Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Một số biện pháp dạy tập viết trong giờ học vần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 30 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
* Tầm quan trọng của việc dạy tập viết cho học sinh lớp 1:
- Tập viết là một trong những nội dung có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học,
nhất là đối với lớp 1.
- Góp phần rèn luyện một trong những kĩ năng hàng đầu của việc học Tiếng
Việt trong nhà trường.
- Tập viết không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn
học khác mà còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho HS những phẩm chất
đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỉ luật và óc thẩm mĩ.
- Nếu viết chữ đúng mẫu, tốc độ viết nhanh thì HS có điều kiện ghi chép bài
tốt nhờ vậy kết quả sẽ cao hơn. Viết xấu, tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới
chất lượng học tập.
- Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của
nết người. Dạy cho HS viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện
cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và
bạn đọc bài vở của mình”
- Từ năm 2001, chương trình tập viết hiện hành của Bộ GD và ĐT chỉ đạo
nâng cao chất lượng dạy chữ viết. Hướng chỉ đạo chuyên môn các cấp đặc biệt
quan tâm đến chất lượng rèn chữ viết của HS. Vì vậy vấn đề rèn chữ viết đẹp cho
HS luôn được đề cập và mang tính cấp bách đối với các thầy cô trực tiếp giảng
dạy. Vì thế cho nên khối 1 chúng tôi đã đưa ra một số kinh nghiệm giảng dạy môn
tập viết lớp 1.
* Lý do chọn đề tài:
Thực tế hiện nay ở trường tiểu học, chữ viết của học sinh chưa đồng đều, một số
em viết đẹp, một số các em viết chữ chưa đẹp, viết ẩu, cẩu thả, có nhiều em lại viết
sai lỗi chính tả. Điều này ảnh hưởng nhiều đến kết quả học tập của các em. Phải
chăng chữ quốc ngữ khó viết? Học sinh do học nhiều môn nên không có thời gian
luyện tập? Do chất lượng vở viết? Hay cấu tạo của chiếc bút?... Nhưng dù với lý
1



do nào đi nữa ai cũng nhận thấy rằng: “Nắn chữ có nghĩa là rèn người”.
Nhận thức được tầm quan trọng của công việc này, tôi đã tự học hỏi, tìm tòi cộng
với một số kinh nghiệm trong quá trình dạy lớp 1. Tôi mạnh dạn trình bày một vài
suy nghĩ và biện pháp để các em học sinh lớp 1 viết đúng và đẹp hơn qua giờ học
viết của giờ học vần. Đó chính là lý do tôi chọn sáng kiến:
“Một số biện pháp dạy Tập viết trong giờ học vần”.
* Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
+Trong chương trình Tiếng Việt lớp 1.
+ Một số biện pháp dạy Tập viết trong giờ học vần.
+ Từ tiết 3 các nét cơ bản đến tiết 216.
+ Học sinh lớp 1A trường Tiểu học An Sinh B.
1. Cơ sở lý luận:
Chữ viết là một trong những phát minh gây ấn tượng nhất, là thành tựu đánh
dấu sự phát triển của nhân loại. Việc hình thành và xây dựng những thói quen tốt về
chữ viết cho học sinh là một trong những nội dung giáo dục quan trọng. Mặt khác,
chữ viết còn thể hiện nền văn hoá, sự tinh hoa của một dân tộc. Ông cha từ xưa đã
có truyền thống hiếu học, coi trọng nhân tài, đặc biệt là những người “văn hay- chữ
tốt”.
Trong thực tế, đôi khi chỉ qua chữ viết của một người ta có thể nhận ra một vài
nét trong tính cách của họ. Nhưng quan trọng hơn cả là cùng với lời nói, chữ viết là
phương tiện giao tiếp của con người. Chữ viết đúng, sạch, đẹp, rõ ràng không
những giúp người đọc dễ hiểu mà còn tạo thiện cảm với người đọc.
Khi đủ tuổi vào lớp 1, các em đã phát âm được một số âm và các tiếng của mẹ
đẻ. Một số em đã học mẫu giáo thì nhận dạng được chữ cái, biết giọi tên các chữ
cái trong chữ nhưng chưa biết dùng ký hiệu để ghi lại từng âm vị. Môn học Tiếng
Việt giúp các em nắm được kiến thức về ngôn ngữ, học để giao tiếp bằng ngôn ngữ,
học để cảm nhận cái hay, cái đẹp của ngôn từ Tiếng Việt và phần nào hiếu được
những vấn đề của cuộc sống.
2



Như vậy ở môn Tiếng Việt lớp 1 là nền móng của bậc Tiểu học. Dạy Tiếng Việt
lớp 1 có nhiệm vụ rất lớn lao là trao cho các em cái chìa khoá để vận dụng chữ viết
khi học tập và là công cụ để các em sử dụng suốt đời. Đối với học sinh lớp 1 yêu
cầu cơ bản và quan trọng nhất trong học Tiếng Việt là đọc thông viết thạo mà cần
thiết hơn cả là chất lượng chữ viết. Vậy học sinh lớp1 phải biết xác định đường kẻ,
dòng kẻ, phải viết đúng kích cỡ, độ cao, độ rộng…. .Nói chung phải có kỹ năng
viết đúng quy trình, đây là cơ sở để các em viết chữ đẹp, rõ ràng, linh hoạt, đúng
mẫu chữ ở các lớp trên. Kỹ năng viết được thực hành trước hết trong các phần tập
viết của giờ Tiếng Việt, trong các tiết tập viết và được củng cố hoàn thiện ở các
môn học khác. Đồng thời với việc rèn chữ các em học sinh sẽ có cơ hội rèn luyện
tính cẩn thận, sự khoa học, óc thẩm mỹ, tình yêu Tổ quốc, yêu đất nước và tiếng mẹ
đẻ. .
2. Cơ sở thực tiễn:
- HS lớp 1 còn rất non nớt, chuyển từ hoạt động vừa học vừa chơi ở mẫu giáo
sang hoạt động học tập là chủ yếu nên khả năng tập trung của trẻ kém, tay trẻ còn
non nớt.
- Về tri giác: thiên về nhận biết tổng quát
- Về cảm giác: chưa phân biệt được dòng kẻ li, đường kẻ li
- Về vận động: chưa quen với việc cầm bút viết, ngồi đúng tư thế
- Về trí nhớ: lần đầu tiên tập viết nhớ lâu nhưng chưa biết kĩ thuật viết
* Những thuận lợi và khó khăn khi dạy môn tập viết:
+ Thuận lợi:
Ban Giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến học sinh lớp 1, các em được học
môi trường khang trang sạch sẽ, ngồi học bàn ghế chuẩn đối với lứa tuổi của các
em. Được sự quan tâm của phụ huynh học sinh, các em có đủ sách vở, đồ dùng học
tập theo yêu cầu của giáo viên.Phòng thư viện cung cấp đủ đồ dùng: như bộ chữ
dạy tập viết chữ thường và chữ hoa, mỗi lớp đều có bảng chữ cái theo mẫu chữ quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3



