Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

NOI DUNG TIEU LUAN CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.16 KB, 17 trang )

I. TÍNH TẤT YẾU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI LÀ
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Có thể nói việc tìm hiểu về triển vọng của chủ nghĩa xã hội hiện nay
trên thế giới bắt đầu từ một logic sau:
1. Chủ nghĩa tư bản không phải là mục tiêu cuối cùng của xã hội
loài người. Bởi vì, mặc dù đã có những điều chỉnh, những tích hợp tích cực
nhưng bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi trong một thế giới đang
đổi thay mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay. Hơn nữa các yếu tố của xã hội
chủ nghĩa lại đang nảy sinh ngay trong lòng xã hội tư bản.
Các nhà kinh điển C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng đánh giá rất cao vai
trò lịch sử của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, đánh giá cao sự chiến thắng
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trước phương thức sản xuất phong
kiến đã lỗi thời lạc hậu...Việc đánh giá này được các ông viết trong tác phẩm
Tuyên ngôn của đảng cộng sản như sau: “giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết
sức cách mạng trong lịch sử”; song các ông cũng đã dự báo và chứng minh
những dự báo của mình rằng “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của
giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”.
Kế thừa, vận dụng và phát triển những quan điểm trên của C.Mác và
Ph.Ăngghen, Lênin đã viết tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng
của chủ nghĩa tư bản” và chỉ ra những mâu thuẫn, xu hướng vận động của chủ
nghĩa tư bản đến chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn “tột cùng”, và là phòng chờ
của chủ nghĩa xã hội.
Nếu căn cứ vào tình hình thực tế trên phạm vi toàn cầu trong mấy thập
niên vừa qua, người ta thấy rằng chủ nghĩa tư bản ngày nay phát triển rất
mạnh mẽ do chủ nghĩa tư bản biết tự điều chỉnh và thích ứng với những thay
đổi của thế giới. Tuy nhiên, có thể thấy về bản chất chủ nghĩa tư bản không hề
thay đổi, những mâu thuẫn trong xã tư bản chủ nghĩa, tự bản thân nó không
1


thể khắc phục nổi, đó chính là tình trạng khủng hoảng kinh tế, ngoài khủng


hoảng mang tính chu kỳ ra còn có khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng thể chế,
khủng hoảng tài chính tiền tệ chẳng hạn như cuộc khủng hoảng tài chính diễn
ra ở nước Mỹ cuối 2007 đầu 2008 vv… Các loại khủng hoảng mang tính hệ
thống này và những khó khăn của chủ nghĩa tư bản đã dẫn tới hàng loạt vấn đề
xã hội nảy sinh như: tình trạng thất nghiệp, nghèo đói và khoảng cách chênh
lệch giữa giàu và nghèo ngày càng xa, mâu thuẫn sắc tộc, niềm tin, tôn giáo,
giá trị tăng lên, trật tự xã hội hỗn loạn, hoạt động tội phạm gia tăng vv… Tất
cả những vấn đề đã làm cho một số nhà nghiên cứu nhận định rằng mặc dù đã
có những điều chỉnh nhưng chủ nghĩa tư bản hiện nay vẫn là “một thế giới
không thể chấp nhận”.
Đó chính là một trong những lý do dẫn đến từ sau cách mạng Tháng
Mười Nga, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai cho đến nay, trên thế giới
tồn tại hai hệ thống kinh tế xã hội đối lập nhau (chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản), điều này, đã tác động đến sự lựa chọn con đường phát triển của các
dân tộc trên thế giới.
Chẳng hạn, ở các nước vốn trước đây là thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc sau khi giành độc lập đã và đang lựa chọn con đường phát triển cho dân
tộc mình. Con đường tư bản tư nghĩa trong những điều kiện nhất định đã đem
lại những thành công cho một số nước còn phần lớn cách nước khác không
thoát khỏi đói nghèo, nợ nần chồng chất. Ngay ở các nước tư bản phát triển
cũng nảy sinh xu hướng phát triển “phi tư bản”, “hậu tư bản”, xu hướng xã hội
dân chủ như ở nước Đức, Thụy Điển vv… điều này chứng tỏ chủ nghĩa tư bản
không phải là “xã hội tốt đẹp cuối cùng”, không phải là mục tiêu cuối cùng
của loài người mà nó sẽ bị thay thế bởi một xã hội tốt đẹp hơn, xã hội đó chính
là xã hội cộng sản chủ nghĩa, những tiền đề của sự thay thế ấy chính là các
yếu tố đang nảy sinh trong lòng xã hội tư bản.
2


