Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

vận dụng triết học mác lê nin vao xây dựng phát triển đất nước theo định hướng XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.99 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Năm 1975, giải phóng miền Nam, đất nước việt Nam hoàn toàn độc lập, hai
miền Nam Bắc thống nhất, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, đó là cả
nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở nước
ta là sự lựa chọn đúng đắn hay sai lệch? Vì sao không đi theo con đường TBCN mà
kiên định đi theo CNXH? Trong khi đây là giai đoạn phát triển kỳ diệu,là thành tựu của
nhân loại. Bên cạnh đó lịch sử thế giới đã cho thấy nhiều bài học kinh nghiệm về sự sụp
đổ CNXH ở Liên Xô đã tồn tại hơn 70 năm,ở các nước Đông Âu hơn 40 năm kể từ
1945. Đó là những nước đều đạt những thành tựu to lớn về khoa học kỹ thuật,về kinh tế
xã hội.Trong khi,xã hội Việt Nam là một nước có nền kinh tế nghèo nàn,lạc hậu ở Đông
Nam Á. Vốn là một xã hội phong kiến trong hơn 1000 năm,và chịu ách thống trị của
thực dân Pháp trong gần 100 năm, cho nên xã hội Vệt Nam mang tính chất thụôc địa
nửa phong kiến. Sau khi dành độc lập, nền kinh tế ở trạng thái kiệt quệ, bộ máy nhà
nước cồng kềnh, kém năng động, sáng tạo, hệ thống vật chất kĩ thuật còn thô sơ lạc
hậu, đời sống người dân nghèo nàn... Vậy vì sao Đảng ta lại kiên quyết xây dựng đất
nước theo con đường CNXH mà không phải con đường nào khác?
Nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ triết học mà cụ thể là lý luận các hình thái
kinh tế xã hội nhằm khẳng định sự lựa chọn của đảng ta hoàn toàn đúng đắn. Thực tế
hơn 30 năm đổi mới, những thành tựu về kinh tế, chính trị, khoa học xã hội đã chứng
minh một cách hùng hồn nhất về sự lựa chọn của nhân dân ta, của đảng ta là đúng đắn
và khẳng định sự lựa chọn con đường xây dựng đất nước theo CNXH là một tất yếu
khách quan.

1


PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Lý luận hình thái kinh tế xã hội
1-Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng
để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc


trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
2- Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
Xã hội đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai
đoạn của sự phát triển là một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Các hình thái kinh tế
- xã hội vận động và phát triển do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá
trình tự nhiên của sự phát triển. C Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” , tức là muốn nói đến quy luật khách
quan của lịch sử, quy luật đó được coi là sự phát triển của quá trình sản xuất vật chất,
xét đến cùng là do mâu thuẫn bên trong giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
do tính tất yếu kinh tế quy định. Các quy luật xã hội chính là hiện thân của các quy
luật tự nhiên được con người sử dụng nó để kiến tạo nên xã hội loài người.
Tiến trình lịch sử là quá trình phát triển biện chứng vừa bao hàm sự phát triển
đứt đoạn và liên tục. Trong quá trình sản xuất, con người có những quan hệ với nhau,
đó chính là quan hệ sản xuất. Những quan hệ sản xuất đó do trình độ của lực lượng
sản xuất quy định. đến lượt nó quan hệ sản xuất lại quy định các quan hệ xã hội khác
như: chính trị, luật pháp, đạo đức… Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ
nào đó thì những thay đổi về chất mâu thuẫn gay gắt với những quan hệ sản xuất có,
dẫn đến đòi hỏi khách quan là thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới
thông qua cuộc cách mạng xã hội. Quan hệ sản xuất thay đổi thì toàn bộ các quan hệ
sản xuất khác cũng thay đổi. Như vậy, phương thức sản xuất thay đổi, các quan hệ xã
hội, chính trị, tinh thần thay đổi dẫn đến sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã hội.
Chính vì thế, V.I.Lênin viết: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan
hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng
sản xuất thì người ta mới có thể có được những cơ sơ vững chắc để quan niệm sự phát
triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.”

