Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Bùa ngải của người Mường ở Kim Bôi - Hoà Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.46 KB, 56 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN ĐỨC THƢƠNG

BÙA NGẢI CỦA NGƢỜI MƢỜNG
Ở KIM BÔI - HOÀ BÌNH
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: VIỆT NAM HỌC

HÀ NỘI – 2016

1


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN ĐỨC THƢƠNG

BÙA NGẢI CỦA NGƢỜI MƢỜNG
Ở KIM BÔI - HOÀ BÌNH

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: VIỆT NAM HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS.NGUYỄN THỊ TÍNH

HÀ NỘI - 2016
2




LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến quý Thầy Cô trong khoa
Ngữ văn, nhất là các Thầy Cô tham gia giảng dạy chuyên ngành Việt Nam học
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã thường xuyên giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi
trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài khóa luận.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Tính
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi thực hiện và hoàn chỉnh khóa luận.
Mặc dù đã rất cố gắng để hoàn thiện, song vì điều kiện thời gian cùng những
hạn chế về kinh nghiệm thực tiễnvà kiến thức chuyên môn nên khóa luận của tôi
không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp bổ sung của
quý Thầy Cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 25 tháng 04 năm 2016
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Đức Thương

1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp: “Bùa ngải của người Mường ở Kim
Bôi - Hoà Bình” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong
khóa luận là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.
Hà Nội ngày 25 tháng 04 năm 2016
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Đức Thương


LỜI MỞ ĐẦU
2


1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (54 dân tộc), dân tộc nào cũng có một
lịch sử lâu dài và có một nền văn hoá cổ truyền giàu bản sắc – từ người H’Mông
trên đỉnh núi cao bốn mùa sương mù hay đến người Mường trên đất đồi núi trung
du cho đến người Việt, Khơme trên những cánh đồng châu thổ, tất cả đã tạo nên
vóc dáng Vệt Nam, đa phong tục, đa bản sắc, giàu tính nhân văn.
Hoà Bình được coi là một tỉnh Mường vì số lượng người Mường sinh sống ở
đây rất đông đảo trong tổng số người Mường trên cả nước.
Hơn nữa Hoà Bình còn là địa danh thường biết đến là cái nôi của người
Mường. Ở mảnh đất quần cư bao đời, người Mường đã sản sinh và lưu giữ nhiều
sản phẩm văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần mang bản sắc riêng. Qua nhiều giai
đoạn lịch sử, bản sắc ấy lại giàu thêm, phong phú thêm. Và ở nơi đây còn ẩn chứa
nhiều truyền thuyết bí ẩn về phép chữa bệnh và bùa ngải, đây cũng là một vấn đề
được dư luận hết sức quan tâm, hầu hết tất cả các bài viết về phép thuật bùa, nèm,
chài được kể lại đầy huyền bí, ly kỳ. Cho đến nay tính xác thực về sức mạnh của
nèm yêu, bùa yêu được truyền tay nhau vẫn luôn là một bí ẩn.
Là một người con của xứ Mường, sinh ra và lớn lên ở Hoà Bình, ngay từ đầu
tôi đã được tiếp xúc và ít nhiều hiểu biết phần nào về phong tục tập quán của đồng
bào dân tộc miền núi, trong đó có người Mường thuộc huyện Kim Bôi tỉnh Hoà
Bình. Nên việc nghiên cứu về bùa yêu, nèm yêu sẽ có được những thuận lợi nhất
định, mang lại cái nhìn trực diện để từ đó tìm ra câu trả lời chính xác về bùa yêu
của dân tộc Mường. Do vậy tôi chọn đề tài: ”Bùa ngải của người Mường ở Kim
Bôi - Hoà Bình”.
2. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghên cứu
3



2.1 Mục đích nghiên cứu
Việc đi sâu tìm hiểu về “Bùa ngải” của dân tộc Mường ở Kim Bôi,
Hoà Bình để cho con người có thể hiểu hơn về bùa ngải, nèm yêu. Nó có khả năng
điều khiển cảm xúc, tâm tư, tình cảm của con người thật hay không? Thực hư sự
linh nghiệm của các bùa ngải, nèm yêu như thế nào và giải mã bí ẩn sức mạnh của
nèm yêu, bùa ngải trên mảnh đất này.
2.2 Đối tƣợng nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu về phong tục, tập quán của người Mường, đề
tài tập trung nghiên cứu về “bùa ngải” của người Mường ở Kim Bôi - Hoà Bình.
2.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu và giải mã bí ẩn về “bùa
ngải” của dân tộc Mường ở Kim Bôi – Hoà Bình.
3. Lịch sử vấn đề
Những câu chuyện về Bùa ngải được xem như một nét văn hóa Tâm Linh
của người Á Đông. Nó có mặt ở nhiều quốc gia khác nhau, nó thể hiện niềm tin
của con người vào những điều siêu thực. Đây là một vấn đề đang được đông đảo
cộng đồng người dân rất quan tâm và chú ý trong những năm vừa qua.
Để tìm hiểu về vấn đề huyền bí này đã có rất nhiều cuốn sách nghiên cứu thu
hút được sự chú ý của độc giả như: Tìm hiểu ngải nghệ huyền bí của Huỳnh Tử
Liên, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc (1969), Thủ thuật Việt Nam, của Lê Văn Lân,
Nhà xuất bản Việt Nam. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là tác giả Hoàng Anh Sướng
một trong những cây bút đi đầu, tiên phong cho việc tìm hiểu về sự linh nghiệm

4


của những lá bùa ngải với phóng sự xã hội Bùa ngải xứ Mường được nhà xuất bản
Công an Nhân dân phát hành năm 2015.