Theo Mác “sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá

trình lịch sử - tự nhiên”. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu
của chủ nghĩa cộng sản) với tư cách là hai hình thái kinh tế xã hội khác nhau,
kế tiếp nhau, xã hội trước tất yếu bị xã hội sau thay thế, xã hội sau vừa phủ
định xã hội trước vừa kế thừa và phát triển những thành tựu mà xã hội trước
tạo ra. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã phát triển đến giai đoạn cao nhất của nó chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước,
theo Lênin, là sự chuẩn bị đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là giai đoạn trước
của chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã tạo ra nền sản xuất lớn với khoa học công
nghệ, kỹ thuật ngày càng hiện đại, sự phát triển xã hội hoá sản xuất đang “nẩy
mầm” những nhân tố cho chủ nghĩa xã hội. Sự xuất hiện những công ty cổ
phần trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tăng lên của nó và
những nhân tố xã hội chủ nghĩa khác có nghĩa là sự phát triển của quá trình
lịch sử tự nhiên trong đó chủ nghĩa tư bản bắt đầu quá độ sang phương thức
sản xuất mới. Trong xã hội tư bản hiện đại, về mặt sở hữu, sự xuất hiện quốc
hữu hoá, chế độ hợp tác, công ty cổ phần, nhà nước đóng vai trò điều tiết quản
lý về vốn, nguồn lao động tham gia quản lý xí nghiệp ở mức độ khác nhau, sự
rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, lao động trí óc với lao động
chân tay, tính dân chủ và xã hội của nhà nước tăng lên vv… tất cả những yếu
tố này chính là sự chuẩn bị điều kiện vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
2. Sự sụp đổ hệ thống chủ nghĩa xã hội hiện thực ở các nước Liên
Xô và Đông Âu không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội mà chỉ
là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực chưa đúng đắn.
Cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sự kiện chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế
giới lâm vào bước thoái trào lần thứ ba. Một số lực lượng vội vã vui mừng cho
3


đó là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội, sự cáo chung của chủ nghĩa Mác,
người dân, thậm chí một số đảng viên và lãnh đạo ở những nước đi theo chủ

nghĩa xã hội như ở Việt Nam, Trung Quốc… cũng không khỏi hoang mang
bối rối. Sự thật, sự tan rã của Liên Xô, Đông Âu không phải là sự thất bại của
chế độ và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà chỉ là sự thất bại của
một mô hình thực tiễn nhất định chưa đúng đắn. Mô hình chủ nghĩa xã hội
kiểu Liên xô, Đông Âu là mô hình chủ nghĩa xã hội thử nghiệm chưa đúng
đắn, nó không đồng nghĩa với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là
một hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đang vươn tới.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu cũng không vì
thế mà thay đổi nội dung, tính chất của thời đại ngày nay. Thời đại ngày nay
vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới, sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu chỉ chứng
tỏ tính quanh co, phức tạp trong sự phát triển của xã hội loài người mà thôi.
Đúng như Lênin từng nhấn mạnh: “Tất cả các dân tộc sẽ đi đến chủ nghĩa xã
hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ
nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa
đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ,
vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp
độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời
sống xã hội”, ở giai đoạn hiện nay, các đảng trong phong trào cộng sản công
nhân quốc tế đều thừa nhận “các đặc điểm dân tộc” trong con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội và mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước, thay vì
tuyệt đối hóa mô hình xô - viết và con đường của Liên Xô như trước đây.