2



Quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử được chia ra thành những bậc thang
lịch sử khác nhau, ứng với một trình độ kinh tế, kỹ thuật nhất định trong từng phương
thức sản xuất nhất định. Thực tiễn đã cho thấy, loài người đã, đang và sẽ trải qua 5
hình thái kinh tế - xã hội theo thứ tự từ thấp đến cao. Đó chính là quá trình tự nhiên
của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính liên tục của lịch sử. Tuy nhiên, đối với mỗi
nước cụ thể, do những điều kiện khách quan và chủ quan riêng thì một nước nào đó,
một dân tộc nào đó có thể “bỏ qua” những chế độ xã hội nhất định. Sự khác nhau về
trật tự phát triển ở phạm vi toàn nhân loại vẫn là quá trình lịch sử - tự nhiên, còn đối
với từng quốc gia, dân tộc cụ thể bỏ qua những “ nấc thang ” nhất định. V.I.Lênin
viết: “…tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại
trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về
hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó”.
Thực tế lịch sử của một số nước đi theo con đường XHCNđã chứng minh tính
đúng đắn, khoa học của hình thái kinh tế - xã hội và lý luận về khả năng “bỏ qua” một
chế độ xã hội nhất định.
Từ việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chúng ta có thể rút ra
một số điểm có ý nghĩa phương pháp luận sau:
- Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội, những
nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện, biến đổi của các hiện tượng xã hội đã biến đổi xã
hội học thành một khoa học thực sự, khắc phục mọi quan điểm duy tâm về lịch sử. Từ đó
có một cách nhìn đúng đắn, thấy được vai trò thực sự của LLSX, QHSX, mối quan hệ
biện chứng giữa chúng và các mối quan hệ khác trong quá trình phát triển xã hội.
- Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến đang tác
động và chi phối sự vận động của xã hội. Vũ trang cho chúng ta phương pháp khoa
học để nghiên cứu xã hội và chỉ đạo thực tiễn ở tầm vĩ mô và vi mô.
- Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối cách mạng của Đảng Cộng
Sản. là cơ sở lý luận cho việc triển khai đường lối, chính sách ở tầm quốc gia và mỗi
địa phương nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
- Giúp chúng ta một cái nhìn biện chứng về sự phát triển liên tục của các hình

thái kinh tế - xã hội, của các giá trị văn hoá, khoa học, kĩ thuật và của chính bản thân
thế hệ con người. Từ đó giúp chúng ta không nóng vội chủ quan, không đốt cháy giai
đoạn, biết kế thừa những thành tựu chung của văn minh nhân loại.
3


- Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đòi hỏi chúng ta phải thấu triệt nguyên lý
đó, vận dụng một cách chủ động sáng tạo và kiến thức tổng quát của nhiều môn khoa
học khác vào công việc hàng ngày của mỗi người, mỗi địa phương phải nhìn nhận các
vấn đề trong dòng chảy liên tục của nó.

4


Chương II:
Sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta
Từ hình thái kinh tế - xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế - xã hội khác có
một giai đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau, kết cấu và hình thức biểu
hiện khác nhau, đó là “thời kỳ quá độ”.
Tuỳ theo điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của mình mà các nước các dân tộc sẽ
thực hiện sự quá độ lên CNXH dưới những hình thức, bước đi khác nhau, do trình độ
xuất phát khác nhau. Có thể khái quát thành 3 loại nước tương ứng với 3 kiểu quá độ:
- Những nước TBCN phát triển cao
- Những nứơc đạt trình độ phát triển TBCN ở mức trung bình thấp
- Những nước chưa trải qua giai đoạn TBCN của sự phát triển lịch sử
Nước ta thuộc loại nước thứ ba. Do toàn bộ những điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan quy định, nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là một tất yếu của
lịch sử. Để “nhận dạng”con đường đi lên của nước ta, trước hết cần phân tích đầy đủ
và chính xác điểm xuất phát từ đó nước ta quá độ lên CNXH. Để xác định con đường

