Chuyên đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Cùng với xu thế hội nhâp quốc tế và nhu cầu thông tin tài chính của doanh
nghiệp ngày càng cao và phức tạp trong nền kinh tế không ngừng phát triển như hiện
nay thì việc đánh giá ,phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống báo cáo tài
chính sẽ giúp cho các nhà quản lý đưa ra những quyết sách phù hợp và thực sự có ý
nghĩa đối với người sử dụng.
Qua phân tích họ có căn cứ để đánh giá tốt hơn tình hình sử dụng vốn cũng như thực
trạng hoạt động của doanh nghiệp, xác định được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ
cũng như xu hướng tác động của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh, từ đó các đối
tượng quan tâm có thể có những quyết định tối ưu nhất.
Báo cáo tài chính là báo cáo phản ánh tổng hợp tình hình tài chính, kết quả sản
xuất kinh doanh, tình hình lưu chuyển các dòng tiền trong kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp. Do vậy, có thể nói Báo cáo tài chính là bức tranh toàn cảnh về tình hình tài
chính của doanh nghiệp và là công cụ hữu ích để phân tích hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, từ đó các chủ thể có quyết định cần thiết về quản lý tài chính doanh
nghiệp.
Xuất phát từ tầm quan trọng nói trên của báo cáo tài chính, em nhận thấy đề tài
“Lập và phân tích Báo cáo tài chính tại Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây
dựng Bưu điện” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với các doanh nghiệp nói
chung và Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện nơi em thực tập nói
riêng.
Kết cấu đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, nội dung chính của đề tài gồm ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về lập hệ thống Báo cáo tài chính và phân tích Báo
cáo tài chính doanh nghiệp.
Chương 2: Lập Báo cáo tài chính và phân tích Báo cáo tài chính tại Công ty
cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.
Chương 3: Hoàn thiện công tác lập và phân tích Báo cáo tài chính của Công
ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
1
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẬP HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Báo cáo tài chính và lập Báo cáo tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Báo cáo tài chính
Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Xã hội loài người càng phát triển thì mức độ quan tâm đến hoạt động sản xuất càng
tăng, và cần thiết phải tăng cường quản lý sản xuất. Hạch toán kế toán ra đời và phát
triển nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi khách quan đó.
Báo cáo taì chính là sản phẩm quan trọng nhất của quy trình kế toán.Đó là
những Báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản,vốn chủ sở hữu và công nợ cũng
như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
Như vậy, Báo cáo tài chính được hình thành từ nhu cầu cung cấp thông tin tổng quát,
hữu ích về thực trạng của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là phương tiện nối doanh
nghiệp với các đối tượng quan tâm. Với ý nghĩa hết sức to lớn như vậy, việc lập và
trình bày Báo cáo tài chính là công việc không thể thiếu trong mỗi chu kỳ hoạt động
của doanh nghiệp.
. Nội dung cơ bản của các Báo cáo tài chính hiện hành
Hệ thống Báo cáo tài chính hiện hành thực hiện theo Chế độ Kế toán doanh
nghiệp ban hành tại quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng
Bộ Tài chính áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành
phần kinh tế trong cả nước từ năm tài chính 2006, bao gồm Báo cáo tài chính năm và
Báo cáo tài chính giữa niên độ. Hệ thống Báo cáo năm gồm có 4 biểu mẫu báo cáo:
•Bảng cân đối kế toán, mẫu số B01- DN.
•Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, mẫu số B02- DN.
•Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, mẫu số B03- DN.
•Bản thuyết minh báo cáo tài chính, mẫu số B09- DN.
Ngoài ra, để phục vụ yêu cầu quản lý tại Doanh nghiệp, có thể bổ sung hoặc chi
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
2
Chuyên đề thực tập
tiết các chỉ tiêu cho phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải được Bộ
tài chính chấp thuận bằng văn bản.
Bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán là một Báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài
sản của doanh nghiệp theo giá trị ghi sổ của tài sản và nguồn hình thành tài sản tại
một thời điểm cuối năm.
Bảng cân đối kế toán được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các TK và sắp
xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng cân đối kế toán được chia làm 2
phần: Tài sản và Nguồn vốn, có thể kết cấu theo kiểu 2 bên (Tài sản bên trái, Nguồn
vốn bên phải) hoặc kết cấu 1 bên (Tài sản phía trên, Nguồn vốn phía dưới).
Phần Tài sản: phản ánh giá trị ghi sổ của toàn bộ tài sản hiện có của doanh
nghiệp đến cuối năm kế toán đang tồn tại dưới các hình thái và trong cả các giai
đoạn,các khâu của quá trình kinh doanh. Các chỉ tiêu phản ánh trong phần tài sản
được xắp xếp theo nội dung kinh tế của các loại tài sản của doanh nghiệp trong quá
trình sản xuất.
Phần Nguồn vốn :phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp
đến cuối năm hạch toán. Các chỉ tiêu ở phần nguồn vốn được xắp xếp theo từng
nguồn hình thành tài sản của đơn vị.( nguồn vốn của bản thân doanh nghiệp-vốn chủ
sở hữu, nguồn vốn đi vay, nguồn vốn chiếm dụng…).Tỷ lệ và kết cấu của từng nguồn
vốn trong tổng số nguồn vốn hiện có phản ánh tính chất hoạt động, thực trạng tài
chính của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu cụ thể cũng như hình thức trình bày các thông tin trên Bảng cân đối
kế toán hiện hành thực hiện theo quy định tại Chế độ Kế toán doanh nghiệp ban hành
theo quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Là Báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh
doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp, chi tiết theo hoạt động kinh doanh
(hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ và hoạt động tài chính) và hoạt động khác.
Bao gồm các chỉ tiêu được khái quát như sau:
Doanh thu: là sự gia tăng về lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
3
Chuyên đề thực tập
khoản tiền thu vào hoặc gia tăng tài sản hoặc giảm bớt công nợ dẫn đến việc gia tăng
vốn cổ phần nhưng không phải do các cổ đông đóng góp.
Chi phí: là sự giảm bớt lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các
khoản tiền chi ra, khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các công nợ dẫn đến làm giảm vốn
cổ phần mà không phải là do phân phối cho những người tham gia góp vốn.
Lợi nhuận: là phần thu nhập còn lại sau khi trang trải các khoản chi phí tương
ứng theo nguyên tắc phù hợp với doanh thu. Lợi nhuận là chỉ tiêu thường được sử
dụng làm thước đo đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là giá trị sản phẩm, hàng hoá, lao vụ,
dịch vụ mà doanh nghiệp đã bán ra, cung cấp cho khách hàng trong kỳ báo cáo.
Doanh thu bán hàng có thể thu được tiền hoặc chưa thu tiền ngay sau khi doanh
nghiệp cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng.
Chi phí sản xuất kinh doanh bao gồm Giá vốn hàng bán, Chi phí bán hàng, Chi phí
quản lý doanh nghiệp. Đó là biểu hiện bằng tiền của các hao phí về lao động sống và lao
động vật hoá mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Doanh thu hoạt động tài chính là các khoản thu do những hoạt động đầu tư tài
chính, kinh doanh về vốn đưa lại.