4


3. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách mở cửa, đổi
mới và ngày càng thu được những thành tựu to lớn
Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp
đổ, ở một số nước xã hội chủ nghĩa khác như Trung Quốc và Việt Nam đã tiến

hành đổi mới, cải cách mở cửa thành công, đã đưa đất nước vượt qua khó
khăn khủng hoảng và đạt được những thành tựu to lớn. Trên cơ sở kiên trì, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình,
trong qua trình đổi mới, cải cách, mở cửa đã giữ vững nguyên tắc, đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo, Đảng phải tự đổi mới theo hướng dân
chủ, khoa học phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình. Đảng Cộng sản ở
các nước này đã mạnh dạn thừa nhận những khuyết điểm, sai lầm trong quá
trình lãnh đạo đất nước từ đó từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung chuyển
sang kinh tế thị trường, thừa nhận việc sử dụng kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho
chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, được quy định bởi trình độ phát triển
hiện nay của lực lượng sản xuất của xã hội loài người, là phương hướng đúng
đắn để chủ nghĩa xã hội tự đổi mới và phát triển… thay vì coi kinh tế thị
trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản và hoàn toàn không tương hợp với
chủ nghĩa xã hội như trước đây thì nay đã thừa nhận sự tồn tại của các thành
phần kinh tế, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, lấy hình thức phân phối theo
lao động là nguyên tắc chủ yếu.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện
hội nhập quốc tế. Nhà nước quản lí vĩ mô nền kinh tế, giảm dần sự can thiệp
vi mô, thô bạo trong nền kinh tế, thực hiện chế độ dân chủ, công khai minh
bạch thay cho chế độ mệnh lệnh, chỉ huy... Xác định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội là con đường khó khăn lâu dài, phải trải qua nhiều giai đoạn.
5


Những thành tựu cải cách, đổi mới ở Trung Quốc, Việt Nam, Lào và sự
phát triển của Cu-ba, Triều Tiên là nguồn cổ vũ lớn lao, thúc đẩy quá trình hồi
phục, ra khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên của phong trào chủ nghĩa xã hội
quốc tế.

Sau hơn 30 năm cải cách, mở cửa ở Trung Quốc (1978), hơn 20 năm
đổi mới ở Việt Nam (1986), Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn, được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, vị thế
của Trung Quốc và Việt Nam ngày càng được thế giới tôn trọng. Thành công
của cải cách, mở cửa của Trung Quốc, đổi mới ở Việt Nam cũng là thắng lợi
chung của chủ nghĩa xã hội.
4. Sự xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số nước Mỹ
Latinh
Cùng với những thành công của công cuộc cải cách mở cửa, đổi mới
của Trung Quốc và Việt Nam, sự hồi phục của các Đảng Cộng sản ở các nước
xã hội chủ nghĩa trước đây, ở Mỹ Latinh đã xuất hiện xu hướng thiên tả từ
những năm 90 của thế kỷ XX và hiện nay không ngừng lớn mạnh. Thông qua
bầu cử các lực lượng dân chủ, tiến bộ đã thành lập được chính phủ lên cầm
quyền ở các nước Mỹ Latinh như Vênêzuala, Nicaragoa, Bôlivia, Braxin,
Acgentina vv… nhiều nước đã tuyên bố lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa.
Mô hình chủ nghĩa xã hội nhiều nước Mỹ Latinh lựa chọn tạo thành mô hình
“chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI”, mô hình này về đại thể có những
nội dung cơ bản là về tư tưởng, lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng tiến bộ của
Ximôn Bôlivia, tư tưởng nhân đạo thiên chúa giáo làm nền tảng cho triết lý
hành động. Về chính trị, nhấn mạnh tư tưởng “dân chủ cách mạng” và chính
quyền nhân dân, xây dựng mô hình xã hội theo đó nhân dân tham gia vào công
việc của nhà nước, thực hiện công bằng xã hội. Về kinh tế, chủ trương thực
hiện kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước và hợp tác giữ vai trò
6


chủ đạo, giành lại chủ quyền dân tộc đối với tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là
dầu mỏ, nước sạch vv… thực hiện công bằng, giải quyết vấn đề bất bình đẳng
và phân hoá xã hội. Về đối ngoại, thúc đẩy khối đại đoàn kết Mỹ Latinh và
quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, lấy hợp tác thay thế cạnh tranh, đấu

