Đề tài: BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN GIÁO VIÊN NGỮ VĂN
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG SINH HOẠT CHUYÊN MÔN
THEO HƯỚNG NGHIÊN CỨU BÀI HỌC
Năm học: 2015 - 2016
I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
I.1.1. Lý do khách quan
Việt Nam đang sải những bước dài trên trường quốc tế. Bước chân đổi
mới, năng động, ổn định, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực của dải đất hình chữ S đã in dấu ấn đẹp đẽ trong lòng bạn bè quốc tế khi
được đánh giá cao về việc hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ. Không chỉ triển khai thành công mà Việt Nam còn chia sẻ kinh
nghiệm của mình trong việc thực hiện các chương trình hành động của các hội
nghị Liên Hợp Quốc về phát triển xã hội, môi trường, an ninh lương thực, tài
chính, nhà ở, nhân quyền, dân số và phát triển, phụ nữ, trẻ em, chống phân biệt
chủng tộc, phòng chống HIV/AIDS...
Thành quả ấy khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, khả năng quản lý
của nhà nước… và sự góp phần tích cực của Giáo dục - đào tạo. Giáo dục đào
tạo có vị trí quan trọng để phát triển nguồn nhân lực, quyết định thành công của
công cuộc xây dựng đất nước. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực, đã từng được khẳng định trong các văn kiện Đảng
trước đây, đặc biệt là trong Nghị quyết số 29 của Hội nghị Trung ương 8, khóa
XI, khẳng định đây không chỉ là quốc sách hàng đầu, là “chìa khóa” mở ra con
đường đưa đất nước tiến lên phía trước, mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc sống.
Trong Văn kiện đại hội XII, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ
trước, Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách hàng đầu,
tiêu điểm của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển
nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới
của nền giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”.
Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới đang đặt ra ngày càng cấp thiết. Một
giải pháp quan trọng được nêu là: Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ mục tiêu,
chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục, đào tạo theo hướng
coi trọng phát triển năng lực và phẩm chất của người học.
(theo Tạp chí Cộng sản)
Triển khai thực hiện chương trình hành động của Chính phủ về đổi mới
căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, mỗi đơn vị trường học cần căn cứ vào
điều kiện của đơn vị, tình hình thực tiễn của địa phương và định hướng chung
của ngành để xây dựng cho mình những nội dung, kế hoạch, nhiệm vụ cụ thể
1
thực hiện chương trình về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, tạo
sự chuyển biến tích cực trong ý thức, thái độ đến hành vi của cán bộ giáo viên
và học sinh. Một việc làm truyền thống và đồng thời cũng là một biểu hiện cụ
thể, thiết thực, cần thiết vào bậc nhất của những sự đổi mới là đổi mới sinh hoạt
tổ chuyên môn, nhằm bồi dưỡng chuyên môn giáo viên, gắn kết giáo viên với
giáo viên, không ngừng đổi mới phương pháp dạy học và tiếp tục nâng cao chất
lượng, bền vững hóa chất lượng hoạt động này trong nhà trường.
I.1.2. Lý do chủ quan
Hòa mình vào dòng chảy của sứ mệnh đổi mới phương pháp dạy học
trong thời kỳ mới, đáp ứng tính khoa học, tính thời đại của sự nghiệp trồng
người ở thời điểm mang tính lịch sử của đơn vị: Trường THCS Lê Hồng Phong
phấn đấu hoàn thành mục tiêu Trường chuẩn quốc gia trong năm 2016. Mục
tiêu này đòi hỏi sự vận động không ngừng nghỉ của từng cá nhân, từng tổ chức,
từng bộ phận và của cả tập thể thầy-trò gồm 1000 con người.
Trong muôn vàn công việc thì việc tiếp tục đổi mới phương pháp, bền
vững hóa chất lượng dạy học là nhiệm vụ được nhà trường đặc biệt quan tâm và
trách nhiệm được đặt trên vai người phụ trách chuyên môn của đơn vị. Trong
thời gian qua, đơn vị đã khéo léo kết hợp vận dụng sáng tạo nhiều phương pháp
dạy học khác nhau vào sự nghiệp dạy học của mình, là những phương pháp dạy
học truyền thống từ cổ chí kim đến những phương pháp dạy học mới mẻ, hiện
đại. Tuy nhiên, đổi mới đến khi nào là xong và đổi mới như thế nào là đủ? Khi
sự đổi mới này đã đáp ứng được nhu cầu của ngày hôm nay thì đến ngày mai nó
đã lỗi thời hoặc không đủ để áp dụng hiệu quả cho ngày mai.
Có lẽ vì thế chăng, mà khép lại mỗi vòng xoay của Trái Đất quanh ông
Mặt Trời lại đòi hỏi sinh khí mới cho một vòng xoay mới? Đổi mới không bao
giờ là đủ cả. Sự đổi mới của ngày hôm nay cũng không phủ nhận cái nền cũ của
ngày hôm qua. Đổi mới phương pháp dạy học cũng vậy, nó phải là quá trình
vận dụng và kết hợp hài hòa giữa phương pháp dạy học truyền thống với
phương pháp dạy học hiện đại hoặc ít nhất là kết hợp tính ưu việt của phương
pháp dạy học hiện đại của ngày hôm qua với phương pháp dạy học hiện đại của
ngày hôm nay.
Giữa một loạt các phương pháp, phương pháp luận, biện pháp, thủ thuật,
phương tiện dạy học từ thuyết trình, bình giảng, diễn giảng, phân tích, đọc diễn
cảm, đọc chép, chép bảng đen, học thuộc lòng mang tính cung cấp kiến thức áp
đặt thông qua thông cáo của thầy và tái tạo của trò, trò cứ nghe nhìn-ghi chépghi nhớ, thu nạp nặng lý thuyết, ít thực hành, kết quả học tập của trò được đánh
giá chỉ bởi kết luận của thầy đến dạy học tích cực, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của người học như đặt và giải quyết vấn đề, thuyết trình ngắn, trao đổi,
đóng vai, thảo luận nhóm, bài tập thực hành, động não, ứng dụng công nghệ
thông tin cùng các thiết bị đồ dùng dạy học hiện đại... Người học tự học từ học
cá thể - phối hợp học tập hợp tác, kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của
trò, trò đánh giá lẫn nhau để trò tự biến đổi tri thức của mình từ tác động của
bên ngoài.
2
Cùng với các video, dụng cụ thí nghiệm, hệ thống bảng biểu – tranh ảnh,
bản đồ tư duy, bảng nhóm, phiếu học tập, vật mẫu... xuất hiện phục vụ các giờ
dạy học ngày nay với dạy học giải quyết vấn đề, dạy học thực hành, dạy học kỹ
năng sống, dạy học tích hợp kiến thức liên môn, dạy học vận dụng kiến thức
liên môn vào giải quyết các vấn đề của thực tiễn, dạy học theo chủ đề, dạy học
theo đề án, dạy học phân hóa theo năng lực học sinh... phát huy được sức mạnh
của nó thì Bồi dưỡng chuyên môn giáo viên một cách thường xuyên, liên tục là
nhiệm vụ số 1 của nhà trường.
Thực hiện nhiệm vụ của mình, tôi chọn “Bồi dưỡng chuyên môn giáo
viên” làm đề tài nghiên cứu của mình để nghiên cứu kỹ hơn, sâu hơn, nâng cao
hiệu quả công tác.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
I.2.1. Mục tiêu
Góp phần đổi mới nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn, từ đó tập hợp và
phát huy sức mạnh trí tuệ tập thể, kinh nghiệm soạn giảng của từng cá nhân vào
giải quyết một bài học. Đó là điều kiện tốt, là hoàn cảnh lý tưởng tạo nên những
sản phẩm của tập thể trên tinh thần tương tác và hợp tác tự giác tích cực của
từng giáo viên, hướng đến nâng cao chất lượng dạy của người điều khiển-người
tổ chức và nâng cao hiệu quả thi công của người học, góp sức giáo dục toàn
diện các thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước.
I.2.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu, nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của đề tài.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động Bồi dưỡng chuyên môn giáo viên ở
Trường THCS Lê Hồng Phong, huyện EaH'Leo, tỉnh Đắk Lắk năm học 20152016.
- Đề xuất một số biện pháp cải tiến hoạt động bồi dưỡng chuyên môn giáo viên
của đơn vị.
- Rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo bồi dưỡng chuyên môn
giáo viên ở đơn vị trong từng thời điểm qua từng năm học, có đánh giá và bổ
sung, điều chỉnh khi cần.
I.3.Đối tượng nghiên cứu
- Hồ sơ Tổ chuyên môn, hoạt động chuyên môn của Tổ chuyên môn Văn-Sử
Trường THCS Lê Hồng Phong
- Hồ sơ chuyên môn, hoạt động chuyên môn của một số đồng chí giáo viên
THCS Lê Hồng Phong qua kiểm tra hồ sơ sổ sách, giáo án, dự giờ thăm lớp,
giám sát việc thực hiện các hoạt động chuyên môn năm học.
- Các đồng chí giáo viên Ngữ văn Trường THCS Lê Hồng Phong: Giáo án Ngữ
văn, giờ dạy-học Ngữ văn (cả hoạt động học của học sinh), hoạt động dự giờ,
rút kinh nghiệm môn Ngữ văn.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Người viết chỉ chọn một nội dung cho đề
tài nghiên cứu của mình.
Bồi dưỡng chuyên môn giáo viên là hoạt động thường xuyên của mỗi
đơn vị trường học với nhiều hình thức đa dạng phong phú khác nhau, diễn ra
thường xuyên liên tục không giới hạn thời gian. Ngoài nhiệm vụ chung là giao
3
nhiệm vụ và giám sát giáo viên thực hiện nhiệm vụ chuyên môn thì có một số
biện pháp cụ thể trong bồi dưỡng chuyên môn, có thể kể đến một số hoạt động
như:
- Phân công chuyên môn hợp lý.
- Hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đổi mới kiểm tra đánh giá.
- Tập huấn chuyên môn giáo viên cấp tổ, cấp trường và cử giáo viên tham gia
bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn của cấp trên tổ chức.
- Phân công hỗ trợ, kèm cặp giáo viên.
- Tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các loại hình đào tạo, tham gia hoạt
động cụm tổ chuyên môn.
- Dự giờ thăm lớp.
- Thanh kiểm tra chuyên môn.
- Tổ chức các cuộc thi chuyên môn cấp trường, bồi dưỡng, giúp đỡ giáo viên
tham dự các cuộc thi chuyên môn do các cấp tổ chức như thi Giáo viên dạy
giỏi, thi Sáng kiến kinh nghiệm, thi đồ dùng dạy học, thi giáo án điện tử, thi vận
dụng kiến thức liên môn trong dạy học...
...
Bồi dưỡng chuyên môn giáo viên trong thời gian gần đây được áp dụng
một số nội dung và hình thức mới như: “Dạy học theo dự án”, “Dạy học tích
hợp kiến thức liên môn”, “Dạy học lồng ghép giáo dục kỹ năng sống”, “Dạy
học theo chủ đề”, “Dạy học tự chọn”... thì Sinh hoạt chuyên môn theo hướng
nghiên cứu bài học là hoạt động mới mẻ, nhiều bỡ ngỡ, lắm khó khăn trong
triển khai áp dụng. Dù thế, song với ý chí thích khám phá và chinh phục cái
mới - cái khó nên tôi đã lựa chọn sự mới mẻ này làm đề tài nghiên cứu của
mình. Đề tài mang tên Biện pháp Bồi dưỡng chuyên môn giáo viên Ngữ văn
thông qua hoạt động sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học
ở trường THCS Lê Hồng Phong, huyện EaH'Leo, tỉnh Đắk Lắk, học kỳ I năm
học 2015-2016 (do nhà trường tổ chức thu và chấm SKKN trong tháng 2 năm
2016 để kịp nộp PGD đối với sản phẩm của số giáo viên dự thi giáo viên dạy
giỏi cấp huyện năm 2016 nên người viết chỉ có thể nghiên cứu ở học kỳ I năm
học 2015-2016).
