Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Phật giáo và đời sống xã hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.76 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

----

Triết học Phật giáo và ảnh hưởng của
Phật giáo đến xã hội Việt Nam

Giáo viên hướng dẫn : TS. Phạm Huy Thành
Sinh viên thực hiện : Phan Thanh Hoàng

- Đà Nẵng, 2017 -


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ------ - --------------------------------------------------------------- Trang 02
NỘI DUNG --------------------------------------------------------------------- Trang 03
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO ----------------------------- Trang 03
I. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo ------ ------------------------------------ Trang 03
II. Những nội dung chủ yếu của triết lý nhà Phật ------------------------ Trang 03
1. Thế giới quan Phật giáo -------------------------------------------- Trang 03
2. Nhận thức luận Phật giáo ------------------------------------------ Trang 05
3. Nhân sinh quan Phật giáo -- ---------------------------------------- Trang 07
Chương 2: NHỮNG ẢNH HUỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN XÃ HỘI VIỆT NAM
----------------------------------------------------------------------------------- Trang 13
I. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam --- ------------- Trang 13
II. Ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội Việt Nam Trang ---------------- Trang 16
1. Đạo Phật với hình thành nhân cách người Việt Nam ----------- Trang 16


2. Ảnh hưởng về mặt tư tưởng và đạo lý -------------- ------------- Trang 18
3. Ảnh hưởng của Phật giáo qua phong tục, tập quán -------------- Trang 20
4. Đạo Phật với nền văn hóa Việt Nam ----------------------------- - Trang 24
5. Đạo Phật với chiến tranh và hòa bình ở Việt Nam ----------- --- Trang 25
6. Đạo Phật với vấn đề chính trị ------------------------------ -------- Trang 26
KẾT LUẬN ------------------------------------------------------------- Trang 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO ---------------------------------------------- Trang 30

HVTH: Phan Thanh Hoàng
1


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

MỞ ĐẦU
Trong các tôn giáo lớn có sức ảnh hưởng mạnh mẽ hiện nay, ngoài Thiên
chúa giáo ở các nước phương Tây, Hồi giáo tại các nước Trung Đông thì Phật giáo
có sức ảnh hưởng mạnh mẻ tại các nước phương Đông và trở thành một tôn giáo
chính thống và là quốc đạo của một số nước lớn và tầm ảnh hưởng của nó đối với
đời sống xã hội cũng rất lớn. Tại Việt Nam cũng vậy, Phật giáo đóng vai trò chủ
đạo và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong phong tục tín ngưỡng của người dân.
Vì vậy tôi chọn đề tài:“Triết học Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo
đến xã hội Việt Nam” được xây dựng nhằm tìm hiểu, nghiên cứu về Triết học Phật
giáo và những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam nhằm
mục đích định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy, lễ giáo,… của con người
Việt Nam.
Do sự hiểu biết còn hạn hẹn nên trong quá trình viết không tránh khỏi thiếu
sót, kính mong thầy giáo giúp đỡ để bài viết được hoàn thiện hơn.

HVTH: Phan Thanh Hoàng

2


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO
I. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo
Vào giữa thế kỷ thứ VI trước Công nguyên đạo Phật ra đời ở Ấn Độ và
mang tên người sáng lập là Buddha. Đạo Phật được truyền bá rộng rãi ở các quốc
gia trong khu vực Châu Á, Châu Phi, gần đây có mặt tại các nước châu Âu và châu
Mỹ. Trong quá trình truyền bá, đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng tập tục, dân
gian, văn hóa bản địa hình thành nhiều tông phái và giáo phái, đã có những ảnh
hưởng và tác động vô cùng quan trọng đối với đời sống xã hội và văn hóa của
nhiều quốc gia trên thế giới.
II. Những nội dung chủ yếu của triết lý nhà Phật
1. Thế giới quan Phật giáo
Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hưởng của hai luận điểm, thể hiện qua bốn
luận thuyết cơ bản: Thuyết Vô Thường, Thuyết Vô Ngã, Thuyết Nhân Quả và
Thuyết Nhân Duyên Khởi.
1.1. Thuyết Vô Thường
Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thường chi
phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì là
thường trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tưởng sự vật là yên tĩnh,
là bất động nhưng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến không ngừng.
Sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức:
a) Một là Sátna (Kshan) vô thường: là một sự chuyển biến rất nhanh, trong
một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một
sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dung danh từ Satna để chỉ một
khoảng thời gian hết sức ngắn.

b) Hai là: Nhất kỳ vô thường: Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô
thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi,
thường là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô
HVTH: Phan Thanh Hoàng
3


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một
trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành - Trụ - Hoại Không.
1.2. Thuyết vô ngã
Từ thuyết vô thường. Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta. Thực
ra làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không ngừng,
biến chuyển từng phút, từng giờ.
Thuyết vô ngã làm cho người ta không còn ai tin là có một linh hồn vĩnh
cửu, tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một linh hồn
dẫn dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín. Quan niệm có một linh
hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc sinh ra những tình cảm, những tư
tưởng ích kỷ, những tham dục vô bờ của những kẻ dựa vào sức mạnh phi nghĩa để
làm lợi cho mình, tức là cho cái ta mà họ coi là thường còn, bất biến. Còn đối với
những người bị hà hiếp, bị bóc lột thì sự mê tín có cái ta vĩnh cửu dẫn đến tư tưởng
tiêu cực, chán đời phó mặc cho số mệnh, hy vọng làm lại cuộc đời ở kiếp sau.
Hai thuyết vô thường, vô ngã là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật. Chấp
ngã chấp có cái ta thường còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh là đầu mối
của luân hồi sinh tử sinh ra đau khổ cho con người. Căn cứ trên hai thuyết vô
thường và vô ngã Phật đã xây dựng cho đệ tử một phương thức sống, một triết lý
sống lấy vị tha làm lý tưởng cao cả cho cuộc sống của mình, hay nói một cách
khác một cuộc sống một người vì mọi người, mọi người vì một người.
1.3. Thuyết lý nhân duyên sinh

Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy sự
vật vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành, sự
vật, vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã. Nhân là năng lực phát sinh, duyên
là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như cây lúa thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng
mặt trời, công cày bừa gieo trồng là duyên. Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa.
Tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà hành động. Nói nương nhau có nghĩa là
sự vật tác động, kết hợp, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân
duyên.
1.4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả
HVTH: Phan Thanh Hoàng
4


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

Thuyết nhân duyên quả báo gọi là thuyết nhân quả là một trong những
thuyết cơ bản của giáo lý Phật. Phật chủ trương không bao giờ tự nhiên mà có, mà
sinh ra và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng thiêng liêng nào
tạo ra sự vật. Sự vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái nguyên nhân một mình
cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả được.
2. Nhận thức luận Phật giáo.
2.1. Bản chất, đối tượng của nhận thức luận.
Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn đối
tượng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ. Vạn vật là vô
thuỷ vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự vật cuối cùng. Mọi vật đều
liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến đâu nếu không có quan hệ với
hạt bụi thì cũng không thành lập được.
Sau khi đã tìm hiểu về sự vật, hiện tượng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm trong
đạo Phật để thấy được quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.
Thông thường người ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh phật có

câu ”Nhất thiết duy tâm tạo “ . Nhưng chữ “ duy tâm “ ở đây không phải là duy
tâm trong triết học Tây Phương nên ta không thể nhận định như trên. Chữ tâm
trong đạo Phật có nghĩa là một năng lượng, nó làm bản thể cho tất cả mọi hiện
tượng tâm lý, cho mọi hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn vật. Khi ta
phân tích, chia chẻ một vật đến một phần tử nhỏ nhiệm nhất, đến phần cuối cùng
thì phần tử ấy là bản thể mà ở đây cũng có vật có chất nên đâu đâu cũng thấy có
bản thể, vì vậy tâm cũng lại là to lớn vô biên. Những tình cảm, ý thức phát sinh
phải nương vào hiện tượng sinh lý, vật lý. Nói nương nhau để phát sinh chứ không
phải các hiện tượng sinh lý, vật lý sinh ra các hiện tượng tâm lý. Hiểu như vậy thì
thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những hiện tượng sinh lý vật lý
và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh tương thành.
2.2. Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức.
Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào: Hường nội và hướng
ngoại. Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người tự chiêm
nghiệm suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức là :

HVTH: Phan Thanh Hoàng
5


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

Tiệm ngộ : là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “ trí
hữu sư”.
Đốn ngộ : là sự giác ngộ bột phát, bùng nổ có tính chất là “ trí vô sư ”.
Với hai phương pháp ấy sự nhận thức Phật giáo được chia làm hai gia đoạn:
Giai đoạn một là từ tuỳ giác đến thể nhập. Nhận thức bắt đầu từ cảm giác và
phụ thuộc vào cảm giác đưa lại. Kết quả là con người biết được cái tiếp xúc giữa
thế giới khách quan và giác quan của con người và từ sự tiếp xúc này tạo nên yếu
tố” thọ “ trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây là sự tiếp xúc của sáu căn

với sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là những khả năng nhận thức của các
giác quan. Trần là loại kích thích từ thế giới bên ngoài. Nếu kích thích tương ứng
với các căn thì con người có cảm giác. Sáu căn là : nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân, ý. Sáu
trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. “ Thọ”, cho chúng ta nhận biết được
những hiện tượng riêng lẻ, những cái bề ngoài, ngẫu nhiên. Trong một số trường
hợp khác gọi đó là kinh nghiệm. Từ những tri thức cảm tính kinh nghiệm nêu trên,
con người sẽ đi sâu để nhập vào bản thể của sự vật để biết được cái bên trong, bản
chất đó là tri thức định lý.
Giai đoạn hai sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết quả
của giai đoạn trước , con người bắt được cái tâm tính của những sự vật hữu hình tái
thế và đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con người và nâng lên để nắm được cái tâm
siêu thoát, cái tâm trung. Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp
song hai phương pháp sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
* Tam học là giới, định, tuệ.
Giới: Gồm có nhứng phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng
ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hướng về thiện.
Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư tưởng
suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.
Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu được lý vô thường, vô ngã, do đó chỉ nghĩ
đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
* Tam huệ: là văn, tu, tư.
Văn: là nghe pháp phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh
tịnh, sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.
HVTH: Phan Thanh Hoàng
6