Chi phí hoạt động tài chính là những chi phí liên quan đến các hoạt động về
vốn, đầu tư tài chính phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
Thu nhập khác là những khoản thu từ các hoạt động xảy ra không thường
xuyên, ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu chính, như: thu về thanh lý, nhượng bán
tài sản cố định, thu tiền phạt, tiền bồi thường, thu được các khoản nợ khó đòi đã xoá
sổ tính vào chi phí kỳ trước, ...
Chi phí khác là các khoản chi do các nghiệp vụ không thường xuyên, riêng biệt
với các hoạt động thông thường của doanh nghiệp, như: chi về thanh lý, nhượng bán
tài sản cố định, chi tiền phạt, ...
Kết cấu của Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được thực hiện theo quy
định tại Chế độ Kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định số 15/2006/QĐ-BTC
ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Trong đó các chỉ tiêu chính được khái
quát như sau:
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
4
Chuyên đề thực tập
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là Báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Nó cung
cấp các thông tin về luồng tiền vào chủ yếu (từ hoạt động kinh doanh, bán tài sản,
vay, nợ phải trả, đầu tư của chủ sở hữu, ...) và luồng tiền ra chủ yếu (quá trình hoạt
động kinh doanh, mở rộng hoạt động, thanh toán công nợ hay phân chia cho các chủ
sở hữu, ...) trong một kỳ nhất định. Các thông tin này phục vụ cho việc giải thích,
đánh giá các hoạt động đầu tư và huy động vốn quan trọng của một doanh nghiệp.
Nội dung của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là trình bày các khoản thu và chi của
doanh nghiệp trong kỳ báo cáo trên cả 3 hoạt động: kinh doanh, đầu tư và tài chính theo
cách thức phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp.
Mẫu Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được ban hành theo Chế độ Kế toán doanh
nghiệp tại quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính .
Từ những nội dung trong Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, người sử dụng không
những đánh giá được những thay đổi trong tài sản thuần, trong cơ cấu tài chính, đánh
giá được khả năng chuyển đổi của tài sản thành tiền, khả năng thanh toán, khả năng
tạo ra các luồng tiền trong hoạt động của doanh nghiệp mà nó còn là cơ sở để đánh
giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp và khả năng của doanh nghiệp so
với doanh nghiệp khác.
Bản thuyết minh báo cáo tài chính:
Thuyết minh báo cáo tài chính là báo cáo nhằm thuyết minh và giải trình bằng lời,
bằng số liệu một số chỉ tiêu kinh tế - tài chính chưa được thể hiện trên các báo cáo tài
chính. Bản thuyết minh này cung cấp thông tin bổ sung cần thiết cho việc đánh giá
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong năm báo cáo được chính xác.
Thông tin trên Bản thuyết minh báo cáo tài chính được trình bày theo thứ tự
được quy định tại Chế độ Kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định số
15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và cần được duy trì
nhất quán nhằm giúp cho người sử dụng hiểu được Báo cáo tài chính của doanh
nghiệp và có thể so sánh với Báo cáo tài chính của doanh nghiệp khác .
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
5
Chuyên đề thực tập
1.1.2. Lập Báo cáo tài chính
1.1.2.1. Những vấn đề cơ bản về thủ tục và nguyên tắc lập Báo cáo tài chính
Các yêu cầu lập và trình bày Báo cáo tài chính
- Trung thực, hợp lý
- Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với quy định của từng
Chuẩn mực kế toán.
Ngoài ra, các Báo cáo tài chính phải cung cấp các thông tin bổ sung khi những
quy định trong Chuẩn mực kế toán không đủ để giúp cho người sử dụng hiểu được
tác động của những giao dịch hoặc những sự kiện cụ thể đến tình hình tài chính, tình
hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguyên tắc lập và trình bày Báo cáo tài chính
Nguyên tắc hoạt động liên tục:
Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt
động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần,
trừ khi doanh nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu
hẹp đáng kể quy mô hoạt động của mình.
Nguyên tắc cơ sở dồn tích:
Doanh nghiệp phải lập Báo cáo tài chính theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ
các thông tin liên quan đến các luồng tiền.
Theo cơ sở dồn tích, các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm phát
sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế
toán và Báo cáo tài chính của các kỳ kế toán liên quan. Riêng đối với Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh, các khoản chi phí được ghi nhận trên báo cáo này theo nguyên
tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí.
Nguyên tắc nhất quán:
Nguyên tắc này yêu cầu việc trình bày và phân loại các khoản mục trong Báo
cáo tài chính phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác.
Nguyên tắc trọng yếu và tập hợp:
Theo nguyên tắc này, từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt
trong Báo cáo tài chính. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình bày riêng
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
6
Chuyên đề thực tập
rẽ mà được tập hợp vào những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng trong Báo
cáo tài chính hoặc trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Nguyên tắc bù trừ:
Nguyên tắc này đòi hỏi khi ghi nhận các giao dịch kinh tế và các sự kiện để lập
và trình bày Báo cáo tài chính không được phép bù trừ tài sản và nợ phải trả, do vậy
doanh nghiệp phải trình bày riêng biệt tất cả các khoản mục tài sản và công nợ trên
Báo cáo tài chính. Đối với các khoản doanh thu, thu nhập khác và chi phí chỉ được bù
trừ khi được quy định tại một Chuẩn mực kế toán khác hoặc các khoản lãi, lỗ và các
chi phí liên quan phát sinh từ các giao dịch và các sự kiện giống nhau hoặc tương tự
và không có tính trọng yếu. Các khoản này cần được tập hợp lại với nhau phù hợp
với quy định của nguyên tắc trọng yếu và tập hợp. Các tài sản và nợ phải trả, các
khoản thu nhập và chi phí có tính trọng yếu phải được báo cáo riêng biệt.
Nguyên tắc có thể so sánh:
Các thông tin bằng số liệu trong Báo cáo tài chính nhằm để so sánh giữa các kỳ
kế toán phải được trình bày tương ứng với các thông tin bằng số liệu trong Báo cáo
tài chính của kỳ trước kể cả các thông tin diễn giải bằng lời nếu cần thiết cho người
sử dụng hiểu rõ được Báo cáo tài chính của kỳ hiện tại.
1.1.2.2. Quy trình lập Báo cáo tài chính theo kỳ kế toán năm
Những thông tin chung về doanh nghiệp
Trong Báo cáo tài chính năm, doanh nghiệp phải trình bày các thông tin chung sau:
•Tên, địa chỉ của doanh nghiệp báo cáo.
•Nêu rõ Báo cáo tài chính này là của riêng doanh nghiệp hay Báo cáo tổng hợp,
hợp nhất của công ty mẹ, tập đoàn.
•Ngày kết thúc kỳ kế toán năm hoặc kỳ báo cáo.
•Ngày lập Báo cáo tài chính.
• Đơn vị tiền tệ dùng để lập Báo cáo tài chính.
Bảng cân đối kế toán
Để lập Bảng cân đối kế toán cần thiết phải sử dụng khá nhiều nguồn tài liệu,
trong đó chủ yếu là các nguồn sau đây:
•Bảng cân đối kế toán cuối kỳ trước (năm trước).