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
I.5.1. Phương pháp đọc, nghiên cứu
- Đọc tài liệu về “Đổi mới sinh hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài học trong
trường THCS vùng khó khăn”.
- Đọc, tìm hiểu thông tin trên Internet
- Đọc, nghiên cứu hồ sơ chuyên môn giáo viên, hồ sơ tổ chuyên môn Ngữ văn.
I.5.2. Nghiên cứu lí luận
Cụ thể: Tìm hiểu, nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của đề tài.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động Bồi dưỡng chuyên môn giáo viên ở đơn vị.
I.5.3. Phương pháp đàm thoại
- Trò chuyện, trao đổi với giáo viên, nắm bắt khó khăn, vướng mắc trong thực
hiện.
4
- Thảo luận, phân tích cùng giáo viên, giúp giáo viên rút kinh nghiệm sau các
hoạt động.
- Thảo luận với tổ chuyên môn, thống nhất hướng giải quyết và thực hiện các
điểm mới, điểm khó của biện pháp bồi dưỡng chuyên môn giáo viên này.
I.5.4. Phương pháp điều tra sư phạm
- Điều tra trực tiếp bằng kiểm tra giáo án, hồ sơ tổ chuyên môn, dự giờ, phỏng
vấn.
- Điều tra gián tiếp bằng cách sử dụng phiếu điều tra.
I.5.5. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Lấy kết quả nghiên cứu, đàm thoại, điều tra để phân tích và tổng hợp.
I.5.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Xâm nhập thực tế và giám sát các hoạt động chuyên môn của giáo viên.
- Chỉ đạo thực nghiệm các vấn đề đã được thống nhất chung hoặc rút kinh
nghiệm sau các hoạt động chuyên môn, có đánh giá và bổ sung, thay thế nội
dung khi cần.
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lý luận
Khái niệm
*Bồi dưỡng: -Theo Từ điển Tiếng Việt là làm cho tốt hơn, giỏi hơn.
-Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam: làm tăng năng lực phẩm
chất.
*Bồi dưỡng: có thể hiểu đó là các hoạt động bồi bổ, làm tăng thêm trình độ
hiện có về kiến thức, kỹ năng, thái độ nhằm giúp cho cán bộ, giáo viên thực
hiện đúng việc, đạt hiệu quả. Đó là quá trình học tập để nâng cao trình độ, năng
lực, kỹ năng, phẩm chất, đạo đức của giáo viên, để giáo viên thực hiện công
việc tốt hơn.
“Nghiên cứu bài học” có nghĩa là nghiên cứu và cải tiến bài học cho đến
khi nó hoàn hảo (theo Catherine Lewis). Thuật ngữ này có nguồn gốc trong lịch
sử giáo dục Nhật Bản, từ thời MeiJi (1868-1912), như một biện pháp để nâng
cao năng lực nghề nghiệp của giáo viên thông qua nghiên cứu cải tiến các hoạt
động dạy học ở từng bài học cụ thể.
Sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học là hoạt động mà
giáo viên tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến người học trong một bài
học như: học sinh học bài này như thế nào? Học sinh đang gặp khó khăn gì
trong học bài này? Nội dung, phương pháp dạy học bài học này có phù hợp, có
gây hứng thú cho học sinh không, kết quả học tập của học sinh có được cải
thiện không, cần điều chỉnh điều gì và điều chỉnh như thế nào?
Sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học không tập trung
vào việc đánh giá giờ học, xếp loại giáo viên mà nhằm khuyến khích giáo viên
tìm ra nguyên nhân tại sao học sinh học chưa đạt kết quả như mong muốn và có
biện pháp nâng cao chất lượng dạy học, tạo cơ hội cho học sinh được tham gia
vào quá trình học tập; giúp giáo viên có khả năng chủ động điều chỉnh nội
5
dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh của trường, lớp
mình.
II.2. Thực trạng
II.2.1. Thuận lợi – khó khăn
* Thuận lợi
- Về cơ sở, căn cứ pháp lý: Tại công văn số 314/PGDĐT-THCS ngày 24
tháng 9 năm 2015 của Phòng Giáo dục-Đào tạo huyện EaH'Leo về việc hướng
dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2015-2016 cấp THCS ở phần nhiệm vụ trọng
tâm đã tiếp tục chỉ rõ: Triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết
số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành
Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo...; chú
trọng phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục về năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ; kỹ năng xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục theo
định hướng phát triển năng lực học sinh, năng lực đổi mới phương pháp dạy
học, kiểm tra đánh giá...; chú trọng đổi mới sinh hoạt chuyên môn...
- Ngành rất chú trọng đến công tác Bồi dưỡng chuyên môn giáo viên,
hàng năm đều tổ chức các đợt tập huấn chuyên môn, các cuộc thi về chuyên
môn, chú trọng công tác đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá.
Đồng thời cũng cử giáo viên cốt cán của các trường, của ngành tham gia tập
huấn các lớp bồi dưỡng chuyên môn giáo viên theo các kênh khác nhau như
"Đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học", "Vận dụng
kiến thức liên môn để giải quyết vấn đề thực tiễn đối với học sinh, dạy học theo
chủ đề tích hợp đối với giáo viên", "Kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển
năng lực học sinh", thi giáo viên dạy giỏi, thi Đồ dùng dạy học, chỉ đạo hoạt
động theo Cụm tổ chuyên môn/Cụm chuyên môn... Đó là những điều kiện
thuận lợi để giáo viên được cọ sát, được giúp đỡ, được giao lưu học hỏi giữa
các đơn vị, được khẳng định bản thân, nâng cao năng lực sư phạm phục vụ
công tác.
- Trường THCS Lê Hồng Phong là trường học hạng I, gồm 25 lớp với sự
hội tụ của 59 cán bộ giáo viên công tác và gần 1000 học sinh học tập. Quy mô
trường lớp lớn, lượng giáo viên đông, có điều kiện cọ sát, kích thích và giúp đỡ
lẫn nhau vươn lên trong công tác. Nhà trường có 08 giáo viên Ngữ văn, có
02/03 cán bộ quản lý của đơn vị có chuyên môn Ngữ văn, đó cũng là điều kiện
thuận lợi thúc đẩy hoạt động Ngữ văn của đơn vị. Nhà trường cũng có nhiều
đồng chí là giáo viên cốt cán của Ngành, xứng đáng đứng ở mũi tiên phong để
đồng nghiệp học hỏi. Nhà trường luôn quan tâm, tạo điều kiện tối đa để giáo
viên được bồi dưỡng chuyên môn phục vụ công tác giáo dục của đơn vị.
- 100% giáo viên Ngữ văn của đơn vị có trình độ Đại học, có sức khỏe
tốt, có đam mê chuyên môn và có nhiệt huyết với nghề, có phân tầng ở các độ
tuổi khác nhau, có 01 nam, có 07 nữ. Ở độ tuổi trung bình là 34, có cuộc sống
tương đối ổn định, có điều kiện đầu tư cho công tác chuyên môn, đáp ứng yêu
cầu đổi mới trong dạy-học.
Khoa học công nghệ thông tin phát triển, nhà trưởng có máy tính, có Wifi
đủ mạnh, đáp ứng nhu cầu giáo viên trao đổi thông tin trên Internet. Ở thời
6
điểm này, hầu hết giáo viên đều sử dụng điện thoại thông minh, có thể ghi âm,
ghi hình, quay video giờ dạy trên chính điện thoại của mình. Đây cũng là thuận
lợi giúp giờ dạy minh họa hoạt động sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên
cứu bài học thành công.
- Ngữ văn là sự kết tinh của ngôn ngữ với văn học. Ngữ văn là tinh hoa
văn hóa dân tộc, nó có tác dụng lưu truyền những giá trị tốt đẹp của con người
qua các thời đại khác nhau, giúp con người ta cảm nhận được vẻ đẹp muôn màu
của cuộc sống, của nhân loại, bồi dưỡng cho con người ta tâm hồn đẹp, suy
nghĩ đẹp, hành vi đẹp và lối sống đẹp. Cũng bởi vậy, đây là môn học giữ vị trí
quan trọng trong nhà trường, được học sinh và phụ huynh xem là môn học
chính.
* Khó khăn
- Năm học 2015-2016 là năm học gắn liền với “đổi mới” và “tiếp tục đổi
mới” từ nội dung đến phương pháp dạy học và sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn.
Cũng trong năm học này, ngoài nhiệm vụ dạy học chính khóa, giáo viên phải tổ
chức cho học sinh nhiều hoạt động ngoại khóa, nhiều hoạt động thi đua và giáo
viên sẽ tham gia rất nhiều cuộc thi như “dạy học theo chủ đề”, “vận dụng kiến
thức liên môn vào dạy-học”, thi thiết kế bài giảng E-Learning, thi giáo viên dạy
giỏi, thi sáng kiến kinh nghiệm, thi đồ dùng dạy học cùng các Hội Thao, Hội
Diễn... khiến giáo viên bị chi phối bởi nhiều điều, nhiều nội dung.
- Sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học là phương pháp
mới mẻ, đầy bỡ ngỡ; sự chuẩn bị để áp dụng phương pháp này vào trường học
chưa chu đáo, thế là phải vừa học vừa làm. Bản thân người phụ trách chuyên
môn không được tập huấn sâu mà phải tự mày mò, tự học để chỉ đạo và điều
hành, hẳn đó là khó khăn. Thêm nữa, để sản phẩm của nghiên cứu bài học được
chào đời bởi những giờ dạy cụ thể khiến các tổ chuyên môn phải đầu tư rất
nhiều thời gian, tập trung nhiều trí lực. Đã thế, cùng môn học nhưng người dạy
buổi sáng, người dạy buổi chiều, thời khóa biểu dày đặc, nhiều khi các tổ
chuyên môn phải họp cả ngoài giờ hành chính để đáp ứng “tính thời sự”.
- Giữa nhịp sống hiện đại với sự phát triển thần tốc của khoa học công
nghệ, của công nghiệp hóa hiện đại hóa khiến suy nghĩ và lối sống của con
người ta cũng trở nên thực dụng và thực tế hơn. Sự đầu tư của đại bộ phận phụ
huynh và học sinh là ưu tiên hàng đầu cho các môn khoa học tự nhiên và Ngoại
ngữ. Say mê học Ngữ văn chỉ là con số khiêm tốn. Thêm nữa, Tiếng Việt khá
phức tạp còn Văn học thì kén chọn, đòi hỏi người học phải có một tâm hồn rộng
mở, biết rung cảm trước nghệ thuật ngôn từ thì mới có thể học tốt môn học này.
Và thế là khoảng cách lại được nới xa khiến thầy giáo Ngữ văn thêm vất vả để
gắn bó học trò với môn học của mình.
- Giáo viên Ngữ văn của đơn vị có 50% cư trú trên địa bàn xã EaNam,
50% còn lại cư trú rải rác ở Thị trấn EaĐrăng, DliêYang. Sự xa xôi, cách trở về
địa lý cũng gây không ít khó khăn, trở ngại trong quá trình công tác tại đơn vị
của số giáo viên này. Có 02/08 giáo viên Ngữ văn của đơn vị là giáo viên Hợp
đồng ngắn hạn, chưa thực sự yên tâm công tác, có 01 giáo viên trẻ mới ra
trường, kinh nghiệm công tác còn ít ỏi. Thêm nữa, cũng như những người bình
7
thường khác, gánh nặng nhọc nhằn của cuộc sống thường nhật ít nhiều cũng chi
phối và làm bào mòn xúc cảm văn chương của thầy cô giáo Ngữ văn.