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

Tư : là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe được, học được đi đến giác ngộ

bản lai tư tính của mình.
Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà tụ
tập gột rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một pháp
giới tính. Các phương pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp
pháp để đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với nhận
thức như thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử luân hồi sẽ
không còn nữa.
3. Nhân sinh quan Phật giáo.
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật
duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô thường, vô
ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn đề nhân
sinh quan.
3.1. Tứ diệu đế: Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài
thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ khưu
trước kia đi theo Phật. Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời
cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý Phật.
* Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a. Khổ đế: Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy
vì sao mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Nói như thế có
người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn là khổ, và đạo Phật
là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách quan, không ru
người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm cho người ta sợ
hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho chúng ta nhận thức
sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát.
Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô
thường chi phối nên khổ.
2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ
đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da,


HVTH: Phan Thanh Hoàng
7


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu
đến ấy làm cho người ta phiền não.
3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già
yếu,thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chúng sinh do nghiệp báo chịu cái
thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi chết
thì phiền não vô cùng.
Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi
như cái thân duy nhất của mình thì khi chết thì phiền não vô cùng.
5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích,
mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được
rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
6, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
7,Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức
ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng kiếp.
b. Tập đế: Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ.
Những nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta.
Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:
1. Tham lam.

6. Thân kiến

2. Giận dữ.


7. Biên kiến

3. Si mê.

8. Tà kiến

4. Kiêu mạn.

9. Kiến thử

5. Nghi ngờ.

10. Giới cấm tu

Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn
gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể
hiện trong công thức sau:
Ái dục + Vô minh  Sự khổ.

HVTH: Phan Thanh Hoàng
8


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh
yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên rong
ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.
Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không

nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô
thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn. Vô minh che
lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm, làm ta
thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta, không quan tâm
đến người sống quanh ta.
Nghiệp là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân
nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của
ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi,... thì không gây
nghiệp báo.
Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.
Nghiệp thiện : là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho mình.
Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho mình.
Như vậy, Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người
đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân
duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây
liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là:
1.Vô minh

2.Hành

3. Thức

4. Danh sắc.

5. Lục nhập

6. Xác

7.Thụ


8.Ái

9. Thù

10. Hữu

11.Sinh

12. Lão tử

Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ
nhân quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân
ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như
làn sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp
diễn. Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc
biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện
rõ từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức luận Phật giáo.
HVTH: Phan Thanh Hoàng
9


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

c. Diệt đế:
Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết không còn
luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn khởi
lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.

Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
Thường là thường còn, không biến đổi.
Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.
Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi
nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu
hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an
lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận
và si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó, con
người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để chứng
được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.
d. Đạo đế:
Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến
quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử. Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư
rất nhiều, nhưng thường được đề cao là phương pháp 37 đạo phẩm.
Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp
người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát
chính đạo gồm có:
1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
HVTH: Phan Thanh Hoàng
10


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành


5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến
chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ
xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.
7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu
biểu là các vị Phật.
8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách
chân chính, làm chủ được dòng tư duy.
3.2. Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo.
a. Con người:
Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai
yếu tố chính: yếu tố sinh lý( sắc) và yếu tố tinh thần ( thụ, tưởng, hành, thức).
Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể. Sắc
thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục,
dị, diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng siêu
nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi
nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã thì con người chết.
Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang
kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng con
người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không khác với
con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường tồn mà chỉ là
một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được
thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo
ở kiếp sau.
Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một ý
nghĩ, lời nói việc làm.
b. Nhân vị trong đạo Phật.

HVTH: Phan Thanh Hoàng

11


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái. Ở một thời đại cổ
xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan niệm hết sức tiến bộ đối với
vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói:
“ Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt
cũng mặn như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây chuyền ở
cổ hay dấu tica trên trán ( dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ ) ”.
Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình.
Phật thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt sang
hèn, giàu nghèo. Những người ở tầng lớp dưới sau khi tu đắc đạo đã được các đệ tử
khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng phải tỏ lòng kính mến.
Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật còn đi
xa hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như nhau và
đang cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải thoát.
Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thoát,
không có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị ràng
buộc bởi ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những day dứt
gây ra bởi dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao, cường quyền,
tham nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ. Từ đó, Phật chú trọng
đến giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng bằng phương pháp tu
hành diệt dục. Để sống tự do phật tử phải đấu tranh với bản thân mình để diệt trừ
dục vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất công. Người ta gọi đạo phật là
đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi. Từ là hiền hoà, cho vui. Bi là
thương xót, cứu khổ. Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho người khác, cứu khổ,
cứu nạn cho chúng sinh, quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhưng từ bi không
phải là thủ tiêu mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trước mọi sự bất

công, áp bức, tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh của từ bi
để chống lại. Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo lực, bạo lực từ
bi.
Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con người thực tâm tu
luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu lợi ích

HVTH: Phan Thanh Hoàng
12


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì mục đích cuối cùng
của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống đau khổ trong vô minh.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về
kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận
gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng.
Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm
thay được và mỗi người phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy, Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao
quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm
nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình,
an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo,
độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của
những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.

CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN XÃ HỘI
VIỆT NAM
I. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam

Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu công nguyên
với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc
tỉnh Bắc Ninh) là trụ sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan
trọng.
Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện
cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (Đấng giác ngộ)
được phiên âm trực tiếp thành Bụt, từ “Bụt” được dùng nhiều trong các truyện dân
gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như
một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này vào thế kỷ thứ
IV-V, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ Bụt bị mất đi và được

HVTH: Phan Thanh Hoàng
13


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

thay thế bởi từ Phật. Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành Phật đà,
Phật đồ rồi được rút gọn thành Phật.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Vào đời nhà Lý, nhà
Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả
mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc
giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ XVIII, vua Quang
Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên
việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ XX, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá
trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị
miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hoà và Thiện
Chiếu.
Bốn giai đoạn lịch sử Phật giáo Việt Nam:

+ Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và
phát triển rộng khắp.
+ Thời Đại Việt là giai đoạn cực thịnh.
+ Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ XIX là giai đoạn suy thoái.
+ Từ đầu thế kỷ XX đến nay là giai đoạn phục hưng.
Đại thừa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh Độ
tông và Mật tông. Thiền tông (còn được biết là Zen) là một tông phái Phật giáo do
nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma (Boddidharma) sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế
kỷ thứ VI. Thiền là cách gọi tắt của Thiền na (Dhyana), có nghĩa là "Tĩnh tâm",
chủ trương tập trung trí tuệ để quán định (thiền) nhằm đạt đến chân lý giác ngộ của
đạo Phật. Theo Thiền tông, "thiền" không phải là "suy nghĩ" vì suy nghĩ là "tâm
vọng tưởng", làm phân tâm và mầm mống của sinh tử luân hồi. Cách tu theo Thiền
tông đòi hỏi phải tập trung toàn bộ công sức và thời gian cộng với phải có khả
năng đốn ngộ. Yêu cầu đó chỉ có những kẻ căn cơ cao mới có được nên người tu
thiền thì nhiều nhưng người chứng ngộ quả thật rất là hiếm hoi. Tuy nhiên lịch sử
Thiền tông ở Việt Nam cũng có một lịch sử rõ ràng hơn cả.
Dòng thiền tu thứ nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam do nhà sư Tỳ Ni Đa
Lưu Chi (Vinitaruci) lập ra. Ông là người Ấn Độ, qua Trung Quốc rồi đến Việt
Nam vào năm 580, tu tại chùa Pháp Vân (hay chùa Dâu), thuộc huyện Thuận
HVTH: Phan Thanh Hoàng
14


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

Thành tỉnh Bắc Ninh và truyền cho tổ thứ hai là Pháp Hiền. Dòng thiền này truyền
được đến 19 thế hệ. Dòng thiền tu thứ hai do Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc
lập ra vào năm 820, tu tại chùa Kiến Sơ, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà
Nội. Dòng thiền này truyền được đến 17 đời. Dòng thiền thứ ba do Thảo Đường,
người Trung Quốc, vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành và được vua Lý Thánh

Tông giải phóng khỏi kiếp nô lệ và cho mở đạo tại chùa Khai Quốc vào năm 1069.
Dòng thiền này truyền được đến 6 đời. Năm 1299, vua Trần Nhân Tông, dưới sự
hướng dẫn của thiền sư Tuệ Trung Thượng Sỹ, xuất gia và lên tu ở núi Yên Tử,
thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh, thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và
lập nên Thiền phái Trúc Lâm. Sau này, một số thiền phái khác xuất hiện như phái
Tào Động dưới thời Trịnh - Nguyễn, phái Liên Tôn vào thế kỷ XVI - XIX (có trụ
sở tại chùa Bà Đá và chùa Liên Phái, Hà Nội), phái Liễu Quán (Liễu Quán là tên
một vị tổ thuộc dòng Lâm Tế) vào thế kỷ XVIII (miền Trung), phái Lâm Tế dưới
thời nhà Nguyễn (miền Trung, và sau này phát triển ở miền Nam). Thiền tông Việt
Nam đề cao cái "tâm" "Phật ở tại tâm", tâm là Niết Bàn, hay Phật. Vua Trần Nhân
Tông viết: "Nơi mình có ngọc tìm đâu nữa, trước cảnh vô tâm ấy đạo thiền".
Tịnh Độ tông là một tông phái Phật giáo, chủ trương tu dựa trên tha lực của Phật
A Di Đà. Tha lực này rất quan trọng đối với căn cơ con người thời nay. Phật Thích Ca
Mâu Ni có lần thuyết giảng: "Một viên đá dù nhỏ đến mấy mà ném xuống nước thì nó
cũng chìm, nhưng nếu một hòn đá dù to đến mấy mà đặt trên bè thì nó cũng nổi". Trong
Tịnh Độ tông, có tồn tại một cõi Phật cụ thể, gọi là Thế giới cực lạc do Đức Phật A Di
Đà (tiếng Phạn: Amitabha) làm giáo chủ. Việc tu hành được mở rộng ra những hành
động đơn giản như đi thăm chùa, tụng danh Phật A Di Đà. Nhờ cách như vậy mà Tịnh
Độ tông là tông phái phổ biến khắp cõi Việt Nam. Đi đến đâu ta cũng gặp người dân
tụng niệm câu "Nam mô A Di Đà Phật" (có nghĩa là nguyện quy theo đức Phật A Di
Đà). Tượng Phật A Di Đà là tượng có mặt ở khắp mọi nơi và có mặt từ rất lâu đời.
Mật tông là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép tu tụng
niệm các mật chú để đạt đến chân lý giác ngộ, Mật tông cũng còn gọi là Lạt Ma
tong. Mật tông là sự hợp nhất giới luật của thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada)
và nghi thức tác pháp của Kim Cương thừa. Khi vào Việt Nam, Mật tông không
tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa lẫn vào dòng tín