tranh cho một thế giới đa cực dân chủ, chú trọng kinh nghiệm quốc tế của các
nước xã hội chủ nghĩa như Cu Ba, Việt Nam, Trung Quốc. Mô hình chủ nghĩa
xã hội Mỹ Latinh tuy còn điểm này điểm khác, còn tiếp tục được nghiên cứu,
theo dõi, nhưng với sự xuất hiện mô hình đó chứng tỏ sức sống và khả năng
phát triển của chủ nghĩa xã hội và lòng tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
của nhân dân lao động.
II. TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG THẾ KỶ XXI
1. Chủ nghĩa xã hội - hệ thống được xây dựng trên nền tảng vì con
người
Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể tạo ra một xã hội mà trong đó các
nguồn tài nguyên thiên nhiên được khai thác vì lợi ích của cả xã hội. Chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới có thể phân chia lợi nhuận công bằng nhằm chăm lo cho
từng con người về lương thực, nhà cửa, giáo dục, chăm sóc y tế. Chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới có thể mang đến sự bình đẳng giữa các quốc gia, loại bỏ
nguyên nhân dẫn đến chiến tranh và giải trừ vũ khí hủy diệt toàn diện. Và chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới có thể thay đổi cách mà chúng ta tác động đến hành
tinh của mình và làm đảo chiều mối đe dọa từ những thảm họa sinh học.
Chủ nghĩa xã hội rõ ràng ưu việt hơn Chủ nghĩa tư bản vì nó đại diện
cho tương lai của nhân loại. Đảng Cộng sản Nam Phi từng khẳng định: “Chủ
nghĩa xã hội là tương lai, hãy xây dựng nó”. Chủ nghĩa tư bản đã tiến bộ hơn
chính nó trước đây nhưng hiện nay những mâu thuẫn bên trong - giữa sản xuất
vì lợi nhuận và nhu cầu phát triển bền vững cho hàng tỷ người trên khắp thế
giới - đã tố cáo chính nó là “thùng rác” của lịch sử. Thế giới chúng ta sản xuất
7


đủ lương thực, quần áo và nhà cửa cho từng con người trong xã hội và vẫn tôn
trọng phẩm giá và sự sáng tạo của họ.
Tại sao chúng ta phải tiếp tục để một nhóm nhỏ những người giàu có
nắm giữ sự thịnh vượng do chính những người lao động làm ra trong khi một

nửa thế giới sống dưới 2 USD/ngày? Đó là lý do tại sao ở lục địa châu Mỹ đa
số người dân đã chọn những chính phủ do những người xã hội chủ nghĩa lãnh
đạo - một sự đảo ngược đầy kịch tính từ cuối thế kỷ 20 khi đa số các quốc gia
này từng ủng hộ Mỹ.
Trên khắp thế giới, phong trào cách mạng và phong trào xã hội chủ
nghĩa đang phát triển mạnh nhằm xây dựng những xã hội bình đẳng. Nhưng
khi nào chúng ta sẽ nhìn thấy sự lớn mạnh của chủ nghĩa xã hội và nó sẽ như
thế nào?
Thứ nhất, kinh nghiệm phát triển chủ nghĩa xã hội những năm đầu thế
kỷ 21 đã chỉ ra rằng chúng ta sẽ nhìn thấy trong thực tế chủ nghĩa xã hội có
thể giải quyết tốt hơn chủ nghĩa tư bản những mâu thuẫn mà chúng ta đang đối
mặt ngày hôm nay. Sẽ không có những gì gọi là hình mẫu hay con đường nữa
mà mỗi quốc gia sẽ phải xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nền tảng lịch sử, văn
hóa và nền chính trị của chính quốc gia mình. Thành công (hay thất bại) sẽ
giúp hướng dẫn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và dẫn đến việc chia sẻ
kinh nghiệm và hợp tác.
Thứ hai, khi ngày càng nhiều các quốc gia chuyển hướng sang chủ
nghĩa xã hội, sẽ có khả năng sự hợp tác hoặc liên minh kinh tế và thương mại.
Điều này sẽ cho phép các quốc gia hiện nay đang sợ bị cô lập vì không hội
nhập nền kinh tế thị trường tư bản sẽ điều hành hình thái kinh tế bền vững
mới. Và nó sẽ bắt đầu rút ngắn khoảng cách giữa Bắc-Nam, làm xói mòn
những nguyên nhân dẫn đến các cuộc xung đột vũ trang.