Bùa ngải xứ Mường thực chất là một chuyến khám phá mất nhiều công sức
của tác giả Hoàng Anh Sướng. Để giải mã những bí ẩn về bùa ngải, ông đã lên xứ
Mường Thanh Sơn - Phú Thọ và ở nhiều ngày liền trong nhà của người dân tộc
Mường để hỏi chuyện họ về bùa ngải. Trong cuốn sách, Hoàng Anh Sướng cũng
đã nêu tên nhiều thầy mo có tiếng mà ông đã đối thoại như Hoàng Văn Nhẻo,
Nguyễn Văn Thực. Bên cạnh đó, ông cũng dành thời gian phỏng vấn những nhà
nghiên cứu về văn hóa dân tộc Mường để hiểu chính xác hơn về bùa ngải.
Có thể nói Bùa ngải xứ Mường thực sự là một góc nhìn khoa học về tâm linh
và ở đó Hoàng Anh Sướng đóng vai trò là một cầu nối giữa thế giới huyền bí và
độc giả. Tác giả Hoàng Anh Sướng đã cung cấp cho người đọc những thông tin
không dễ gì có được. Bùa ngải xứ Mường là câu trả lời cho rất nhiều thắc mắc
đang tồn tại liên quan đến bùa ngải ở một số dân tộc thiểu số. Và tác giả đã trả lời
những thắc mắc đó bằng khả năng quan sát và lý giải bậc thầy.
Bùa ngải xứ Mường chính là một minh chứng cho những đam mê của một
cây bút khỏe khắn, đầy tư duy khoa học kết hợp với lối dẫn chuyện lôi cuốn, hấp
dẫn. Càng đọc, độc giả như bị cuốn theo hành trình tìm về văn hóa tâm linh của
Hoàng Anh Sướng như lời nhà thơ Trần Đăng Khoa: “ Tập phóng sự Bùa ngải xứ
Mường cho ta biết thêm về sự đa dạng, phong phú của ngòi bút Hoàng Anh Sướng.
Tôi gọi chúng là những “lá bùa”, hay cụ thể hơn, là một thứ “bùa ngải” cũng vì
tính thần bí, mê hoặc của nó mà ngay cả giới khoa học bây giờ cũng không dễ lý
giải. Bởi vậy, những trang viết của Hoàng Anh Sướng, dù bàn đến vấn đề gì cũng
thường rất hấp dẫn, lôi cuốn. Hình như nếu không có sự hấp dẫn, lôi cuốn ấy, anh
sẽ không bao giờ có đủ “nhuệ khí” để cầm bút, dãi bày cùng bạn đọc.”
5


Nhưng cũng vì thế mà nó lại có sức hấp dẫn đặc biệt. Bởi nó chính là cuộc
sống. Nói như nhà thơ, nhà phê bình Vũ Quần Phương: Gặp đời rồi thì quên chữ
quên câu…
Từ những cuốn sách của các tác giả và những nhận định sâu sắc của những

nhà thơ, nhà phê bình nêu trên và đặc biệt là phóng sự “Bùa ngải xứ Mường” của
tác giả Hoàng Anh Sướng, khoá luận tốt nghiệp cũng là sự kế thừa nghiên cứu và
lý giải về sự linh nghiệm của những lá bùa ngải trên mảnh đất của đồng bào dân
tộc Mường sinh sống.
Cho đến nay, những câu chuyện về bùa ngải vẫn luôn nhận được sự quan
tâm đặc biệt của dư luận. Những người nghe được câu chuyện này cũng nửa ngờ,
nửa vực nhưng lại chấp nhận đó là sự thực và đẩy lên như một giai thoại mà vẫn
chưa có một lời giải đáp khoa học chính xác nào cả.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp điền dã, khảo sát thực tế.
+ Phương pháp thu thập thông tin (qua sách báo, các phương tiện thông tin,
phỏng vấn).
+ Phương pháp tổng hợp, phân tích.
5. Bố cục khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài kiệu tham khảo, phụ lục, bố cục
khoá luận gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát về người Mường ở Kim Bôi, Hòa Bình

6


Chương 2: Hiện tượng sử dụng “Bùa ngải” của dân tộc Mường ở
Kim Bôi – Hoà Bình

7


PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI MƢỜNG Ở KIM BÔI, HOÀ BÌNH