đi lên của mình, cụ thể trong điều kiện hiện nay chính là thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì điều cần thiết là phải xuất phát từ thực trạng
kinh tế xã hội của đất nước, xuất phát từ đặc điểm LLSX và QHSX ở nước ta để lựa
chọn đúng hình thức kinh tế cho hiệu quả, xác định rõ những bước đi cụ thể theo mục
tiêu đã chọn. Nghị quyết Trung ương 5 về văn hoá và Nghị quyết Trung ương 6 (lần1)
khoá VIII về kinh tế gần đây đã khẳng định cần phải đẩy mạnh việc phát huy nội lực
kinh tế, tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường tiêu thụ, mạnh dạn
hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Đó chính là những nghị quyết sát thực
với cuộc sống, đã khuyến khích QHSX phát triển trên cơ sở phù hợp với trình độ của
LLSX ở nước ta hiện nay.
2. Sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH ở nước ta
- Định hướng XHCN ở nước ta: Đúng hay chệch?
Trước đây, sau mấy năm khôi phục kinh tế và thực hiện cải tạo XHCN, công
cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta có thể nói xuất phát từ khái niệm đơn giản,
duy ý chí về CNXH. Chúng ta tưởng rằng có thể thực hiện được ngay mọi đặc trưng
5


của CNXH sau khi tiến hành quốc hữu hoá, công hữu hoá những tư liệu sản xuất cơ
bản mà không cần biết nền sản xuất xã hội hoá ấy thực hiện như thế nào.
Dần dần từ thực tiễn khủng hoảng và trì trệ về kinh tế chúng ta mới hay rằng:
không thể thực hiện được ngay mọi đặc trưng của CNXH trên cơ sở một nền sản xuất
xã hội hoá theo kiểu hình thức, một nền sản xuất gọi là”xã hội hoá”nhưng trình độ của
LLSX còn rất thấp, còn xa mới đạt tới xã hội hoá được coi như một tất yếu kinh tế.
Mức độ thực hiện những đặc trưng của CNXH không thể áp đặt theo ý muốn chủ quan
mà phải căn cứ vào trình độ thực tế của LLSX và năng suất lao động trong từng thời kỳ
lịch sử cụ thể. Nghĩa là: chỉ có thể thực hiện từng bước những đặc trưng của CNXH.
Với ý nghĩa trên, định hướng XHCN chính là sự quay trở về với luận điểm sau
của Lênin: “… danh từ nước Cộng hoà xô viết XHCN có nghĩa là chính quyền xô viết
quyết tâm thực hiện bước chuyển lên CNXH, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đã

thừa nhận chế độ kinh tế mới là chế độ XHCN”. Bởi vậy, quá trình định hướng
XHCN trên đất nước ta là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH - cốt
lõi của quá trình xã hội hoá sản xuất trong thực tế. Để có được nền móng của CNXH,
chúng ta chỉ có thể rút ngắn cái phải trải qua theo quy luật lịch sử tự nhiên, chứ không
thể bỏ qua cái phải trải qua. Cái phải trải qua ấy là gì? Là phát triển mạnh LLSX , là
xã hội hoá sản xuất trong thực tế thông qua các quá trình chuyển hoá từ nền kinh tế
nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, từ mô hình nông thôn sang mô hình đô thị,
từ tổ chức cộng đồng xóm sang cộng đồng dân tộc, quốc tế… Cũng vì vậy, quá trình
định hướng XHCN ở nước ta tất yếu phải là một quá trình đan xen giữa nhiệm vụ trực
tiếp và gián tiếp xây dựng CNXH, là quá trình còn nhiều mâu thuẫn, nghịch lý, bất
công mà tạm thời phải chấp nhận, và cuộc vận động của lịch sử CNXH trên thực tế sẽ
xoá bỏ dần những mâu thuẫn, nghịch lý, bất công ấy. Sự định hướng XHCN còn chứa
đựng một vấn đề cơ bản không thể né tránh. Đó là thời kỳ “ai thắng ai”. Cho nên,
không chỉ có khả năng đi đúng hướng mà còn có khả năng đi chệch hướng. Chệch
hướng là một nguy cơ có thật. Quá trình đi theo con đường XHCN quyết không phải
là sự chuyển động phẳng lặng theo một chiều mong muốn, đặc biệt cơ chế thị trường
được coi là phương tiện khách quan để xây dựng CNXH. Nó là phương tiện để phát
triển kinh tế, nhưng sự phát triển ấy lại tiềm ẩn nguy cơ CNXH bị huỷ hoại.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng đã
xác định 6 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Nói định hướng
XHCN nghĩa là nói mục tiêu chúng ta đạt tới. Đó cũng là hành lang của sự phát triển ,
sự sáng tạo.
6


