bằng cá nướng. Trong những ngôi đình cổ
thế kỷ XVI, như đình Tây Đằng, đình Lỗ Hạnh... hình tượng cá chép hoá rồng
đã được thể hiện khá phong phú, sinh động cho điềm báo an lành.
Cá được xem là Linh vật của người Việt cổ, đặc biệt là cá chép. Người
Việt rất coi trọng cá chép. Cá chép được quan niệm là con vật có thể lột xác
để hóa thành rồng. Đã có câu chuyện về cá chép vượt vũ môn, cá chép tượng
trưng cho đất - trời - nhân sinh. Có câu tục ngữ:
Mồng bảy cá đi ăn thề
Mồng tám cá về vượt Thác Vũ Môn [8]
Cá chép hóa rồng vì vậy biểu trưng cho sự nỗ lực, may mắn, về đích,
thành công, hi vọng.
Cá chép trong văn hóa Việt còn có ý nghĩa quan trọng khác, nó còn là
vật cưỡi của Ông Táo khi về chầu trời vào ngày 23 tháng Chạp, nó còn là vật
phóng sinh vào ngày rằm theo quan niệm của Đạo Phật.
Trong văn hóa người Việt, cá đặc biệt quan trọng với ngư dân sông

nước. Người ta thường tổ chức các lễ hội như Cầu ngư hay tín ngưỡng thờ Cá
Ông để bày tỏ lòng biết ơn đến loài vật linh thiêng này. Lễ hội cầu ngư
thường được tổ chức vào đầu mùa đánh bắt gắn liền với tâm lý cầu mong mưa
thuận gió hòa, cầu cho trời yên bể lặng, cầu cho một mùa đánh bắt bội thu.
Tục thờ Cá Ông (tức cá voi) là một tín ngưỡng dân gian vùng duyên hải miền

8


Trung và miền Nam Việt Nam từ Thanh Hóa vào tận Bến Tre. Đây là tín
ngưỡng của cư dân vùng biển, hay còn gọi là vạn chài. Cá Ông ở đây là cá voi
lưng xám mà theo ngư dân chính là thần Nam Hải. Ngư dân thường phối hợp
thờ Cá Ông cùng các vị thần khác đã giúp đỡ và phù hộ cho ngư dân no ấm
như: Ngũ Hành Nương Nương, Hữu Lý Ngư, Tả Lý Lịch,...
Tục thờ Cá Ông bắt nguồn từ tục thờ Cá Ông của người Chăm. Tuy
nhiên, trải qua sự bản địa hóa, tục thờ cá Ông trở thành tín ngưỡng của người
Việt và cả người Hoa. Đối với người Chăm, Cá Ông là một vị thần của Biển
Đông được nhân dân kính cNn. Đối với người Việt và người Hoa, Cá Ông
chính là mảnh pháp y (áo choàng sau) của Quan Thế Âm (hay Nam Hải Bồ
tát) quăng xuống biển, để cứu giúp cư dân vùng biển trong cơn giông tố.
Mục đích của tục thờ cá Ông hình thành để cầu yên cho các ngư dân ra
khơi đánh cá và mong được mẻ cá lớn. Tục này thời Gia Long đã thành lệ.
Theo lệ thì dân chài ai phát hiện được cá voi mắc cạn, tục gọi là "ông lụy" thì
có bổn phận chôn cất và để tang Ông như để tang chính cha mẹ mình. Xác cá
được đem tắm bằng rượu rồi liệm bằng vải đỏ. Dân làng còn lấy giấy đỏ đắp
vào miệng cá thấm lấy nước dãi, xong đem phơi khô rồi đốt thành tro để chữa
bệnh suyễn. Xác cá được mai táng trong đụn cát gần biển. Người phát hiện ra
cá voi mắc cạn thì được nhân dân tôn sùng và dưới triều nhà Nguyễn còn
được miễn sưu dịch 3 năm.
Hàng năm dân làng chọn ngày "ông lụy" (ngày cá Ông trôi vào bờ) làm

lễ cúng giỗ theo nghi thức Nghinh Ông. Người địa phương có câu: "Thấy ông
vào làng như vàng vào tủ" vì theo tín ngưỡng này, Cá Ông lụy và trôi dạt vào
làng nào, làng đó muôn đời ấm no, tai qua nạn khỏi.
Ba bốn năm sau khi chôn thì dân làng phải cải táng, thường làm
vào mùa xuân sang hè rồi đem cốt cho nhập lăng và tế chung. Đối với xương
cá Ông to lớn thì dân làng sẽ chờ đủ 3 năm cho xương cốt rã ra rồi mới đem