1.1 Đặc điểm địa bàn cƣ trú
Kim Bôi đã từng có thời gian tên là Lương Thủy - là một huyện
miền núi, phần cuối của vùng Tây Bắc (Việt Nam), là đầu nguồn của dòng sông
Bôi, một phụ lưu chính của sông Đáy (góp nước cho sông Đáy), thuộc hệ thống
sông Hồng. Nơi đây có nguồn suối nước khoáng nóng, rất tốt cho trị liệu y học.
Huyện được thành lập ngày 17/4/1959 từ việc tách huyện Lương Sơn.
 Vị trí địa lý
Huyện Kim Bôi nằm ở phần phía đông của tỉnh Hoà Bình, có vị trí
ở vào khoảng 20032’ – 20049’ vĩ bắc và 105022’ – 105043’ kinh đông, phía
bắc giáp huyện Lương Sơn và huyện Kỳ Sơn. phía tây giáp thành phố Hòa Bình và
huyện Cao Phong. phía nam giáp các huyện Lạc Sơn, Yên Thủy và Lạc Thủy. phía
đông giáp huyện Lạc Thủy và huyện Lương Sơn, tất cả các huyện thị này đều
thuộc tỉnh Hòa Bình. Diện tích tự nhiên của huyện Kim Bôi là
551,0338 km². Huyện có các núi Đồi Thơi cao 1.198 m, Đồi Bù cao 833 m.
 Khí hậu
Huyện Kim Bôi cũng như các huyện khác trong toàn tỉnh nằm ở đới
khí hậu nhiệt đới gió mùa, chính vì vậy có phân thành mùa mưa và mùa khô rõ rệt.
Mùa mưa lượng mưa trung bình hàng năm là 1.900 mm, nhiệt độ bình quân hàng
tháng từ 23 – 250c, ngày nóng lên đến 36 – 400c, mùa đông ngày rét xuống dưới
100c. Độ ẩm không khí trung bình 82%, cao nhất 100%, thấp nhất 24%. Chế độ
gió, hướng gió thịnh hành theo hai hướng Đông Bắc và Đông Nam. Số giờ nắng
trung bình mùa hè 6 – 7 giờ/ngày, mùa đông 3 – 4giờ/ngày.
8


 Về thổ nhưỡng
Kim Bôi có nhiều loại đất, phù hợp với nhiều loại cây trồng, trong
đó chủ yếu là đất feralit đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét, loại đất này
phân bố chủ yếu ở vùng đồi, phù hợp với cây ăn quả, cây công nghiệp, trồng rừng
và đất trồng lúa, bao gồm đất đồng ruộng, đất ven suối, đất thung lũng, đất đồi núi.

 Hạ tầng giao thông
Ngày trước, giao thông chưa phát triển, Kim Bôi là vùng sâu ít người sinh
sống, khai khẩn. Người Mường có câu:
"Yêu nhau cho thịt cho xôi
Ghét nhau đưa đến Kim Bôi, Hạ Bì"
với hàm ý Kim Bôi là vùng đất khó sinh sống.
Ngày nay, hệ thống giao thông đường bộ phát triển nối Kim Bôi với bên
ngoài.


Quốc lộ 21A chạy gần rìa ranh giới với huyện Mỹ Đức (Hà Nội), gần như theo
hướng Bắc Nam, từ huyện Lương Sơn sang tới huyện Lạc Thủy.



Đường quốc lộ nối đường 21A với đường 6, cắt ngang địa bàn huyện, theo
hướng Tây Bắc Đông Nam, nối đường 21A, tại thị trấn Thanh Hà (xã Thanh
Nông) với đường 6 tại địa điểm gần dốc Cun (huyện Cao Phong).



Đường Hồ Chí Minh mới (đoạn Hòa Lạc - Cúc Phương) chạy qua.

1.2 Nguồn gốc, tên gọi tộc ngƣời
Tài liệu về ngôn ngữ học, nhân chủng học, dân tộc học, khảo cổ học…
chứng minh rằng người Mường ở Việt Nam có nguồn gốc là người Việt cổ, hay nói
cách khác người Mường và người Việt hiện nay có cùng nguồn gốc. Không phải
9



ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh như ngày nay. Và đương
nhiên trước đây, người Mường cũng không dùng danh từ này làm tên gọi cho dân
tộc mình. Theo Trần Từ (tức Nguyễn Đức Từ Chi), Mường là từ dùng để chỉ một
vùng cư trú của người Mường bao gồm nhiều làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự cai
quản của một nhà Lang. Qua sự tiếp xúc giao lưu giữa người Mường và người
Kinh, người Kinh đã sử dụng từ Mường để gọi dân tộc này.
Các nhà ngôn ngữ học xếp người Mường vào nhóm các dân tộc có tiếng nói
thuộc ngôn ngữ Việt – Mường (Việt, Mường, Thổ, Chứt). Tộc danh Mường nay
được sử dụng phổ biến và rộng rãi. Tuy vậy, một số nhóm địa phương còn có tên
tự gọi là: Mon, Moi và Ao Tá. Cùng với người Việt (Kinh), cộng đồng người
Mường thuộc khối cư dân Lạc - Việt cổ, có mặt sớm nhất ở Việt Nam. Trong quá
trình phát triển, do những điều kiện lịch sử nhất định, vào thế kỷ IX – X, cộng
đồng Việt – Mường cổ đã tách ra thành hai tộc người riêng biệt như ngày nay.
Trong khi tộc người Việt cư trú tập trung ở đồng bằng châu thổ và vùng duyên hải
ven biển, thì cộng đồng người Mường cư trú tập trung ở vùng núi Hoà Bình, Thanh
Hoá, Phú Thọ và một số khu vực miền núi, trung du khác.
Người Mường tự nhận là Mol, Mual, Mon, Muan, Mó…có nghĩa là “người”.
Ngày nay, Mường là tên gọi chính thức được Nhà nước công nhận, và sử dụng
trong các văn bản hành chính. Hiện nay, Hoà Bình với bốn Mường cổ: Bi, Vang,
Thanh, Động,… vẫn được coi là cái nôi gìn giữu văn hoá truyền thống của người
Mường.
1.3 Đặc điểm mƣu sinh, xã hội truyền thống
Đến thời điển 31/12/2014, huyện Kim Bôi có 114 ngàn người sinh
sống trong đó chủ yếu là người dân tộc Mường và một số dân tộc khác như Kinh,
Dao, Thái…
10