Cương lĩnh vạch ra những phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình thực hiện
những đặc trưng của CNXH trên đất nước ta. Những phương hướng đó vừa mang tính
bảo đảm không chệch hướng XHCN, vừa quán triệt tinh thần đổi mới cho phép không
lặp lại những sai lầm cũ, tinh thần từng bước thực hiện những đặc trưng của CNXH.
Chẳng hạn, trong cách mạng QHSX, sự định hướng XHCN có nghĩa là thiết lập từng

bước QHSX XHCN phù hợp với sự phát triển của LLSX. Do đó, QHSX XHCN sẽ
được hình thành từ thấp đến cao, rồi sự đa dạng về hình thức sở hữu.
Sau cương lĩnh, các hội nghị của Trung ương Đảng từ Đại hội VII đến nay đã
cụ thể hoá thêm một bước sự định hướng XHCN trên các mặt đời sống xã hội. Sau 12
năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đã thu được những
thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Đất nước ta, nhờ đó có thể chuyển sang
thời kỳ mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhận định chung về quá trình định hướng XHCN sau 12 năm đổi mới Đảng ta
khẳng định: về cơ bản việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua
là đúng đắn, đúng định hướng XHCN. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện có một số
khuyết điểm, lệch lạc kéo dài, dẫn đến chệch hướng ở mức độ này hay mức độ khác.
Nhận định đó là đúng đắn và sáng suốt, phản ánh tinh thần đầy trách nhiệm của Đảng
ta đối với vận mệnh của dân tộc, của hàng triệu quần chúng nhân dân lao động - nền
tảng của chế độ ta.
Từ đó, một mặt cổ vũ cho nhân dân ta phát huy tinh thần tự lực tự cừơng để
đưa đất nước ra khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu, mặt khác đòi hỏi mọi người phát huy
tinh thần trách nhiệm khắc phục mọi trở ngại trên con đường đi tới một chế độ do
nhân dân lao động làm chủ.
Như vậy, con đường đi lên CNXH là con đường đúng đắn mặc dù còn nhiều
khó khăn trước mắt nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta không chịu lùi
bước trước bất cứ khó khăn, thử thách nào.

7


Chương III
Quá trình vận dụng lý luận về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ
nghĩa ở Việt Nam
Đi lên CNXH đã được xác định trong Cương lĩnh năm 1930: Cách mạng Việt
Nam sẽ trải qua 2 giai đoạn - Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (giành độc lập cho