HVTH: Phan Thanh Hoàng
15



Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma,
chữa bệnh,...
II. Ảnh hưởng Phật giáo đến xã hội Việt Nam
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ I sau công nguyên kết hợp với
phong tục, tập quán truyền thống dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo Việt
Nam. Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật giáo ở Việt Nam không ngừng phát
triển, lớn mạnh và đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong việc hình thành đạo đức,
nhân cách con người Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam. Những ảnh hưởng tích cực
của Phật giáo vẫn đang được con người Việt Nam phát huy để phục vụ cuộc sống.
Song bên cạnh đó, Phật giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu cực. Trong chương này
chúng ta sẽ đi sâu phân tích các vấn đề trên.
1. Đạo phật với hình thành nhân cách người Việt Nam.
Phật giáo là một tôn giáo, như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng gồm có
giáo lý và hoạt động tín ngưỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về thế giới
và con người, về cách thức tu luyện và hoạt động tín ngưỡng, là những hành vi,
những nghi lễ cần phải thực hiện để đạt tới ước nguyện. Cả hai đều có ý nghĩa đối
với việc hình thành nhân cách của các tín đồ.
Hơn lúc nào hết, trong mấy chục năm qua người Phật từ Việt Nam hiện nay rất
chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ chăm chú lên chùa trong những
ngày sóc, vọng; họ trân trọng và thành kính trong lúc thực hành các nghi lễ; họ siêng
năng trong việc thiền định, giữ giới, làm thiện. Mặt khác, nhà chùa luôn sẵn sàng thực
hiện các yêu cầu của họ như giải oan, cầu siêu. Tất cả những điều đó vừa củng cố niềm
tin vào giáo lý, vừa quy định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những
nhân cách riêng biệt.
Con người Phật giáo nhìn sự vật trong mối quan hệ nhân quả, xem cái gì cũng
là kết quả của một cái trước và là nguyên nhân của cái sau. Mỗi khi gặp một sự
việc hệ trọng có liên quan đến bản thân hay người nhà, họ đều nghĩ đến nguyên

nhân để tìm cách khắc phục. Học còn nhìn thế giới, xã hội con người ở trong dòng
vận động không ngừng, ở đó không có cái gì là tồn tại mãi, cái gì cũng đang
chuyển biến từ cái này sang cái khác. Khi người thân trong gia đình lão già, yếu
đau, chết chóc, họ đều xem đó là điều không thể tránh khỏi và lấy đấy làm điều an
HVTH: Phan Thanh Hoàng
16


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

ủi. Lý thuyết nhân duyên sinh, vô thường, vô ngã của nhà Phật đã chi phối ý nghĩ
và hành động của họ.
Nhân cách Phật giáo đã góp phần làm nên nhân cách của con người Việt
Nam ngày nay. Nhân cách đó có tác dụng hai mặt. Mặt tích cực là chấp nhận sự
biến đổi của thế giới và con người, sống có nền nếp, trong sạch, giản dị, quan tâm
đến nỗi khổ của người khác, thương người, vị tha, cứu giúp người hoạn nạn, hành
động thì lấy tự giác làm đầu... Mặt tiêu cực là nhìn đời một cách bi quan, có pha
trộn chất hư vô chủ nghĩa, nặng về tin tưởng ở quyền năng và phép màu nhiệm của
một vị siêu nhiên mà nhẹ về tin tưởng năng lực hoạt động của con người, nếp sống
thì khổ hạnh và không tránh khỏi nương theo những nghi lễ thần bí. Đặc biệt là có
hiện tượng mê tín dị đoan như: Lên đồng, đốt vàng mã, những đồ dùng bằng giấy.
Những tư tưởng mê lầm đó vừa phung phí tiền bạc, thời gian lại làm xuất hiện
trong xã hội những loại người chỉ dựa vào những nghề nghiệp ấy mà kiếm sống
gây ra một sự bất công trong xã hội. Tuy nhiên, nhân cách con người Phật giáo có
những điều phù hợp với xã hội hiện nay. Nhưng những điều đó chỉ giới hạn trong
những trường hợp nhất định và chúng ta phải phát huy những mặt đó. Vượt qua
những giới hạn đó, nó sẽ có những mâu thuẫn với giáo lý và trở nên lạc lõng, mất
hiệu quả. Vậy con người am hiểu đạo lý, mến đạo, mộ đạo không phải chỉ là con
người tu hành một cách cần mẫn mà phải có cả phần trí tuệ để biết vận dụng giáo
lý vào cuộc sống một cách hữu ích. Hiểu được và làm được như thế, con người sẽ

thấy đạo đức Phật đẹp đẽ và cao thượng biết bao.
2. Ảnh hưởng về mặt tư tưởng và đạo lý.
2.1. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật giáo là đạo lý “Duyên khởi”, “Tứ diệu
đế” và “Bát chính đạo”. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái Phật
giáo, nguyên thủy cũng như Đại thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt Nam.
Về giáo lý “nghiệp báo” hay “nghiệp nhân quả báo” của đạo Phật đã được truyền
vào nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống tín ngưỡng hết
sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa
chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của
thuyết nghiệp báo, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân mà còn ảnh huởng
HVTH: Phan Thanh Hoàng
17