 Đặc điểm mƣu sinh
Trong hoạt động kinh tế, từ bao đời nay người Mường sống dựa chủ

yếu vào sản xuất nông nghiệp, khai thác ruộng nương để trồng trọt và chăn nuôi.
Sống ở khu vực miền núi, họ đã biết khai thác tự nhiên để có đất canh tác, tận dụng
những khu đất có bề mặt tương đối bằng phẳng trong thung lũng và khắp mọi nơi
để làm ruộng. Với kinh nghiệm là thuỷ lợi được tích luỹ từ thế hệ này sang thế hệ
khác, dựa vào những nguồn nước ven sông và suối, họ đã thiết lập hệ thống
mương, phai, xe nước, ống dẫn nước tự tạo chạy ngang dọc trên các cánh đồng,
nhằm đưa nước đến các chân ruộng cao, phục vụ cho việc trồng lúa nước.
Hiện nay người Mường ở kim Bôi trồng lúa nước là loại cây nông
nghiệp chính, bên cạnh đó thì ngô và sắn là hai loại cây trồng chiếm vị trí thứ hai
trong đời sống kinh tế người Mường. Ngoài ra còn có các loại cây trồng khác như
vừng, lạc, đậu, dưa chuột và các loại cây rau ăn thường ngày… Có hai loại cây ăn
quả phổ biến trong mỗi gia đình người Mường đó là Cau và Bưởi, có thể có thêm
Na, Mít… nhưng số lượng ít, chỉ nhằm phục vụ nhu cầu của gia đình.
Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi cũng là một nguồn thu nhập đáng kể.
Ngoài các con vật nuôi truyền thống như trâu, bò, lợn, gà thì ngày nay nhiều hộ gia
đình người Mường đã nuôi dê, bò lai, bò sữa, ong… Họ biết tận dụng cây cỏ tự
nhiên để kết hợp hình thức nuôi thả rông lẫn nuôi nhốt trong chuồng trại.
Ngoài sản xuất nông nghiệp, người Mường hiện nay còn có hàng
loạt các nghề khác cũng chiếm một vị trí kinh tế nhất định trong mỗi gia đình. Đó
là nghề thủ công như dệt thổ cẩm, đan lát, bốc thuốc Nam, hay buôn bán các loại
hàng hoá như bánh kẹo, các đồ dùng sinh hoạt.
 Đặc điểm xã hội

11


Người Mường từ xưa sinh sống trong một lãnh địa riêng, ranh giới
mang tính ước lệ được đánh dấu bằng các gốc cây, tảng đá, con sông, con suối…
ranh giới ấy không chỉ để phân chia giữa khu vực sinh sống của người Mường với
các dân tộc khác mà còn phân chia giữa các Bản Mường với nhau.

Về tổ chức xã hội người Mường truyền thống ở Kim Bôi nói riêng,
cũng như nhiều nơi ở Hoà Bình nói chung, thiết chế xã hội tự quản, có nguồn gốc
sinh sống lâu đời theo chế độ Hương quản, tương đương với chức vụ trưởng thôn
như trong làng, bản bây giờ thực hiện quán xuyến, quản lý mọi việc trong thôn về
kinh tế, trật tự xã hội, văn hoá… chính chế độ Hương quản ấy là “chất keo dính”
ràng buộc tất cả các gia đình, các cá nhân từng người có những mối quan hệ nhất
định với nhau, tạo nên sự cố kết cộng đồng vô cùng chặt chẽ nếu không muốn nói
rằng đôi khi trở nên bảo thủ.
Nhân tố để tạo nên “chất keo dính” cộng đồng ấy không chỉ có chế
độ Hương quản là được, bởi còn một yếu tố quan trọng không kém là mối quan hệ
huyết thống gia đình, dòng họ. Người Mường theo chế độ phụ hệ, mỗi gia đình,
dòng họ đều có một người đàn ông lớn tuổi, có vai vế đứng đầu và quyết định mọi
vấn đề quan trọng của gia tộc. Mỗi gia tộc cũng đều có gia quy riêng mọi thành
viên đều phải tuân thủ nghiêm ngặt. Chính vì thế, trong các làng bản, các thôn xóm
của người Mường luôn luôn có sự kết nối vô cùng chặt chẽ giữa lớp này chồng lên
lớp khác, tỉ lệ cơ bản cho sự kết nối chung này vào khoảng 3 trong 1. Sự kết nối
thứ ba ở đây là dựa trên quan hệ hợp tác trong các tổ chức hoạt động về phát triển
kinh tế, xoá đói giảm nghèo, các Chi hội phụ nữa trong các xã.
Hiện nay ranh giới, địa phận các thôn, làng, xã đều được phân chia
theo địa giới hành chính, lấy số lượng dân số và diện tích đất đai làm căn cứ phân
chia.
12