8


Thứ ba, chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21 sẽ xuất hiện với những thay đổi mới
mẻ hơn như sự lãnh đạo của những nhân tố mới nổi lên trong xã hội. Phụ nữ
và những người bản địa sẽ đóng vai trò rộng lớn hơn trước đây. Để đạt được
thành công và bảo vệ khỏi các cuộc tấn công (từ Chủ nghĩa tư bản), các cuộc

cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ yêu cầu ngày càng đông các tầng lớp nhân dân
tham gia.
2. Tác động của toàn cầu hóa đối với chủ nghĩa xã hội
Về vấn đề này, gồm hai nội dung cơ bản : Toàn cầu hóa và chủ nghĩa tư
bản; chủ nghĩa xã hội trong quá trình toàn cầu hóa. Các ý kiến của các nhà
khoa học đều thống nhất nhận định rằng: Quá trình toàn cầu hóa hiện nay
đang diễn ra do sự chi phối của chủ nghĩa tư bản, biểu hiện cụ thể ở sự chi
phối nền kinh tế thế giới bởi các tập đoàn tư bản kếch xù và biểu hiện thứ hai
là dựa trên thế mạnh áp đảo về kinh tế.
Chung quanh sự phát triển của tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn chủ
nghĩa tư bản toàn cầu hóa, phân tích tính hai mặt của quá trình này cho thấy
quá trình toàn cầu hóa tác động tiêu cực đối với chủ nghĩa xã hội trên ba mặt:
Một là, làm cho một số người tôn sùng “tính ưu việt của tư bản”, niềm
tin đối với tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa bị dao động;
Hai là, làm cho một số người tiếp nhận quan niệm giá trị của phương
Tây, lạc mất phương hướng xã hội chủ nghĩa;
Ba là, làm cho một số người thay đổi “khẩu vị” văn hóa truyền thống
của mình.
Song, toàn cầu hóa cũng có tác động tích cực đối với tương lai của chủ
nghĩa xã hội. Đó là trong khi tăng cường cao độ tính quốc tế của chủ nghĩa tư
bản thì toàn cầu hóa cũng làm tăng tính cấp thiết, đồng thời tạo điều kiện thực
hiện sự liên hợp các lực lượng cộng sản quốc tế. Mặt khác, bằng cách chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, chủ nghĩa xã hội có thể học tập những mô hình
9


kinh tế "quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức
sản xuất tập thể" của chủ nghĩa tư bản để giải quyết những vấn đề nan giải đối
với mô hình xã hội chủ nghĩa trước đổi mới. Thực tiễn đó đang đòi hỏi chủ
nghĩa xã hội hiện thực phải chủ động hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa để

nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, đưa công cuộc đổi mới, cải cách của chủ
nghĩa xã hội đi tới thành công.
Về "phong trào chống toàn cầu hóa" thực ra là một tên gọi chưa hoàn
toàn chính xác và không đồng nhất. Một bộ phận đúng là chống lại toàn cầu
hóa, đòi giải thể các tổ chức WB, IMF, WTO... còn một bộ phận khác lớn hơn
thì trên thực tế không chống toàn cầu hóa mà đòi hỏi sự công bằng trong toàn
cầu hóa, đòi hỏi tính đến các yêu cầu của các nước đang phát triển. Vậy tên
gọi chính xác hơn của phong trào này có lẽ là "phong trào chống mặt trái của
toàn cầu hóa"...
Ý kiến chung của nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, mặt tiêu cực của tác
động trực tiếp trước mắt của toàn cầu hóa đối với chủ nghĩa xã hội là lớn hơn.
Đối với các nước đang phát triển và kém phát triển thì áp lực của toàn cầu hóa
càng lớn, thậm chí còn đứng trước nguy cơ bị gạt ra bên lề của quá trình này.
Vấn đề là ở chỗ, áp lực và thách thức là khách quan, buộc chủ nghĩa xã hội
hiện thực phải đối mặt ; còn cơ hội lại phải thông qua nỗ lực chủ quan mới có
thể nắm bắt được. Sự tồn tại song trùng giai đoạn đầu của thời đại quá độ sang
xã hội sau, với giai đoạn cuối của thời đại trước không phải là ngoại lệ của
thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu của thời đại quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã trải qua hơn 8 thập kỷ. Nó còn kéo dài bao lâu thì cũng có
nghĩa là giai đoạn chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa còn kéo dài bấy lâu nữa.
3. Cục diện chính trị thế giới hiện nay và triển vọng của chủ nghĩa
xã hội trong những thập niên đầu thế kỷ XXI
Việc nghiên cứu vấn đề này tập trung đi sâu vào ba điểm chủ yếu sau:
10