9


vào hòm để đưa về làng thờ. Với trường hợp cá nhỏ, người ta sẽ cho trực tiếp
vào hòm và đem về thờ. Khi tế cá thì dân làng cũng cúng các vong hồn ngư
dân chết ngoài biển. Tế xong thì có các mục mua vui như hát "chèo ghe",
đua thuyền thúng, kéo co, hát tuồng cùng các trò khác.
Điển hình là lễ Cầu Ngư, hay còn gọi lễ tế Cá Ông, ở làng Mân Thái
thuộc Đà Nẵng. Hằng năm làng tổ chức tế vào Tháng Ba âm lịch. Ba năm thì
có đại tế một lần. Ở Bến Tre thì gọi là lễ Nghinh Ông, tế vào Tháng Sáu.
Ngoài ra khi dân chài ra khơi họ cũng thường thắp nhang vái Ông phù trợ.
Việc Cá Ông liên tục cứu giúp ngư dân miền biển lúc giông to gió lớn
đã khiến cho tục thờ Cá Ông đã trở thành một nét văn hóa của Việt Nam. Tuy
nhiên khoa học cũng kiểm chứng được một phần vì khi giông tố nổi lên thì cá
voi cũng bị sóng biển đNy vào bờ và dễ bị mắc cạn. cá voi theo thuyền để tìm
vật cọ xát để quay lại biển. Vì hiện tượng song hành này ngư dân cho là cá
"giúp" dân chài.
Theo Wikipedia (Bách khoa toàn thư mở) thì biểu tượng cá không chỉ
xuất hiện trong tín ngưỡng dân gian của người Việt mà ở phương Tây cũng
coi trọng biểu tượng cá.
Chúng ta bắt gặp cung hoàng đạo Song ngư, hình tượng con cá xuất
hiện từ rất sớm trong thần thoại và chiêm tinh của Hi Lạp. Người Hi Lạp cổ
đại liên tưởng đến hình tượng Chòm sao Song Ngư để khái quát và hình dung

lên hình tượng Cung Song Ngư trong 12 cung Hoàng Đạo. Nó là một trong 3
cung thuộc nguyên tố nước (cùng với Thiên Hạt và Cự Giải), và là một trong
4 cung biến đổi (cùng với Nhân Mã, Song Tử và Xử Nữ). Là cung thứ mười
hai, Song Ngư gắn liền với nhà thứ mười hai của chiêm tinh học.
Trong Thần thoại Hy Lạp, có kể về Aphrodite, nữ thần sắc đẹp, và con
trai Eros, thần tình yêu, đang đi dọc bờ sông thì con quỷ Typhon thình lình
ngoi lên mặt nước định hủy diệt họ. Typhon là hậu duệ của Gaia và Tartarus.

10


Không có vị thần trên đỉnh Olympus nào đủ mạnh để hủy diệt Typhon. Cách
duy nhất để tránh khỏi Typhon là biến hình thành con vật như cá để bơi đi, họ
nhảy xuống trốn dưới nước sông Eufrat. Aphrodite va Eros cũng biến thành
cá, bơi vào nhánh sông và được hai con cá khác dẫn đường đưa đến nơi an
toàn, nhảy xuống trốn dưới nước sông Eufrat. Chòm sao Song Ngư có biểu
tượng hai con cá đan đuôi vào nhau để tưởng nhớ hành động cứu giúp thần
sắc đẹp và tình yêu.
Người phương Tây đặc biệt coi trọng Kinh Thánh và trong Kinh Thánh
cũng xuất hiện hình ảnh của con cá: Trong cuốn sách của Jonah có miêu tả về
một con cá lớn là vật của nhà tiên tri Jonah. Ichthys (còn được viết là Ichthus,
hoặc Ikhthus) là một chữ Hy Lạp cổ và kinh điển có nghĩa là con cá. Trong
tiếng Anh nó mang ý nghĩa là một vật tượng trưng, bao gồm hai hình cung bắt
chéo vào nhau, ở phần cuối bên phải được kéo dài ra giống như cái đuôi cá.
Vật tượng trưng này là ký hiệu bí mật đối với những ki tô giáo thuở đầu, và
bao giờ thông tục còn được gọi là ký hiệu của cá hoặc cá của Jesus hay còn
gọi là ký hiệu chỉ dẫn của Chúa.
Hình ảnh phổ biến nhất về cá ở Phương Tây chính là Nàng tiên cá,
thường xuất hiện trong thần thoại là một loài vật gồm sự tổng hợp phần đầu là
người đàn bà còn nửa người sau thì không có chân nhưng bù lại được đuôi