dân tộc, ruộng đất cho nông dân), sau đó sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn
đầu là CNXH. Nói cách khác: mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đã được
xác định nhất quán từ ngày thành lập Đảng đến nay.
Kiên định với mục tiêu đó, sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) miền Bắc
hoàn toàn được giải phóng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo miền Bắc đi lên
CNXH, đồng thời tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Miền Bắc quá độ lên CNXH làm hậu phương vững chắc cho miền Nam tiếp tục cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Xây dựng CNXH ở miền Bắc chính là quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng lý luận về cách mạng XHCN, trong đó có lý luận về hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa, hiện thực hóa thành chế độ xã hội XHCN.
Ở thời kỳ này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cố gắng vận dụng những quan điểm
khái quát nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin về mô hình XHCN với các đặc trưng (tiêu
chí) trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, chính sách đối nội, đối
ngoại của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN.
Về phương diện kinh tế: Vận dụng các quan điểm Mác - Lênin về xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương xây dựng một nền kinh tế
quốc dân “có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại; khoa học, kỹ thuật tiên
tiến”.
Về phương diện chính trị: Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam
là luôn luôn gắn độc lập dân tộc với CNXH, coi đó là hai nhiệm vụ chiến lược trong
điều kiện Việt Nam còn chia làm 2 miền với các nhiệm vụ chính trị khác nhau. Đây là
điểm rất sáng tạo trong thực hiện cách mạng XHCN ở Việt Nam. Hậu phương lớn
được xác lập, tạo niềm tin vững chắc vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

8


Về phương diện văn hóa: Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng các quan

điểm mácxít về cách mạng tư tưởng và văn hóa để xây dựng nền văn hóa Việt Nam
mới: văn hóa XHCN.
Về phương diện xã hội: Đảng Cộng sản Việt Nam đã cố gắng thực hiện, giải
quyết các vấn đề công bằng, bình đẳng xã hội; chủ trương lấy phân phối theo lao động
làm nguyên tắc chủ yếu. Trong quan hệ tộc người luôn giữ những nguyên tắc bình
đẳng, cùng tiến bộ trong quốc gia đa dân tộc.
Về con người: Xây dựng con người mới XHCN với những yêu cầu mới đặt ra
ở Việt Nam. Giáo dục tấm gương đạo đức con người mới XHCN được quan tâm.
Về chính sách đối ngoại: Việt Nam chủ trương tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ
của các nước trong phe XHCN và các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ trên
thế giới. Giữ vững các nguyên tắc đối ngoại theo quan điểm chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân.
Tuy nhiên, những nhận thức, vận dụng lý luận mácxít về hình thái kinh tế - xã
hội CSCN vào xây dựng CNXH ở Việt Nam thời kỳ này còn nhiều hạn chế, khuyết
điểm, thậm chí đã vấp phải những sai lầm trong nắm bắt, kết hợp “cái phổ biến” và
“cái đặc thù” của CNXH và con đường đi lên CNXH để hiện thực hóa xã hội XHCN
ở Việt Nam. Những khuyết điểm, sai lầm đó chính là nguyên nhân trực tiếp đưa đất
nước đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng những năm 80 thế kỷ XX.
Đại hội VI của Đảng (1986) với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ
sự thật” đã nghiêm túc chỉ ra những khuyết điểm sai lầm đó.
Văn kiện Đại hội chỉ rõ: những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức
và cán bộ là nguyên nhân của các nguyên nhân, “trước những biến động và thử thách
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt động tư tưởng và tổ chức của Đảng đã
không theo kịp yêu cầu của cách mạng”. Trong lĩnh vực tư tưởng “đã bộc lộ sự lạc
hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá
độ: đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu
của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có
những thành kiến không đúng, trên thực tế chưa thừa nhận những quy luật của sản
xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan. Do đó không chú ý vận dụng chúng vào việc
chế định các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú ý đến việc tổng kết kinh

nghiệm thực hiện của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước anh em”.
9