+ Khó khăn:
- HS lớp 1 còn rất nhỏ tuổi, hoạt động học tập là hoạt động mới được hình
thành
- Độ cong cột xương sống của HS ở cổ, ở ngực, ở thắt lưng đang được hình
thành
- Tri giác của học sinh thiên về nhận biết tổng quát, kỹ thuật viết chữ không
tránh khỏi những lúng túng khi viết. Vì vậy rèn cho HS viết đúng, viết đẹp là rất
khó khăn. Chính vìvậy tôi đã mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm giảng dạy
môn tập viết lớp 1 .
- Chữ viết là một công cụ để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để
ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hoá, khoa học và đời sống. Do vậy ở
trường Tiểu học việc dạy học sinh viết chữ và làm chủ được công cụ chữ viết để
phục vụ cho học tập giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của môn Tiếng Việt.
Đặc biệt là học sinh lớp 1 việc học chữ viết lúc bắt đầu đến trường là vô cùng quan
trọng.
- Việc rèn chữ cho học sinh là biểu hiện của nết người. Góp phần rèn những
phẩm chất như tính cẩn thận, lòng yêu thích cái đẹp, tinh thần trách nhiệm, ý thức
tự trọng và thái độ tôn trọng người khác

4


II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I: Dạy tập viết trong giờ học vần thế nào để giúp học sinh viết đúng .
1. Rèn học sinh viết chữ đúng mẫu:
Đây là một yêu cầu quan trọng bậc nhất. Vì vậy những gì học sinh được tiếp
xúc đầu tiên sẽ làm các em dễ nhớ và nhớ lâu nhất. Chính vì vậy, ngay sau khi học
sinh được nhận mặt chữ, ghi âm bằng con đường qua mắt nhìn rồi lưu lại hình ảnh

con chữ, các em phải tái hiện ngay con chữ đó trên bảng, (vở). Trong giờ học Tiếng
Việt ngoài kỹ năng đọc, kỹ năng viết của học sinh cũng được thể hiện ngay. Học
sinh được quan sát chữ mẫu của cô, nhận xét về chiều cao, độ rộng của chữ, cấu tạo
của chữ gồm những nét nào và xem cô hướng dẫn cách viết từ điểm đặt bút đến
cách đưa từng nét chữ, học sinh có thể nhập tâm ngay vào mẫu chữ và thể hiện điều
đó ngay trên chiếc bảng học sinh.
Ví dụ: Bài 8 Tiếng Việt I (tiết 1) - Dạy học sinh viết chữ h bao gồm các
bước sau:
Bước 1: Học sinh quan sát chữ mẫu của cô và nhận xét.
+ Chữ h gồm 2 nét: nét khuyết trên và nét móc 2 đầu.
+ Nét khuyết trên cao 5 li, nét móc 2 đầu cao 2 ly.
+ Chữ h rộng 2 ly.
Bước 2: Học sinh quan sát cô viết mẫu:
Giáo viên viết mẫu và giảng.
Đặt bút ở đường kẻ ngang thứ hai sát bên trái đường kẻ dọc tâm, viết nét khuyết
cao 5 li dựa vào đường kẻ dọc cho đẹp, đến điểm dừng đến của nét khuyết trên
đường kẻ ngang thứ nhất rê bút viết tiếp nét móc 2 đầu (rê sát bút trùng với đường
kẻ dọc đến hết đường kẻ ngang thứ 2 mới tách ra viết nét móc 2 đầu) dừng bút ở
đường kẻ ngang thứ 2.
Bước 3: Học sinh tập viết chữ h ra bảng con
Bước 4: Kiểm tra - đánh giá.
+ Học sinh nhận xét
5


+ Giáo viên bổ sung và sửa sai cho học sinh kịp thời
Phải rèn cho học sinh viết chữ đúng mẫu ngay từ khi mới bắt đầu viết thì khi mới
viết vào vở các em đỡ bị nhầm lẫn. Việc rèn viết được tiến hành đều đặn trong các
giờ học vần, và như vậy tạo cho các em thói quen viết chữ đúng mẫu. Sang tiết 2:
Trong phần tập viết GV nhắc lại cách viết và lưu ý cho học sinh về khoảng cách

giữa các chữ, tư thế viết bài để các em có thể viết bài tốt hơn.
2. Các phương tiện giúp học sinh viết đúng và viết đẹp.
Điều quan trọng bậc nhất để học sinh viết đúng chữ mẫu và đẹp là các phương
tiện học tập gồm: bảng, bút, vở tập viết, bàn ghế đúng quy cách, ánh sáng đầy đủ.
Trong giờ Tiếng Việt phần tập viết của học sinh gồm viết bảng ở tiết 1 và viết
vở ở tiết 2. Để học sinh có thể viết vào vở tốt, khâu viết bảng là rất cần thiết. Từ bài
viết của học sinh ở bảng GV dễ theo dõi, kiểm tra và sửa sai ngay cho các em kịp
thời. Về mẫu chiếc bảng cũng là vấn đề đáng nói, rất nhiều loại bảng có dòng, ô kẻ
khác nhau, và mẫu kẻ ở bảng lại khác mới bảng mẫu của cô, khác với vở ô li nên
gây khó khăn cho GV khi hướng dẫn học sinh viết và học sinh cũng khó thể hiện
những điều cô dạy trên bảng vì các em mới vào học lớp 1 con rất nhiều bỡ ngỡ. Vở
ô li chính hiện nay chính là mẫu phổ biến, thông dụng nhất để học sinh dễ bắt nhịp
theo và với học sinh lớp 1 càng ít qui định thì các em càng dễ tiếp thu, dễ nhớ bấy
nhiêu.
Lý tưởng nhất hiện nay là mỗi học sinh có một chiếc bảng có kẻ ô giống như
vở ô li mà học sinh đang tập viết gồm 4 li ngang và 4 li dọc trên 1 ô bảng. Khi sử
dụng loại bảng này về phía giáo viên chỉ cần hướng dẫn một lần học sinh có thể
vừa viết bảng, vừa viết vở được. Về phía học sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho các
em vì chỉ có một hướng dẫn thống nhất các em sẽ không phải lẫn lộn giữa cách viết
bảng và vở. Hiệu quả hơn nữa là chiếc bảng được gắn nam châm phía sau để học
sinh sau khi viết bài xong có thể gắn bài lên bảng nam châm, các bạn khác sẽ phát
hiện được chỗ đúng, chỗ sai của bạn và tự sửa được cho bạn, cho bản thân mình.