giống như cá. Nàng tiên cá được nhắc đến trong các tác phNm dân gian, văn
học, và văn hóa nổi tiếng. các nàng tiên cá thường nổi trên mặt biển và hát
cho nhiều người và các vị thần linh nghe, người nghe có thể bị cuốn hút theo
như bị bỏ bùa mê làm cho người nghe phải dừng làm việc rồi nhảy khỏi tàu
hay điều khiển con tàu đi lòng vòng. Những câu chuyện khác là những nàng
tiên cá đã thử cứu người bằng cách kéo họ xuống nước để đưa họ về tới thế
giới của người cá. Siren trong thần thoại Hy Lạp sau này còn được gọi là nàng
tiên cá trong văn học dân gian. Sự thật, trong một số ngôn ngữ sử dụng một từ

11


để gọi cho lẫn cá và chimsome, giống như là ngôn ngữ Maltese có chữ
“sirena”, trên thực tế thì vẫn có hiệu tượng Hội chứng người cá, còn được gọi
là "bệnh người cá". Truyền thuyết về hình tượng nửa người nửa cá (người cá)
đặc biệt là hình tượng Mỹ nhân ngư được mô tả nhiều trong các câu chuyện
văn hóa, đặc biệt là câu chuyện Nàng tiên cá (Tiếng Đan Mạch: Den lille
havfrue) là truyện cổ tích nổi tiếng của nhà văn, nhà thơ người Đan
Mạch Hans Christian Andersen, kể về một nàng tiên cá nhỏ mong muốn từ bỏ
cuộc sống dưới đáy biển và thân phận người cá của nàng để có được một linh
hồn của con người và tình yêu cùa chàng hoàng tử loài người. Từ câu chuyện
này, người ta đã dựng Tượng nàng tiên cá tại thủ đô Copenhagen của Đan
Mạch để ghi nhớ.
Cá ở Tây phương là biểu tượng của nước, là vật cưỡi của thần biển
Varuna, cá được liên hệ với sự sinh nở hoặc phục sinh theo chu kỳ. Như vậy,
cá vừa là cứu sinh, vừa là công cụ của Thần khải.
Có những hệ biểu tượng tương tự, đó là những con cá thần của cổ Ai
Cập, cá thần Dagon của người xứ Phesnicie, cá thần Oannes của vùng Lưỡng
Hà được coi là mang Thiên Khải. Thậm chí Oannes còn được xem là hình ảnh
của chúa Kito.

Ngoài ra cá còn được xem là biểu tượng của sự sống và tính mắn đẻ, do
nó có khả năng sinh sản kỳ lạ với số trứng nhiều vô kể.
Có thể thấy, cá ở mỗi nền văn hóa lại mang những nét nghĩa biểu trưng
khác nhau. Song ít nhiều đều liên quan đến đời sống tâm linh của dân gian.
1.2. Biểu tượng cá trong nghệ thuật tạo hình dân gian
Theo góc độ văn học nghệ thuật, hình tượng được hiểu là sự phản ánh
hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức những biểu
tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính.

12


Trong nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, Linh thú là biểu tượng
được sử dụng nhiều nhất để tạo hình, phản ánh lên sản phNm. Ta có thể bắt
gặp nhiều linh thú tiêu biểu ngay trong các điệu múa truyền thống như múa
rồng, múa lân, hay các bức tượng ông nghê, rùa đội hạc tại các đình chùa.
Hay hoa văn rồng, chim hạc trên trống đồng,... Ở mọi lúc mọi nơi, ta luôn
thấy các hình ảnh ấy được tạo hình. Có lẽ những yếu tố linh thiêng trong Linh
thú đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt và cá cũng không phải là ngoại lệ.
Có thể nói, cá được xem là sự hài hòa trong nghệ thuật tạo hình, là tác
phNm hoàn thiện về cái đẹp tròn đầy, vĩnh hằng mà các nghệ nhân Việt tạo ra.
Hình ảnh của chú cá được phản ánh trong nghệ thuật tạo hình dân gian Việt
gần như giữ được nguyên mẫu, đẹp đẽ. Với đường cong tròn trịa của lưng và
bụng, cá mang nét đẹp được ưa chuộng thời Việt cổ, vì thế sự đơn giản trong
kết cấu bộ phận của cá dễ dàng được đưa vào các tác phNm tạo hình. Đặc biệt
những tầng tầng lớp lớp của vây cá trên thân mình giống với vảy rồng, đều
đặn và hoàn mĩ. Có thể khẳng định, các nghệ nhân chỉ cần sao chép chân thực
hình ảnh cá là đã có một tác phNm hoàn hảo cho riêng mình và mang nhiều Nn
ý đằng sau đó tạo nên sự lôi cuốn cho người thưởng thức.
1.2.1. Cá trong hội họa