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
7
Chuyên đề thực tập
•Sổ cái và sổ chi tiết các TK từ loại 1 đến 4 và TK ngoài bảng tương ứng với các
chỉ tiêu được quy định trong Bảng cân đối kế toán của kỳ lập Bảng cân đối kế toán.
•Bảng cân đối TK.
•Các tài liệu liên quan khác (Bảng tổng hợp chi tiết, Bảng kê, ...).
Để đảm bảo tính kịp thời, chính xác của các chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán
và giúp cho việc lập báo cáo nhanh chóng, dễ dàng cần thiết phải làm tốt những công
việc sau:
- Kiểm kê tài sản trong trường hợp cần thiết và đối chiếu số liệu với các chứng
từ, sổ sách có liên quan. Nếu có chênh lệch phải điều chỉnh cho đúng với kết quả
kiểm kê trước khi lập Báo cáo tài chính.
- Tiến hành kết chuyển cuối kỳ các khoản có liên quan giữa các TK, phù hợp
với quy định và hoàn tất việc ghi sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết, kiểm tra,
đối chiếu số liệu kế toán giữa các sổ sách có liên quan, bảo đảm khớp, đúng (kiểm tra
trong nội bộ và kiểm tra đối chiếu với các đơn vị có quan hệ kinh tế khác). Nếu có
chênh lệch thì tiến hành điều chỉnh trước khi lập báo cáo.
- Khoá sổ kế toán, tính ra số dư cuối kỳ của các TK tổng hợp, chi tiết tại thời
điểm lập Bảng cân đối kế toán.
- Phân loại và trình bày toàn bộ Tài sản và Nợ phải trả của doanh nghiệp thành
ngắn hạn và dài hạn, tùy theo thời hạn của chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh
nghiệp hoặc phải được trình bày theo tính thanh khoản giảm dần nếu không thể dựa
vào chu kỳ kinh doanh để phân chia ngắn hạn và dài hạn.
Trường hợp không phân biệt được thì Tài sản và Nợ phải trả phải được sắp xếp
theo tính thanh khoản giảm dần.
- Tuyệt đối không được bù trừ các khoản mục Tài sản với Nợ phải trả cũng như
không được bù trừ số dư giữa 2 bên Nợ và Có của các TK thanh toán như TK 131, 331 mà
phải căn cứ vào sổ kế toán chi tiết để ghi vào các chỉ tiêu liên quan trên báo cáo.
- Kiểm tra lại số liệu ghi trên cột “Số cuối năm” của Bảng cân đối kế toán ngày
cuối kỳ trước.
Khi lập, cột số liệu “Số đầu năm” của Bảng cân đối kế toán cuối kỳ này sẽ được
chuyển từ cột “Số cuối năm” của Bảng cân đối kế toán cuối kỳ trước.
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
8
Chuyên đề thực tập
Cột “Số cuối năm” của Bảng cân đối kế toán kỳ này được căn cứ vào số dư của
các TK (cấp 1,2) trên các sổ kế toán có liên quan tại thời điểm lập báo cáo. Những
chỉ tiêu trên Bảng cân đối kế toán có nội dung phù hợp với số dư của các TK thì căn
cứ vào số dư đó để ghi vào các chỉ tiêu tương ứng theo nguyên tắc: số dư Nợ của các
TK ghi vào các chỉ tiêu tương ứng thuộc phần Tài sản, số dư Có được ghi tương ứng
ở phần Nguồn vốn.
Trừ các trường hợp ngoại lệ sau:
- Các TK liên quan đến Dự phòng (TK 129, 139, 159, 229) và Hao mòn (TK
214) có số dư Có nhưng vẫn phản ánh bên Tài sản, được ghi âm nhằm phản ánh
chính xác quy mô tài sản hiện có ở doanh nghiệp.
- Bên cạnh đó, các TK 412 - Chênh lệch đánh giá lại tài sản, TK 413 - Chênh
lệch tỷ giá hối đoái, TK 421 - Lợi nhuận chưa phân phối, nếu có số dư Có thì ghi
bình thường bên Nguồn vốn, nếu có số dư Nợ thì phải ghi âm bên Nguồn vốn.
Đối với một số chỉ tiêu mang tính tổng hợp như “Hàng tồn kho”, “Các khoản
phải thu”, ... do có liên quan đến nhiều TK nên phải tiến hành tổng hợp số liệu từ các
TK có liên quan để lấy số liệu phản ánh lên Bảng cân đối kế toán.
Các chỉ tiêu ngoài Bảng cân đối kế toán được ghi nhận trên cơ sở số dư của các
TK liên quan. Đặc điểm của các TK ngoài bảng là ghi đơn, có số dư Nợ nên kế toán
căn cứ trực tiếp vào số dư Nợ cuối kỳ trên sổ cái của từng TK để ghi vào các chỉ tiêu
tương ứng.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Nguồn số liệu chủ yếu dùng để lập Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm:
•Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước.
•Sổ kế toán chi tiết, tổng hợp trong kỳ của các TK loại 5, 6, 7, 8, 9.
•Các số liệu khác (Thông báo nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, Sổ chi tiết TK
3334- Thuế thu nhập doanh nghiệp).
Đối với cột số liệu “Năm trước” trong báo cáo kỳ này, tương tự như việc lập
Bảng cân đối kế toán, được lấy từ cột số liệu “Năm nay” tương ứng của Báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh kỳ trước.
Cột số liệu “Năm nay” phản ánh trị số của các chỉ tiêu trong kỳ báo cáo. Việc lập các
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
9
Chuyên đề thực tập
chỉ tiêu trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh ở cột “Năm nay” cụ thể như sau:
- Đối với số liệu về Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, Các khoản giảm
trừ, Giá vốn hàng bán, Doanh thu hoạt động tài chính, Chi phí tài chính, Chi phí bán
hàng, Chi phí quản lý doanh nghiệp, Thu nhập khác, Chi phí khác, Chi phí thuế thu
nhập doanh nghiệp hiện hành, Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hoãn lại được lấy
từ sổ kế toán phản ánh những nội dung trên: các TK doanh thu, căn cứ vào phát sinh
Có, các TK chi phí căn cứ vào số phát sinh Nợ.
- Các chỉ tiêu khác như Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ, Lợi
nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ, Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh
doanh, Lợi nhuận khác, Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế, Lợi nhuận sau thuế thu
nhập doanh nghiệp được tính toán theo hướng dẫn cụ thể trên Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh. Trường hợp lỗ, thì các chỉ tiêu được ghi âm trên báo cáo.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Cơ sở số liệu để lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ bao gồm:
•Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Bản thuyết minh
báo cáo tài chính, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ kỳ trước.
•Các tài liệu kế toán khác như: sổ kế toán tổng hợp, chi tiết các TK 111 - Tiền
mặt, TK 112 - Tiền gửi ngân hàng, TK 113 - Tiền đang chuyển và các TK liên quan
khác, Bảng phân bổ khấu hao tài sản cố định, các tài liệu kế toán chi tiết khác.