- Là Trường THCS của một xã vùng II, học sinh của đơn vị là sự góp mặt
từ 20 thôn buôn khác nhau trên địa bàn trải rộng, dân cư rải rác, đường xá đi lại
khó khăn - bụi mù vào mùa khô, lầy lội vào mùa mưa, năng lực nhận thức
không đồng đều, hoàn cảnh kinh tế không ít gia đình còn nhiều khó khăn, tỷ lệ
học sinh dân tộc cao, sự cách biệt ít nhiều về ngôn ngữ và phong tục tập quán...
khiến kết quả học tập của một bộ phận học sinh chưa đền đáp như mong muốn
công sức của người thầy. Thêm nữa, ít nhiều giáo viên còn tâm lý hay “sợ” như
sợ học sinh không quen nếu mình quay phim, ghi hình tiết dạy, sợ học sinh
không thực hành được... đó cũng là rào cản tâm lý cần phá vỡ.
- Giờ dạy theo hướng nghiên cứu bài học thường là đơn vị bài học lý
tưởng cho hoạt động nhóm của người học. Hoạt động nhóm/giờ học sẽ hiệu quả
hơn đối với lớp học dưới 35 học sinh để giáo viên quan sát, giám sát và giúp đỡ
các nhóm sâu sát hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, sĩ số bình quân của đơn vị là 38
học sinh/lớp, khiến người thầy khó “xoay sở”. Nói chung, điều kiện dạy học
của đơn vị còn hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu về các phương tiện, điều
kiện dạy học hiện đại phục vụ môn học, càng không có điều kiện tổ chức cho
giáo viên và học sinh “trải nghiệm thực tế”, “trải nghiệm hiện thực”… để xâm
nhập thực tế cũng như bồi dưỡng tình cảm, tri thức và năng lực chuyên môn
cho giáo viên, học sinh.
II.2.2. Thành công – hạn chế
* Thành công
- Đội ngũ giáo viên của đơn vị có truyền thống tích cực tương trợ lẫn
nhau giúp đồng nghiệp hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học. Cũng là đội ngũ có
tinh thần bồi dưỡng chuyên môn tương đối cao, tích cực cọ sát chuyên môn và
nhiều đồng chí được khẳng định qua kỳ thi giáo viên dạy giỏi các cấp. Tính đến
năm học 2015-2016 THCS Lê Hồng Phong có 07 giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh,
17 giáo viên dạy giỏi cấp huyện rải khá đều ở các bộ môn khác nhau. Riêng
môn Ngữ văn có 01 CBQL và 01 giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, 03 giáo viên dạy
giỏi cấp huyện. Đó là lực lượng vừa có năng lực chuyên môn giỏi lại vừa có
kinh nghiệm giảng dạy lâu năm, có sự trải dài về trải nghiệm sống. Đó là những
hạt giống tốt để nhân rộng điển hình.
- Phục vụ hoạt động chuyên môn, hàng năm giáo viên của đơn vị nhiệt
tình tham gia các đợt bồi dưỡng chuyên môn của ngành, của đơn vị. Song song
với nhiệm vụ đứng lớp, đội ngũ giáo viên của đơn vị rất tích cực trong thực
hiện các nhiệm vụ giáo dục khác như đầu tư nghiên cứu khoa học thông qua
hoạt động viết sáng kiến kinh nghiệm, làm đồ dùng dạy học, tham gia các cuộc
thi, bồi dưỡng-hướng dẫn học sinh hoàn thành sản phẩm dự thi các cấp và đạt
được nhiều thành tích đáng kể... trong đó có sức góp của lực lượng giáo viên
Ngữ văn, cụ thể:
+ Năm học 2014-2015
Về phía giáo viên: có 14 sáng kiến kinh nghiệm dự thi các cấp, trong đó:
02 Sáng kiến kinh nghiệm đạt giải B cấp huyện, 04 Sáng kiến kinh nghiệm đạt
8
giải C cấp huyện, 08 Sáng kiến kinh nghiệm đạt giải B cấp trường. Có 41giáo
viên dạy giỏi cấp trường, chiếm tỷ lệ 89.13%, tất cả các giờ dạy được dự giờ
thăm lớp đều được xếp loại từ khá trở lên. Hồ sơ Tốt có 40/47 bộ chiếm tỷ lệ
85.1%, số còn lại đạt loại khá. Có 14 giáo viên được thanh tra toàn diện, kết
quả: Xếp loại Xuất sắc đạt 13 đ/c, chiếm tỷ lệ 92.85%, Xếp loại Khá: 01 đ/c,
chiếm tỷ lệ 7.14%). Trong đó 01 CBQL chuyên môn Ngữ văn và 01 giáo viên
Ngữ văn có SKKN đạt giải B cấp huyện, có 100% giáo viên Ngữ văn đạt giáo
viên dạy giỏi cấp trường, 100% giáo viên Ngữ văn đạt Hồ sơ tốt cấp trường và
thực hiện tốt quy chế chuyên môn, là tổ chuyên môn xuất sắc của đơn vị.
Về phía học sinh có 13 học sinh đạt học sinh giỏi khối 9 các môn văn
hóa cấp huyện, có 02 em đạt học sinh giỏi khối 9 các môn văn hóa cấp tỉnh, có
27 em đạt học sinh giỏi thể dục thể thao cấp huyện, có 02 em đạt học sinh giỏi
Olympic Tiếng Anh cấp huyện, có 01 em đạt học sinh giỏi Olympic Tiếng Anh
cấp tỉnh, có 01 em đạt học sinh giỏi Olympic Toán cấp tỉnh, có 01 em đạt giải
nhất cuộc thi “Em yêu Lịch Sử Việt Nam” cấp huyện, có 01 em đạt giải nhì
cuộc thi “Vận dụng kiến thức liên môn...” cấp tỉnh. Đội tuyển học sinh dự thi
"Tiếng hát tuổi thơ cấp huyện 2015" đạt giải A. Đội tuyển học sinh dự thi "Giai
điệu tuổi hồng cấp huyện 2015" đạt giải A... Những thành tích này đều có sự
chung tay góp sức của đội ngũ giáo viên Ngữ văn của đơn vị.
+ Năm học 2015-2016 nhà trường tổ chức thành công các cuộc thi cấp
trường, thành lập đội tuyển và hoàn chỉnh các sản phẩm dự thi cấp huyện, kết
quả:
Về phía giáo viên: Đạt 01 giải khuyến khích cuộc thi Giáo án điện tử cấp
huyện. Có 03/03 sản phẩm dự thi cấp huyện, kỳ thi “vận dụng kiến thức liên
môn...” cả 03 giáo án đều đạt giải, trong đó có 01 giải nhất, 01 giải nhì, 01 giải
khuyến khích và cả 03 hồ sơ đều được dự thi cấp tỉnh. 03 kỳ thủ của đơn vị dự
thi giải Cờ tướng CBVC ngành giáo dục 2016, đã vô địch ở cả nội dung tập thể
và cá nhân.
Về phía học sinh: đạt 01 giải ba cấp huyện, được dự thi cấp tỉnh kỳ thi
“vận dụng kiến thức liên môn”. Dự thi học sinh giỏi Olympic Tiếng Anh đạt 07
em cấp huyện, 01 em cấp tỉnh). Đạt 06 em học sinh giỏi các môn văn hóa cấp
huyện (04 em bồi dưỡng thi tỉnh). Tham dự Hội khỏe phù đổng EaH’Leo năm
2016 đạt giải nhất toàn đoàn cấp huyện với 50 huy chương các loại và đạt 7 huy
chương cấp tỉnh.
Riêng đối với hoạt động sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài
học, trong học kỳ II năm học 2014-2015 nhà trường đã triển khai thực hiện
được 01 bài/nhóm, tổ bộ môn. Trong năm học 2015-2016 nhà trường đã triển
khai thực hiện tương đối đồng bộ, với số lượng 01 bài/giáo viên dạy minh họa ở
từng tổ chuyên môn.
*Hạn chế
Đại đa số, giáo viên nói chung, giáo viên Ngữ văn nói riêng vẫn chưa
phát huy tối đa mọi nguồn lực một cách thường xuyên liên tục. Sự đầu tư hết
mực nhiều khi chỉ được phát huy tối đa ở từng hoàn cảnh, từng điều kiện, nhất
là các cuộc thi, những tiết dạy được dự giờ thăm lớp, những chuyên đề chuyên
9
môn. Chắc chắn chất lượng của các tiết dạy thường nhật so với các tiết dạy này
còn là một khoảng cách xa xôi.
Thường thì hoạt động rút kinh nghiệm giờ dạy cần được thực hiện ngay
sau khi giờ dạy kết thúc để đảm bảo tính thời sự và không làm ảnh hưởng đến
các hoạt động tiếp theo. Cũng theo đó, chủ yếu hoạt động này được diễn ra kiểu
tranh thủ như tranh thủ giờ giải lao, tranh thủ đầu buổi, cuối buổi học, buổi họp.
“Sự tranh thủ” đầu buổi và giờ giải lao dẫn đến việc vội vàng. “Sự tranh thủ”
cuổi buổi, cuối ngày làm việc thì “tội nghiệp” vì nhiều khi “cuộc hội ý” sôi nổi
được kết thúc khi đã tối mịt và các thầy cô còn phải vượt đoạn đường trên
10km để về nhà. Cùng với thói quen sao nhãng trong ghi chép thì đây là những
tác động dẫn đến việc tích lũy thông tin bằng văn bản bị hạn chế. Mặc dù thực
tế sinh hoạt rút kinh nghiệm diễn ra rất sôi nổi, rất chất lượng và người dự họp
khi đó đã “rất thấm nhuần”, đã ghi nhớ sâu sắc nội dung thông tin buổi làm việc
nhưng thói quen chủ quan trong ghi nhớ bằng não bộ, ít ghi chép hoặc ghi chép
sơ sài khiến thông tin bị mai một theo thời gian, ý nghĩa đúc rút kinh nghiệm bị
hạn chế, lưu thông tin vào hồ sơ không đầy đủ, thậm chí là sơ sài.
Về phía học sinh: Mặc dù tỷ lệ học sinh khá giỏi của đơn vị tương đối
cao, tỷ lệ giao động hàng năm đạt từ 50-60% nhưng số học sinh thực sự yêu
mến, say mê học môn Ngữ văn rất ít ỏi. Đáng chú ý là một số ít em còn lúng
túng khi làm bài tập làm văn, hành văn khó khăn. Nhiều em kỹ năng trình bày
còn hạn chế, kỹ năng tự bộc lộ càng hạn chế hơn. Hoạt động nhóm tổ thực sự
giúp học sinh khá giỏi phát huy và thể hiện năng lực bản thân. Ngược lại, số
học sinh yếu kém, học sinh người dân tộc thiểu số còn thụ động, còn ỷ lại, chưa
hoàn thành trách nhiệm cá nhân... Đó cũng là rào cản không nhỏ ảnh hưởng khả
năng hòa nhập, khả năng sẻ chia của các em khi bước chân ra ngoài cuộc sống
và cũng phản ánh chân thực một phần sản phẩm của hoạt động dạy-học môn
Ngữ văn trong nhà trường.
II.2.3. Mặt mạnh – mặt yếu:
* Mặt mạnh
Lực lượng giáo viên Ngữ văn luôn là lực lượng chiếm ưu thế về mặt số
lượng trong nhà trường. Đặc biệt, số giáo viên Ngữ văn trong trường học có
trình độ trên chuẩn luôn chiếm tỷ lệ cao, được đào tạo từ nhiều trường sư phạm
khác nhau của đất nước (08 giáo viên Ngữ văn của đơn vị được đào tạo từ 08
trường Đại học khác nhau). Đây là điều kiện quan trọng phục vụ việc giáo viên
giao lưu, cọ sát về chuyên môn, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy lẫn
nhau trong tổ chuyên môn.
Giáo viên Ngữ văn của đơn vị là những người có trách nhiệm cao trong
soạn giảng. Họ chăm chỉ trong tìm tòi, khám phá, đầu tư cho tiết dạy. Từ việc
ứng dụng công nghệ hiện đại đến việc sử dụng các trang thiết bị dạy học hoặc
các phương pháp dạy học truyền thống đều được giáo viên coi trọng. Đồng
thời, luôn có thói quen tích cực trong giáo dục đạo đức học sinh, uốn nắn học
sinh, đầu tư cao cho lớp chủ nhiệm, gắn bó với trường lớp, có tinh thần cầu tiến
rõ rệt.