1.4 Những điểm văn hoá đặc sắc
1.4.1 Lễ hội Khai Hạ Mƣờng Bi
Lễ hội Khai hạ Mường Bi hay còn gọi là Lễ xuống đồng, Lễ mở cửa
rừng được tổ chức hàng năm vào dịp đầu xuân sau Tết Nguyên đán, với ý nghĩa
tổng kết một năm lao động, sản xuất, mở đầu công việc cho một năm mới. Lễ hội
còn là dịp để người dân Mường tỏ lòng tôn kính với các vị thần linh; là nơi để con

người cầu mong cho xóm làng yên vui, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi phát
triển và còn là nơi gặp gỡ, giao lưu để thắt chặt thêm tình đoàn kết cộng đồng.
Lễ hội Khai hạ Mường Bi thường được chia thành 2 phần: phần lễ
và phần hội. Trong đó, phần lễ được tổ chức trang nghiêm tại miếu thờ xóm Luỹ
với nghi lễ cúng Thành Hoàng là Quốc mẫu Hoàng Bà và Tam vị Tản Viên Sơn
Thánh.
Sau khi thầy mo làm nghi lễ, đám rước kiệu gồm hơn 40 người đi
đầu là dàn cò ke ống sáo, tiếp theo là đoàn cồng chiêng, đoàn cờ, đoàn tế, các cụ
cao niên và nhân dân rước thành hoàng ra sân vận động xã để xem hội. Phần hội
diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động như thi các món ăn dân tộc, thi đấu các môn thể
thao dân tộc và các trò chơi dân gian, thi hát đối, thi dàn bát âm, thi người đẹp
trang phục Mường và mang hoà tấu cồng chiêng của 400 thiếu nữ trang phục
Mường đến từ 24 xã, thị trấn.
Lễ hội Khai hạ Mường Bi là hoạt động văn hoá có tính truyền thống
được huyện Tân Lạc tổ chức thường xuyên từ năm 2002 đến nay, thông qua lễ hội
nhằm gìn giữ và phát huy bản sắc, quảng bá nét đẹp văn hoá truyền thống của dân
tộc Mường Tân Lạc nói riêng và của tỉnh nói chung đến với đông đảo du khách
trong và ngoài nước.

13


Hòa Bình là tỉnh cửa ngõ vùng Tây Bắc giáp với Thủ đô Hà Nội,
nơi đây vẫn còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử của nền văn hóa Hòa Bình được nhiều
nhà khảo cổ phát hiện.
Khi nhắc đến văn hóa Hòa Bình, không thể không nhắc tới văn hóa
của người Mường.
Trong cộng đồng bảy dân t ộc gồm Mường, Dao, Thái, Tày, Mông,
Kinh và Hoa đang sinh sống trên mảnh đất Hòa Bình thì ngư ời Mường chiếm tới
63,3% và được gắn liền với những địa danh nổi tiếng là Bi, Vang, Thàng, Động,

cùng áng sử thi “Đẻ đất, đẻ nước.”
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, người Mường Hòa Bình
có những đặc trưng riêng về ngôn ngữ, trang phục, phong tục, tập quán... tạo nên
vẻ đẹp phong phú và đặc sắc trong bức tranh văn hóa Hòa Bình.
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, nhiều nét văn hóa truyền
thống của người Mường Hòa Bình vẫn được lưu giữ và phát huy, trong đó, lễ hội
được đánh giá là một nét văn hóa đặc trưng trong đời sống sinh hoạt có từ xa xưa
của người Mường, bao gồm các mặt như tinh thần, vật chất, tôn giáo, tín ngưỡng
và văn hóa nghệ thuật....
Người Mường Hòa Bình cũng giống như nhiều dân tộc khác, việc tổ
chức lễ hội là một hoạt động sinh hoạt văn hóa có ý nghĩa giáo dục truyền thống, là
nhu cầu của một làng, một mường. Có mường thì tổ chức lễ hội mỗi năm một lần,
có mường hai, ba năm tổ chức một lần tùy theo điề u kiê ̣n.
Thường vào mùa xuân, ở các vùng Mường trong tỉnh Hòa Bình bắt
đầu tổ chức lễ hội, không chỉ để vui chơi mà còn là dịp để bà con thỉnh cầu ước
nguyện với trời đất, thần thánh, tổ tiên cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt.
14


Qua các lễ hội người ta gửi gắm hy vọng vào một mùa bội thu, một năm mới ấm
no, hạnh phúc, bình yên cho cả bản Mường.
Nét đặc trưng ở các lễ hội dân gian của người dân tộc Mường
thường thể hiện sự kết nối của cộng đồng, tinh thần đoàn kết, gắn bó của một bản
Mường, một vùng Mường.
Trong lễ hội, phần lễ thường được tổ chức rất trang trọng và linh
thiêng. Theo quan niệm của người Mường, họ thường thờ cúng những vị thần,
thánh, có thể là thần Đất, thần Nước, tổ tiên hoặc người có công lao dựng làng,
dựng Mường… Là sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh sâu sắc, các nghi lễ thể hiện sự
sống hòa mình cùng thiên nhiên, tôn trọng thiên nhiên của một cộng đồng Mường.
Ngày nay, những sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh vẫn còn rất phổ biến

và giữ đựơc nguyên những nét đặc trưng vốn có từ xa xưa. Ví như mâm cỗ cúng
trong các lễ hội, hầu hết tất cả đều là thứ được săn bắn từ rừng về, bắt được từ suối
lên hay do người dân tự trồng cấy. Nó vừa có tính chất từ thiên nhiên vừa chứa
đựng tấm lòng của người dân đối với các vị thần linh.
Mỗi nghi lễ lại kèm theo một sinh hoạt văn hóa như đánh cồng
chiêng, cúng Mo, thổi kèn, múa quạt và những hoạt động vui chơi, giải trí như
đánh mảng, ném còn, bắn nỏ, chơi đu, thi hát đối…
Những hình thức nghệ thuật này từ chỗ để truyền đạt cho thần linh
niềm mơ ước, sự biết ơn của dân làng đã trở thành những hoạt động để đáp ứng đời
sống tinh thần hàng ngày của người dân.
Để bảo tồn và phát huy được bản sắc truyền thống của dân tộc
Mường Hòa Bình : “Phải chắt lọc làm sao để việc tổ chức lễ hội phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh, phù hợp với từng vùng, từng Mường. Việc phục dựng, khơi dậy
15