Khi lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cần quán triệt các nguyên tắc sau:
- Trình bày luồng tiền theo từng hoạt động phù hợp với đặc điểm kinh doanh của
doanh nghiệp bao gồm: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính.
- Phân biệt luồng tiền phát sinh từ các hoạt động trên cơ sở thuần, bao gồm một
số các luồng tiền phát sinh trong những trường hợp sau:
•Thu và chi trả tiền hộ khách hàng.
•Thu và chi tiền đối với các khoản có vòng quay nhanh, thời gian đáo hạn ngắn
(mua, bán ngoại tệ hay các khoản đầu tư; các khoản đi vay, cho vay có thời hạn thanh
toán không quá 3 tháng).
- Đối với các giao dịch về đầu tư và tài chính không trực tiếp sử dụng tiền hay
các khoản tương đương tiền không được trình bày trong Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
10
Chuyên đề thực tập
- Phải quy đổi các giao dịch ngoại tệ ra đồng tiền chính thức sử dụng để ghi sổ
kế toán và lập báo cáo theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm phát sinh giao dịch.
- Doanh nghiệp phải trình bày giá trị và lý do của các khoản tiền và tương đương
tiền có số dư cuối kỳ lớn do doanh nghiệp nắm giữ nhưng không được sử dụng do có sự
hạn chế của pháp luật hoặc các ràng buộc khác mà doanh nghiệp phải thực hiện.
Khi lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể sử dụng hai phương pháp: phương
pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp.
Theo phương pháp trực tiếp, các chỉ tiêu trên báo cáo được lập bằng cách xác
định và phân tích trực tiếp các khoản thực thu, thực chi bằng tiền trên các sổ kế toán
theo từng loại hoạt động và theo nội dung thu - chi được chi tiết.
Đối với phương pháp gián tiếp, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập bằng cách
điều chỉnh lợi nhuận trước thuế của hoạt động sản xuất kinh doanh khỏi ảnh hưởng
của các nghiệp vụ không trực tiếp thu tiền hoặc chi tiền đã làm tăng, giảm lợi nhuận;
loại trừ các khoản lãi, lỗ của hoạt động đầu tư và tài chính đã tính vào lợi nhuận trước
thuế, điều chỉnh các khoản mục thuộc vốn lưu động. Lợi nhuận trước thuế được lấy từ
chỉ tiêu Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế (Mã số 50) trên Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh hoặc được xác định từ chênh lệch giữa phát sinh Nợ, Có của TK 911 trước
khi điều chỉnh với TK 821 - Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đối với cột số liệu “Năm trước”, kế toán tiến hành chuyển từ cột số liệu “Năm
nay” của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ kỳ trước sang.
Cột số liệu “Năm nay” được tính toán theo hai cách khác nhau tuỳ theo phương
pháp sử dụng riêng đối với phần Lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh,
hai phần còn lại, việc tính toán là hoàn toàn như nhau cho dù sử dụng phương pháp
nào. Khi lập, căn cứ vào nội dung của các chỉ tiêu được liệt kê trên Báo cáo lưu chuyển
tiền tệ, các số liệu tương ứng được tổng hợp, lấy từ các sổ kế toán chi tiết, tổng hợp và
các bảng biểu kế toán có liên quan. Trong đó, các khoản chi tiền được ghi trong ngoặc
đơn ( ).
Bản thuyết minh báo cáo tài chính
Để lập Bản thuyết minh báo cáo tài chính, kế toán cần căn cứ vào:
•Sổ kế toán kỳ báo cáo (đặc biệt là các sổ chi tiết).
•Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
11
Chuyên đề thực tập
•Bản thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước.
Khi lập Bản thuyết minh báo cáo tài chính, việc trình bày bằng lời văn phải ngắn
gọn, rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu. Các chỉ tiêu thuộc phần chuẩn mực, chế độ, chính sách
kế toán áp dụng tại doanh nghiệp phải thống nhất trong cả niên độ kế toán, nếu có sự
thay đổi phải trình bày rõ ràng lý do thay đổi. Việc lựa chọn số liệu và thông tin cần phải
trình bày trong báo cáo này được thực hiện theo nguyên tắc trọng yếu được quy định tại
Chuẩn mực số 21 - Trình bày Báo cáo tài chính. Đối với việc đánh số các thuyết minh
dẫn từ Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ có thể được thay đổi lại cho phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh
nghiệp nhưng phải thực hiện đúng yêu cầu và nội dung thông tin cần được trình bày theo
quy định. Ngoài ra, tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý doanh nghiệp có thể trình bày bổ sung
thêm một số thông tin khác nhằm mục đích giúp cho người sử dụng hiểu được Báo cáo
tài chính của doanh nghiệp.
1.2. Phân tích tình hình tài chính qua hệ thống Báo cáo tài chính của doanh nghiệp
1.2.1. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là quá trình xem xét, kiểm tra, đối
chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện tại với quá khứ. Thông qua đó đánh giá
đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp, nắm vững tiềm năng, dự đoán kết quả
cũng như rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh nghiệp.
1.2.2. Mối quan hệ giữa Báo cáo tài chính và phân tích tình hình tài chính
Khi thực hiện phân tích tình hình tài chính phải dựa vào rất nhiều nguồn thông
tin khác nhau, cả trong và ngoài doanh nghiệp.
- Các thông tin chung: đó là những thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, môi
trường pháp lý, kinh tế có liên quan đến cơ hội kinh tế, cơ hội đầu tư, cơ hội về kỹ
thuật công nghệ… Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh
mẽ đến kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Những thông tin về các cuộc thăm
dò thị trường, triển vọng phát triển trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ thương
mại… ảnh hưởng lớn đến chiến lược và sách lược kinh doanh trong từng thời kỳ.
- Các thông tin theo ngành kinh tế: đó là những thông tin mang tính chất của
ngành kinh tế như đặc điểm của ngành kinh tế liên quan đến tiến trình kỹ thuật cần
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
12
Chuyên đề thực tập
tiến hành, cơ cấu sản xuất có tác động đến khả năng sinh lời, vòng quay vốn, nhịp độ
phát triển của các chu kỳ kinh tế, độ lớn của thị trường và triển vọng phát triển…
- Các thông tin của bản thân doanh nghiệp: đó là những thông tin về chiến lược,
sách lược kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tạo lập, phân phối và sử dụng vốn,
tình hình và khả năng thanh toán, … Những thông tin này được thể hiện qua những
giải trình của các nhà quản lý, qua các báo cáo của hạch toán kế toán.
- Các thông tin khác.
Những thông tin liên quan đến doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng. Một số
công khai, một số chỉ dành chi những người có lợi ích gắn liền với sự sống còn của
doanh nghiệp. Có những thông tin được báo chí hoặc các tổ chức tài chính công bố,
có những thông tin chỉ trong nội bộ doanh nghiệp được biết.