Một là, việc dự báo triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong những thập
niên đầu thế kỷ XXI đòi hỏi phải nhận thức mâu thuẫn chủ yếu của thế giới
hiện nay.
Hai là, trong vài thập niên tới, những điều kiện cho sự tồn tại tư tưởng

bá quyền, hơn nữa là bá quyền đơn phương của đế quốc Mỹ chưa có sự thay
đổi một cách căn bản.
Ba là, triển vọng của chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong
sự tương tác giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
Trong đó các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đánh giá rằng, sự sụp đổ chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là một chấn thương tâm lý nặng,
không chỉ đối với những người cộng sản mà còn đối với nhân dân tiến bộ trên
toàn thế giới. Theo các nhà nghiên cứu thì, sự bênh vực chủ nghĩa xã hội của
người dân ở các nước xã hội chủ nghĩa là tấm lòng đáng trân trọng. Nhưng
phải làm sao để thuyết phục và khôi phục được niềm tin của nhân dân bằng
chính nỗ lực của chế độ mới là quyết định. Và, chỉ khi nào những người cộng
sản khẳng định được sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội một cách thuyết phục,
không gò ép và nặng tư tưởng quan liêu bao cấp thì mới thực sự đảm bảo được
niềm tin của nhân dân.
Về tác động của sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu đến Việt Nam nói riêng các nước xã hội chủ nghĩa còn lại cũng như phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, các nhà nghiên cứu đưa nhận định rằng:
Tuy kẻ thù bên trong và bên ngoài huy động sức mạnh tổng hợp tấn
công, song với sự nhận thức và vận dụng sáng tạo, chỉ sau ba thập niên cải
cách và đổi mới, ở các nước kiên định con đường xã hội chủ nghĩa xã hội vẫn
tiếp tục phát triển đi lên; phong trào cộng sản và công nhân đã dần khắc phục
những khuyết điểm, đang phục hồi và phát triển.

11


Điều này khẳng định sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu chỉ là một
khúc quanh của lịch sử. Mâu thuẫn vốn có bản chất của chủ nghĩa tư bản là
không thể điều hòa và sẽ chuyển hóa theo qui luật phát triển của lịch sử.
Các nhà nghiên cứu dự đoán chủ nghĩa xã hội hiện thực sẽ phát triển

mạnh mẽ trở lại vào khoảng từ 2020 đến 2025; chu kỳ tiếp theo đi lên chủ
nghĩa xã hội hiện thực sẽ là những năm 2050 - 2055. Như một đề nghị về trách
nhiệm của những người cộng sản với chủ nghĩa xã hội, các nhà nghiên cứu
cho rằng: Nếu Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân thế giới hiểu sâu sắc khát
vọng của loài người là độc lập và hòa bình thì phải tập trung sức để bảo vệ hòa
bình, chống chiến tranh. Dù tình hình thế giới như thế nào thì các nước xã hội
chủ nghĩa vẫn phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo; trong đó, đường lối tinh
tường, đối sách linh hoạt và sáng tạo là những vấn đề cốt tử. Đồng thời các
nhà khoa học cũng khẳng định rằng: Nhu cầu và khát vọng hòa bình, độc lập
của các dân tộc và loài người tiến bộ trên thế giới càng mạnh mẽ thì chủ nghĩa
xã hội càng phải sớm được khẳng định, mà đây là xu thế tất yếu.
Các nhà nghiên cứu cho rằng: Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những
bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các
dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật
tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời các nhà nghiên cứu cũng nhận định rằng, với những ưu thế vốn có, bản
thân chủ nghĩa xã hội có khả năng tạo cho mình sức đề kháng kỳ diệu, nhất
định sẽ đủ sức vượt qua mọi trở ngại, vững bước tiến về phía trước.
Bê cạnh đó, các nhà khoa học cũng cho rằng việc rút ra bài học và
những việc cần phải làm để phát triển về chất của chủ nghĩa xã hội trong thế
kỷ XXI có liên quan trực tiếp đến tiền đồ của chủ nghĩa xã hội ở chính những
nước đang tiếp tục thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng như
những nước khác trên thế giới đang từng bước tiến hành cách mạng xã hội chủ
12