6


Với học sinh lớp 1, việc làm này lúc đầu có thể hơi khó nhưng ngày nào cũng
được luyện tập sẽ trở thành thói quen nề nếp, sẽ tạo cho việc làm dễ hơn, hiệu quả
học cao hơn. GV cũng có thể sử dụng ngay bảng của học sinh để gắn ngay vào
bảng nam châm để sửa những lỗi sai phổ biến của cả lớp và dùng chiếc bảng học

sinh để viết mẫu chữ cho học sinh quan sát và tập viết giống cô.
Vở tập viết in thuận lợi là chữ có sẵn, chữ mẫu in rõ ràng, đẹp có điểm đặt
bút để học sinh biết khoảng cách giữa các chữ và viết bài được dễ dàng.
Ngoài các phương tiện nêu trên, bàn ghế đúng quy cách và ánh sáng trong
phòng học là điều kiện rất quan trọng để giúp các em viết tốt. Vấn đề này Ban giám
hiệu trường tôi hết sức quan tâm trang bị cho toàn trường đặc biệt là khối 1 bàn ghế
đúng quy cách theo tiêu chuẩn, giữa bàn và ghế liền luôn có khoảng cách đảm bảo
đúng chuẩn, ánh sáng trong trường học được trang bị đầy đủ, tốt
Chương II: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 viết chữ đúng mẫu và đẹp.
1. Đối với học sinh:
1.1.Để giúp học sinh lớp 1 viết đúng và đẹp, trước tiên người giáo viên phải tự
thống nhất một số thuật ngữ khi dạy tập viết để học sinh nghe quen tai và có thói
quen nhận biết nhanh.
Ví dụ: “Đường kẻ” học sinh nghe cô nói hiểu được đâu là đường kẻ ngang thứ
nhất, thứ 2, thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ 6 đường kẻ dọc trái, đường kẻ dọc phải. Cách
xác định toạ độ trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ chuẩn. Học sinh qua giờ học
luyện tập, tập viết sẽ tự nhận xét được độ cao, kích thước của chữ, biết được vị trí
nằm trên đường kẻ nào, dòng kẻ thứ mấy thông qua chữ mẫu.
1.2.Việc tiếp theo quan trọng là học sinh phải nắm chắc điểm đặt bút đầu tiên.
Biết được điểm dừng bút của một số chữ thường kết thúc ở điểm đặt bút hoặc ở
đường kẻ ngang thứ 2.
1.3.GV có thể lặp lại điều này ở nhiều tiết học để học sinh luôn lưu ý nên hất
quá tay chữ sẽ mất cân đối hoặc hất quá ít làm chữ viết giống chữ in.
Trong kỹ thuật viết tạo sự liền mạch GV cần rèn học sinh biết cách rê bút, lia
7


bút để đảm bảo kỹ thuật và tốc độ viết chữ.
* Ví dụ 1: Rê bút - viết chữ :n (cỡ chữ nhỡ)
Học sinh viết nét móc xuôi trái (1), dừng bút ở đường kẻ thứ nhất, không nhấc

bút mà ngược lên đường kẻ thứ 2 để viết nét móc 2 đầu, dừng bút ở đường kẻ thứ 2.
* Ví dụ 2: Lia bút - viết chữ: cô (cỡ chữ nhỡ)
Học sinh viết chữ c đến điểm dừng bút ở đường kẻ ngang thứ 2 lia nhẹ đầu bút
từ dưới lên trên, sang phải đến điểm đặt bút của ô (cách c khoảng nửa ô) viết chữ ô
rồi lia bút lên đầu chữ o viết dấu mũ từ trái sang phải.
1.2.Để học sinh viết đúng chữ mẫu và viết đẹp phương tiện học tập của học sinh
là đặc biệt cần thiết gồm: bút, bảng, vở tập viết, bàn ghế đúng quy cách, ánh sáng
đầy đủ.
2.2.Khi học sinh viết bài, ngoài việc cầm bút đúng tư thế, muốn viết đúng và
đẹp học sinh cân biết quan sát chữ mẫu để biết cấu tạo chữ, nhận xét được chiều
cao, độ rộng của chữ, nhìn cô hướng dẫn cách viết để nắm được kỹ thuật viết chữ
và viết theo mẫu.
Đây là một trong những chữ khó viết ở phần chữ cái. Rất nhiều em khi viết đến
chữ này đều bị mắc ở phần nét thắt giữa. Giúp các em khắc phục tôi đã làm như
sau:
Cho học sinh so sánh chữ h và chữ k (mẫu hai chữ phóng to)
+ Giống nhau: cùng có nét khuyết trên. học sinh đã biết cách viết
+ Khác nhau : chữ h có nét móc 2 đầu. Chữ k có nét thắt giữa để viết được
đúng nét thắt giữa của chữ k, tôi đã phóng to riêng phần nét thắt giữa

của chữ

k trên khung chữ kẻ li. Học sinh nhận xét chiều cao, độ rộng của nét thắt: Nét thắt
giữa gồm 2 phần:
+ Phần trên nét thắt hơi giống chữ c lộn ngược
+ Phần dưới nét móc gần giống nét móc 2 đầu.
Tôi viết mẫu cho học sinh xem trên bảng từng phần của nét thắt, luyện học sinh