Căn cứ vào hệ thống Báo cáo tài chính, tình hình tài chính của doanh nghiệp
được phân tích qua những nội dung chính sau:
•Đánh giá khái quát tình hình tài chính
•Phân tích cấu trúc tài chính
•Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
•Phân tích hiệu quả kinh doanh
•Phân tích chi tiết từng Báo cáo tài chính
1.2.3. Phân tích các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp
1.2.3.1. Quy trình phân tích
Phân tích Báo cáo tài chính trong doanh nghiệp thường được tiến hành qua các
giai đoạn sau:
- Lập kế hoạch phân tích: đây là giai đoạn đầu tiên, là một khâu quan trọng, ảnh
hưởng nhiều đến chất lượng, thời hạn và tác dụng của phân tích Báo cáo tài chính.
Lập kế hoạch phân tích bao gồm việc xác định mục tiêu, xây dựng chương trình
phân tích trong đó phải xác định rõ nội dung phân tích, phạm vi phân tích, thời gian
tiến hành, những thông tin cần thu thập, tìm hiểu.
- Giai đoạn tiến hành phân tích: đây là giai đoạn triển khai, thực hiện các công
việc đã ghi trong kế hoạch. Giai đoạn này bao gồm các công việc cụ thể sau:
•Sưu tầm tài liệu, hệ thống, xử lý số liệu
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
13
Chuyên đề thực tập
•Tính toán các chỉ tiêu phân tích
•Xác định nguyên nhân và tính toán cụ thể mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
đến các chỉ tiêu phân tích
•Xác định và dự đoán những nhân tố kinh tế xã hội tác động đến tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp
•Tổng hợp kết quả, rút ra nhận xét, kết luận về tình hình tài chính của doanh
nghiệp
- Giai đoạn kết thúc: đây là giai đoạn cuối cùng của việc phân tích. Trong giai
đoạn này cần tiến hành những công việc cụ thể sau:
•Viết báo cáo phân tích
•Hoàn chỉnh hồ sơ phân tích
1.2.3.2. Phương pháp sử dụng trong phân tích
Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh thường được sử dụng dưới các dạng sau:
- So sánh bằng số tuyệt đối: Số tuyệt đối được sử dụng để phản ánh quy mô của
các hiện tượng, sự vật, hoạt động, ... Bởi vậy, khi so sánh bằng số tuyệt đối, ta sẽ biết
được quy mô, mức độ biến động (tăng, giảm, vượt, hụt, ...) của chỉ tiêu phân tích
giữa các kỳ với nhau.
- So sánh bằng số tương đối: Số tương đối phản ánh kết cấu, mối quan hệ, tốc
độ phát triển và mức độ phổ biến của chỉ tiêu nghiên cứu. So sánh bằng số tương đối
sẽ nắm được xu hướng biến động của các chỉ tiêu.
Phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích:
Mọi quá trình kinh doanh và kết quả kinh doanh đều có thể và cần thiết chi tiết theo
nhiều hướng khác nhau (theo bộ phận cấu thành, theo thời gian, địa điểm, ...) nhằm đánh
giá chính xác kết quả đạt được. Khi phân tích, ta tiến hành xem xét, so sánh:
- Mức độ đạt được của từng bộ phận giữa các kỳ với nhau
- Mức độ ảnh hưởng của từng bộ phận đến tổng thể
- Tiến độ thực hiện và kết quả đạt được trong từng thời gian
- Mức độ đóng góp của từng bộ phận vào kết quả chung
Bằng cách xem xét các chỉ tiêu phân tích theo các hướng khác nhau, các nhà
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
14
Chuyên đề thực tập
phân tích sẽ nắm được tác động của các giải pháp mà doanh nghiệp đã áp dụng trong
từng bộ phận, thời gian, địa điểm, ...Trên cơ sở đó, tìm cách cải tiến các giải pháp
cũng như điều kiện vận dụng từng giải pháp một cách phù hợp, hiệu quả.
Phương pháp cân đối:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hình thành rất nhiều mối
quan hệ cân đối về lượng giữa 2 mặt của các yếu tố và các quá trình: quan hệ cân đối
giữa tổng tài sản và tổng nguồn hình thành tài sản, giữa thu, chi và kết quả, giữa mua
sắm và sử dụng vật tư, giữa số dư đầu kỳ và số phát sinh tăng trong kỳ với số dư cuối kỳ
và số phát sinh giảm trong kỳ của các đối tượng, ...Điều đó dẫn đến sự cân bằng về mức
biến động (chênh lệch) giữa các chỉ tiêu trong mối quan hệ cân đối giữa các kỳ: một
lượng thay đổi trong mỗi nhân tố sẽ làm thay đổi trong chỉ tiêu phân tích đúng một
lượng tương ứng. Trong mối quan hệ cân đối này, các nhân tố đứng độc lập, tách biệt
với nhau và cùng tác động đồng thời đến sự biến động của chỉ tiêu phản ánh đối tượng
nghiên cứu. Khi đó, ta sẽ xác định được ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động
của chỉ tiêu.
Phương pháp đồ thị:
Là phương pháp dùng các đồ thị để minh họa các kết quả đã tính toán được
trong quá trình phân tích bằng biểu đồ, sơ đồ,... Phương pháp này cho ta một cái nhìn
trực quan, thể hiện rõ ràng, mạch lạc diễn biến của các đối tượng nghiên cứu thông
qua từng thời kỳ và nhanh chóng phân tích định tính các chỉ tiêu tài chính để tìm ra
nguyên nhân của sự biến đổi các chỉ tiêu đó.
Phương pháp kết hợp:
Trong quá trình nghiên cứu đối tượng phân tích, việc sử dụng kết hợp một số
phương pháp phân tích với nhau là cần thiết do đối tượng phân tích rất đa dạng, phong
phú, có mối quan hệ nhiều chiều. Mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu
phản ánh đối tượng phân tích không phải bao giờ cũng theo một hướng hay cùng một
loại (tổng, tích). Hơn nữa, nếu không sử dụng kết hợp nhiều phương pháp phân tích với
nhau sẽ không làm nổi bật đặc trưng của đối tượng phân tích. Vì vậy, phương pháp kết
hợp là một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích hoạt động
kinh doanh nói chung và phân tích Báo cáo tài chính nói riêng.
1.2.3.3. Nội dung phân tích
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
15
Chuyên đề thực tập
Đánh giá khái quát tình hình tài chính
Đây là nội dung thường được thực hiện trước tiên. Đánh giá khái quát tình hình
tài chính là việc xem xét, nhận định một cách tổng quát nhất tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Công việc này nhằm cung cấp thông tin cho mọi đối tượng thấy được
tình hình tài chính của doanh nghiệp đang ở trạng thái như thế nào (mạnh hay yếu, chủ
động về tài chính hay bị động, khả quan hay không, …). Từ đó phát huy những điểm
mạnh và đưa ra các biện pháp khắc phục những tồn tại để góp phần nâng cao khả năng
thanh toán, tính chủ động trong hoạt động tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động kinh
doanh phát triển, sử dụng:
Tỷ suất này đánh giá khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập về
mặt tài chính của doanh nghiệp. Tỷ suất này càng cao, mức độ độc lập càng cao.
Bên cạnh đó, ta xác định thêm các chỉ tiêu về khả năng thanh toán. Vì khả năng
thanh toán của doanh nghiệp là cao thì chứng tỏ tình hình tài chính sẽ khả quan và
ngược lại.