nghĩa. Trong công trình hợp tác Việt - Nga “Vận mệnh của chủ nghĩa xã hội”,
các nhà nghiên cứu về chủ nghĩa xã hội đã đề cập tới ba cấp độ cơ bản và mới
về chất của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong tương lai mà loài
người phải hướng tới gồm những nội dung sau:

“Một là, chủ nghĩa xã hội với tư cách là văn hóa, là văn minh hóa văn
hóa, chứ không chỉ giản đơn là sự vận động của vật chất và phúc lợi vật chất
của mọi người và của các dân tộc... Tính chất văn minh của văn hóa trong thế
kỷ XXI sẽ trở thành phẩm chất cấu thành cần thiết nên tính xã hội chủ nghĩa
do nhân dân tạo ra;
Hai là, chủ nghĩa xã hội với tư cách là chủ nghĩa nhân văn, như một hệ
thống của tất cả các quan hệ xã hội không chỉ trên nguyên tắc loại trừ mọi
hình thức bóc lột, áp bức, bần cùng hóa, bạo lực, mà căn bản với tư cách là
sự bão hòa các quan hệ xã hội toàn diện đó và lối sống hàng ngày của con
người xứng đáng với tính chất của loài người luôn quan tâm đến hạnh phúc
và vị thế của họ. Con người nhân đạo được làm giàu bởi những thành tựu văn
hóa, trước hết chính là con người xã hội, sống một cách nhân văn giữa mọi
người;
Ba là, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản như là sự bảo đảm tính
phụ thuộc biện chứng và sâu sắc của sự phát triển tự do từng cá nhân với sự
phát triển tự do của mọi người trong xã hội. Những lời nói nổi tiếng đó của
C.Mác và Ph.Ăngghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” về xã hội mới
sẽ trở thành hiệp hội, “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” …
Ba phẩm chất mới đó của tính xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
mà thế kỷ mới, thế kỷ XXI đưa ra như là những phẩm chất lý tưởng của sự vận
động tới cộng đồng mới của con người. Do vậy mà sự bứt phá về chất từ chủ
nghĩa xã hội thế kỷ XX vốn chưa chín muồi, được hình thành một cách sai
13


mẫu ở một loạt các nước, trong đó có Liên Xô, tới tính xã hội chủ nghĩa mới,
cao hơn, phức tạp hơn, trưởng thành và giàu có hơn ở thế kỷ XXI sẽ được
thực hiện. Đó sẽ là một xã hội khác về chất của xã hội xã hội chủ nghĩa”[4
tr.56-58].

Cũng trên tinh thần đó, Văn kiện Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nêu rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới”(32). Đó cũng chính là sự hiện thực hóa vào đời sống xã hội Việt Nam một
mô hình chủ nghĩa xã hội mới được phát triển về chất mà các học giả Nga Việt đã nêu lên ở trên.
Tuy nhiên, để thực hiện được những dự báo về triển vọng của chủ nghĩa
xã hội trong thế kỷ XXI, trước hết các đảng cộng sản, các nước xã hội chủ
nghĩa phải có nhận thức lý luận đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, cần đặt và giải quyết hai câu hỏi lớn - đó
là chủ nghĩa xã hội là gì? Và, xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào?
Đây là vấn đề lý luận được đặt ra từ lâu và nó còn tiếp tục được bổ
sung, hoàn thiện cho đến khi chủ nghĩa xã hội thực sự được xây dựng ở một
nước, nhiều nước và trên toàn thế giới. Sự bổ sung và hoàn thiện đó chính là
tìm ra cái mới trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, bao gồm:
14