Trong khoa tranh tượng tôn giáo của các dân tộc Ấn – Âu, cá là biểu
tượng của sự sinh sản dồi dào và tính hiền minh. Ân minh dưới đáy sâu của
Đại dương, con cá nhuần thấm được sức mạnh thiêng liêng của vực thẳm. Khi
nó ngủ trong đầm hồ hoặc bơi qua các dòng sông, nó phân phát mưa, sự Nm
ướt, lũ lụt.
Cá là nguồn cảm hứng phong phú cho các nghệ sĩ Kito giáo vẽ tranh,
tạc tượng. Nếu con cá mang một con thuyền trên lưng thì đó là biểu tượng của
chúa Kito và Giáo hội; nếu cá mang giỏ bánh hay chính nó nằm trên đĩa , là
hình tượng của Thánh thể; trong các hầm mộ, cá là hình ảnh của chúa Kito.

13


Văn hóa nông nghiệp được bộc lộ rất rõ trong hội họa Việt Nam, điều
này được thể hiện rõ trong tính linh hoạt. Nhờ thủ pháp biểu trưng ước lệ mà
nghệ thuật hội họa Việt Nam có thể nhìn thấu bất cứ cái gì từ cái nhìn xuyên
vật thể đến sự tổng hợp của các góc nhìn, của không gian và thời gian. Phổ
biến trong số đó là các hình ảnh mang tính triết lí sâu sắc.
Cá là đề tài được khai thác và tìm tòi bởi các họa sĩ theo đuổi từ rất lâu
đời. Bởi cá trong hội họa mang rất nhiều ý nghĩa đặc biệt. Tranh cá, đặc biệt
là tranh cá chép không chỉ mang ý nghĩa phong thủy mà còn mang tính nghệ
thuật cao. Theo quan niệm người Việt, cá chép tượng trưng cho sức khỏe và
tài lộc và còn là biểu tượng của sự thăng tiến, công danh. Treo tranh cá chép ở
nhà riêng hay nơi làm việc sẽ mang tới cho chủ nhân nguồn tài lộc dồi dào.
Trong kinh doanh, cá chép còn tượng trưng cho sức mạnh, lòng dũng cảm khi
nó thường bơi ngược dòng nước, cộng với đức tính bền bỉ và sự cố gắng dẻo
dai, đã có thể vượt Vũ môn để hóa Rồng, đây là con vật linh thiêng cao quý.
Hình tượng cá chép kết hợp với một hình tượng qui ước làm nên tính
minh triết của bức tranh. Như bức tranh cá chép hoa sen hay cá chép mẫu
đơn. Trong phong thủy, hoa sen tượng trưng cho sự thanh cao, thoát tục, sự

hoàn hảo cuối cùng bởi sen là loài hoa mọc trong bùn nhơ nhưng luôn thanh
cao, tinh khiết. Biểu tượng của nhà Phật, của thế giới Phật Pháp Vô Biên
chính là hoa sen. Sử dụng tranh sen có tác dụng điều hoà khí vượng, tăng
cường những nguồn năng lượng về sức khoẻ cho ngôi nhà, giúp gia chủ gỡ bỏ
mọi ưu phiền, để tĩnh tâm, an hưởng hạnh phúc. Ở Trung Hoa, chữ ngư 漁
(con cá) phát âm giống chữ dư 輿 (dư thừa). Do vậy hình ảnh con cá biểu
tượng cho sự trù phú, thường vẽ thành hình một đứa bé cầm con cá với nghĩa
“Phú, hữu dư” (giàu, có dư). Ở An Nam không thể có lối chơi chữ này vì chữ
“cá” và chữ “dư” không trùng âm. Nhưng có thể do ảnh hưởng Trung Hoa mà
vào lễ tết Trung thu người Hà Nội hay mua con cá làm bằng giấy dầu cho trẻ