Hệ số khả năng thanh
toán tổng quát
= Tổng số tài sản
Tổng số nợ phải trả
Hệ số khả năng thanh
toán nợ ngắn hạn
= Tổng giá trị thuần của tài sản ngắn hạn
Tổng số nợ ngắn hạn
Phân tích cấu trúc tài chính
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
Tỷ suất tài trợ tài sản từ
nguồn vốn chủ sở hữu (%)
= Tổng nguồn vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản
Hệ số khả năng thanh
toán nhanh
=
Tổng số nợ ngắn hạn
16
Chuyên đề thực tập
Phân tích cấu trúc tài chính là phân tích khái quát tình hình huy động, sử dụng vốn và
mối quan hệ giữa tình hình huy động với tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Việc phân tích cơ cấu tài sản cho ta thấy được mức độ hợp lý của việc phân bổ các
loại tài sản, từ đó căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp, đặc điểm ngành nghề kinh
doanh, chính sách đầu tư, chính sách kinh doanh mà doanh nghiệp vận dụng trong từng thời
kỳ để đưa ra nhận xét. Khi xem xét cơ cấu tài sản và sự biến động về cơ cấu tài sản, các nhà
quản lý sẽ quyết định đầu tư vào loại tài sản nào là thích hợp nhất, đầu tư vào thời điểm nào
và quyết định các chính sách quản lý liên quan đến từng loại tài sản đó.
Khi đánh giá mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn, những chỉ tiêu sau đây
thường được tính và so sánh sự biến động của chúng ở kỳ phân tích so với kỳ gốc,
dựa vào ý nghĩa của từng chỉ tiêu để đưa ra nhận xét phù hợp:
Hệ số nợ so với tài sản = Nợ phải trả
Tài sản
Hệ số tài sản so với vốn
chủ sở hữu
= Tài sản = 1 + Nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu
Hệ số nợ so với tài sản càng cao, chứng tỏ mức độ độc lập về tài chính càng
thấp, công thức trên cho thấy, để giảm Hệ số nợ so với tài sản, doanh nghiệp phải tìm
cách để tăng Hệ số tài trợ.
Hệ số tài sản so với vốn chủ sở hữu càng lớn hơn 1, mức độ độc lập tài chính
càng thấp. Để giảm bớt giá trị của hệ số này, doanh nghiệp phải tìm biện pháp để
giảm tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu. Có như vậy mới tăng cường được tính tự
chủ về tài chính của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
Phân tích tình hình thanh toán là xem xét tình hình thanh toán các khoản phải
thu, phải trả. Qua đó chúng ta thấy được chất lượng hoạt động tài chính. Khi phân
tích, chủ yếu tập trung xem xét những khoản phải thu, phải trả với những đối tượng
có tỷ trọng lớn trong tổng phải thu, tổng phải trả, thường là các khoản nợ phải thu
người mua và khoản nợ phải trả người bán. Bên cạnh đó, có thể phân tích cho mỗi
nội dung tương ứng thuộc nợ phải thu và nợ phải trả nhằm mục đích cụ thể nào đó.
Nguồn tài liệu chủ yếu cung cấp thông tin để phân tích tình hình thanh toán là:
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
17
Chuyên đề thực tập
Bảng cân đối kế toán và Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Để phân tích tình hình thanh toán, ta thường tính và so sánh các chỉ tiêu sau :
Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so
với các khoản nợ phải trả (%)
= Nợ phải thu
Nợ phải trả
Tỷ lệ này khác 100% tức là số vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng lớn hơn số
vốn doanh nghiệp đi chiếm dụng hay ngược lại, đều phản ánh một tình hình tài chính
không lành mạnh.
Tỷ lệ các khoản nợ phải trả so
với các khoản nợ phải thu (%)
= Nợ phải trả
Nợ phải thu
Chỉ tiêu này với chỉ tiêu vừa nêu trên là tương đương nhau.
Số vòng quay các khoản phải thu = Tổng số tiền hàng bán chịu
Số dư bình quân các khoản phải thu
Số dư bình quân các khoản phải thu được tính bằng trung bình cộng số nợ phải
thu kỳ phân tích và kỳ gốc.
Thời gian quay vòng của các
khoản phải thu
= Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay các khoản phải thu
Khi xem xét Thời gian quay vòng của các khoản phải thu cần liên hệ với phương thức
tiêu thụ (bán buôn, bán lẻ), với chính sách thanh toán tiền hàng (chiết khấu thanh toán), với
khả năng quản lý nợ cũng như năng lực tài chính của khách hàng,…để nhận xét.
Số vòng quay các khoản phải trả = Tổng số tiền hàng mua chịu
Số dư bình quân các khoản phải trả
Thời gian quay vòng của các khoản
phải trả
= Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay các khoản phải trả
Khi phân tích chỉ tiêu Thời gian quay vòng của các khoản phải trả, cần tính và
so sánh với thời gian mua chịu được người bán quy định cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, để nắm được tình hình thanh toán các khoản nợ phải thu và các khoản
nợ phải trả trong kỳ của doanh nghiệp ta có thể so sánh các khoản nợ phải thu, nợ phải
trả giữa kỳ phân tích với kỳ gốc trên tổng số cũng như trên từng khoản nợ phải thu, nợ
phải trả và số tiền nợ quá hạn cả về số tuyệt đối và tương đối trên từng chỉ tiêu và dựa
vào tình hình biến động cụ thể của từng chỉ tiêu để rút ra nhận xét.
Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp tức là tiến hành xem xét năng
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
18
Chuyên đề thực tập
lực tài chính của doanh nghiệp có đảm bảo thanh toán đủ các khoản nợ hay không.
Phân tích khả năng thanh toán cho phép các nhà quản lý, các nhà đầu tư, ngân hàng,
các nhà cung cấp, …đánh giá được sức mạnh tài chính hiện tại, tương lai cũng như dự
đoán được tiềm lực trong thanh toán và an ninh tài chính của doanh nghiệp.
Nguồn tài liệu cung cấp thông tin để phân tích khả năng thanh toán chủ yếu là:
Bảng cân đối kế toán và Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Để phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, ta thường so sánh, xem xét
sự biến động, thực hiện phân tích chi tiết các chỉ tiêu sau:
•Hệ số khả năng thanh toán tổng quát
•Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
•Hệ số khả năng thanh toán nhanh
độ khẩn trương của việc thanh toán (thanh toán ngay, chưa cần thanh toán ngay).
Trên cơ sở đó, chúng ta so sánh khả năng thanh toán với nhu cầu thanh toán
trong từng giai đoạn qua hệ số:
Hệ số khả năng thanh toán = Khả năng thanh toán
Nhu cầu thanh toán
Hệ số này lớn hơn 1, doanh nghiệp đảm bảo được khả năng thanh toán trong
từng giai đoạn, tình hình tài chính là bình thường hoặc khả quan. Ngược lại, các nhà
quản lý buộc phải tìm kế sách để huy động nguồn tài chính bảo đảm cho việc thanh
toán. Hệ số này gần bằng 0 thì doanh nghiệp đang dần lâm vào tình trạng phá sản do
mất dần khả năng thanh toán.