10
Giáo viên Ngữ văn thường có nhiều năng khiếu, có “tài lẻ”, có vốn từ
ngữ dồi dào, có khả năng diễn đạt phong phú. Do đó, ngoài hoạt động giảng
dạy, người giáo viên Ngữ văn có thể phát huy bản thân ở nhiều lĩnh vực khác,
cũng có thể tham gia vào nhiều tổ chức chính trị - xã hội, các hoạt động văn học
nghệ thuật… trải nghiệm nhiều, tích lũy được nhiều vốn sống và kinh nghiệm
để vận dụng vào công tác, vào tích hợp giáo dục học sinh trong dạy – học.
Những "thế mạnh" ấy khiến người giáo viên Ngữ văn thuận lợi và tự tin
trong giao tiếp nói chung, trong giáo dục, cảm hóa học sinh nói riêng, nhất là
với học sinh cá biệt.
Riêng với Hoạt động Sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài
học, tổ chuyên môn Ngữ văn luôn cán đích trước các tổ chuyên môn khác so
với kế hoạch hoạt động đã đề ra, tạo được không khí thi đua sôi nổi trong nội
bộ tổ chuyên môn.
* Mặt yếu
Tổ chức thực hiện chưa thực sự mạnh mẽ. Chưa phát huy được tối đa sức
mạnh trí lực tập thể một cách chủ động trên tinh thần tự nguyện tự giác của giáo
viên. Nhiều khi nhiệm vụ được thực hiện còn mang tính giao khoán như giao
đầu việc, giao nhóm phụ trách, giao dạy minh họa lần lượt.
Ngại thay đổi là rào cản không nhỏ, khi giáo viên nghĩ: Cách đã làm là
tốt rồi-làm theo cách cũ cho tốt đã chuẩn rồi, bày vẽ làm gì-như cách làm cũ
học trò vẫn giỏi đấy thôi, đứa thành đạt này, đứa nên nghiệp nọ... Những ý nghĩ
ấy đã ngăn cản, thậm chí là chặn đứng con đường nghiên cứu cho những sáng
tạo mới mẻ ra đời.
Trong giáo viên còn tồn tại tư tưởng ỉ lại. Lẽ ra, khi đã thống nhất lựa
chọn một đơn vị bài học nào đó để nghiên cứu thì mọi thành viên trong tổ
(nhóm) bộ môn phải chủ động tự giác chuẩn bị trước ở nhà phương án tổ chức
thực hiện bài học, chuẩn bị trước ý kiến đóng góp, đề xuất áp dụng đối với từng
đối tượng hoặc từng kiểu đối tượng học sinh như cải tiến nội dung gì, sử dụng
phương pháp nào, chuẩn bị trang thiết bị đồ dùng dạy học ra sao, người học
được đáp ứng những gì ở từng nội dung như thế nào… Tuy nhiên, về cơ bản thì
giáo viên còn tư tưởng trông chờ và ỷ lại, với suy nghĩ: chắc là mọi người
chuẩn bị rồi- A dạy thì A chuẩn bị kỹ rồi- mình chỉ phụ họa thêm thôi mà…
Cùng với tư tưởng ỷ lại là một chút tự cao. Vì sao, vì đó đây trong tâm
tưởng giáo viên của chúng ta còn tồn tại suy nghĩ điều đồng nghiệp nói cũng là
điều mình đã biết-cũng thế thôi, chẳng hơn gì cả.
II.2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Thực tế cho thấy có nhiều nguyên nhân và nhiều yếu tố tác động, chi
phối kết quả hoạt động chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học. Tuy nhiên,
xem xét tổng quan thì có thể kể đến một số những nguyên nhân và tác động căn
bản như sau:
Đối với các cấp quản lý: Thực hiện nhiệm vụ công tác của mỗi năm học,
các cấp quản lý phải cùng một lúc đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nhau, đóng
vai nhiều vai trò khác nhau, trong đó có những công việc mang tính cấp bách,
trọng tính thời điểm. Riêng chuyên môn bậc học THCS cũng phải triển khai áp
11
dụng nhiều nội dung, nhiều mới mẻ, do vậy, mỗi cán bộ quản lý được chi phối
bởi nhiều mảng, nhiều việc, không đủ khả năng quán xuyến, giám sát, điều
chỉnh một cách chặt chẽ đến từng ngóc ngách của vấn đề, do đó, chất lượng
việc sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học chủ yếu phụ thuộc
vào chất lượng hoạt động của các tổ chuyên môn.
Đối với giáo viên: Vốn dĩ giáo viên đã ngại đổi mới, ngại sáng tạo vì sẽ
phải đầu tư rất nhiều thời gian, nhiều công sức, lại còn chưa được chuẩn bị kỹ
lưỡng, chưa được tập huấn căn bản, chủ yếu tự nghiên cứu tài liệu, dưới hình
thức vừa học vừa làm trước nhiều bỡ ngỡ và bộn bề công việc. Số giáo viên trẻ
thì chưa mạnh dạn trong đề xuất, trao đổi và thảo luận, có 02 giáo viên dạy hợp
đồng ngắn hạn, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều... Số giáo viên lớn tuổi vốn
dĩ đã quen với nếp cũ, cách làm cũ đến mức trở thành kỹ năng, kỹ xảo, nên họ
rất ngại “thay cũ đổi mới”, ngại “thêm thêm thắt thắt” phương pháp này nọ,
ngại phải lao tâm khổ tứ “mò mò mẫm mẫm” trên máy vi tính để đáp ứng cái
mới. Và thực tế là họ vẫn dạy học rất hiệu quả bằng những phương pháp đang
áp dụng.
Đối với học sinh: người dân xã EaNam chủ yếu sinh nhai bằng nghề làm
rẫy (canh tác cây cà phê). Do đó, song song với việc học, đại đa số học sinh của
đơn vị phải phụ giúp gia đình làm nương rẫy. Cá biệt, có những học sinh là
nhân lực lao động chính của gia đình, các em chưa có điều kiện tốt nhất để đi
học. Cá biệt, một số em còn để bản thân bị chi phối bởi những trò tiêu khiển vô
bổ, chưa giành nhiều thời gian cho việc học.
Đối với điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học, tài liệu
nghiên cứu của nhà trường: còn thiếu thốn, mới chỉ đáp ứng được những nhu
cầu tối thiểu, chưa đáp ứng cao yêu cầu nhiệm vụ, chưa tạo được điều kiện dạyhọc tốt nhất cho giáo viên- học sinh.
Mặt trái của cơ chế thị trường, mặt trái của công nghệ thông tin, những
phức tạp của xã hội, hoàn cảnh gia đình, điều kiện sống-sinh hoạt của giáo viên,
tâm lý lứa tuổi học trò THCS và tình hình học sinh... cũng tác động phần nào
đến quá trình và kết quả bồi dưỡng chuyên môn giáo viên.
II.2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra
Đề tài xin được phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động Bồi dưỡng
chuyên môn giáo viên Ngữ văn của đơn vị thông qua hoạt động Sinh hoạt
chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học năm học 2015-2016 như sau:
*Thực trạng
Bắt đầu từ học kỳ II năm học 2014-2015, Trường THCS Lê Hồng Phong
đã áp dụng thực hiện nhiệm vụ đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo hướng
nghiên cứu bài học với số lượng 01 lần/tổ, nhóm bộ môn và tổ chức thực hiện
theo đúng kế hoạch.
Trong năm học 2015-2016, Trường THCS Lê Hồng Phong đã áp dụng
thực hiện nhiệm vụ đổi đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu
bài học với số lượt tổ chức bằng số lượng giáo viên/tổ, đảm bảo 01 giáo viên
được dạy minh họa 01 tiết/học kỳ 01 lần/tổ, nhóm bộ môn. Riêng bộ môn Ngữ
12
văn được áp dụng thực hiện 08 lượt/08 giáo viên Ngữ văn/học kỳ, với các đơn
vị bài học như sau:
Stt
Tên bài dạy
Tiết
Ngày dạy Lớp Giáo viên dạy
PPCT
dạy
01 Sự phát triển của từ 25
29.9.2015 9A7 Phan Ngọc Hiệp
vựng
02 Cách dẫn trực tiếp và 19
25.9.2015 9A5 Lục Minh Châu
cách dẫn gián tiếp
03 Tình thái từ
27
14.10.201 8A2 Võ Thị Vân
5
04 Ngôi kể trong văn tự sự 33
21.10.201 6A1 Bùi Thị Thúy Hằng
5
05 Nói giảm, nói tránh
40
04.11.2015 8A4 H Loan Niê Kđăm
06 Chữa lỗi dùng từ
23
07.10.201 6A5 Hà Thị Luyến Ái
5
07 Từ trái nghĩa
39
01.11.2015 7A3 Phan Thu Thảo
08 Tổng kết về từ vựng
43
26.10.201 9A1 Đinh Thị
Như
5
Hường
Biểu liệt kê ở trên cho thấy, tại học kỳ I, quý thầy cô giáo tổ Ngữ văn của
đơn vị đã chọn mảng kiến thức Tiếng Việt với sự phong phú, từ Từ ngữ, Ngữ
pháp đến Tập làm văn và phân bố rải rác tương đối đồng đều từ khối lớp 6 đến
khối lớp 9. Đây cũng là những đơn vị bài học hay, bản thân bài học luôn mang
tính thời sự, tính giáo dục ứng dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống và làm văn
cho các em. Trong học kỳ II, quý thầy cô sẽ tiếp tục “sự nghiệp” với chủ yếu là
phân môn Văn và Tập làm văn.
Đồng thời sự phân bố về mặt thời gian tổ chức thực hiện cũng phản ánh
đậm nét tính thời điểm. Phân bố mang tính tụ điểm hoặc đều khắp đều có tính
hai mặt. Tuy nhiên, đặt trong mối quan hệ hoàn cảnh-sự việc trong sự mới mẻ
thì tụ điểm thời gian tạo tính hứng thú rõ nét, tạo sự tập trung, tạo không khí
gắn bó đồng nghiệp với đồng nghiệp một cách mạnh mẽ, đủ để tiếp sức, đủ để
giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ và tạo âm hưởng của một phân kỳ công
tác.
Những đơn vị bài học của phân môn Tiếng Việt như kể trên mang dáng
dấp “khuôn viên mở” để thầy cô và học sinh thỏa sức sáng tạo. Sự rập khuôn
máy móc bị xếp qua một bên cho phong phú gần gũi các dẫn giải, các ví dụ, các
ngữ liệu được trao đổi và trình bày bởi quá trình phản ánh sinh động thực tế
cuộc sống, học tập, các mối quan hệ gia đình-trường lớp-bè bạn-xã hội cũng
như trích dẫn từ các câu văn viết, các trích dẫn từ bài tập làm văn của các em...
Có thể nói, những tiết Tiếng Việt đó là hoàn cảnh, là điều kiện thích hợp
cho các em thỏa sức hoạt động nhóm. Hoạt động tập thể được thực hiện từ
nhóm đôi, nhóm cặp-các em đối thoại đến nhóm nhỏ, các em phân vai dựng
hoạt cảnh đến các nhóm lớn thi đua lẫn nhau, như ngày hội ngôn ngữ, trau dồi
cho nhau vốn từ, sử dụng hiệu quả từ ngữ đến những cách diễn đạt ý nhị, thể
13
hiện sự tinh tế của người nói, mang tâm trạng thoải mái đến với người tiếp nhận
lời...