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

đến giới trí thức. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo
lý này.
Vì vậy, thuyết nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình
dân, trong văn học chữ Nôm, chữ Hán từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ
con người biết soi sáng tâm trí mình vào giáo lý nhân quả nghiệp báo mà hành
động sao cho tốt đẹp, đem lại hòa bình an vui cho con người. Mặt khác họ hiểu
rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự
biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những tai họa, biến cố
xảy ra cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên mới gặp khổ
nạn này. Không than trời trách đất, cam chịu và tự cố gắng tu tỉnh để chuyển hóa
dần ác nghiệp kia.
Mỗi người dân Việt Nam đều tự nhiên biết câu "ác giả ác báo" hay "chạy
trời không khỏi nắng" là muốn ám chỉ đến nghiệp báo. Do vậy, họ nhận thức rằng

không nên ngồi một chỗ tưởng tượng đến những kết quả tốt đẹp sẽ đến với mình.
Từ những hành nghiệp thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho
ta có một cuộc sống yên vui cho hiện tại và mai sau.
2.2. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt đạo lý
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật
giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Điều này
ta thấy rõ qua con người và tư tưởng của Nguyễn Trải (1380-1442), một nhà văn,
nhà chính trị, nhà tư tưởng Việt Nam kiệt xuất, ông đã khéo vận dụng đạo lý Từ Bi
và biến nó thành đường lối chính trị nhân bản đem lại thành công và rất nổi tiếng
trong lịch sử nước Việt. Ông nói điều đó trong “Bình Ngô Đại Cáo” rằng:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Bằng cách:
“Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Đem chí nhân để thay cường bạo”.
Cho nên khi đại thắng quân xâm lược, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta
không những không giết hại mà còn cấp cho thuyền bè, lương thực để họ về nước.

HVTH: Phan Thanh Hoàng
18


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao tục
ngữ rất phổ biến trong quần chúng nhân dân Việt Nam như "lá lành đùm lá rách".
Phật giáo chủ trương khuyến thiện, tránh ác, giữ tâm trong sạch, cổ vũ hành
vi công ích cứu tế, giúp người neo đơn, cơ nhỡ, tàn tật, trẻ mồ côi, cho thuốc chữa
bệnh... với phương châm: "Dù xây chín bậc phù đồ. Không bằng làm phước cứu
cho một người".

Đó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng điều
thấm nhuần và thuộc lòng, nó nói lên lòng nhân ái vị tha của người dân Việt, của
dân tộc Việt.
Đạo Phật đã tạo được cảm tình, niềm tin và sự tôn trọng của nhiều người
dân. Đến nay, hầu hết các chùa trong nước đều có phòng thuốc Đông y - Nam y từ
thiện chữa bệnh miễn phí. Các tuệ tĩnh đường, trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật, cô
nhi viện lần lượt ra đời. Các hoạt động cứu trợ đồng bào bị thiên tai, xoá đói giảm
nghèo, xây nhà tình nghĩa, trường học, trạm y tế diễn ra thường xuyên trong những
năm qua thật sự có ý nghĩa sâu sắc, xuất phát từ tư tưởng đại từ đại đức, từ bi, cứu
khổ, cứu nạn của đạo Phật.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác
của đạo phật là đạo lý “Tứ Ân”, gồm “ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân
chúng sinh”. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát
triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ
gần đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối
quan hệ xã hội với thầy, bạn bè, đồng bào và mở rộng ra với tình thương nhân loại
trên trái đất này. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh
hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của người Việt bởi vì Phật giáo đặc
biệt chú trọng chữ “hiếu” do nó rất phù hợp với nếp sống đạo lý truyền thống của
dân tộc Việt.
Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối tượng thực
hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân, chúng sinh, vũ trụ, đó là môi
trường sống của chúng sinh gồm cả mặt tâm linh nữa. Đạo lý tứ ân còn có chung cái
động cơ thúc đẩy là từ bi, hỷ xả khiến cho ta sống hài hòa với xã hội, với thiên nhiên để
tiến đến hạnh phúc chân thực và trường tồn. Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên
HVTH: Phan Thanh Hoàng
19


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành


đã giúp cho Phật giáo Việt Nam hình thành được một bản sắc đặc thù rất riêng biệt của
nó tại Việt Nam, góp phần làm phong phú và đa dạng hóa nền văn hóa tinh thần của
dân tộc Việt.
3. Ảnh hưởng Phật giáo qua phong tục, tập quán
3.1. Ảnh hưởng của Phật giáo qua tập tục ăn chay, phóng sinh, bố thí
Hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống văn hóa ăn
chay của đạo Phật. Ăn chay hay ăn nhạt xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo.
Đạo Phật không muốn sát sinh hại vật, mà trái lại luôn phải thương yêu muôn loài.
Số ngày họ ăn chay tuy có khác nhau trong từng tháng, nhưng cùng giống nhau ở
quan điểm từ bi, hỷ xả của Đạo Phật. Do hiệu quả của việc ăn chay giúp cho cơ thể
tăng cường sức khỏe, chống lại bệnh tật, nên người Việt Nam dù là Phật tử hay
không là Phật tử, dù sinh sống ở đâu cũng đều thích ăn chay và tập tục đặc biệt này
ảnh hưởng sâu rộng trong bộ phận dân chúng lao động từ xưa đến nay.
Ăn chay và thờ Phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Người mộ
đạo thờ Phật đã đành, nhiều người không phải là Phật tử cũng dùng tượng Phật hay
tranh ảnh có yếu tố Phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp
và trang nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người này, Phật giáo là một thành tựu
về tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam cũng có từ
lâu đời. Tục này xuất phát từ lòng hiếu kính, hiếu đễ đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên
và được xem là một dạng tín ngưỡng quan trọng và tốt đẹp nhất của dân tộc. Tín
ngưỡng này được một số người dân nhập làm một với đạo Phật, vì trong Phật giáo
có nhiều kinh đề cập đến vấn đề này như kinh Vu Lan, kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu
Ân,…Vào những ngày rằm, mồng một, những gia đình không theo đạo Phật cũng
mua hoa quả, thắp nhang thờ cúng bàn thờ tổ tiên.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí và phóng sinh đã
ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của mọi tầng lớp nhân dân. Đến ngày rằm và mùng
một, người Việt thường hay mua chim, cá,… để đem về chùa cầu nguyện rồi đi
phóng sinh. Người dân cũng thích làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo

khó, hoạn nạn vào các ngày lễ hội lớn khi họ tập trung về chùa. Tuy nhiên, trong
HVTH: Phan Thanh Hoàng
20


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên ngày càng bị thu
hẹp, thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho các đồng
bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảnh sống gặp khó khăn đúng với truyền thống
đạo lý của dân tộc “lá lành đùm lá rách”.
3.2. Ảnh hưởng của Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ chùa
Tập tục đến chùa để tìm sự bình an, thanh thản cho tâm hồn, chiêm ngưỡng
vẻ đẹp thanh thoát của các pho tượng, lắng nghe tiếng chuông ngân vang,… đã trở
thành phong tục lâu đời “đi chùa lễ phật” của ông bà tổ tiên chúng ta. Những ngày
lễ hội lớn trong năm bắt đầu từ Phật giáo như lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lễ tắm
Phật,… thực sự đã trở thành ngày hội văn hóa của người dân Việt Nam. Điều này
phù hợp với nếp sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt truyền thống.
Chẳng hạn đối với đồng bào Khơ-me Nam Bộ chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Phật giáo Nam tông còn có những lễ hội dân tộc mang đậm tư tưởng Phật giáo như
lễ mừng năm mới (Chol-chơ-nam Thơ-mây ) vào các ngày 13, 14, 15 tháng 4 âm
lịch; lễ cúng ông bà tổ tiên (Donta) vào ngày 30 tháng 8 dương lịch; lễ cúng trăng
(Oóc-om-bok) ngày 15 tháng 10 âm lịch,…đã trở thành những ngày hội vô cùng
sôi nổi và đặc sắc của đồng bào Khơ-me.
Những ngày đại lễ Phật giáo nêu trên là chất keo gắn bó những người dân,
nâng cao tình yêu thương đồng loại và nảy nở lòng hy sinh, tính vị tha, củng cố
lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ và những ảnh hưởng đó ngày càng sâu rộng
trong mọi tầng lớp nhân dân.
3.3. Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi
Đây cũng là sinh hoạt phổ biến trong đời sống người dân Việt. Đối với việc

ma chay, theo phong tục của người Việt Nam và Trung Hoa trước đây rất là phiền
phức và hao tốn. Tuy nhiên nhờ có sự dẫn dắt của chư tăng thì tang lễ diễn ra đơn
giản và trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình (theo Đạo Phật) có người qua đời,
thân quyến đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để giúp đỡ phần tang lễ (thường gọi là
làm ma chay).
Ở những gia đình không theo đạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia chủ
mến chuộng đạo Phật nên họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho hương

HVTH: Phan Thanh Hoàng
21


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

linh và tổ chức tang lễ giống như những tín đồ theo đạo Phật. Nhìn chung, tập tục
ma chay tại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi thức của Phật giáo.
Việc cưới hỏi, trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều đôi bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật
giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật phù hộ cho mối lương duyên của họ
được thuận buồm xuôi gió. Đến ngày cưới hỏi, họ được hướng dẫn về chùa để chư tăng
làm lễ "hằng thuận quy y" trước khi rước dâu. Đó là một lễ chúc lành ngắn gọn và được
chư tăng khuyên dạy một số nguyên tắc đạo đức Phật giáo, để làm kim chỉ nam cho cuộc
sống mới.
Ngoài những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo đã
được kể trên, chúng ta còn thấy một số tập tục khác cũng tương đối phổ biến và có
ít nhiều liên quan đến Phật giáo mà chúng ta phải ghi nhận.
3.4. Các phong tục tập quán khác
* Tập tục đốt vàng mã
Đây là tập tục rất phổ biến, mà người Việt đã tiếp nhận từ Phật giáo Trung
Quốc. Nhiều người ngộ nhận rằng tập tục này xuất phát từ quan điểm nhân quả
luân hồi của Phật giáo, do đó nó đã tồn tại trong Phật giáo từ xưa cho tới ngày nay.