Đảng Cộng sản Việt Nam còn chỉ ra rất cụ thể những yếu kém, lạc hậu trong
nhận thức về CNXH, về công nghiệp hóa, về cải tạo XHCN, về các cơ chế quản lý,
phân phối, lưu thông: “Nhiều năm nay, trong nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã
hội có nhiều quan niệm lạc hậu, nhất là những quan niệm về công nghiệp hóa, về cải
tạo xã hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế, về phân phối, lưu thông, v.v.”(2).
Từ đó, đổi mới, nhận thức về CNXH đã trở thành vấn đề cốt tử của công cuộc
xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Đánh giá đúng những khuyết điểm, sai lầm trong nhận thức, vận dụng lý luận
Mác - Lênin về CNXH và xây dựng CNXH là tiền đề để đổi mới tư duy, lý luận.
Trước Đổi mới, chúng ta chỉ căn cứ vào mô hình CNXH kiểu Xôviết (mang
tính dập khuôn, máy móc, giáo điều và áp đặt bằng mệnh lệnh, hành chính) mà chưa
xác định được đâu là mô hình, diện mạo, các tiêu chí cần đạt tới của xã hội XHCN ở
Việt Nam.
Ngay cả mục tiêu của CNXH ở Việt Nam cũng không được xác định rõ ràng,
cụ thể, thậm chí coi mục tiêu lâu dài như mục tiêu trước mắt, nôn nóng muốn hiện
thực hóa lý tưởng CNXH mà không tính đến đặc điểm tình hình đất nước với những
khó khăn của quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa... Ở nhiều lĩnh vực
(kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) đã xa rời các quan điểm Mác - Lênin về sự tồn tại
xen kẽ của cái cũ và cái mới, tính chất quá độ phải được nhận thức và vận dụng trong
các quy luật kinh tế hàng hóa, nhiều tổ chức kinh tế - xã hội mang tính quá độ. Các
nhiệm vụ cần thực hiện trong các chặng đường quá độ, các bước trung gian cần thiết
của thời kỳ quá độ đã không được xác định rõ... Chủ trương xóa bỏ ngay các thành
phần kinh tế “phi XHCN” cùng với quan niệm duy ý chí, siêu hình: “lấy quan hệ sản
xuất tiên tiến mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển” đã kìm hãm, triệt tiêu
nhiều động lực để phát triển đất nước.
Với thái độ phủ nhận tuyệt đối những thành quả của nhân loại trong giai đoạn

phát triển của CNTB, với tư tưởng đối lập một cách máy móc giữa CNXH và CNTB,
đối lập cả khoa học, kỹ thuật của CNTB với khoa học, kỹ thuật của CNXH...
Hạn chế, khuyết điểm lớn nhất trong nhận thức, vận dụng lý luận về CNXH và
xây dựng CNXH ở Việt Nam là không gắn lý luận với thực tiễn, không xuất phát từ
thực tiễn của đất nước để xác định rõ mục tiêu, mô hình, bản chất, các nội dung, đặc
điểm của CNXH ở Việt Nam và các phương hướng, cách thức, lộ trình đi lên CNXH
một cách phù hợp. Nhiều quan điểm Mác - Lênin, nhất là quan điểm lịch sử - cụ thể,
10


quan điểm phát triển... đã không được tuân thủ mà bị xa rời, thậm chí chệch hướng
chỗ này hay chỗ khác.
Những hạn chế, khuyết điểm chung trong nhận thức, vận dụng lý luận về
CNXH ở Liên Xô, Đông Âu đã không được phát hiện mà để kéo dài cho đến khi
khủng hoảng trầm trọng trong toàn hệ thống CNXH thì Liên Xô và các Đảng Cộng
sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam mới chủ trương cải tổ, đổi mới, và với
những sai lầm tiếp theo dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống XHCN, Đảng Cộng sản mới
có sự nhận thức, vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận mácxít về CNXH và xây dựng
CNXH.
Thành quả vận dụng và phát triển lý luận Mác - Lênin trong điều kiện Việt Nam
có thể nhận thấy ở những cống hiến của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới nhận
thức, tư duy về các đặc trưng của xã hội XHCN mà Việt Nam xây dựng, về các
phương hướng quá độ lên CNXH và các mối quan hệ lớn cần quán triệt và giải quyết
trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài để hiện thực hóa các phương hướng đã xác
định.
Năm 1991 đã ghi dấu mốc trên tiến trình đổi mới tư duy, nhận thức về CNXH
và xây dựng CNXH thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hộiở Việt Nam. Lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định
được 6 đặc trưng của xã hội XHCN, 7 phương hướng quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Cương lĩnh mở ra tiền đề để bổ sung, phát triển, cụ thể hóa trong các Đại hội Đảng