Đặc biệt, trên tinh thần “không né tránh” các tiết dạy của phân môn Tập
làm văn - phân môn được mệnh danh là “khô” “khó” và “khổ”. Trong quá trình
thao giảng, dự giờ thăm lớp của mình, Tổ Ngữ văn của đơn vị luôn giành thời
gian cho phân môn này. Tiết dạy Tập làm văn luôn hao tốn nhiều công sức của
người dạy. Kết quả tiết dạy phụ thuộc rất nhiều vào học trò, mà đặc thù học
sinh vùng II của đơn vị thì đó không phải “đất” để “diễn”. Cũng bởi vậy, các
tiết dự giờ Tập làm văn luôn chiếm nhiều thời gian nhất cho tất cả các khâu, từ
chọn tiết, xây dựng giáo án, rút kinh nghiệm giờ dạy.
Bài dạy minh họa được thiết kế một cách linh hoạt, sáng tạo, không rập
khuôn máy móc theo quy trình tiết dạy, các bước dạy theo sách giáo khoa hoặc
hướng dẫn trong sách giáo viên. Giáo án có thể điều chỉnh một phần mục tiêu
bài học, thay đổi ngữ liệu dạy học, điều chỉnh một chút thời lượng giờ học
(nhưng không quá 50’/tiết). Các hoạt động được thiết kế đều nhằm hướng đến
mục tiêu của bài học Nhóm thiết kế có thể lựa chọn các phương pháp, kỹ thuật
dạy học, đồ dùng dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh, đặc biệt là học
sinh yếu kém, học sinh dân tộc thiểu số.
Thông thường thì giờ dạy trên lớp của giáo viên phản ánh toàn bộ những
gì họ tích lũy, họ bồi dưỡng và luyện tập được. Tiết dạy cũng là hoàn cảnh thể
hiện tinh thần trách nhiệm của họ, tâm huyết của họ với nghề, tình cảm của họ
đối với "những đứa con thơ". Hơn hết, tiết dạy phản ảnh rõ nhất sự đầu tư của
người thầy qua nghiên cứu bài dạy-soạn giáo án-chuẩn bị đồ dùng và các điều
kiện dạy học khác. Kết quả giờ dạy là thước đo trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực sư phạm, kỹ năng xử lý tình huống thực tế, tư cách nhà giáo của người
thầy. Và, giờ dạy trên lớp quyết định cơ bản chất lượng giáo dục của học sinh
nói chung, chất lượng bộ môn của môn học nói riêng.
Khi giáo án tiết minh họa còn là sản phẩm của tập thể thì khâu dự giờ
thăm lớp giờ dạy minh họa là một mắt xích quan trọng của quy trình. Phụ trách
chuyên môn và các tổ chuyên môn chủ động kế hoạch dạy minh họa-bố trí dự
giờ thăm lớp. Vượt qua ranh giới thói quen ngồi dự ở cuối lớp. Ở những tiết dạy
minh họa, người dự linh hoạt lựa chọn chỗ ngồi phù hợp và thuận lợi, sao cho
dễ quan sát, ghi chép, ghi hình, vẽ sơ đồ học sinh để nắm bắt tốt nhất hoạt động
của học sinh, từ biểu hiện tâm lý đến thái độ, hành vi và hoạt động cụ thể.
*Ưu điểm
Về mặt số lượng: Thực hiện 100% kế hoạch, đảm bảo thực hiện được 08
lượt/học kỳ, tương ứng 01 tiết dạy minh họa/01 giáo viên.
Về mặt quy trình: Tổ chức thực hiện đúng quy trình, đúng hướng dẫn.
Hoạt động mang đậm tính khoa học, tính thực tiễn, như ánh ban mai, như
hương gió thời đại lan tỏa sức đổi mới vào hoạt động dạy học.
Về đơn vị bài học: Chọn lựa mang tính chiến lược, có sự kết hợp hài hòa
kiến thức các đơn vị bài học theo hướng xoay vòng từ 6-9, có tính “làm quen”
đối với khối 6 (01 tiết/học kỳ I), có tính “ưu tiên” đối với khối 9 (02 tiết/học kỳ
14
I). Có sự phân luồng giữa các phân môn theo học kỳ giữa Tiếng Việt-tập làm
văn/học kỳ I và văn-tập làm văn/học kỳ II).
Về nội dung, giáo viên phải giúp học sinh giải quyết được nội dung tiết
học đáp ứng mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo chuẩn kiến thức, kỹ
năng. Đảm bảo tính tối thiểu trong nhận thức và vận dụng đối với học sinh
trung bình trở xuống, đảm bảo tính phát huy đối với học sinh khá giỏi.
Giáo dục học sinh nhân cách đạo đức con người Việt Nam về những nét
đẹp của phẩm chất người Việt như kiên cường dũng cảm trong chiến đấu, cần
cù sáng tạo trong lao động sản xuất, giản dị chan hòa trong lối sống, tinh tế tao
nhã trong đối xử và mạnh mẽ năng động giữa nhịp sống hiện đại cũng là vấn đề
sống còn được giờ dạy Ngữ văn bồi dưỡng cho học sinh.
Tích hợp giáo dục học sinh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh bằng biểu hiện cụ thể thiết thực ứng với nội dung tiết dạy, việc vận
dụng kiến thức liên môn vào giải quyết vấn đề thực tế của hoạt động dạy học,
việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua tiết dạy để học sinh
không chỉ lĩnh hội được kiến thức – được trang bị tri thức khoa học của bộ môn
mà được phát triển toàn diện hơn, trở thành những người dũng cảm, biết suy
nghĩ, biết sẻ chia, biết phấn đấu và sống có trách nhiệm, biết sống có ích… nhờ
những kỹ năng sống tốt đẹp được dạy bảo khi ngồi trên ghế trường phổ thông.
Các nội dung tích hợp cũng mạnh mẽ khoáng đạt vượt ra khỏi khuôn khổ
của những lời thuyết giảng, hỏi đáp mà được người thầy thiết kế tích cực cho
học sinh thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau, nhiều “chất liệu” và “tường
nền” khác nhau dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin như hình thức tiểu
phẩm, hoạt cảnh, phân vai, sáng tác, hùng biện, ráp mô hình, tạo bản đồ tư duy,
trò chơi ô chữ, con số may mắn, tổ chức vẽ tranh, thể hiển khả năng ca hát…
Về phương pháp, 07/08 giáo viên tích cực ứng dụng công nghệ thông tin
(CNTT) vào tiết dạy (trừ 01 giáo viên đã 54 tuổi). Nhờ CNTT, giáo viên giảm
được nhiều thời gian, công sức trong mang vác đồ dùng dạy học như các tranh
ảnh bảng biểu, sơ đồ bản đồ tư duy, máy nghe... Trên màn hình chiếu, hệ thống
hình ảnh sắc nét có chọn lọc thực sự phát huy hiệu quả minh họa và khêu gợi
trong lòng người dự, người học những xúc cảm sâu xa gắn với từng nội dung
kiến thức trong các hoạt động dạy học. Cũng nhờ CNTT, những âm thanh réo
rắt trầm bổng làm hệ thống hình ảnh thăng hoa. Những đoạn video clip, những
thước phim ngắn mang tính minh họa trong bài dạy thực sự phát huy được sức
mạnh của nó trong tái hiện, trong phản ánh và minh họa, làm nhịp cầu nối giữa
ngòi bút của tác giả đặt trên nền thời cuộc với cảm hiểu của người tiếp nhận.
Quý thầy cô rất thành công trong sử dụng hiệu quả CNTT có thể kể đến như
thầy Phan Ngọc Hiệp, cô Đinh Thị Như Hường, cô Võ Thị Vân.
Các phương pháp dạy - học truyền thống và các phương pháp dạy học
hiện đại được giáo viên kết hợp hài hòa. Từ đọc - phân tích - giảng bình - thuyết
trình - vấn đáp - đàm thoại - hoạt động nhóm - sử dụng phiếu học tập - sử dụng
bảng biểu - sơ đồ tư duy - dựng hoạt cảnh... Mỗi phương pháp dạy học có một
ưu thế riêng, giúp giáo viên lựa chọn và vận dụng sử dụng linh hoạt phục vụ
từng nội dung trong các hoạt động dạy - học. Sự kết hợp này giúp người dạy lẫn
15
người học được phát huy, tiết học trở nên sôi nổi - hào hứng mà nhẹ nhàng
thoải mái chiếm lĩnh nội dung bài học. Khi dự giờ, giáo viên đã bắt đầu lựa
chọn cho mình những vị trí mới, giáo viên có thể đứng, có thể ngồi, không nhất
thiết ở cuối lớp, mà có thể ở bên trên, bên hông phòng hoặc bên cạnh các nhóm
ngồi học, sao cho hài hòa và dễ quan sát hoạt động học. Giáo viên hình thành
thói quen ghi âm, quay phim, ghi hình giờ học... tất cả đều diễn ra hết sức tự
nhiên, không ảnh hưởng người dạy và người học.
Hoạt động của học sinh: Với sản phẩm của hoạt động chuyên môn theo
hướng nghiên cứu bài học (các giờ dạy minh họa) thì học sinh đích thực là
trung tâm. Các cách thức khai thác, cách thức biểu hiện, thể hiện đều được thiết
kế nhằm giúp học sinh tự khám phá để chiếm lĩnh. Từ hoạt động Ổn định tổ
chức, kiểm tra bài cũ, kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh, dẫn vào bài mới, từ
tìm hiểu khái quát đến khai thác chi tiết nội dung, vận dụng làm bài tập, từ các
ngữ liệu và bài tập trong sách giáo khoa đến việc dẫn thêm ngữ liệu, thêm bài
tập, thêm tình huống… Ở cả phần củng cố bài, học sinh cũng được phát huy tối
đa dưới dạng trình bày bản đồ tư duy ghi nhớ nội dung cốt lõi bài học hoặc trả
lời các câu hỏi trắc nghiệm hoặc giải mã các trò chơi ô chữ, người thầy chỉ giúp
đỡ khi thực sự cần. Học sinh không hề bị chi phối, không hề tỏ ra e dè xấu hổ
khi giáo viên quay phim chụp hình làm tư liệu. Đó cũng là ưu điểm, là thành
công trên bước đường giáo dục kỹ năng sống cho các em, khiến các em thêm
mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
Về khâu rút kinh nghiệm giờ dạy:
Ưu điểm: Đã trở thành nề nếp đối với mọi tiết dạy có dự giờ thăm lớp,
mọi tiết dạy như vậy ở THCS Lê Hồng Phong đều được hội ý rút kinh nghiệm
giờ dạy. Rút kinh nghiệm giờ dạy là nề nếp sinh hoạt chuyên môn, không chỉ
họp mặt số giáo viên dự giờ và giáo viên dạy mà rất nhiều khi còn thu hút được
sự tham gia của số giáo viên không tham gia dự giờ, phần là để ủng hộ tinh thần
cho đồng nghiệp và phần lớn là tham gia để học hỏi. Trong quá trình rút kinh
nghiệm giờ dạy, cả người dạy và người dự đều hợp tác trên tinh thần cởi mở,
thẳng thắn cùng trao đổi, cùng luận bàn, cùng phân tích, cùng nghiên cứu và rút
kinh nghiệm. Nhờ sự hợp tác này, giáo viên được học hỏi lẫn nhau, chia sẻ lẫn
nhau, tiếp cho nhau thêm kinh nghiệm, thêm niềm tin, mang cho nhau sức
mạnh tinh thần cũng hỗ trợ nhau thực hiện tốt hơn nhiệm vụ dạy học của mình.
Đặc biệt là, đối với giờ dạy minh họa cho hoạt động chuyên môn theo
hướng nghiên cứu bài học, người chủ trì (phụ trách chuyên môn hoặc tổ trưởng
chuyên môn) thường hướng mọi người quan tâm xem xét hoạt động của học
sinh. Gắn liền với ghi nhận những cách thức tổ chức cho học sinh đạt hiệu quả
cao là trao đổi, đề xuất những cách thức cải thiện đối với những hoạt động chưa
phù hợp hoặc chưa hiệu quả, chưa đồng bộ.