Phân tích hiệu quả kinh doanh
Đối với các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh không những là thước
đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống
còn. Phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện bằng cách xem
xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về hiệu quả sử dụng các nguồn lực, kết quả
kinh doanh, đặc biệt là khả năng sinh lợi hiện hành với quá khứ. Qua đó, người sử dụng
thông tin có thể đánh giá thực trạng tài chính, tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như
những rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh nghiệp.
Nguồn tài liệu cung cấp thông tin để phân tích hiệu quả kinh doanh chủ yếu là:
Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
19
Chuyên đề thực tập
Các nhóm chỉ tiêu thường được sử dụng để phân tích hiệu quả kinh doanh là:
Sức sản xuất = Đầu ra phản ánh kết quả sản xuất
Yếu tố đầu vào
-Sức sản xuất: phản ánh một đơn vị yếu tố đầu vào đem lại mấy đơn vị kết quả
sản xuất đầu ra. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào
càng cao, hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại.
Sức sinh lợi = Đầu ra phản ánh lợi nhuận
Yếu tố đầu vào hay đầu ra phản ánh kết quả
- Sức sinh lợi (khả năng sinh lợi): phản ánh một đơn vị yếu tố đầu vào hay một
đơn vị đầu ra phản ánh kết quả sản xuất đem lại mấy đơn vị lợi nhuận. Trị số của chỉ
tiêu này càng lớn, chứng tỏ khả năng sinh lợi càng cao, hiệu quả kinh doanh càng cao
và ngược lại.
Suất hao phí = Yếu tố đầu vào
Đầu ra phản ánh kết quả sản xuất hay lợi nhuận
- Suất hao phí: cho biết để có một đơn vị đầu ra phản ánh kết quả sản xuất hay
đầu ra phản ánh lợi nhuận, doanh nghiệp phải hao phí mấy đơn vị chi phí hay yếu tố
đầu vào. Trị số của chỉ tiêu Suất hao phí càng nhỏ, chứng tỏ hiệu quả kinh doanh
càng cao và ngược lại.
1.3. Vai trò của Báo cáo tài chính và phân tích Báo cáo tài chính
Hê thống Báo cáo tài chính được lập nhằm giúp những người ra quyết định
đánh giá chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp, lựa chọn
phương án kinh doanh tối ưu trên cơ sở đánh giá khả năng tạo ra các dòng tiền mặt,
khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, mức lợi nhuận, … Bởi vậy, thông tin từ hệ
thống Báo cáo tài chính và phân tích Báo cáo tài chính có vai trò quan trọng đối với
nhiều phía cả trong và ngoài doanh nghiệp.
Đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, họ quan tâm
đến nhiều mục tiêu khác nhau: tạo công ăn, việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm,
giảm bớt chi phí, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường, ...Tuy nhiên, doanh
nghiệp chỉ có thể tồn tại nếu đảm bảo được 2 mục tiêu cơ bản: kinh doanh có lãi và
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
20
Chuyên đề thực tập
thanh toán được nợ. Như vậy, vì mục đích tồn tại và phát triển, hơn ai hết, các chủ
doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp phải có đủ thông tin, hiểu rõ doanh
nghiệp một cách chi tiết, sâu sắc, có hệ thống và liên kết các thông tin với nhau về
mọi mặt: tình hình tài chính, khả năng sinh lợi, đánh giá rủi ro, ...Từ đó, các nhà quản
lý có thể đưa ra những quyết định đúng đắn nhất, hiệu quả nhất cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Đối với các ngân hàng và các tổ chứctín dụng, mối quan tâm của họ chủ yếu là
hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp
Đối với các nhà cung cấp vật họ cần căn cứ để đưa ra quyết định có thể cho
khách hàng nào đó được mua chịu hàng, thanh toán chậm hay không.
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự rủi
ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán, ...cũng như hiệu quả của
việc điều hành hoạt động và công tác quản lý doanh nghiệp.
Các cơ quan Tài chính, cơ quan Thuế, cơ quan Thống kê, đơn vị chủ quản,
...dựa vào hệ thống Báo cáo tài chính và tài liệu phân tích, họ đánh giá, kiểm tra,
kiểm soát tình hình hoạt động của doanh nghiệp, tính đúng đắn trong công tác kế toán
cũng như tính tuân thủ luật pháp của doanh nghiệp.
Người lao động quan tâm đến quy mô, khả năng hoạt động của doanh nghiệp ở
thời điểm hiện tại và trong tương lai để có cơ sở đảm bảo mức sống của họ.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, lập và phân tích Báo cáo tài chính là công việc
nên được thực hiện một cách cẩn thận sau mỗi chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp.
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
21
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 2
LẬP BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO
TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHẦN TƯ VẤN
ĐẦU TƯ VÀ XÂY DỰNG BƯU ĐIỆN
2.1. Đặc điểm tổ chức kinh doanh, tổ chức quản lý và tổ chức công tác kế
toán của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.
2.1.1. Đặc điểm tổ chức kinh doanh
2.1.1.1. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển
Tên công ty: Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện
Tên giao dịch quốc tế: Post and Telecommunication Investment and
Construction Consulting Joint – Stock Company.
Tên viết tắt: PTICC.
Hình thức: Công ty cổ phần.
Giấy phép đăng ký kinh doanh do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp.
Trụ sở hoạt động chính của Công ty tại Hà Nội.
Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện là một doanh nghiệp cổ
phần với 51% vốn sở hữu Nhà nước, là đơn vị thành viên của Tổng công ty Bưu chính
- Viễn thông Việt Nam (VNPT), được thành lập theo quyết định số 27/2004/QĐ-
BBCVT của Bộ trưởng Bộ Bưu chính - Viễn thông về việc chuyển Công ty Tư vấn
Xây dựng và Phát triển Bưu điện thành Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng
Bưu điện. Công ty có nhiệm vụ chính là khảo sát, thiết kế các công trình thông tin
(tổng đài, mạng cáp, truyền dẫn viba...) và tư vấn xây dựng với địa bàn hoạt động
trên khắp 67 tỉnh, thành phố trong cả nước.
Năm 1954, điểm xuất phát ban đầu là một Tổ Thiết kế của Tổng cục Bưu điện,
đến tháng 10/1960, Tổ Thiết kế đã phát triển thành Phòng Thiết kế thuộc Tổng cục
Bưu điện và đến ngày 15/02/1962 Công ty Thiết kế Bưu điện và Truyền thanh được
chính thức thành lập. Lúc này, Công ty đã có một bộ máy tổ chức tương đối hoàn
chỉnh nhưng phải đến 15/7/1969, một doanh nghiệp hoàn toàn độc lập trực thuộc
Tổng cục Bưu điện có chuyên ngành thiết kế các công trình thông tin bưu điện mới
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
22
Chuyên đề thực tập
được thành lập mang tên Viện Thiết kế Bưu điện.