8



viết ra bảng riêng từng phần của nét thắt cho học sinh quen tay. GV chú ý cho học
sinh viết đúng the nét này ngay từ khi cho học sinh học các nét cơ bản.
Sau khi học sinh đã viết được riêng từng phần nét thắt giữa, tôi hướng dẫn học
sinh ghép 2 phần rời của nét thắt để được nét thắt giữa hoàn chỉnh bằng cách rê bút
nối 2 phần của nét thắt như sau:
Đặt bút ở đường kẻ ngang thứ 2 viết nét cong phải hơi chếch lên chạm đường kẻ
ngang thứ 3 vòng gần đến điểm đặt bút vừa xong rê bút viết liền nút nằm ngang
trên đường kẻ ngang thứ 2, điểm kết thúc của nét nút thẳng với chỗ rộng nhất của
phần trên nét thắt, rê bút nối liền với nét móc dưới và dừng bút ở đường kẻ ngang
thứ 2.
Học sinh viết xong sẽ mang bảng mẫu của mình cho các bạn xem. Học sinh
nhận xét rút ra chỗ đúng cần học tập, chỗ chưa đúng cần phải sửa. Học sinh được
tập viết lại nét thắt giữa cho đẹp sau đó mới viết chữ k hoàn chỉnh trên cơ sở cô
giáo viết chữ mẫu trên bảng và nhận xét được:
Nét khuyết: cao 5 li, rộng 1 li.
Nét thắt giữa: cao 2 li rộng 2 li rưỡi. Đặt bút ở giữa đường kẻ ngang thứ 2 (sát
bên trái đường kẻ dọc) viết nét khuyết trên dựa vào đường kẻ dọc cho thẳng đến
đường kẻ ngang dưới thứ nhất rê bút viết tiếp nét thắt giữa như trên, dừng bút ở
đường kẻ ngang thứ 2.
Muốn luyện tập đạt kết quả tốt học sinh phải nắm chắc về:
+ Chữ mẫu
+ Cấu tạo của chữ
+ Kỹ thuật viết chữ
Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện thành kỹ năng như: Tư thế ngồi, cách
cầm bút để vở, cách trình bày bài… cộng với ý thức tự giác của mỗi học sinh trong
quá trình luyện tập sẽ làm bài viết của các em đẹp hơn. Học sinh được viết trên
bảng, vở bài tập viết và viết cả vở ô li (giờ luyện viết).
Để nhận biết bài viết của học sinh đã đúng, đẹp chưa cần có sự kiểm tra đánh
9



giá, công việc này phải tiến hành thường xuyên, điều này chỉ có 2 ưu điểm sau:
Giáo viên đánh giá được mức độ tiếp thu của học sinh, từ đó có thể điều chỉnh
phương pháp dạy cho phù hợp.
2. Đối với GV:
2.1. Chữ viết của Giáo viên là tấm gương cho học sinh
Giáo viên phải viết đúng, viết đẹp, trình bày rõ ràng mới có thể giáo dục cho
học sinh viết sạch đẹp hơn được. Bởi xét về tâm lý của học sinh tiểu học giường
như các em luôn lấy cô giáo mình làm gương. Vì vậy, giáo viên cần phải thường
xuyên luyện chữ, cập nhật ngay với mẫu chữ đang hiện hành.
2.2 Chuẩn bị chu đáo khi lên lớp
Mỗi giáo viên khi lên lớp phải soạn bài đầy đủ. Việc soạn bài là công việc lập
ra kế hoạch tổ chức hoạt động dạy và học trong từng bài. Tiết chính tả nhiều khi
gây cho học sinh sự tẻ nhạt. Giáo viên phải bám vào yêu cầu của từng bài học từ đó
nghiên cứu bổ xung cho phù hợp với học sinh của lớp mình. Bài soạn của giáo viên
công phu sẽ tránh gây nhàm chán, rèn luyện được chữ viết mà lại gây được hào
hứng cho học sinh.
Để có bài soạn tốt, giáo viên luôn sưu tầm tài liệu, sách tham khảo về cách rèn
luyện chữ viết cho học sinh, những quyển vở sạch, đẹp giới thiệu cho những em
học sinh có ý thức lấy đó làm gương cho mình.
Ngoài ra, về tư thế cầm bút của học sinh là điều giáo viên cần phải quan tâm
đầu tiên, thực tế có nhiều cách cầm bút không đúng như tôi đã nêu ở phần viết
bảng, giáo viên có thể phải mất hàng tuần và luyện thường xuyên trong suốt cả năm
học về cách cầm bút đúng mẫu để học sinh viết tốt hơn. Khi viết đôi tay trực tiếp
điều khiển quá trình viết của trẻ, các cơ và tay của trẻ đang độ phát triển, nhiều chỗ
còn là sụn nên cử động các ngón tay còn vụng về, chóng mệt mỏi. Khi cầm bút các
em có tâm lý bị rơi. Điều này gây một phản ứng tự nhiên là các em cầm bút quá
chặt, các cơ tay căng lên rất khó di chuyển. Muốn có thói quen viết chữ nhẹ nhàng,
thoải mái trước hết học sinh phải biết kỹ thuật cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón cái,

10


ngón trỏ, ngón giữa). Bàn tay phải với điểm tựa là mép cùi tay, đầu bút hướng ra
phía trước, cầm bút phải tự nhiên, đừng chặt quá sẽ khó vận động, nếu lỏng quá sẽ
không điều khiển được bút. Nếu các em cầm sai kỹ thuật bằng 4, 5 ngón tay, khi
viết vận động cổ tay, cánh tay thì các em sex mau mệt, sức chú ý kém, kết quả viết
chữ sẽ không đúng và nhanh được.
2.3. Rèn cho học sinh tư thế ngồi chuẩn
Giáo viên phải rèn cho học sinh tư thế ngồi chuẩn để có thể viết chữ đẹp lại
không gây ra những dị tật để đời cho học sinh như: cận thị, vẹo cột sống...
* Tư thế ngồi viết:
- Lưng thẳng
- Không tỳ ngực xuống bàn
- Mắt cách vở khoảng 20 - 25 cm
- Tay phải cầm bút, tay trái tỳ nhẹ lên mép vở để giữ.
- Hai chân để song song thoải mái.
*Cách cầm bút:
- Cầm bút bằng ba ngón tay: Ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa.
- Khi viết ba ngón tay di chuyển từ trái sang phải, cán bút nghiêng bên phải, cổ
tay, khuỷu tay, cánh tay cử động mềm mại, thoải mái.
- Tuyệt đối sửa ngay những học sinh cầm bút tay trái.
Tuy nhiên với những học sinh viết xấu, giáo viên sẽ có những biện pháp để giúp
các em có thể viết đẹp hơn như:
- Tập tô chữ thêm
- Giáo viên kèm tay đôi, cầm tay ở một số nét chữ khó
- Giáo viên sửa sai ngay cho học sinh trên bảng con
- Luyện viết lại những chữ học sinh viết sai
- Xem (bảng) vở mẫu của bảng viết đẹp
- Uốn nắn tư thế ngồi viết đúng