Nguyên nhân ưu điểm:
- Nhà trường được Phòng Giáo dục tin tưởng, trưng tập 01 giáo viên là
Tổ trưởng chuyên môn của đơn vị tham gia tập huấn đổi mới “sinh hoạt chuyên
môn theo hướng nghiên cứu bài học” tại Cà Mau do Bộ Giáo dục tổ chức vào
tháng 3 năm 2014 (năm học 2013-2014), đó cũng là hạt nhân nắm bắt được cơ
16
bản nội dung và thần thái của phương pháp đổi mới này. Thêm nữa, tháng 10
năm 2014 (năm học 2014-2015) Phòng Giáo dục- Đào tạo EaH’Leo đã tổ chức
tập huấn nội dung công tác này tới tổ trưởng chuyên môn cùng Phụ trách
Chuyên môn của tất cả các trường THCS trong địa bàn huyện. Trong đợt tập
huấn đó, 100% Trường THCS Lê Hồng Phong tham gia tập huấn đầy đủ, đúng
thành phần. Tại buổi tập huấn, mỗi trường được ngành trang bị 01 cuốn tài liệu
giới thiệu về các phương pháp đổi mới... trong đó có “sinh hoạt chuyên môn
theo hướng nghiên cứu bài học”.
- Trong năm học 2014-2015, vào ngày 24 tháng 12 năm 2014, lần kiểm
tra chuyên môn của ngành, chuyên viên THCS đã nhắc nhở đơn vị thực hiện
nội dung công tác “sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học”.
Nhà trường nghiêm túc thực hiện chỉ đạo chuyên môn của nghành, tổ
chức đổi mới “sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học” tại đơn vị
như sau:
+ Bước 1: pho to tài liệu tới các tổ chuyên môn của đơn vị, để các tổ
chuyên môn nghiên cứu.
+ Bước 2: Bộ phận phụ trách chuyên môn trực tiếp mời họp và làm việc
với các tổ trưởng, tổ phó tổ chuyên môn, cùng trao đổi, cùng nghiên cứu tài
liệu, cùng phân tích, cùng lường trước những thuận lợi, khó khăn của phương
pháp này khi áp dụng thực hiện, biện pháp khắc phục và xây dựng kế hoạch
nhiệm vụ cần thực hiện (dự kiến).
+ Bước 3: Tổ chức tập huấn nội dung đổi mới “sinh hoạt chuyên môn
theo hướng nghiên cứu bài học” đại trà đến toàn thể giáo viên của đơn vị. Trong
buổi tập huấn, cán bộ giáo viên của đơn vị cùng trao đổi, thảo luận, nắm bắt vị
trí, tầm quan trọng cũng như nội dung, ý nghĩa, cách thức thực hiện.
+ Bước 4: Giao nhiệm vụ. Buổi tập huấn kết thúc, Bộ phận Chuyên môn
trực tiếp giao nhiệm vụ đến các tổ chuyên môn thực hiện ít nhất 01 cuộc/tổ bộ
môn/HKII năm học 2014-2015 nội dung “sinh hoạt chuyên môn theo hướng
nghiên cứu bài học”.
+ Bước 5: Các nhóm, tổ chuyên môn tổ chức thực hiện, dưới sự tham gia,
giám sát của Bộ phận Phụ trách chuyên môn, có tổ chức rút kinh nghiệm hoạt
động.
- Trong năm học 2015-2016 bộ phận chuyên môn đã chỉ đạo các tổ
chuyên môn xây dựng cụ thể kế hoạch, nhiệm vụ thực hiện đổi mới sinh hoạt
chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học vào kế hoạch công tác tổ chuyên
môn năm học 2015-2016 với số lượt tổ chức bằng số lượng giáo viên/tổ, đảm
bảo 01 giáo viên được dạy minh hoa 01 tiết/học kỳ, theo quy trình:
+ Thống nhất bài chọn (trong lần SHCM trước)
+ Mỗi giáo viên chủ động tự nghiên cứu trước bài học ở nhà
+ Họp Tổ chuyên môn, thảo luận, thống nhất hoàn chỉnh bài soạn
+ Giáo viên trong tổ kết hợp chuẩn bị các điều kiện phục vụ dạy học
+ Tổ chức dạy minh họa, giáo viên trong tổ cùng đi dự
+ Tổ chức rút kinh nghiệm giờ dạy, thống nhất chọn bài nghiên cứu phục
vụ lần sinh hoạt tiếp theo.
17
- Phụ trách chuyên môn có chuyên môn Ngữ văn, từng được khẳng định
tay nghề ở các cấp, có sức ảnh hưởng và có khả năng thuyết phục cao đối với
các hoạt động của bộ môn Ngữ văn, thường kề vai song hành với các hoạt động
chuyên môn của tổ Ngữ văn.
- Tổ trưởng chuyên môn Ngữ văn của đơn vị có trình độ và năng lực
chuyên môn vững vàng, từng đạt giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, tâm huyết với
nghề, nhiệt tình với hoạt động tổ, tích cực trong xây dựng kế hoạch hoạt động
và tổ chức thực hiện, xứng đáng là tấm gương, là niềm tin cậy của BGH và anh
chị em trong tổ.
- 100% giáo viên Ngữ văn của đơn vị có trình độ Đại học. Nhiệt tình và
nghiêm túc trong soạn giảng từ khâu chuẩn bị đến khâu thực hành tiết dạy, có
tinh thần nghiên cứu và áp dụng các loại tài liệu, văn bản hướng dẫn vào bài
soạn; có khả năng vận dụng các vấn đề được tập huấn, được bồi dưỡng về
chuyên môn vào giảng dạy, có tinh thần tương ái và có ý thức liên hệ, kết nối
nội dung bài dạy với những vấn đề thực tế, những bức thiết của xã hội, của địa
phương.
- Nhà trường đáp ứng cơ bản các điều kiện, phương tiện dạy học hiện đại
cho giáo viên, tỷ lệ học sinh khá-giỏi tương đối cao, có tinh thần hợp tác cao
với giáo viên trong dạy-học từ khâu chuẩn bị bài, chuẩn bị đồ dùng học tập đến
tham gia các hoạt động của người học trên lớp, đó cũng là tác nhân giúp các giờ
dạy của giáo viên được thành công.
- Dù nhiều học sinh không thích học văn nhưng cũng không ít học sinh
ham hiểu biết, muốn học tốt bộ môn này hoặc ý thức được tầm quan trọng của
môn học nên cũng có biểu hiện rõ ràng về trách nhiệm đối với môn học. Cũng
không ít học sinh thực sự đam mê, thích thú môn học, có tâm hồn rộng mở với
văn chương, có khao khát khám phá và tích lũy vốn từ ngữ phong phú để sử
dụng... đó cũng là nguyên nhân mang tính ưu điểm, kích thích sự sáng tạo, sự
cống hiến của giáo viên.
* Nhược điểm
- Đối với tổ chuyên môn:
+ Đôi khi tổ chức sinh hoạt tổ chưa chặt chẽ. Chưa huy động và tập hợp
được tối đa trí tuệ tập thể khi xây dựng giáo án, còn tồn tại kiểu giao khoán đầu
việc đến giáo viên.
+ Chưa mạnh dạn trong bố trí giáo viên dạy chéo tiết minh họa mà
thường phân công giáo viên dạy khối lớp nào thì dạy minh họa ở khối lớp đó.
+ Chưa linh hoạt trong bố trí tiết dạy minh họa, còn tình trạng chồng
chéo lịch dạy học, dẫn đến việc một số giáo viên không có điều kiện tham gia
dự giờ minh họa một cách đầy đủ.
+ Tổ chức ghi chép biên bản rút kinh nghiệm giờ dạy minh họa còn qua
loa, lưu trữ thông tin các lượt “sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu
bài học” còn sơ sài, chưa thể hiện được đầy đủ diễn biến và kết quả hoạt động.
Việc tích hợp lưu trữ thông tin qua kênh chữ và kênh hình còn rời rạc, thiếu gắn
kết.
- Đối với giáo viên:
18
+ Giáo viên trong tổ chuyên môn: Còn tồn tại tư tưởng ỉ lại theo kiểu
việc nhận khoán, chưa đầu tư chuẩn bị sâu tư liệu phục vụ buổi sinh hoạt
chuyên môn để hoàn thiện giáo án nếu đó không phải là tiết được phân công
dạy minh họa. Chưa quyết đoán khi tham gia xây dựng giáo án.
+ Giáo viên dạy minh họa: Sức bật sáng tạo còn hạn chế (thể hiện và
khẳng định chưa đáng kể sức sáng tạo của bản thân, chưa mạnh dạn đề xuất thử
nghiệm các phương pháp mới). Mặc dù đồng nghiệp dự các tiết dạy không để
chấm điểm thi đua song người dạy còn phổ biến lựa chọn phương án an toàn,
sợ cháy, sợ bể, sợ sự mới mẻ sẽ lạ lẫm với học sinh, sợ học sinh không làm
được, sợ bị đánh giá thấp...
+Ghi chép biên bản các cuộc làm việc chưa kịp thời, chưa phản ánh đầy
đủ nội dung, kết quả của hoạt động. Chưa kết hợp được thông tin của kênh hình
(ảnh chụp, clip minh chứng hoạt động) với thông tin của kênh chữ.
- Đối với nội dung kiến thức/ từng đơn vị bài học: Thường chỉ đáp ứng
tối thiểu theo mục tiêu đã xây dựng, chưa đào sâu, chưa nâng cao, chưa mở
rộng được nhiều kiến thức. Tuy nhiên, tính kỹ năng vận dụng kiến thức của học
sinh lại được nâng cao.
- Đối với học sinh: Hoạt động giữa các nhóm đối tượng học sinh chưa
đồng đều. Học sinh khá giỏi chiếm ưu thế lớn và tạo thành linh hồn của hoạt
động. Hoạt động của nhóm đối tượng này lấn lướt các nhóm đối tượng còn lại.
Các em hoạt động nhanh, sâu về nội dung và sáng tạo trong trình bày. Ngược
lại học sinh yếu kém, kể cả học sinh trung bình tỏ rõ khó khăn. Nếu phân nhóm
theo lực học thì nhóm yếu kém luôn không hoàn thành nhiệm vụ trong quỹ thời
gian quy định. Nhịp học luôn chùng xuống, luôn lắng lại vì đợi chờ nhóm đối
tượng này hoàn thành sản phẩm. Giáo viên cũng mất nhiều thời gian giúp đỡ
các em, quỹ thời gian này làm chậm tiến độ hoặc khiến giờ học không còn điều
kiện để đào sâu, để sâu chuỗi để mở rộng kiến thức từ tích hợp ngang đến tích
hợp dọc.
*Nguyên nhân nhược điểm
- Đổi mới phương pháp dạy học mới đáp ứng được xu thế phát triển tất
yếu của xã hội. “Sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học” tiêu
tốn rất nhiều thời gian, nhiều công sức, nhiều bước và cũng “tốn kém”. Hơn thế
nữa đòi hỏi người dạy phải vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp, nhiều biện
pháp, nhiều kỹ năng khác nhau trong khi đó đại đa số giáo viên còn quen theo
“cách cũ”, còn cảm thấy lạ lẫm, còn mới mẻ, “làm chưa quen” khiến giáo viên
không khỏi thấy mệt mỏi và sự mệt mỏi cho một “cái mới” khi “cái cũ” vẫn
“sài tốt” thì liệu có bao người quyết tâm vượt qua hoặc đủ sức vượt qua suốt
chặng đường dài?
- Cũng như những “đổi mới” khác, cán bộ giáo viên chủ chốt được tham
gia tập huấn, số còn lại được nhà trường tập huấn lại. Buổi tập huấn ngắn ngủi
chủ yếu là tiếp cận với lý thuyết của hoạt động và được quan sát một số hình
ảnh minh họa, rằng: các nước tiên tiến họ làm như thế đấy. Sự quan sát khiến
người ta ngao ngán buồn tủi vì điều kiện dạy học của họ và điều kiện dạy học
của mình là khoảng cách quá xa xôi. Sau buổi tập huấn ngắn ngủi, giữa bề bộn
19
bao nhiệm vụ năm học, hoạt động này được nhà trường triển khai. Ai cũng như
ai, từ cán bộ quản lý đến giáo viên đều hết sức bỡ ngỡ, cứ vừa học vừa làm, vừa
bày vẽ vừa giúp đỡ lẫn nhau vừa rút kinh nghiệm. Song việc này ở thời điểm
này lại cấp tập với nhiệm vụ khác, sự mới mẻ khác ở thời điểm tiếp theo.
