sao thủy
sao thủy
Bởi:
Wiki Pedia
Cấu trúc
Nhiệt độ và ánh sáng từ Mặt Trời
Nhiệt độ trung bình tại bề mặt của Sao Thủy là 227°C, thay đổi từ 32°C đến 371°C. Đây
là một sự khác biệt hơn 315C, trong khi sự khác biệt tại Trái Đất chỉ khoảng 10°C. Sự
khác biệt về nhiệt độ trên Sao Thủy rất lớn vì chu kỳ quay quanh trục của hành tinh này
rất dài – hơn 58 ngày của Trái Đất – và một bầu khí quyển rất mỏng.
Trung bình một mét vuông trên Sao Thủy nhận 9 lần ánh sáng Mặt Trời nhiều hơn một
mét vuông trên Trái Đất.
Khí quyển
Sao Thủy có một bầu khí quyển cực mỏng, mỏng đến nỗi Sao Thủy được coi như một
hành tinh không có không khí. Các phần tử chính của bầu khí quyển là: kali, natri và
dưỡng khí (ôxy).
Với một khối lượng quá nhỏ, Sao Thủy không đủ sức bảo tồn bầu khí quyển của nó –
các nguyên tử trong bầu khí quyển liên tục bị mất vào trong không gian vì sức hút của
trọng lực quá yếu. May thay, những nguyên tử đó được thay thế bằng các nguyên tử
khác đến từ sự bức xạ của Mặt Trời, sự bốc hơi của các phần tử nằm trong băng đá hay
lòng đất và từ các thiên thạch hay vệ tinh nhỏ khi đập vào Sao Thủy.
Bề mặt
Bề mặt của Sao Thủy có rất nhiều hố to nhỏ và lởm chởm như bề mặt của Mặt Trăng.
Hố được chụp hình rõ nhất là Caloris Basin, được tạo ra khi một thiên thạch từ ngoài
không gian đập vào Sao Thủy, với đường kính khoảng 1350 km và một rặng núi cao gần
2 km ở chung quanh. Sao Thủy còn có những rãnh sâu, nhìn từ xa giống như những vết
cào, hình thành hàng triệu năm trước đây khi lõi của hành tinh nguội, co lại và tạo nên
những nếp nhăn ở lớp đất phía trên.
Bề mặt của Sao Thủy có thể chia ra làm 7 vùng địa lý chính sau đây:
1/3
sao thủy
Những vùng có nhiều hố
Những vùng có độ phản chiếu ánh sáng khác nhau
Những rặng núi
Những gò núi đứng một mình
Những bình nguyên phẳng
Những rãnh sâu
Những thung lũng
Quỹ đạo và vận tốc quay
Quỹ đạo của Sao Thủy là một hình elip rất hẹp, bán kính của trục chính là 70 triệu km
trong khi bán kính của trục phụ chỉ có 46 triệu km. Vận tốc quỹ đạo của Sao Thủy rất
cao vì ảnh hưởng trọng lực của Mặt Trời. Sao Thủy quay một vòng chung quanh Mặt
Trời vào khoảng 88 ngày – một năm Sao Thủy, do đó, dài bằng 88 ngày của Trái Đất.
Vận tốc quỹ đạo của Sao Thủy thay đổi từ 39 km/s đến 59 km/s. Chỗ nhanh nhất là đỉnh
gần Mặt Trời của quỹ đạo – còn gọi là cận điểm – và chỗ chậm nhất là đỉnh xa Mặt Trời
của quỹ đạo – còn gọi là viễn điểm.
Trục quay của Sao Thủy gần như thẳng đứng đối với mặt phẳng của quỹ đạo. Mãi đến
năm 1965 các nhà khoa học, dùng radar, mới khám phá ra Sao Thủy tự quay chung
quanh chính mình với một vận tốc quay quanh trục là 58,6 ngày cho mỗi vòng – một
ngày Sao Thủy, do đó, dài hơn 58 ngày của Trái Đất. Nói một cách dễ hiểu là 2 năm Sao
Thủy bao gồm 3 ngày Sao Thủy, hay một ngày Sao Thủy dài bằng 2/3 của một năm Sao
Thủy.
Với một ngày dài như vậy, một quan sát viên đứng trên Sao Thủy, nếu chọn đúng chỗ,
có thể nhìn thấy sự thay đổi của vận tốc quỹ đạo. Khi Sao Thủy tiến đến gần cận điểm
thì vận tốc quỹ đạo nhanh hẳn lên và làm cho Mặt Trời có vẻ mọc chậm hẳn lại; lúc vận
tốc quỹ đạo nhanh bằng đúng vận tốc quay, Mặt Trời có vẻ đứng tại một chỗ; lúc vận tốc
quỹ đạo cao hơn vận tốc quay, Mặt Trời có vẻ chạy ngược trở lại rồi lặn xuống hướng
đông. Khi sao Thủy qua khỏi cận điểm thì vận tốc quỹ đạo từ từ chậm lại, Mặt Trời, do
đó, mọc trở lại và tiếp tục đi qua hướng tây.
Các nghiên cứu về Sao Thủy
Các nhà thiên văn cổ đại
2/3
sao thủy
Nghiên cứu qua kính thiên văn
Các chương trình thám hiểm
Cho đến nay chỉ có Mariner 10, do NASA phóng lên vào tháng 11 năm 1973 và đến
phạm vi của Sao Thủy vào tháng 3 năm 1974, là tàu vũ trụ độc nhất thám hiểm hành
tinh này. Do đó, chỉ vào khoảng 45% bề mặt của Sao Thủy được khám phá.
Hiện nay (2005), đang trên đường đến Sao Thủy là Tàu vũ trụ Messenger. Theo dự định
thì Messenger sẽ đến phạm vi của sao Thủy vào đầu năm 2011. Trong một năm bay
quanh hành tinh cấu tạo từ kim loại nặng này, Messenger có nhiệm vụ lập bản đồ bề mặt
của sao Thủy và tìm kiếm dấu hiệu của nước trong các miệng hố nằm ở đầu cực bị khuất
trong bóng tối, nghiên cứu bề mặt đá rắn, tầng khí quyển loãng và tầng nhân nóng chảy
của sao Thủy. Messenger được trang bị camera, quang phổ kế để xác định thành phần
hoá chất, máy đo từ trường để thám sát trường từ và thiết bị đo độ cao để vẽ lại địa hình
sao Thủy.
3/3