- Bài viết của cô giáo phải luôn chuẩn
11


- Giáo viên nên giám sát học sinh trong quá trình viết để sửa sai kịp thời và lưu ý
những lỗi học sinh hay mắc trước khi học sinh viết bài để giúp học sinh viết đúng.
- Cho học sinh ngồi xen kẽ: học sinh viết đẹp ngồi cạnh học sinh viết chưa đẹp
để các em bắt chước bạn, thi viết đẹp giống bạn.
- Bảng chữ mẫu luôn để trước mặt để học sinh lúc nào cũng nhìn thấy chữ mẫu
và viết theo.
Trong quá trình dạy học tôi luôn tạo cho thói quen viết có chất lượng không cho
học sinh viết quá nhiều bài, chấm điểm chữ viết hoặc xếp loại chữ theo từng bài
viết, kể cả trong giờ luyện tập và quy định rõ ở mức độ nào học sinh phải viết lại
bài.
* Sau đây tôi xin minh họa 1 bài dạy tập viết trong giờ học vần
Bài 8: l - h (Tiếng việt 1 - Tập 1)
Hoạt động dạy và học
Giáo viên
Học sinh
* Tiết 1: Hướng dẫn viết bảng: (6’)
Đọc bài viết: l - h
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài viết

Lê - hè

Gắn chữ:

2 học sinh so sánh l với h

Yêu cầu học sinh so sánh chữ:


Giống: có nét khuyết trên
Khác: l có nét móc dưới
H có nét móc 2 đầu
1 HS nhận xét

Cho học sinh nhận xét về chiều cao? Chiều Cao: Nét khuyết 5 li
rộng của các chữ.

Nét móc 2 đầu: 2 li
Nét móc dưới (nét hất) 1 li
Rộng: h: 3li
l: 2 li

Cho học sinh nhận xét về chiều cao? Chiều Cao: Nét khuyết 5 li
rộng của các chữ

Nét móc 2 đầu: 2 li
12


Nét móc dưới (nét hất) 1 li
Rộng: h: 3li
GV chỉ vào chữ mẫu và nói cách viết

l: 2 li

k: Đặt bút ở đường kẻ ngang thứ 2 sát bên HS lắng nghe và quan sát cô viết
trái đường kẻ dọc viết nét khuyết trên cao 5 li mẫu
dựa lưng vào đường kẻ dọc cho đẹp, đến gần

đường kẻ ngang thứ nhất lượn bút nối liền
với nét móc dưới rộng gần 2 li và dừng bút ở
đường kẻ ngang thứ 2.
h: Đặt bút viết nét khuyết trên giống như chữ
l, đến điểm dừng bút của nét khuyết trên rê
bút sát vào nét khuyết đến đường kẻ ngang
thứ 2 lượn bút viết nét móc 2 đầu cao 2 li và
dừng bút ở đường kẻ ngang thứ 2.
- Viết mẫu và nói cách viết
- GV viết mẫu bảng giống như bảng của
học sinh
Yêu cầu học sinh viết vào bảng của mình.
Gọi 2 - 3 học sinh mang bảng mẫu (2 bảng
đẹp, 1 bảng xấu)
Bảng đẹp: Khen
Bảng chưa đẹp: sửa sai cho học sinh

- HS viết bảng

Hướng dẫn viết chữ:
Chú ý nét nối từ l - ê

- HS nhận xét bài viết
- Đúng?

Viết mẫu và nói cách viết

- Đẹp

Lê - hè

* Lê: Cách 1 đường kẻ dọc. Viết l như đã học
đến điểm dừng bút của l. Đưa tay lượn rộng
13


nửa ô viết như đã học. Dừng bút ở đường
ngang thứ 2. Lia bút lên trên viết dấu mũ (^)
* hè: Cách 1 đường kẻ dọc viết như đã học,
đến điểm dừng bút của h.

Cao? (e, ê: 2 li)
(l, h: 5 li)
Rộng: lê - gần 1ô

Đưa tay lượn rộng nửa ô viết e giống l - ê,

hè - hơn 1 ô

xong lia bút lên trên e. Thêm dấu ( `).
Giáo viên viết mẫu bảng
*Tiết 2: Hướng dẫn viết vở ( 4’)
- Khoảng cách giữa chữ l thứ nhất đến chữ l
thứ 2 là một đường kẻ dọc.
Chữ h: Tương tự
- Quan sát sửa cho học sinh tư thế ngồi, cách
cầm bút.
Chấm một số quyển vở học sinh
Nhận xét bài viết
- Dặn dò.
* nhận xét: Khi dạy bài 8: l – h các em học sinh đều nắm được điểm đặt bút,

điểm dừng bút của chữ l – h. Đã biết vận dụng các nét cơ bản để viết. HS viết được
bài . Một số em đã viết đúng - đẹp ở bảng con và vở Tập viết.
* Sau đây tôi xin giới thiệu một số bài mẫu - chữ viết của học sinh:

14


15


16


Chương III: Một số giải pháp cụ thể:
* Trước hết giáo viên cần làm cho HS và cha mẹ HS phải nhận thức được tầm
quan trọng của môn tập viết
- Muốn HS viết đúng, đẹp phải có sự công phu của GV theo 1 phương pháp
khoa học và kinh nghiệm đã được đúc kết cùng với sự kèm cặp thường xuyên, sâu
sát của các bậc phụ huynh, sự nỗ lực của mỗi HS
- Tạo phong trào thi đua giữ vở sạch viết chữ đẹp
- Trong giờ tập viết GV hướng dẫn HS tuân thủ nghiêm ngặt và thực hiện
đúng các nguyên tắc về tư thế ngồi viết, cách đặt bút, cách để tay, bài viết phải đảm
bảo yêu cầu, ánh sáng và thuận chiều khi viết đưa đúng bút từ trái sang phải, từ trên
xuống dưới không ấn ngòi bút mạnh vào mặt giấy.
- Ngay từ đầu hè GV phải rèn luyện từng nét, phải đi sâu đi sát, phát hiện
những em viết chữ đẹp để bồi dưỡng
- Khi viết luôn luôn sửa và uốn nắn những chữ viết xấu và sai
- Hướng dẫn HS ngồi đúng tư thế, đẹp khen và động viên em viết đúng, đẹp
* Lựa chọn các hình thức luyện tập trong quá trình rèn chữ viết cho HS:
+ Luyện viết bảng con