+Tổ chức ghi chép biên bản rút kinh nghiệm giờ dạy minh họa còn qua
loa, lưu trữ thông tin các lượt “sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu
bài học” còn sơ sài, chưa thể được đầy đủ diễn biến và kết quả hoạt động.
+Giáo viên được phân công ghi hình tiết dạy chưa phối hợp nhịp nhàng
với thư ký ghi chép biên bản. Chưa kịp thời tích hợp thông tin lưu trữ ở kênh
hình với kênh chữ, khả năng lưu kênh tiếng còn hạn chế... nói chung, năng lực
ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, sự kết hợp chưa kịp thời, chưa đầy
đủ, thậm chí, còn để thất lạc thông tin, khiến “hồ sơ lưu trữ” của hoạt động
chuyên môn này chưa tương xứng với thực tế hoạt động.
- Học sinh nói chung, đặc biệt là học sinh các xã nói riêng nhìn chung
còn chậm, khả năng học hành ít nhiều còn hạn chế, bản tính nhút nhát thiếu
năng động tự tin, ít dám thể hiện mình, đa số các em còn phải phụ giúp gia đình
tham gia lao động sản xuất, chưa được đầu tư thỏa đáng cho việc học. Nhóm
đối tượng học sinh yếu kém, kể cả một số em học sinh trung bình còn chậm.
Chậm trong tiếp nhận và phân tích thông tin. Chậm trong xác định yêu cầu.
Chậm trong giải mã thông tin, tập hợp thông tin và rất hạn chế trong biểu đạt
thông tin, trình bày kết quả sản phẩm.
- Điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị đồ dùng dạy học còn nghèo nàn,
thiếu thốn, điều kiện kinh phí cho các trường học còn hạn chế, không đáp ứng
được nhu cầu tham quan học tập, đi thực tế… để tạo không gian, hoàn cảnh phù
hợp với đặc trưng từng kiểu bài lên lớp.
- Lãnh đạo nhà trường chưa xây dựng được Nghị quyết chuyên đề đối
với từng hoạt động đổi mới chuyên môn để chỉ đạo, điều hành, giám sát, kiểm
tra, đôn đốc và giúp đỡ giáo viên thực hiện nhiệm vụ, nhiều khi còn giao khoán
cho các tổ chuyên môn; phụ trách chuyên môn chưa trực tiếp tham gia được
nhiều các buổi sinh hoạt của tổ để cùng thảo luận, xây dựng giáo án cho các tiết
dạy minh họa.
- Hoạt động này không chỉ mới mà còn rất khó. Sự khó khăn nhất không
đơn thuần nằm ở giáo viên mà là ở học sinh. Bản chất của vấn đề là tập trung
hướng vào hoạt động của học sinh. Cũng theo đó, đôi khi mất rất nhiều thời
gian cho một nội dung, dẫn đến việc cắt xén thời gian giành cho mở rộng, nâng
cao vấn đề.
II. 3. Giải pháp, biện pháp
II.3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Người viết xây dựng các giải pháp, biện pháp nhằm giúp các tổ chuyên
môn và giáo viên Ngữ văn của đơn vị nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn nhiệm
vụ và nghiệp vụ bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Qua nghiên cứu bài học,
giáo viên được hợp tác gắn bó đào sâu chuyên môn cùng hoàn thành sản phẩm,
hoạt động học của học trò thực sự được chú trọng. Từ đó, vận dụng kiến thức
kỹ năng đã tích lũy vào hoạt động giảng dạy, dự giờ thăm lớp. Ngày một nâng
20
cao năng lực tay nghề, góp sức chinh phục mục tiêu: không ngừng nâng cao và
bền vững hóa chất lượng dạy học nói chung, nâng cao vị thế môn Ngữ văn
trong nhà trường nói riêng giữa nhịp sống của xã hội hiện đại, để Ngữ văn làm
tươi đẹp - uyển chuyển cuộc sống này.
II.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
Bảng so sánh sự khác biệt giữa SHCM truyền thống và SHCM theo NCBH:
Nội dung so sánh SHCM truyền thống
SHCM theo NCBH
- Đánh giá, xếp loại giờ dạy. - Tìm giải pháp để nâng cao
- Tập trung vào hoạt động kết quả học tập của HS.
Mục đích
dạy của giáo viên.
- Tập trung vào hoạt động
- Thống nhất cách dạy để học của học sinh.
các giáo viên cùng thực - Mỗi giáo viên tự rút ra bài
hiện
học để áp dụng.
- Một giáo viên thiết kế và - Một nhóm GV thiết kế,
dạy minh họa
một giáo viên dạy minh họa
- Thực hiện theo đúng nội - Dựa vào trình độ của HS
Thiết kế bài dạy
dung, quy trình, các bước để lựa chọn nội dung,
thiết kế theo quy định
phương pháp, quy trình dạy
học cho phù hợp.
- Người dạy minh họa: dạy - Người dạy minh họa: điều
theo nội dung kiến thức có chỉnh các nội dung dạy học
trong sách giáo khoa; thực phù hợp; thực hiện tiến trình
hiện theo đúng nội dung, học linh hoạt, sáng tạo dựa
quy trình, các bước thiết kế trên khả năng của học sinh.
theo quy định.
- Người dự: đứng hai bên,
Dạy minh họa – - Người dự: Ngồi cuối lớp phía trước lớp học quan sát,
dự giờ
học, quan sát cử chỉ việc vẽ sơ đồ chỗ ngồi của học
làm của giáo viên, ghi chép, sinh; tập trung quan sát học
quan sát cử chỉ, việc làm sinh học thế nào; suy nghĩ,
của giáo viên; tập trung xem phát hiện khó khăn trong
xét giáo viên dạy có đúng học tập của học sinh đưa ra
các quy định không; Đối các biện pháp khắc phục.
chiếu với tiêu chí đánh giá
xếp loại giờ học.
- Dựa trên tiêu chí có sẵn, - Dựa trên kết quả học tập
đánh giá xếp loại giờ dạy
của HS để rút kinh nghiệm.
-Tập trung nhận xét phân - Tập trung phân tích việc
tích hoạt động của giáo viên học của của học sinh, đưa ra
Thảo luận về giờ - Ý kiến nhận xét, đánh giá minh chứng cụ thể.
dạy
mang tính mổ xẻ, chỉ trích, - Mọi người cùng phát hiện
chủ quan
vấn đề của HS, tìm nguyên
- Người chủ trì xếp loại giờ nhân, giải pháp khắc phục.
dạy, thống nhất cách dạy - Người chủ trì tóm tắt vấn
cho tất cả các giáo viên
đề, tìm nguyên nhân và giải
21
pháp. Mỗi giáo viên tự rút
ra bài học.
- Nhà trường: Quan tâm thỏa đáng đến nhu cầu - nhiệm vụ đổi mới
phương pháp dạy học. Đứng ở thế chủ động trong xây dựng kế hoạch, chỉ đạo
cụ thể đến các tổ chuyên môn ngay từ đầu năm học, kịp thời bổ sung, điều
chỉnh khi cần để thực hiện hiệu quả. Chặt chẽ trong duyệt kế hoạch tổ, tránh
chồng chéo kế hoạch. Có thể quy định thời gian cố định cho các buổi sinh hoạt
chuyên môn; tăng cường dự giờ các tiết dạy minh họa Sinh hoạt chuyên môn
theo hướng nghiên cứu bài học. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện thiết bị
dạy học, trợ giúp các tổ chuyên môn sinh hoạt hiệu quả. Không vội vàng trong
tổ chức, không nóng vội với kết quả thực hiện. Vì sao? Vì đây là hình thức sinh
hoạt mới. Mọi sự mới mẻ đều cần thời gian làm quen. Khi quen rồi mới vươn
dần đến chiều sâu, đến chất lượng hiệu quả.
- Các tổ chuyên môn: xây dựng và thực hiện kế hoạch sát chỉ đạo, phù
hợp tình hình cũng như yêu cầu thực tiễn. Chú trọng chọn các đơn vị bài học
mang tính đặc thù, tính mới và có độ khó/từng thời điểm. Cập nhật những chủ
trương yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp để giáo viên tiếp cận, học tập,
điều chỉnh và rút kinh nghiệm cho phù hợp với thực tế của đơn vị. Xác định
phương pháp dạy học đặc thù/từng kiểu đối tượng học sinh. Khuyến khích
những ý tưởng mới mẻ giàu sáng tạo. Bố trí nghiên cứu bài học luân phiên ở
các khối lớp, các phân môn khác nhau. Linh hoạt trong phân công dạy minh
họa, đặc biệt chú trọng hoạt động của người học trong thiết kế - thực hiện đánh giá và rút kinh nghiệm. Tạo không khí cởi mở, vui vẻ khi sinh hoạt để tập
trung được đóng góp của từng cá nhân.
- Nhóm thiết kế: Dựa theo chuẩn kiến thức kỹ năng của bài học, có thể
điều chỉnh nội dung, ngữ liệu cho phù hợp, gần gũi với đối tượng học sinh, lớp
học sinh sẽ dạy. Lưu ý tập trung vào nội dung chính, nội dung trọng tâm của
bài, có thể giảm bớt “những dài dòng” để tránh chi phối, tránh phân tán học
sinh. Những sự thay đổi là cần thiết, sao cho giờ học trở nên gần gũi, nhẹ
nhàng, tạo không khí thân thiện, thoải mái và hứng thú cho người học. Nhóm
thiết kế cũng cần linh hoạt điều chỉnh thời gian, có thể tăng thời lượng cho phù
hợp với nội dung thiết kế và khả năng nhận thức của người học. Tuy nhiên, bài
học không nên kéo dài quá 50’. Nếu bài dài và khó thì tham mưu chia bài học
thành 1,5 tiết hoặc 2 tiết tại phân phối chương trình xây dựng từ đầu năm học.
Chú ý tích hợp kiến thức và hình thành kiến thức mới trên nền kiến thức cũ để
học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, nhớ lâu và biết vận dụng kiến thức mới của bài học
vào thực hành, vào thực tế nhưng tuyệt đối không thiết kế để “dạy lại” kiến
thức đã dạy tạo nhàm chán, phân tán sự tập trung của học sinh.
- Giáo viên: đóng góp ý kiến hữu ích vào quá trình hình thành sản phẩm
của tổ (nhóm). Tuyệt đối chấp hành nhiệm vụ khi được tổ phân công. Trợ giúp
đồng nghiệp chuẩn bị các trang thiết bị đồ dùng phương tiện dạy học khi cần.
Tuyệt đối không “dạy trước”, không “dạy thử” các tiết dạy minh họa. Linh hoạt
sáng tạo trong dạy học. Mạnh dạn áp dụng những ý tưởng mới, các phương
22
pháp dạy học tích cực lấy việc học của học sinh làm trung tâm. Sử dụng các kỹ
thuật kiểm tra, đánh giá mới để rút kinh nghiệm trong sinh hoạt chuyên môn
cũng như trong vận dụng vào các giờ dạy hàng ngày. Khơi gợi người học khám
phá và chiếm lĩnh, vận dụng bài học. Quan tâm thỏa đáng đến hoạt động của
các đối tượng học sinh. Biết lắng nghe, biết cầu tiến, biết tích lũy kinh nghiệm,
vận dụng hiệu quả và trưởng thành cùng thời gian.