các lễ hội truyền thống phải được thực hiện, cơ quan chức năng phải nghiên cứu
đồng thời chính quyền địa phương các cấp cũng phải quan tâm để tổ chức lễ hội
cho đúng ý nghĩa và quy mô của nó.
Lễ hội dân gian truyền thống của người Mường dù ở mỗi vùng khác
nhau nhưng đều có một nét chung là phản ánh nét đẹp của cộng đồng dân tộc
hướng về cội nguồn và thể hiện quan niệm sống, ý nghĩa tâm linh của họ.
Do đó, việc phục dựng và phát huy những lễ hội dân gian truyền
thống là việc làm cần thiết, góp phần gìn giữ và phát huy những nét văn hóa t ốt
đẹp của đồng bào dân tộc Mường, đồng thời thúc đẩy tiềm năng du lịch để giới
thiệu cho du khách biết về hình ảnh con người và vùng đất Hòa Bình.
1.4.2. Trang phục Mƣờng – nét độc đáo của dân tộc Mƣờng ở Kim Bôi, Hoà
Bình
Trang phục phụ nữ Mường có cái chung của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam và của cả cư dân vùng Đông Nam Á. Đó là cái nguồn gốc thực vật

chung trong chất liệu làm ra bộ trang phục và cái tính chất thủ công của quá trình
làm ra bộ trang phục dân tộc.
Người Mường trồng cây bông để lấy bông dệt vải, họ cũng nuôi tằm
để làm sợi ( nhưng chủ yếu là trồng bông ). Từ khi trồng bông đến khi thu hoạch
và làm thành sợi, dệt áo là cả một quá trình lâu dài và kỳ công. Sợi bông được cuộn
thành “ kén ” sau đó được kéo thành sợi, đồng bào dân tộc sử dụng khung cửi để
dệt lên những tấm vải. Từ “kén” vải dân tộc Mường còn nhuộm thành nhiều màu
khác nhau để dệt lên những tấm vải có màu sắc khác nhau.
Phẩm màu nhuộm là những chất liệu tự nhiên mà đồng bào Mường
tìm tòi được. Ví dụ tạo màu đỏ dùng “cây cân phàng ” ; tạo màu xanh, lấy cây “cân
16


tung ”, tạo màu vàng họ lấy củ nghệ giã nhỏ rồi vắt nước làm phẩm nhuộm. Những
loại cây trên được tạo màu qua việc lấy lá ngâm qua đêm, vò nát rồi pha với nước
vôi trong và nước gio bếp đã được lọc trong. Khi ngâm người ta phải nhuộm tới 5
lần (đêm ngâm vải, tới ngày đem ra phơi).
Trải qua thời gian, người Mường đã tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm trong nghề dệt và nhuộm, đã tạo ra những tấm vải rực rỡ, nhiều màu sắc để
dệt lên những bộ váy đẹp mặc trong lễ hội cũng như sinh hoạt hàng ngày. Nhìn
tổng thể y phục Mường đơn giản hơn y phục của nhiều dân tộc khác, như H’
Mông, Dao…nhưng không phải vì thế nó mất đi tính hấp dẫn, Y phục Mường
gồm: khăn đội đầu, váy, áo, thắt lưng, yếm( phụ nữ), áo, quần ( nam giới ). Ngoài
trang phục hàng ngày, người Mường Hoà Bình còn dành ra những bộ trang phục
đẹp nhất, sặc sỡ nhất để mặc trong những ngày lễ hội.
Trong trang phục Mường, đáng chú ý nhất là Cạp váy của người
phụ nữ. Cạp váy Mường không chỉ là bộ phận khăng khít của phụ nữ Mường mà
qua Cạp váy đó còn thể hiện những quan niệm nghệ thuật tạo hình cổ truyền của
dân tộc Mường.
Giáo sư Từ Chi là người đầu tiên nghiên cứu về hoa văn Cạp váy

Mường, và có lẽ thầy cũng là người có những giải mã sâu sắc nhất về “ Cạp váy ”
của người phụ nữ Mường. Cạp váy Mường có những mối tương đồng với hoa văn
của trống đồng Đông Sơn. Giáo sư Từ Chi đã nhận thấy trên mặt trống đồng bố
cục chung và bố cục tròn, Cạp váy Mường triển khai bố cục tròn ấy thành bố cục
thẳng, các vành trong hoa văn thành những giải thẳng. Mặt trời tròn trung tâm trên
hoa văn trống đồng Đông Sơn tự phân thành nhiều tiêu bản cùng nối với nhau kết
thành chuỗi trên dải thẳng rộng bản của Cạp váy gọi là Rang Trên. Còn các giải