Thứ nhất, phải đi từ nhận thức chung, “có phần trừu tượng và có
khuynh hướng lý tưởng hóa hiện thực, thoát ly thực tiễn đến chỗ hình dung
chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể, thiết thực, đặc biệt là đặt đúng vai trò
quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất”.
Thứ hai, phải có nhận thức lý luận về dân chủ mà độc lập, tự do, hạnh

phúc được xem là những giá trị căn bản của chủ nghĩa xã hội, ở đó quyền làm
chủ của nhân dân luôn luôn được tôn trọng và được đặt lên hàng đầu.
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với việc làm cho lý luận
đủ sức đóng vai trò vượt trước và dẫn đường cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội đi tới thành công. Đề cập đến vấn đề đổi mới tư duy, đổi mới
nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, bài học hơn hai mươi năm đổi mới cho thấy: “trước hết, cần đi sâu
nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin một cách cơ bản và hệ thống nhằm tiến
tới nhận thức khoa học và hiện đại trên những vấn đề sau đây:


Làm sáng tỏ những giá trị còn thật sự đúng đắn, bền vững, cần thiết cho

thế giới quan, ý thức hệ của chúng ta.


Đánh giá những luận điểm của các nhà kinh điển vốn đúng đắn, chính

xác, hợp lý ở thời kỳ lịch sử trước đây khi các ông đề xướng nhưng ngày nay
thực tiễn biến đổi, đã không còn phù hợp nữa, đòi hỏi phải có những nhận
thức, những phát triển mới.


Cần nghiên cứu với tinh thần phê phán để thấy có những luận điểm mà

các nhà kinh điển nêu ra nhưng ngay từ đầu đã không đúng và chính các nhà
kinh điển cũng đã có điều chỉnh mà ngày nay, chúng ta cần phải nhận rõ, cần
tự giải phóng tư duy và tư tưởng của chính mình, để phát triển mới chứ không
lệ thuộc.



Nghiên cứu với tinh thần tự phê phán và tự đổi mới để thấy cho rõ nhiều

luận điểm, tư tưởng của các nhà kinh điển đã từng bị hiểu sai, làm sai do giáo
15


điều, do hạn chế nhận thức dẫn tới. Sự phê phán này phải thực sự là những
nghiên cứu khoa học khách quan, nghiêm túc nhất, góp phần củng cố niềm tin
khoa học với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội”.
Tóm lại, có thể nói, việc xác định nội hàm của khái niệm chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các học giả Việt Nam là trùng
hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước của Đảng và nhân dân Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay. Tiền đồ của chủ nghĩa xã hội có thể nhận thấy trước hết ở Việt Nam,
Trung Quốc và những nước khác kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa theo
những nguyên lý phổ quát của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc thù
của mỗi nước. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI là vô cùng to
lớn, bởi chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể giải quyết được những mâu thuẫn
trong sự phát triển của nhân loại, đó là vấn đề bảo vệ môi sinh, bảo đảm sự
công bằng, bình đẳng, tự do, dân chủ đích thực.
Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô và Đông
Âu trước hết bởi tính quan liêu, vừa giáo điều lại vừa xuyên tạc chủ nghĩa
Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chính sự sụp đổ ấy đã
trở thành bài học quí giá không chỉ đối với các nước đang đứng vững và tiếp
tục phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, mà còn đối với
những nước khác trên thế giới đang bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Đó là: phải tiếp tục phát triển một cách sáng tạo và khoa học những nội
dung căn bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học mà các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác đã xây dựng; nhận thức đúng nội dung và đặc điểm của thời kỳ quá độ từ

chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội với tư cách trình độ phát triển kinh tế xã hội cao hơn về chất; tôn trọng và không ngừng phát triển nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa; từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân theo tinh thần của chủ nghĩa nhân văn.
16


Sự khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới chỉ là tạm thời,
loài người tất yếu và nhất định sẽ đi tới mục đích tốt đẹp trong tương lai - đó
là chủ nghĩa xã hội với đúng nghĩa của nó.

17



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×