tiếp theo.
Cùng với các đặc trưng, phương hướng để hiện thực hóa các đặc trưng của xã
hội XHCN, hàng loạt các vấn đề lý luận khác cũng đã được bổ sung, phát triển, đổi
mới cho phù hợp với thực tiễn sinh động của đất nước... Đó là các vấn đề về mục tiêu,
động lực của công cuộc xây dựng CNXH; những nhận thức mới về đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị, giải quyết các quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; vấn đề đấu tranh giai cấp trong điều kiện
hiện nay; về đặc điểm, nội dung của quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam, v.v.
Từ sau Đại hội VII (1991) đến Đại hội XI (2011), các nhiệm kỳ đại hội của
Đảng đều cân nhắc, xem xét ở các mức độ khác nhau những vấn đề liên quan đến
CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới đã giúp Đảng,
Nhà nước và nhân dân Việt Nam từng bước làm sáng tỏ hơn về xã hội XHCN và con
11


đường xây dựng CNXH ở Việt Nam trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đúc kết bài học kinh
nghiệm trong và ngoài nước.
Đến nay, việc vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin về
CNXH đã được phản ánh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI của Đảng thông
qua. Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng được xác định 8 đặc trưng cơ bản: Là xã
hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Do nhân dân làm chủ; Có
nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; Các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển;
Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước
trên thế giới.

Tám đặc trưng cơ bản nêu trên là thành quả của sự bổ sung, phát triển, điều
chỉnh từ 6 đặc trưng đã xác định từ Cương lĩnh năm 1991, trên cơ sở tổng kết thực
tiễn, kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù trong các đặc trưng của xã hội XHCN mà
chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định; tiếp thu, phát triển sáng tạo các quan điểm rất
độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam.
Cùng với 8 đặc trưng về xã hội XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định 8
phương hướng quá độ lên CNXH: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; Phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Thực hiện
đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; Chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh.
Tám phương hướng này cũng là thành quả của nhiều năm đổi mới trên cơ sở
thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam có kế thừa, điều chỉnh, bổ sung, phát triển các
nội dung có từ 7 phương hướng đã được xác định từ Cương lĩnh năm 1991. Đó cũng
chính là đường hướng cơ bản để đi lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
12


Một nội dung rất mới, bước tiến của Đảng trong nhận thức về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam là tại Đại hội XI đã xác định các mối quan hệ lớn cần quán triệt
và giải quyết trong khi thực hiện các phương hướng quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Tám mối quan hệ lớn đó là: Giữa đổi mới, ổn định và phát triển; Giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; Giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; Giữa phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN;
Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;

Giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế; Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
Quán triệt, giải quyết các mối quan hệ lớn là giải pháp cấp bách thể hiện cách
thức, con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trên cơ sở vận dụng và phát triển quan
điểm Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã và đang đi vào chiều sâu, vừa thể hiện
những cống hiến, đóng góp của Đảng Cộng sản Việt Nam về lý luận nhận thức CNXH
và về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đồng thời, thực tiễn sinh động đang đặt ra
hàng loạt vấn đề cần tiếp tục có các câu trả lời thỏa đáng, thuyết phục về mô hình xã
hội XHCN ở Việt Nam, về cụ thể hóa phương hướng, bước đi, lộ trình quá độ lên
CNXH trong những năm trước mắt và những thập kỷ tới...
Hơn lúc nào hết phải nghiêm túc tổng kết thực tiễn, tiếp tục quán triệt các bài
học lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc kết trên con đường đổi mới, trong đó có
các bài học được đúc kết qua gần 30 năm đổi mới. Một bài học luôn có giá trị lý luận
và phương pháp luận cho đổi mới tư duy, nhận thức, phát triển lý luận Mác - Lênin về
CNXH được Đại hội XI đúc kết là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh”. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho
chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn.
Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của
Đảng và kim chỉ nam cho hành động của chúng ta.