17


hẹp bản chứa mô típ động vật trên trống đồng Đông Sơn biến thành Rang Dưới
Cạp váy.
Trong quá trình vận động tròn thành bố cục thẳng các ngôi sao 8
cánh xếp cạnh nhau suốt chiều ngang Rang Trên chỉ là biến thể của mặt trời ở
trung tâm mặt trống đồng. Còn những động vật, người, thuyền, nhà thì qua Cạp
váy chuyển hết thành động vật, mỗi loài chiếm thêm một Roóng. Cạp váy Mường
gồm 2 loại hoa văn: hoa văn hình học và hoa văn động vật, trong đó hoa văn động
vật là dấu ấn rõ nhất sự ảnh hưởng của hoa văn trống đồng Đông Sơn lên Cạp váy
Mường.
Giáo sư Từ Chi nhận xét : “người Mường là những người có nhiều
phẩm chất của nền văn minh Đông Sơn nhất”[1]. Trang phục Mường thật sự là bộ
trang phục duyên dáng, kín đáo mà để tạo nên nó quả là một điều kỳ công. Các
thiếu nữ Mường đến tuổi 13 – 14 được bà và mẹ dạy cho cách đặt bông, se sợi,
nhuộm màu, dệt vải. Các thiếu nữ Mường tự tạo ra trang phục cho mình và họ phải
làm nên những tấm vải đẹp, những chiếc gối, chiếc chăn…để sau này khi đến tuổi
lấy chồng, những thứ họ làm ra sẽ được họ mang theo về nhà chồng, những cô gái
khéo tay sẽ làm ra những sản phẩm đẹp tặng bố mẹ chồng và họ sẽ được mọi người
yêu quý tôn trọng.
Kết hợp với bộ áo váy, phụ nữ Mường có tục chít khăn đội đầu,

người Mường sử dụng khăn trắng để đội đầu, chiếc khăn trắng này gắn với một sự
tích. Đó là câu truyện đẹp nhưng cũng rất buồn của một đôi trai gái xứ Mường, họ
yêu nhau nhưng không đến được với nhau, chiếc khăn trắng là tượng trưng cho sự
thuỷ chung, cho tình yêu son sắt và khao khát hạnh phúc lứa đôi của những người
Mường.

18


Cùng với y phục, người Mường còn sử dụng trang sức để làm đẹp
cho trang phục của mình. Trang sức chủ yếu của người Mường chủ yếu làm bằng
bạc trắng, chia thành nhiều loại: dây xà tích, hộp quả đào, vòng đeo tay, chuỗi hạt
cườm, vuốt hổ bọc bạc… Đồ trang sức bên cạnh ý nghĩa làm đẹp còn mang ý
nghĩa tâm linh như: vuốt hổ bọc bạc được người Mường đeo bên người và họ cho
rằng hổ là loài thú dữ, dũng mãnh, nên khi đeo vuốt của con thú dũng mãnh này
người đó sẽ dũng cảm mà không bị ma quỷ hay điều xấu xâm hại.
Trang phục của người Mường cũng phân thành những đẳng cấp
khác nhau, xưa kia chỉ những người thuộc họ nhà Lang (vợ, con, họ hàng thân
thích) mới được mặc và đeo những đồ trang sức đẹp, sặc sỡ, còn những người bình
thường thì không được đeo những đồ trang sức và quần áo đẹp.
Trang phục dân tộc của người Mường rất thuận lợi và phù hợp với
điều kiện sinh hoạt và sản xuất. Bộ váy của người phụ nữ Mường rất gọn nhẹ và bó
sát người, chiếc váy cao hơn mắt cá chân nên người phụ nữ có thể di chuyển nhẹ
nhàng, phù hợp cho họ có thể lên rừng, lên nương. Trong khi trang phục nam giới
rất giống với trang phục của người Kinh, là chiếc quần hai ống và áo.
Màu sắc mà người Mường thích sử dụng là màu trắng và màu nâu
sẫm. Đây là những gam màu giản dị phù hợp với điều kiện tự nhiên nơi núi rừng
của xứ Mường.
Ngày nay, dưới tác động của sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
Việc bảo tồn, phát triển văn hoá Mường trong đó có bộ trang phục của người phụ

nữ Mường gặp nhiều khó khăn, lý do là hiện nay các thiếu nữ Mường ít khi mặc
những trang phục của dân tộc mình. Mặt khác, bộ váy Mường cũng có những cách
tân để phù hợp hơn với xu hướng mặc hiện đại. Do đó, việc giữ gìn và phát huy

19


trang phục Mường cần được chú ý để bộ trang phục Mường giữ mãi được vẻ đẹp
nguyên sơ của nó.

20


Chƣơng 2: HIỆN TƢỢNG SỬ DỤNG “BÙA NGẢI”
CỦA DÂN TỘC MƢỜNG Ở KIM BÔI – HOÀ BÌNH
2.1.

Khái niệm “ngải”, “bùa ngải”
Người ta thường nói nhiều về bùa ngải, nhưng trên thực tế không nhiều

người hiểu bùa ngải là gì? Bùa ngải từ đâu mà có? Sử dụng bùa ngải như thế nào?
Ngay cả những người đã chuộc ngải về dùng cho gia sự và cho chính bản
thân mình mà chỉ hiểu một cách mơ hồ rằng “đó là một quyền phép có sức mạnh
về huyền bí, hay nói đúng hơn là một ma lực dẫn dắt người dùng ngải đi đến mục
đích mà mình mong muốn”.
2.1.1. Ngải là gì?
Ngải thuộc họ thực vật, thân thảo, có củ. Củ nhỏ nhất thì nhỏ hơn củ nghệ
một chút như ngải đen, ngải nàng thâm, nàng xoài; lớn hơn thì có thể to bằng con
heo đất như ngải hổ, ngải tượng,… Một số loài đã có tên khoa học và đã được công
nhận tính năng chữa bệnh hay giúp ích cho cơ thể con người, bởi các nhà nghiên