+ Luyện viết trong vở tập viết
+ Luyện phải thường xuyên trong các môn học khác
17


- Muốn hoạt động viết đúng và đẹp không phải ngày một, ngày hai mà làm
được ngay, nó đòi hỏi phải có một quá trình rèn rũa lâu dài. Trước hết phải có sự
dạy dỗ công phu của các thầy cô giáo theo một phương pháp khoa học kinh nghiệm
đã được đúc kết cùng với sự kèm cặp thường xuyên, sâu sát của các bậc phụ huynh,
sự nỗ lực kiên trì của mỗi học sinh.
Qua nhiều năm giảng dạy lớp 1 chúng tôi đã đạt được những kết quả bước
đầu nhờ kiên trì thực hiện một số biện pháp sau:
* Chuẩn bị: Để một giờ tập viết thành công trước tiên phải có sự chuẩn bị chu đáo
về cơ sở vật chất.
1. Giáo viên
- Kẻ bảng lớp theo đơn vị ô ly chuẩn bị theo vở tập viết của học sinh
- Phô tô cho mỗi học sinh một tờ chữ mẫu các chữ cái viết thường theo quy
định của Bộ giáo dục năm 2002-2003 để phụ huynh phối hợp cùng nhà trường dạy
con em mình cho thống nhất.
- Ngay từ những ngày đầu, giáo viên phải cho học sinh nắm chắc các đường
kẻ ngang, dọc các đường ly, dòng ly, cách chia ô thành những điểm chuẩn để viết.
Ví dụ: + Đường kẻ số
2. Học sinh
+ Bảng con
- Mua đồng loạt bảng con (có dòng ly dọc, ngang) theo mẫu vở tập viết để học
sinh quen với việc xác định các điểm chuẩn từ bảng đến vở cũng giống nhau
- Hộp phấn có khăn bông nhỏ, hơi ẩm (không dùng khăn lau có nhiều ly lông
hoặc mút để lau bảng)
+ Bút chì
- Chuẩn bị bút chì hơi nhọn, đúng tầm (nếu bút chì nhọn và cứng quá nét sẽ

mảnh, đôi khi còn chọc thủng cả giấty hoặc nếu nét chì quá to và mềm nét chẽ sẽ to
quá cỡ, học sinh khó viết được chuẩn các nét)
+ Vở viết:
18


- Phải là loại vở có kẻ ô vuông, ô ly dọc, ngang để học sinh dễ xác định điểm
chuẩn, dễ ước lượng độ rộng các nét khi viết (Từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc).
* Bồi dưỡng cho học sinh lòng say mê, tinh thần quyết tâm rèn chữ viết
Tôi thường kể cho các em nghe gương rèn chữ của ông Cao Bá Quát ngày
xưa, gương rèn chữ của học sinh những năm trước. Cho học sinh xem vở rèn chữ
của thầy, của những học sinh tiêu biểu từ những năm trước. Qua những mẩu truyện,
qua thực tế được nhìn những trang vở trước và sau khi rèn chữ của thầy, các bạn, cá
em có thêm tin tưởng và thêm quyết tâm say mê rèn luyện chữ viết.
Ngoài ra tôi còn phô tô tới tận tay từng học sinh những trang vở viết chuẩn
mực của học sinh trong lớp hoặc học sinh những năm trước để học sinh và phụ
huynh cùng nêu cao quyết tâm rèn chữ bằng bạn.
Bồi dưỡng cho học sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong việc rèn
luyện chữ viết như lòng say mê, ý trí quyết tâm, tính cẩn thận, chính xác, có óc
thẩm mỹ, lòng tự trọng, tạo được hứng thú cho học sinh hăng say tập viết và có ý
thức viết đúng và đẹp. Vì nếu ở lớp 1 đã viết hỏng, viết xấu thì lên các lớp trên khó
viết đúng, viết đẹp được.
* Phân loại các chữ cái thành các nhóm:
Nếu cùng một lúc đòi hỏi các em viết đúng và đẹp ngay tất cả các loại chữ là
không thực tế và khó thực hiện được (vì học sinh chưa nắm chắc kỹ thuật viết chữ
này đã chuyển sang chữ khác). Do vậy tôi đã phân loại chữ viết thành các nhóm
chữ có cấu tạo gần giống nhau về cách viết, mỗi tuần rèn một nhóm nhất định, rèn
viết đúng, đẹp nhóm chữ này mới chuyển sang rèn nhóm chữ khác nên mỗi nhóm
chữ học sinh được rèn rất tỉ mỉ và chi tiết.
Muốn dạy chữ viết trước tiên phải giới thiệu cho học sinh nắm chắc các nét cơ

bản tạo nên con chữ khi viết.
Các nét cơ bản:
- Nét cong (kín, hở)
- Nét thẳng (đứng, nghiêng)
19


- Nét khuyết (trên, dưới)
- Nét hất, nét thắt
- Nét móc (ngược, xuôi, móc hai đầu)
- Nét xiên (trái, phải)
- Các nét phụ
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo các nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái,
tôi chia ra các nhóm chữ như sau:
Nhóm 1: Gồm 8 chữ cái
Trọng tâm rèn luyện là các nét móc: Móc ngược, móc xuôi, móc hai đầu. Độ cao
các con chữ đều cao 2 dòng ly, riêng con chữ (T) cao3 dòng ly. Từ các nét cơ bản
trên, nếu viết đẹp 8 chữ cái ở nhóm 1 học sinh sẽ dễ dàng viết được các chữ cái
khác ở nhóm 2.
Nhóm 2 : Gồm 6 chữ cái
Sáu chữ cái đều giống nhau ở nét cơ bản là nét khuyết (trên, dưới). Độ cao các
con chữ đều cao 5 dòng ly.
Để viết đúng nhóm chữ này trước tiên phải dạy viết từ nét sổ dọc, học sinh
viết được nét sổ ngay ngắn mới tiến hành dạy viết nét khuyết.
Khi viết được các chữ cái ở nhóm 1, 2 học sinh viết các chữ cái khác có phần
thuận lợi hơn.
Nhóm 3 : Gồm 15 chữ cái
Nhóm chữ này giống nhau ở nét cơ bản là nét cong (kín, hở). Độ cao các con
chữ là 2 ly, riêng con chữ d, đ, p, q cao 4 ly. Loại chữ này nhiều người nghĩ là đơn
giản nhưng thực tế hầu hết học sinh viết sai từ chữ o.