Sang đến 20/07/1993, Viện Thiết kế Bưu điện được đổi tên thành Công ty Thiết
kế Bưu điện theo quyết định số 200 QĐ/TCCB ngày 15/03/1993 của Tổng cục
trưởng Tổng cục Bưu điện về việc “Thành lập doanh nghiệp Nhà nước “Công ty
Thiết kế Bưu điện” thuộc Tổng cục Bưu điện”. Đây là một doanh nghiệp Nhà nước
trực thuộc Tổng cục Bưu điện chuyên làm công tác khảo sát, thiết kế các công trình
thông tin và tư vấn xây dựng Bưu điện.
Sau này khi các Tổng công ty mạnh được thành lập theo quyết định 91/CP thì
Công ty Thiết kế Bưu điện được chuyển sang trực thuộc Tổng công ty Bưu chính -
Viễn thông Việt Nam theo quyết định số 434 QĐ/TCCB-LĐ ngày 09/09/1996 của
Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện về việc “Thành lập doanh nghiệp Nhà nước
“Công ty Thiết kế Bưu điện” đơn vị thành viên của Tổng công ty Bưu chính - Viễn
thông Việt Nam”.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của Ngành Bưu điện trong kế hoạch tăng
tốc giai đoạn II (1996 - 2000), năm 1997, Công ty đã mở rộng thêm lĩnh vực hoạt
động kinh doanh và đổi tên thành Công ty Tư vấn Xây dựng và Phát triển Bưu điện
theo quyết định số 273/QĐ-TCCB/HĐBT ngày 14/11/1997 của Hội đồng quản trị
Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam về việc đổi tên “Công ty Thiết kế
Bưu điện” thành “Công ty Tư vấn Xây dựng và Phát triển Bưu điện”.
Cho đến ngày 30/6/2004, đáp ứng yêu cầu cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Công ty Tư vấn Xây dựng và Phát triển Bưu điện được chuyển thành Công ty cổ phần
Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện theo quyết định số 27/2004/QĐ-BBCVT của
Bộ trưởng Bộ Bưu chính - Viễn thông, với số vốn điều lệ 13 tỉ đồng, trong đó vốn Nhà
nước (Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam làm đại diện) chiếm 51%, vốn
của cán bộ công nhân viên trong Công ty chiếm 42,4%, vốn của các cổ đông khác
6,6%.
Công ty chuyên trong lĩnh vực tư vấn xây dựng, khảo sát, thiết kế các công trình
chuyên ngành bưu chính viễn thông và tin học (nhà trạm, tổng đài, mạng cáp, truyền
dẫn vi ba, mạng LAN, internet...), Công ty luôn tự hào là một đơn vị chủ lực của
ngành Bưu điện trong công tác khảo sát, thiết kế và tư vấn xây dựng các công trình
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
23
Chuyên đề thực tập
thông tin. Có thể nói hầu như tất cả các công trình thông tin lớn trong nước đều có sự
tham gia lập dự án và thiết kế của Công ty. Hiện nay, Công ty cũng đang thực hiện tư
vấn các công trình ngoài Ngành và hợp tác Quốc tế.
2.1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty
Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện là một đơn vị thành viên
của Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam, chuyên thực hiện tư vấn xây dựng
các công trình thông tin và thực hiện chức năng tư vấn khác trong phạm vi được pháp
luật cho phép. Ngành nghề kinh doanh chính của Công ty do Bộ Xây dựng quy định với
đặc thù là tư vấn, được cụ thể thành các chức năng sau trong Điều lệ của Công ty:
- Tư vấn, khảo sát, thiết kế, lập dự án đầu tư của Công ty được thực hiện cho
các công trình bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin; các công trình công
nghiệp, giao thông, dân dụng theo quy định của pháp luật;
- Xây dựng, lắp đặt các công trình bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin;
các công trình công nghiệp, giao thông, dân dụng theo quy định của pháp luật;
- Thực hiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu vật tư, thiết bị viễn
thông và công nghệ thông tin.
Công ty thực hiện các chức năng nhằm mục tiêu không ngừng phát triển các hoạt
động kinh doanh, dịch vụ nhằm tối đa hoá các nguồn lợi nhuận có thể có được của Công ty,
đảm bảo lợi ích của các cổ đông, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao thu nhập, đời sống
của người lao động trong Công ty và đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
2.1.1.3. Tổ chức sản xuất kinh doanh
Công ty có bốn Xí nghiệp trực thuộc (I, II, III, IV), một Trung tâm tại TP Hồ Chí
Minh (Trung tâm TP Hồ Chí Minh) và các phòng ban chức năng : Văn phòng, phòng
Kinh doanh, phòng Tài chính - Kế toán, phòng Tổ chức - Hành chính, phòng Khoa học -
Kĩ thuật.
- Chức năng của các đơn vị sản xuất: Tổ chức, điều hành và thực hiện nhiệm vụ
sản xuất, kinh doanh (thực hiện chức năng khảo sát, lập dự án, thiết kế, dự toán các
công trình) theo từng khu vực cụ thể được phân công đảm nhiệm. Với nhiệm vụ:
• Thực hiện nghiên cứu thị trường.
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
24
Chuyên đề thực tập
• Lập kế hoạch, điều hành và thực hiện nhiệm vụ tư vấn, khảo sát, thiết kế,
hoàn thiện công trình.
• Tuân thủ các chỉ tiêu kỹ thuật trong quy trình, quy phạm, các quy định, chế
độ của Nhà nước đã ban hành.
• Quản lý các thiết bị và phương tiện sản xuất.
• Kiểm soát các hoạt động kỹ thuật trong quá trình khảo sát và thiết kế.
Giám đốc Xí nghiệp và Trung tâm là người lãnh đạo, quản lý các Xí nghiệp,
Trung tâm, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty và Phó Giám đốc Công ty quản
lý đơn vị mình về mọi hoạt động của đơn vị.
- Các phòng ban, đơn vị chức năng trong Công ty có nhiệm vụ quản lý và phục
vụ cho khối sản xuất chính. Từng phòng ban chức năng cụ thể mà có nhiệm vụ là
tham mưu, giúp việc cho Giám đốc quản lý, điều hành những công việc thuộc lĩnh
vực phòng ban mình đảm nhiệm.
Người chịu trách nhiệm về mọi hoạt động trong mỗi phòng ban chức năng trước
Giám đốc và phó Giám đốc quản lý các phòng ban chức năng là các trưởng phòng.
Mô hình tổ chức kinh doanh của Công ty được minh hoạ trên Sơ đồ: Mô hình tổ
chức kinh doanh của Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.
Sơ đồ: Mô hình tổ chức kinh doanh của
Công ty cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Bưu điện.
2.1.1.4. Quy trình tạo sản phẩm
Quy trình sản xuất là một quá trình bao gồm nhiều bước có quan hệ chặt chẽ
với nhau để tạo ra một sản phẩm. Quy trình sản xuất sản phẩm chính - tư vấn đầu tư
Lê Thị Hạnh Nguyên Lớp: KT 03
25
BAN LÃNH ĐẠO
CÔNG TY
CÁC PHÒNG BAN
CHỨC NĂNG
CÁC ĐƠN VỊ SẢN XUẤT:
- CÁC XÍ NGHIỆP
- TRUNG TÂM