13


PHẦN KẾT LUẬN
Hơn 60 năm qua kể từ khi miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, từng
bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH); gần 40 năm đất nước thống nhất, cả nước
cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, qua

những thăng trầm của cách mạng XHCN với không ít sai lầm, khuyết điểm trong
nhận thức, lý luận về CNXH, con đường đi lên CNXH, cùng những thành tựu to lớn
có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta giành được từ năm 1986 đến nay đã cho nhiều cứ
liệu để xem xét, đánh giá một cách khách quan về việc vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin nói chung, lý luận mácxít về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa nói
riêng nhằm hiện thực hóa xã hội XHCN ở Việt Nam.
Ở nước ta, quá trình đi lên con đường XHCN là quá trình đầy thách thức khó
khăn. Nhưng thực tế hơn 30 năm đổi mới đã cho chúng ta thấy sự lựa chọn xây dựng
đất nước CNXH ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Ngoài con đường đó không còn con
đường nào khác.
Vận dụng quan điểm lý luận triết học Mác Lênin xây dựng đất nước phát triển
theo định hướng XHCN một cách khoa học và hiệu quả nhất. Hơn 30 năm đổi mới
(1986 - 2017) đã cho nhân dân ta nhiều bài học quý giá. Những bài học đổi mới do
Đại Hội VI, VII, VIII, IX nêu lên có giá trị vô cùng to lớn. Trong quá trình xây dựng
đất nước theo CNXH phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng tư
tưởng là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó
khăn, thử thách những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta
luôn kiên định mục tiêu cách mạng, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin trên cơ
sở xây dựng các chủ trương chính sách đổi mới.
Chúng ta nhận thức rằng những thành tựu mà chúng ta đạt được qua 15 năm là
sự nỗ lực của toàn đảng toàn dân. Đồng thời, những tồn tại và những khó khăn thách
thức mà chúng ta đang và sẽ gặp phải cũng hết sức to lớn đòi hỏi chúng ta phải cố
gắng hơn nữa.
Đi lên CNXH ở nước ta đoì hỏi trước hết là đổi mới tư duy nhận thức về
CNXH và con đường đi lên XHCN ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn. có ý
nghĩa bảo đảm cho hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước.
Nhận thức bao giờ cũng là quá trình đi lên từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện. Hơn nữa CNXH là một hiện tượng mới mẻ, đang vận
14



động, hình rhành trong lịch sử loài người. Bởi vậy bám sát thực tiễn nghiên cứu, tổng
kết thực tiễn để phát triển lý luận đó là yêu cầu to lớn mà thực tiễn đặt ra cho hoạt
động của Đảng ta hiện nay.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác - Lênin;
2. Tạp chí cộng sản số 5 - 1996;
3. Tạp chí cộng sản số 3 - 2001;
4. Tập bài giảng triết học Mác - Lênin;
5. Tập II chủ nghĩa Duy vật lịch sử;
6. Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2015, nNghiên cứu này cùng với
các bài của PGS, TS Nguyễn Quốc Phẩm: Lý luận Mác- Lênin về hình thái kinh tế- xã
hội và những luận điểm cần bổ sung, phát triển, số 7 - 2014; PGS, TS Nguyễn Chí
Dũng: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay, số 8 - 2014; PGS, TS
Nguyễn Quốc Phẩm: Quan niệm của các học giả Nga về lý luận hình thái kinh tế - xã
hội, số 9 - 2014 được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và công nghệ quốc gia
(Nafosted) trong đề tài mã số: L1.1-2012.08.
7. ĐCSVN: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005, tr.26, 132-133.

16



×