14


em chơi. Tập tục này không thấy ở Huế và vùng phụ cận, nhưng vào ngày đầu
năm người ta lại hay mua hình con cá làm bằng giấy màu treo ở trước bàn thờ
tổ tiên hay đâu đó trong nhà để cầu may.
Người Việt xưa đã coi trọng phong thủy, treo tranh cá là một trong
những việc coi trọng phong thủy bởi tranh cá mang lại vinh hoa, lộc cũng như
sự thăng tiến cho gia chủ. Có thể nhận thấy một vài bức tranh cá được ưa
chuộng như Cửu ngư quần tụ. Bức tranh này đại diện cho hành Thủy, rất phù
hợp với những người mạng Mộc hoặc Thủy, đem lại sự may mắn trong sự
nghiệp.

Tranh cửu ngư quần tụ
Các loài cá thường mang lại điềm tốt, và may mắn. Có một số loài cá
thường đi thành đôi vậy nên nếu chúng hiện diện trong cuộc sống nó sẽ mang
lại nhiều điều tốt lành cho hôn nhân của cũng như góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống cho gia chủ.
Hình ảnh cá trong hội họa thường được miêu tả tươi mới, với màu sắc

tươi tắn như đỏ, hồng, vàng bên cạnh đó là vây, vảy, râu đều đặn, cân đối.

15


Thân cá thon mềm mại để người xem khi nhìn vào cảm nhận được cảm giác
an lành và yên bình trong đó.
Ngoài ra còn có bức “Song ngư cát hạnh” vẽ hai con cá. Thể loại tranh
ngụ ý cát tường này đã có từ lâu, dưới đáy những đồ đồng dùng để đựng nước
rửa mặt, rửa tay chân thường có vẽ hình con cá, mặt bên đề ba chữ “đại cát
tường”.

Tranh Song ngư cát hạnh
Chủ đề tranh vẽ “Song ngư cát hạnh” được dùng nhiều trong hôn lễ.
Hoa văn vNy cá, gọi là “ngư lân cNm”, thường sử dụng trong những vật dụng
thường ngày, xây dựng và quần áo… Chủng loại cá rất nhiều, nhưng trong
những câu nói cát tường, tranh cát tường, được nhắc tới nhiều nhất vẫn là cá
chép, cá vàng.
Cá chép là con vật báo điềm lành, vì thế người ta thường sử dụng nó để
bày tỏ những nguyện vọng của mình. Cá chép sống rất lâu , điều này biến nó
thành biểu tượng của ước vọng trường thọ. Cá chép là vật cưỡi và là sứ giả
của thần tiên: họ cưỡi nó để bay lên trời và tìm thấy trong bụng nó những
thông điệp và những dấu ấn. Nó cũng biến hóa thành rồng có cánh. Hình cá

16


chép được gắn lên trên nóc nhà bảo hộ cho nhà ấy khỏi bị loạn. Ở Việt Nam,
chính cá chép đưa Ông Táo lên trời trong những ngày trước tết nguyên đán.
Và cũng chính đèn lồng hình cá, trong ngày tết Trung Thu là để chống lại con