- Học sinh: Thực sự tham gia vào quá trình học tập theo khả năng của
mình (theo khả năng của nhóm: nhóm khá-giỏi, nhóm trung bình và nhóm yếukém). Ở đây, học sinh không chỉ tương tác theo chiều dọc giữa giáo viên với
học sinh mà còn tương tác theo chiều ngang giữa học sinh với học sinh, giữa
học sinh với tài liệu nhằm phát huy giá trị của cả công cụ vật chất lẫn công cụ
tâm lý tạo động lực học tập.
- Bài soạn: Lựa chọn các đơn vị bài học phù hợp với mục tiêu nghiên
cứu, lựa chọn lần lượt hoặc luân phiên ở các phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập
làm văn ở các khối lớp khác nhau sao cho đáp ứng tính thử nghiệm và trải
nghiệm. Cái mới. Bài soạn không nhất thiết tuân thủ máy móc đến mức lệ thuộc
vào sách giáo khoa, sách giáo viên mà có thể điều chỉnh từ mục tiêu đến nội
dung và phương pháp dạy học sao cho phù hợp với thực tế của đơn vị và đặc
điểm, năng lực của người học. Điều ràng buộc là: tất cả các hoạt động đưa ra
trong quá trình thiết kế bài học cần đảm bảo mục tiêu, hướng về mục tiêu, phục
vụ mục tiêu, tạo điều kiện, hoàn cảnh, cơ hội học tập tất nhất cho mọi học sinh,
giúp mọi đối tượng người học được tham gia, được cải thiện kết quả học tập.
- Giờ dạy (tiết dạy minh họa và tiết dạy thường nhật): người dạy lưu ý từ
bỏ dần “thói quen” “làm việc nhiều” khi cứ say sưa thuyết giảng, giới thiệu,
phân tích, giải thích các đơn vị kiến thức. Thay vào đó, tăng dần “điều kiện”,
“hoàn cảnh”, “không gian” cho học sinh tư duy. Nhẫn nại theo dõi. Nhẫn nại
quan sát. Nhẫn nại lắng nghe. Nhẫn nại trong đánh giá, trong nhận xét. Nhẫn
nại chấp nhận mọi học sinh. Không bỏ rơi “nhóm đối tượng 3”. Không bỏ rơi
học sinh yếu kém. Chỉ cần các em tiến bộ so với chính các em là đã thành công.
Cứ thế, tích tụ và nâng dần sự tiến bộ của từng nhóm đối tượng học sinh. Điều
đó sẽ đến khi người thầy quan tâm sử dụng các thiết bị dạy học thực tế cùng các
ngữ liệu xuất phát từ thực tế và khi sắp xếp chia nhóm không nên chia nhóm
lớn, mà chỉ nên chia nhóm nhỏ, để tránh tối đa các hiện tượng trông chờ, ỷ lại
trong học sinh.
- Dự giờ: chọn vị trí ngồi dự phù hợp (ở hai bên hoặc ở phía trước). Vẽ
sơ đồ ngồi học của học sinh, ghi chép theo sơ đồ những gì quan sát được về nội
dung, về thời điểm, về biểu hiện, tìm hiểu nguyên nhân về thái độ, về khả năng,
về hứng thú, về mức độ tích cực của nhóm, của cá nhân học sinh. Gia9os viên
cũng có thể ghi chép theo phiếu quan sát để đáp ứng tính tiến độ một cách ngắn
gọn để tiện đối chiếu và tổng hợp thông tin. Phiếu quan sát có thể trình bày như
sau:
Nội dung hoạt động
Biểu hiện của học sinh
Nguyên nhân, biện pháp
-Thứ tự hoạt động
- Cảm xúc, thái độ, hành - Vì sao?
-Tên, nội dung hoạt vi, trả lời câu hỏi...
- Nên làm thế nào...
23
động, nhiệm vụ, câu hỏi, - Bài tập, kết quả hoạt - Do... vậy nên, cần ...
bài tập...
động, sản phâm...
Khi dự giờ, giáo viên có thể quay phim, chụp ảnh làm tư liệu hoạt động,
làm minh chứng cho các ý kiến nhận xét của mình, tăng tính khách quan, tính
thuyết phục khi chia sẻ. Đó cúng là tư liệu cùng đồng nghiệp cùng nhìn lại,
cùng phân tích, cùng học hỏi và rút kinh nghiệm. Đồng thời, những hình ảnh,
những màu sắc và âm thanh sống động từ các video, từ các ảnh chụp cũng
khiến buổi sinh hoạt tập trung vào trọng tâm, mang lại hứng thú và hiệu quả
cho buổi sinh hoạt.
- Dù các tiết dạy minh họa không chú trọng khâu đánh giá, xếp loại giờ
dạy mà chỉ chú trọng quan tâm hoạt động của người học, quan sát hoạt động
của người học nhưng 10 nội dung trong Phiếu đánh giá xếp loại giờ dạy do Bộ
Giáo dục ban hành (tương ứng với nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ
chức, kết quả giờ dạy) vẫn là mục tiêu, là nội dung, là kết quả cần hướng đến.
Mọi tiêu chí đánh giá có giá trị ngang hàng nhau, đòi hỏi người thầy có sự kết
hợp hài hòa, đầu tư thỏa đáng để mọi tiêu chí đều được đáp ứng mức cao nhất.
- Phân tích, thảo luận và rút kinh nghiệm giờ dạy:
+ Đối với hoạt động của giáo viên: Trước hết, cần lắng nghe người dạy
trao đổi quan điểm những sáng tạo, những linh hoạt tích hợp vận dụng của cá
nhân so với giáo án của tập thể thiết kế và cho họ tự nhận xét đánh giá kết quả
giờ dạy. Sau đó người dự đưa ra các ý kiến phân tích giờ dạy, chỉ ra ưu khuyết
điểm và nguyên nhân của chúng ở hoạt động của giáo viên (công tác chuẩn bị,
nội dung kiến thức, PPDH, sử dụng Đồ dùng dạy học, phân phối thời gian...).
Là hoạt động của sự đổi mới cho nên, không tập trung vào việc đánh giá giờ
học, xếp loại giáo viên mà nhằm khuyến khích giáo viên tìm ra nguyên nhân tại
sao học sinh học chưa đạt kết quả như mong muốn và giúp giáo viên có khả
năng chủ động điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với đối
tượng học sinh của lớp, trường mình.
+ Đối với hoạt động của Học sinh: trao đổi kết quả quan sát hoạt động
của học sinh từ dấu hiệu được thể hiện ở khuôn mặt, lời nói, điệu bộ, sản phẩm
học tập (nề nếp học tập, phương pháp học tập, khả năng tiếp thu kiến thức, hình
thành kỹ năng, vận dụng kỹ năng, kết quả học tập); và quan hệ giao tiếp (quan
hệ thầy – trò, quan hệ trò – trò; việc xử lý các tình huống sư phạm của giáo
viên). Cùng đưa ý kiến và thống nhất phương pháp cải tạo chất lượng hoạt động
của đối tượng. Đặc biệt quan tâm xây dựng ý kiến cải thiện kết quả hoạt động
đối với nhóm đối tượng học sinh trung bình, yếu, kém để tất cả học sinh có cơ
hội tham gia thực sự vào quá trình học tập. Việc này rất cần sự linh hoạt, khéo
léo trong tổ chức của giáo viên:
# Linh hoạt trong phân nhóm (theo mục tiêu, theo năng lực học sinh)
# Linh hoạt trong giao nội dung nhiệm vụ (phù hợp khă năng học sinh)
# Linh hoạt trong quan sát, trong giúp đỡ (sao cho tự nhiên, gần gũi)
# Khéo léo tạo điều kiện trong trình bày sản phẩm (giúp học sinh tự tin)
#Tế nhị trong nhận xét đánh giá kết quả (không làm tổn thương học sinh)
# Khéo léo ghi nhận hoạt động (tạo không khí thân thiện, thuyết phục)
24
- Điều lưu ý là người chủ trì cần tạo ra được một không khí làm việc tự
nhiên, nhẹ nhàng. Biết nhận thấy những cố gắng, những ưu điểm, những nỗ lực,
những sáng tạo và nhất là những tiến bộ của từng cá nhân. Đảm bảo sau mỗi
cuộc sinh hoạt chuyên môn, được rút kinh nghiệm hoạt động, mỗi thành viên
thấy bản thân được ghi nhận, được quan tâm giúp đỡ và trưởng thành hơn, tiếp
cho nhau nghị lực và niềm tin để tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp trồng người.
- Người lãnh đạo gần gũi, quan tâm trợ lực tinh thần cho giáo viên: Bằng
trải nghiệm của mình trong chuyên môn, trong cuộc sống, sẻ chia về mặt tinh
thần với giáo viên thông qua cảm nhận những khó khăn trong cuộc sống, trong
công việc và gia đình. Khơi sống trong họ ý chí học tập, bồi dưỡng năng lực
chuyên môn của bản thân. Nêu cao tinh thần tự học, tự rèn, mạnh mẽ bước qua
những rào cản, những khó khăn của bản thân, dẹp bỏ tâm lý ngại khó, ngại mất
thời gian. Vững vàng bản lĩnh nghề nghiệp, sống với nghề, an vui với nghề.
Mỗi thầy cô giáo là một nguồn sáng soi cho con trẻ vui bước trước mọi ngưỡng
cửa tri thức - trí tuệ.
II.3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
- Trước hết, cán bộ-giáo viên phải nắm được các bước cơ bản:
+Bước 1: xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch và tiến hành nghiên cứu
bài học như loại bài, cách vào bài, hoạt động tình huống, phương pháp-phương
tiện dạy học, các đơn vị kiến thức, dự kiến các hoạt động dạy-học tương ứng từ
hình thức thực hiện, đến lời nói, hành động, thao tác, kiến thức sẽ tích hợp và
biện pháp khắc phục tình trạng chênh lệch giữa các đối tượng học sinh.
+Bước 2: tổ chức dạy minh họa và dự giờ. Đây là khâu quan trọng. Xác
định lớp dạy, người dạy, người dự, chỗ ngồi dự và thực hiện. Khi dự cần tập
trung quan sát việc học, không chú trọng quan sát và đánh giá việc dạy.
+Bước 3: rút kinh nghiệm giờ dạy trên tinh thần suy ngẫm và thảo luận
mang tính chia sẻ, không áp đặt, không đòi hỏi khuôn mẫu hóa. Đặc biệt thảo
luận những khó khăn của học sinh, biện pháp tháo gỡ những khó khăn này.
+ Bước 4: Áp dụng cho thực tiễn hoạt động dạy-học hàng ngày, nếu thấy
chưa hoàn thiện thì có thể tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh cho phù hợp.
- Đồng thời, mỗi cấp, mỗi người cần thực hiện đúng vai trò của mình:
+ Đối với giáo viên của đơn vị: Không ngừng tự học, tự rèn, tự tích lũy
trau dồi bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Nghiêm túc trong thực hiện quy chế
chuyên môn, đầu tư thỏa đáng cho mọi tiết soạn-giảng. Sẵn sàng đổi mới. Có
tinh thần cầu tiến, khiêm tốn học hỏi, có ý thức tập thể, có tinh thần hợp tác,
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Tích cực, sáng tạo trong vận dụng các phương
pháp dạy học tích cực có tích hợp để đạt hiệu quả cao nhất khi tham gia và thực
hiện các hoạt động dạy-học, hoạt động giáo dục. Thêm nữa, phải tin tưởng vào
học sinh, gieo niềm tin của mình vào suy nghĩ, vào nhận thức, vào trái tim tuổi
thơ, giúp các em thành công trong hành trình chiếm lĩnh tri thức, rèn rũa đạo
đức và có thái độ sống tích cực, cho cây đời mãi mãi xanh tươi.
+ Đối với các tổ chuyên môn: Chặt chẽ trong xây dựng kế hoạch hoạt
động. Kiên quyết trong triển khai-giám sát-thúc đẩy-đánh giá các hoạt động
chuyên môn. Tránh hiện tượng “đầu voi đuôi chuột”. Chú trọng sinh hoạt
25