Vậy phải dạy viết như thế nào cho đúng kỹ thuật và học sinh dễ vận dụng viết
đúng và đẹp.
* Chú ý kỹ thuật viết:
- Mẫu chữ: Giáo viên phải coi việc trình bày trên là trang viết mẫu mực của mình
cho học sinh noi theo. Do vậy chữ viết của giáo viên phải đúng, rõ, đẹp và ngay
20


ngắn, đúng kỹ thuật, đúng quy trình. Ngay cả khi chấm điểm và ghi lời nhận xét
vào bài làm của học sinh và khi viết bảng
Thế nào là viết đúng? Đúng theo chữ viết mẫu ở vở viết của học sinh đúng về
chiều cao (mấy ly?) độ rộng (mấy ô?) đúng từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc của
các con chữ trong một chữ ở vị trí nào của ô. Để thực hiện được điều đó tôi phải
tốn rất nhiều thời gian trong việc viết mẫu cho học sinh. Chấm điểm chuẩn theo
mẫu chữ vào vở tập viết để học sinh biết dựa và đó tự xác định điểm chuẩn quy
trình viết của từng nét, từng con chữ tiếp theo.
Ở bảng con tôi cũng hướng dẫn học sinh xác định các điểm chuẩn như ở vở tập
viết để học sinh làm quen dần với việc xác định các điểm chuẩn một cách thống
thống nhất (ở bảng, vở)
Cách xác định các điểm chuẩn của từng con chữ như sau:
Để học sinh tập xác định điểm viết tôi dạy học sinh chấm điểm chuẩn một số
nét chữ cơ bản ở từng nhóm, sau đó học sinh sẽ dựa vào các nét chữ đã học ở nhóm
trước để hoàn chỉnh con chữ.
Nhóm 1: 8 chữ cái ở nhóm 1 phải được dạy trước tiên vì nhóm chữ này các
con chữ không phải dựa vào các nét chữ ở nhóm 2, 3.
Về cơ bản của nhóm 1 là các nét móc (xuôi, ngược, móc hai đầu) nét hất nên
tôi chỉ hướng dẫn học sinh chấm điểm chuẩn của nét móc.
* Móc ngược (5 con chữ) tôi chỉ dạy học sinh chấm điểm chuẩn của con chữ i,
dự vào chữ i học sinh sẽ dễ dàng viết được con chữ t.
(Chỉ cần dạy chấm điểm chuẩn của con chữ t)

* Móc xuôi và móc 2 đầu: (có 3 con chữ)
Chỉ cần chấm điểm con chữ n.
Nhóm 2: 6 chữ cái giống nhau cơ bản ở nét khuyết trên, dưới, còn các nét móc
đã được học ở nhóm 1.
* Nét khuyết trên có 4 con chữ:
Chỉ cần dạy chấm điểm chuẩn con chữ
21


* Nét khuyết dưới có 2 con chữ:
Chỉ cần dạy chấm điểm chuẩn con chữ g
Nhóm 3: có 15 con chữ cái giống nhau căn bản là nét cong (kín, hở) còn các
móc, nét hất, các em đã được học ở nhóm 1,2.
Tôi chỉ dạy chấm điểm chuẩn 2 con chữ o và a.
Dựa vào 2 con chữ này học sinh dễ dàng tự chấm điểm chuẩn của các con chữ
khác.
* Nét cong, hở có 5 con chữ
* Còn chữ p là các nét chữ đã được học, giáo viên chỉ hướng dẫn là học sinh
tự viết được.
Như vậy với mỗi nhóm chữ tôi chỉ dạy chấm điểm các nét cơ bản, sau đó học
sinh sẽ biết tự chấm điểm chuẩn ở các chữ khác cùng nhóm bằng cách tương tự.
Việc dạy học sinh chấm các điểm chuẩn tưởng trừng rất khó khăn, rối mắt,
nhưng không chỉ sau 2 ngày dạy là học sinh đã biết tự xác định các điểm chấm một
cách chính xác. Tuy nhiên ở 2 ngày đầu giáo viên phải thật sự vất vả. Khi đã chấm
mẫu từng điểm trên bảng song, giáo viên phải kiểm tra điểm chấm của từng học
sinh xem đã chấm đúng vị trí chưa? (Có thể cho học sinh đổi bảng tự kiểm tra) rồi
mới tiến hành viết từng nét, từng con chữ. Việc chấm điểm chuẩn khi viết sẽ rút
ngắn lời hướng dẫn dài dòng của giáo viên.
Khi học sinh có thói quen xác định đúng các nét trong một con chữ thì sẽ dễ
dàng xác định đúng cách viết và khoảng cách các con chữ kết hợp trong một chữ

sau này.
- Tổ chức tốt phong trào thi viết chữ đẹp: Để khí thế rèn chữ viết sôi nổi tôi
thường xuyên động viên khuyến khích, khích lệ học sinh bằng cách thưởng ngay 1
quyển vở cho em nào đạt điểm 9 tập viết, em đạt điểm 10 sẽ được thưởng 1 cái
bút. Hình thức khích lệ này đã tạo cho học sinh một ý thức quyết tâm rèn luyện chữ
viết trong từng giờ tập viết để được thưởng.

22


Hàng tuần tôi đều tổng kết, tuyên dương những học sinh đạt nhiều điểm cao
môn tập viết.
Mỗi tháng một lần đánh giá, xếp loại vở sạch chữ đẹp cho học sinh sau đó tổ
chức một giờ thi viết chữ đẹp trong lớp để chọn ra bài viết đẹp nhất 9 chuẩn mực và
có phần thưởng xứng đáng cho học sinh đạt giải, phôtô bài viết đẹp gửi cho từng
học sinh tham khảo học tập.
Phát động trong học sinh khẩu hiệu:
“Mỗi chữ viết đẹp là một bông hoa
Mỗi trang vở là một vườn hoa tươi”
Mỗi học sinh có riêng 1 quyển vở ôly, mỗi ngày các em viết 1, 2 chữ cái cùng
nhóm, tiến tới viết 1 từ, một câu rồi 2, 3 câu hoặc trình bày một bài toán …
Đến ngày 20-11 học sinh chọn những quyển vở sạch, chữ đẹp và trình bày đẹp
làm món quà kính tặng thầy cô nhân ngày 20-11. Bằng tình cảm kính trọng thầy cô,
các em thi nhau rèn luyện chữ viết, kiến thức được nâng lên.
Mặt khác phải tiếp tục duy trì và đẩy mạnh phong trào thi “Vở sạch- chữ đẹp”
ở tất cả các môn.
* Nói tóm lại :Muốn thành công trong việc rèn chữ cho học sinh lớp 1. Chúng
tôi đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để phổ biến kinh nghiệm trong thực tế:
1. Giáo viên cần khảo sát phân loại chữ viết của HS thành những nhóm chính
để có kế hoạch rèn chữ cho từng đối tượng cho từng học sinh.