cá chép thành tinh chuyên đi bắt cóc các cô gái trong truyền thuyết dân gian.
Ở Trung Quốc và ở Nhật Bản, cá chép tượng trưng cho lòng dũng cảm
và tính ngoan cường, bởi nó dám bơi ngược dòng sông, và như người ta nói,
vượt ngược cả thác ghềnh. Tượng trưng cho tính nam nhi, nó là biểu hiện của
những em bé trai. Vì thế trong những lễ hội dành riêng cho những cậu bé này,
người ta đặt hình cá chép bằng giấy lên ngọn cột buồm, cột cờ hoặc trên nóc
nhà. Nó cũng là biểu tượng của sự thông minh ưu việt. Tặng cá chép cho một
người, tức là tiên báo người ấy sẽ thi đỗ. Cá chép tiên báo cho sự dồi dào
sung mãn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Bên cạnh đó, cá vàng là loài cá cảnh quý. Nó có vảy óng ánh, tư thái
đĩnh đạc, chìm nổi tự nhiên, bơi lượn nhẹ nhàng, được mọi người đặc biệt yêu
quý, được gọi là “kim lân tiên tử’ (vị tiên vảy vàng), “thuỷ trung mẫu đơn”
(mẫu đơn trong nước), người phương tây lại gọi là “đông phương thánh ngư’
(cá thần phương Đông). Trong các loại cá cảnh, cá vàng là loài phổ biến nhất,
bản thân nó có ngoại hình rất đẹp. Ngoài ra, vì đồng âm mà cá vàng còn được
coi là vật cát tường. Cá vàng hay còn gọi là kim ngư, kim đồng âm với “kim
ngọc”, bức tranh cát tường “kim ngọc mãn đường” chính là bức vẽ một đàn
cá. Người xưa thường treo một bức tranh cá vàng để cầu cát tường.
Ngoài nghệ thuật tạo hình trên tranh, hình ảnh cá cũng được người dân
ưa dùng để làm hình xăm trên cơ thể. Người xăm cá với mong muốn những
điều tốt đẹp sẽ đến bên mình.
1.2.2. Cá trong điêu khắc, kiến trúc
Điêu khắc là một loại hình nghệ thuật trang trí, một loại hình của nghệ
thuật tạo hình, có khả năng biểu hiện tư tưởng tình cảm, thNm mĩ của cả một

17


cộng đồng dân tộc. Bằng nghệ thuật cách điệu, tượng trưng hóa các đối tượng
như tượng trưng, cây cỏ, động vật,... đã tạo thành các mô típ trang trí. Trong

điêu khắc, cá cũng được vận dụng khá nhiều. Cũng giống như ý nghĩa của cá
trong hội họa, trong điêu khắc cá cũng mang ý nghĩa cho điều tốt lành, no đủ,
và tròn vẹn. Có thể bắt gặp một số tác phNm điêu khắc như Tượng cá gỗ biểu
trưng cho sự dư ăn dư để. Hay tượng điêu khắc bé trai ôm cá, vác cá trên vai,
hay hai tay nâng cá lên khỏi đầu, tay xách xâu cá, gối đầu lên bụng cá… là
biểu trưng cho sự có con trai và dư dả. Đề tài này thường đi với câu chúc
“Niên niên hưu dư”; còn nếu hình vẽ hai bé trai cùng xâu cá và xâu tiền điếu
lại đi với câu chúc "Đinh tài lưỡng vượng".
Con cá làm thành hình miệng máng xối có nét tự nhiên vì được hiểu
nước là một yếu tố sống còn của cá. Trang trí ở giá đỡ chậu rửa mặt cũng theo
nghĩa này, nhưng truyền thống An Nam thích chạm hình đầu phụng hay rồng
mềm mại và tinh tế hơn.
Trong điêu khắc Đình làng, người ta cũng có sử dụng hình ảnh con cá
như cái mõ hình con cá ở điếm làng Vân Nội, con cá chép thờ sơn son thếp
vàng trong đền thờ Chử Đồng Tử ở xã Dạ Trạch (Hải Hưng), ở hội làng Me
(Hà Nội) người ta đã tế thần Tản Viên bằng cá nướng. Rồi hình ảnh con cá và
người đi câu xuất hiện ở vị trí thứ hai chỉ sau những người rước bông lúa, đi
cày, đi cấy, trong trình diễn trò Trám ở Tứ Xã (Phú Thọ). Trong những ngôi
đình cổ thế kỷ XVI, như đình Tây Đằng, đình Lỗ Hạnh... hình tượng cá chép
hoá rồng đã được thể hiện khá phong phú, sinh động. Một con vật mang tính
lưỡng nguyên, đuôi là cá mà đầu đã thành rồng, trở thành gạch nối giữa cái
thiêng và cái tục. Cá chép còn có mặt trong các bố cục với hoa sen, sóng
nước... [5].