cứu khoa học công bố. Chẳng hạn có những loại củ cây ngải có thể giúp tăng
cường sinh lực, tăng sự dẻo dai mà dân phu trầm thường hay dùng trong những
chuyến luồn rừng dài ngày. Người ta thường hay nói “ngậm Ngải tìm trầm” là vì
thế. Nhưng đa phần cây ngải vẫn còn mang nhiều bí ẩn mà tên gọi chỉ được truyền
miệng qua kinh nghiệm dân gian.
Ngược lại với những loài ngải có tính dược liệu thì cũng có những loại ngải
có tính độc, nhẹ thì gây mẩn ngứa ngoài da, nặng hơn thì có thể ngộ độc, dẫn đến
bệnh tật hoặc mất mạng.
21


Tóm lại, ngải cũng chỉ là một dược chất, một loại thảo mộc mà các nhà
chuyên môn đặc biệt tinh luyện gieo trồng, nuôi nấng trong phạm vi thần quyền,
nói một cách dễ hiểu hơn là họ dùng quyền phép bí thuật của họ để truyền vào cây
ngải hoặc củ ngải và cũng tuỳ theo quyền phép và giá trị của loại cây hoặc củ để
đánh giá trị của từng loại ngải khác nhau.
Cũng cần mở một dấu ngoặc ở đây: “Hãy gạt bỏ ra ngoài sự nghi ngờ về
những điều mà chúng ta thường cho là vô lý. Có lẽ trong chúng ta, quý bạn cũng
như chúng tôi có người đã từng chính mắt mình chứng kiến những phù phép ghê
người của các thầy pháp cao tay, nào là dùng cây sắt xuyên qua người, dùng dao
cắt đứt lưỡi, nhúng tay vào vạc dầu sôi, dùng dây thắt cổ mà không chết… Dù ta
có bài bác đến đâu cũng phải thầm phục và tin rằng họ có chân tài thực học, có
khả năng về huyền bí thực thụ”.
Người ta thường nói, người Nam giỏi về bùa ngải, người Trung giỏi về thư
phù, người Bắc thì giỏi về độc trùng (nuôi thuốc độc). Sự phân tích trên rất đúng.
Bởi vì người Nam chịu ảnh hưởng của huyền bí Cao Miên (Campuchia) và Lào
nên sự phát triển về ngãi nghệ cũng do đó mà ra. Người Trung chịu ít nhiều ảnh
hưởng của triều đại Chiêm Thành (Chăm Pa) nên lại thịnh về phù thư, đối ếm và
người Bắc thì chịu ảnh hưởng của Trung Hoa – một nước mà xưa kia chuyên dùng
hương mê và thuốc độc để triệt hạ đối thủ.

2.1.2. Bùa ngải là gì?
Bùa ngải là loại bùa chú được làm từ các loại ngải lâu năm, dùng để kêu gọi
các thế lực siêu nhiên hắc ám làm theo tôn chỉ, mục đích Thần chú của người đã
tạo ra nó.

22


Tương truyền rằng, khi luyện ngải, các thầy ngải, pháp sư phải nuôi ngải
bằng máu gà và máu của mình, tắm cho ngải, cho ngải ăn vào giờ nhất định, đọc
thần chú cho ngải nghe..vv…Chăm ngải còn hơn cả chăm con so, cùng với đủ thứ
chuyện ly kỳ, thâm u huyền bí khác.
Tóm lại, ngải cũng chỉ là một dược chất, một loại thảo mộc mà các nhà
chuyên môn đặc biệt tinh luyện gieo trồng, nuôi nấng trong phạm vi thần quyền,
nói một cách dễ hiểu hơn là họ dùng quyền phép bí thuật của họ để truyền vào cây
ngải hoặc củ ngải và cũng tuỳ theo quyền phép và giá trị của loại cây hoặc củ để
đánh giá trị của từng loại ngải khác nhau.
Trên đây chỉ là nhận xét chung, nhưng trên thực tế số người giỏi về bùa ngải
thư phù và trùng độc chỉ là con số tối thiểu mà thôi. Và thường là khi một người đã
giỏi về bùa ngải thì cũng biết luôn cả thư phù và trùng độc.
Hiện nay các nhà tướng số có chân tài, phần nhiều đều hiểu rõ và biết cách
nuôi ngải luyện ngải và thư phù…Có lẽ một phần vì họ xét thấy những môn đó có
liên quan ít nhiều đến nghề nghiệp nên tầm học, một phần nữa nhờ ở sự đi nhiều
của họ, nay Lèo, mai Mán nên họ tình cờ tìm hiểu và học rồi được. Ngoài những
nhà tướng số ra, số còn lại biết về thư phù, bùa ngải và trùng độc chính là những
người chuyên môn sống bằng nghiệp đó.
Đã nói đến Bùa chú thì dù là bất cứ loại Bùa chú nào cũng phải nhờ có lực
lượng Âm binh giúp sức mới thành công. Ở đây ta hiểu đối với một số người dùng
Bùa Ngải vào việc vô đạo thì lực lượng âm binh này chính là các loài yêu quỷ. Đối
với yêu quỷ thì một đặc tính cơ bản của chúng là làm hại người. Nếu chúng giết

được càng nhiều người thì bản thân chúng cũng được tăng thêm sức mạnh siêu
nhiên. Chính vì vậy chúng rất thích những người thường kêu gọi và nhờ vả đến
23


×