+ Nhóm viết chữ đúng mẫu, trình bày sạch đẹp
+ Nhóm viết sai mẫu: Nét ngửa, mất nét, chữ nhọn, gãy nét, đánh dấu sai,
khoảng cách quá gần, quá xa.
2. Cần tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh viết chưa đẹp, chưa đúng (có thể
do tư thế ngồi, do cách cầm bút, do thiếu thận trọng không tập trung …)
Từ đó tìm ra biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục yếu điểm.
3. Sắp xếp chỗ ngồi thuận tiện để kèm cặp các em

23


(Ví dụ: Em viết xấu, viết chậm nên cho ngồi đầu bàn để giáo viên uốn nắn,
sửa sai) đồng thời quan tâm đến thay đổi vị trí của học sinh trong lớp theo định kỳ.
4. Chữa lỗi sai khi học sinh viết bảng con thật tỉ mỉ, chu đáo, có như vậy khi
viết bài trong vở kết quả sẽ cao hơn.
5. Phát động phong trào thi đua giữ vở sạch, viết chữ đẹp và hình thành nề
nếp ngay từ đầu học sinh mới vào lớp 1.
6. Rèn vở sạch: Phải luôn luôn giữ vở sạch. Trước khi viết phải rửa tay sạch,
vở phải có tờ giấy lót tay, giở vở nhẹ nhàng, không gập vở, không bơm mực nhiều
quá, không vẩy mực. Viết xong để vở khô mới gấp vở tránh nhoè mực.đưa bút từ
trái sang phải, từ trên xuống dưới, không ấn mạnh ngòi bút xuống giấy.
Hiện nay nhiều giáo viên không chú ý hướng dẫn và rèn cho học sinh cách
cầm bút, để vở nên rất nhiều em cầm bút và tư thế ngồi sai lệch rất đáng lo ngại. Vì
vậy việc chỉnh sửa tư thế viết cho học sinh phải được đề cập đến thường xuyên
trong từng giờ tập viết.
7. Trang bị cho mỗi học sinh bảng mẫu chữ cái và trình bày một bài mẫu
chuẩn phát cho học sinh để luyện tập theo mẫu. Phôtô hình vẽ tư thế ngồi viết, cách
cầm bút gửi cho phụ huynh học sinh yêu cầu dán ở góc học tập.
8. Đầu năm họp phụ huynh, giáo viên phối hợp với phụ huynh học sinh chuẩn
bị cho học sinh đầy đủ bảng, giẻ lau, bút chì, bút mực, vở giáo viên yêu cầu.

9. Giáo viên thống nhất quy đinh cho học sinh cả lớp dùng cùng loại vở, bút
cùng một loại cỡ vừa tay của học sinh, phấn mềm không bụi, mực tím hoa sim,
bảng đen cùng loại có kẻ ô li rõ ràng.
10. Bên cạnh đó giáo viên cần đầu tư nghiên cứu, soạn, giảng và chuẩn bị chu
đáo thật mẫu mực, làm gương cho học sinh noi theo.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Mặc dù còn rất hạn chế nhưng thành công thu được sau một thời gian thực
nghiệm đã phần nào khẳng định được tác dụng của một số biện pháp dạy tập viết
trong giờ học vần cho học sinh lớp 1. Để khẳng định điều này, tôi lại tiến hành cuộc
24


điều tra như ban đầu vào một số giờ học vần tiếp theo và tôi đã thu được kêt quả
cuối HK I và cuối HK II như sau:
Sĩ số học sinh :

Xếp loại vở sạch chữ đẹp
B

A
C
14
Cuối HK I
7em = 50 %
7 em = 50 %
0=0%
Cuối HK II
10 em = 71 %
4 em = 29 %
0=0%

- Tham gia dự thi chữ đep cấp huyện: 1 em ®¹t gi¶i Nhì.
So sánh kết quả trên đây với kết quả trước đây tôi thấy việc dạy tập viết trong
giờ học vần của học sinh đã có nhiều tiến bộ. Số em viết xấu trước đây có tiến bộ
hơn nhiều, các em xếp loại A, B vẫn phát huy khả năng của mình.
IV. KẾT LUẬN
Trong quá trình dạy môn học vần và hướng dẫn học sinh viết đúng, viết đẹp tôi
nhận thấy: học vần, tập viết là bộ môn thực hành phải có sự luyện tập thường
xuyên hằng ngày. Tuy nhiên lứa tuổi các em còn nhỏ, rất ngại viết nhiều vì khi viết
các em phải tập trung chú ý cao độ dễ gây mệt mỏi và cơ tay các em còn yếu nên
nhanh bị mỏi → chữ xấu → điểm kém → chán viết, ngại viết. Giáo viên trong
quá trình dạy tạo cho học sinh viết quá nhiều bài, thực hiện một số biện pháp như
tôi đã nêu ở trên. Đặc biệt động viên khen thưởng kịp thời những học sinh viết bài
có tiến bộ.
Trong khi tập viết, học sinh được hoạt động cá nhân nhiều phát huy tính tích
cực chủ động tự giác của các em để hoàn thành bài học. Phương tiện hoạt động
đúng mức sẽ góp phần lớn trong việc hình thành nhân cách cho các em, rèn cho trẻ
những phẩm chất đạo đức như: tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và thẩm mỹ để sau
này lớn lên các em sẽ trở thành những con người có ích cho xã hội. Trong nhà
trường việc dạy học sinh viết đúng, viết đẹp cần được coi trọng từ lớp 1 và cả các
lớp trên. Đó là một yêu cầu không được coi thường của giáo dục phổ thông.
Tôi thiết nghĩ, để giúp các em học sinh viết sạch đẹp thì nhà trường và gia
đình cần chuẩn bị tốt những điều kiện ban đầu về cơ sở vật chất giúp các em có
25


×