18


Hình cá được trang trí trên mái đền
Kiến trúc là một ngành nghệ thuật và khoa học về tổ chức sắp xếp
không gian, lập hồ sơ thiết kế các công trình kiến trúc. Trong nghệ thuật kiến

trúc Việt, Ở miền Bắc trong các đền chùa thảy đều thấy hình con cá ở các gờ
mái như loại trang trí dấu nhấn. Đó là biểu tượng “cá hóa rồng”, đuôi của cá
được cách điệu hình cuộn thanh thoát và trang nhã. Ở Huế hiếm thấy họa tiết
này ở đền chùa, chỉ thấy ở dinh phủ: khi thì nguyên hình con cá thật tự nhiên,
khi thì được cách điệu giống như ở miền Bắc. Có một số món bằng gốm tráng
men có vẽ hình cá.
Cá ngoài biểu tượng cho sự giàu sang như đã nói, nó còn là biểu tượng
cho sự đăng khoa của nho sĩ: cá hóa rồng. Đó là tích Long Môn Điểm Ngạch
龍門點額 của Trung Hoa, nghĩa là chúc thi đậu. Con cá đó người An Nam
gọi là con cá gáy, nó vượt long môn thành rồng. Chính vì vậy ở mặt tiền Quốc

19


Tử Giám Huế có kh
khắc hình tượng con cá đang
ang hóa th
thành rồng.

Cá chép hóa rồng trong kiến trúc
Nói đến nghệệ thuật
thuậ kiến trúc sử dụng cá không thể không nhắc
nh đến đền
Dạ Trạch. Đền Dạ Trạch,
Trạch còn gọi là Đền Hóa, là ngôi đềnn nằm ở thôn Yên
Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện
huy Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Việt
ệt Nam
Nam. Nơi đây
thờ ba nhân vậtt trong truy

truyền thuyết, gồm Chử Đồng Tử cùng nh
nhị vị phu nhân
là công chúa Tiên Dung và công chúa Hồng
H
Vân (công chúa Tây Sa). T
Tương
truyền đền được xây trên
ên nnền thành quách sau khi khi ba vị hóa về trời.
Đền nằm
m trong không gian ccạnh đầm Dạ Trạch xưaa kia. K
Kết cấu chính
từ ngoài vào trong gồm
ồm có lầu
l chuông, hồ bán nguyệt,
t, qua sân llà đến điện thờ
gồm ba tòa nhà. Toàn bộ nội, ngoại thất, kiến trúc ngôi đền toát llên nét cổ
kính, linh thiêng. Cuối
ối th
thế kỷ 19, Chu Mạnh Trinh chỉ huy tr
trùng tu đền.
Khách tham quan đền
ền sẽ
s thấy hình ảnh chiếc nón và cây gậy
ậy - hai vật Chử
Đồng Tử dùng để cứu
ứu nhân độ thế. Trong đền có tượng
ng cá chép, ggọi là ông
"Bế" (Bế ngư thần
n quan),
quan hình cá chép hóa rồng. Đềnn có chiếc chuông "D

"Dạ
Trạch từ chung" được
ợc đđúc từ năm Thành Thái thứ 14 (1902) ghi llại quá trình
trùng tu.

20


Đền được nhà nước Việt Nam xếp hạng di tích lịch sử kiến trúc nghệ
thuật vào năm 1989.

Bàn thờ ông Bế (Bế ngư thần quan) trong đền Dạ Trạch
Bế ngư thần là tượng bằng gỗ, sơn son thiếp vàng, đầu rồng, thân và
đuôi hình cá chép, nhân dân quen gọi là "ông Bế".
Cách đây trên dưới 4000 năm lịch sử như trong thần phả của đền hóa
đã ghi. Sau khi Chử Đồng Tử kết duyên cùng Tiên Dung công chúa tại bãi tự
nhiên thuộc Màn Chầu (cuộc tình duyên do thiên định), không được vua cha
thuận ý nên duyên vợ chồng. Không dám hồi cung, ở lại khu vực huyện Chu
Diên để kiếm kế sinh nhai. Một hôm Chử Đồng Tử theo thuyền ra khơi đi
buôn bán, dạt vào một hòn đảo, gặp được Tiên Ông tên là Ngưỡng Quy Tiên,
ông thấy Đồng Tử diện mạo khác thường bèn giữ lại dạy cho một số bài thuốc
chữa bệnh bằng lá rừng để cứu dân độ thế và dạy cho phép thuật. Sau 3 ngày
ở động tiên, Đồng Tử đã biết được việc chữa bệnh, Tiên Ông cho phép Đồng
Tử về, ban cho Đồng Tử chiếc gậy và nón và dặn: “Phép thần thông ở cả
trong này, có việc gì nhà người cần kíp nhà ngươi cứ cắm trượng xuống đất,
úp nón trên đầu trượng, đọc câu thần chú mọi việc sẽ được như ý muốn”. Một

21



×