Nếu đời này ai ăn ở hiền lành, tu tâm dưỡng tính thì đời sau sẽ tái sinh trở lại làm
người hạnh phúc, sung sướng giàu sang hoặc vãng sinh về thế giới cực lạc. Còn
nếu kiếp này ăn ở tệ bạc, làm nhiều điều ác, sau khi chết sẽ bị đọa xuống địa ngục
cõi âm ti chịu nhiều đau khổ. Người nhiều tội lỗi hay không có ai thờ cúng, cầu
siêu thì ở nơi địa ngục bị oan ức, đói lạnh, không thể siêu thoát hoặc đầu thai được.
Cho nên những người thân ở nơi dương thế phải thờ cúng, tụng kinh cầu siêu để
người thân của mình dưới cõi âm ti bớt đi phần tội lỗi hoặc được ấm no mà thoát
kiếp. Sau khi cúng giỗ, người chết sẽ nhận được những vật dụng, tiền bạc đã cúng
và đốt đó. Trong các đồ mã và giấy tiền vàng bạc để cúng thường có hình ảnh
(Phật Di Lặc hay Bồ Tát Quan Âm) hoặc chữ vãng sinh, chữ triện thể hiện yếu tố
của Phật giáo với ý đồ mong sự cứu độ của Phật đối với người đã khuất.
* Tập tục coi ngày giờ
Đây là một tập tục ăn sâu vào tập quán của người Việt nói riêng và cả Châu
Á nói chung. Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà cửa, đám
ma, đám cưới, xuất hành đầu năm ... người ta thường về chùa để nhờ các sư thầy
HVTH: Phan Thanh Hoàng
22


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

coi giúp ngày nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh. Thông thường người ta hay
tránh ba ngày (mùng 05, 14, 23), họ cho ba ngày này là xui xẻo, là bất hạnh, cần
phải tránh.
* Tập tục cúng sao giải hạn
Tập tục này rất phổ biến và ăn sâu vào tập quán của người Việt và lại có sự
tham gia của Phật giáo. Nguyên nhân cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, sau truyền
qua Việt Nam rồi vào trong Phật giáo. Chủ trương thiện chí để đóng góp cho xã
hội, phục hưng đạo đức, đưa đời sống của con người đến ấm no hạnh phúc.
Trong bối cảnh tồn tại của tam giáo, các sư thầy đạo Phật phải linh động,

phải tìm hiểu, học hỏi những cái lưu truyền của những đạo khác để có một cái nhìn
hòa đồng, cảm thông và nhất là để kéo Phật tử trở về với bói quẻ, xem tướng, thì
các thầy cũng cúng sao, bói quẻ xin xăm, để cho người Phật tử quay về chùa, thay
vì để họ lạy thần linh thì lạy Phật tốt hơn. Bước thứ hai là giảng đạo lý nhân quả,
Bát chính đạo, tạo chính kiến cho người Phật tử xóa bỏ tà kiến trước đây của họ.
* Tập tục xin xăm, bói quẻ
Xin xăm bói quẻ là một việc cầu may. Cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, một
loại hình sinh hoạt khá rầm rộ tại các chùa, đình, miếu vào dịp đầu năm mới hoặc
các ngày lễ lớn. Các chùa làng có thờ Quan Thánh Đế Quân thường có đi đôi với
việc xin xăm. Người xin xăm trước hết đến lạy Phật rồi sang bàn thờ Quan Thánh
khấn nguyện xin một quẻ xăm, rồi họ lắc ống xăm có 100 thẻ để lấy một thẻ rớt ra,
sau đó họ cầm quẻ xăm đến nhờ thầy trụ trì giải đáp vận mệnh của mình. Mỗi thẻ
ứng với một lá xăm có ghi sẵn trong những điều tiên đoán về công việc làm ăn, học
tập, hôn nhân, gia đình,… của mỗi người bốc được quẻ xăm đó.
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đã chịu
nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau, nhất là từ Trung Quốc. Trong đó
Phật giáo là một phần quan trọng trong việc định hình và duy trì không ít các tập
tục dân gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tuy nhiên, không
phải các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo đều là tốt cả, mà trong đó có tập tục
cần phải chắt lọc lại để phù hợp với chính pháp và đó là nhiệm vụ nặng nề của các
nhà truyền giáo trong thời hiện đại.

HVTH: Phan Thanh Hoàng
23


Giảng viên: TS. Phạm Huy Thành

4. Đạo phật đối với nền văn hóa Việt Nam:
Nhìn vào đời sống văn hoá, tinh thần của xã hội Việt Nam trong những năm

qua, ta thấy hiện tượng Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. Bên cạnh sự
phát triển ngày một lớn mạnh của kiến trúc hiện đại, Việt Nam vẫn phục hồi kiến
trúc cổ xưa qua việc tu sửa lại những đền chùa, miếu mạo, những danh lam thắng
cảnh. Đó là những nơi mà dấu ấn của đạo phật thể hiện rõ nhất.
Ở thời nhà Lý, nghệ thuật kiến trúc đã đạt tới đỉnh cao với những công trình
mang tính quy mô to lớn, vượt hẳn thời trước và cả những thời sau đó. Như nền
chùa Quế Giạm ( Quế Võ- Hà Bắc) trải rộng trên một diện tích với những vết tích
còn lại gồm ba cấp trải rộng trên một diện tích gần 120 mét, rộng 70 mét. Các ngôi
tháp đời lý gồm nhiều tầng, cao chót vót: Tháp Bảo - thiên cao vài mươi trượng (
khoảng trên 60 mét) gồm 12 tầng, tháp Sùng-thiện-diên- linh ( chùa Đọi, Duy Tiên,
Nam Hà) cao 13 tầng, tượng Phật Di-lặc chùa Quỳnh Lâm( Đông Chiều, Quảng
Ninh) cao 6 trượng, khoảng 20 m. Chùa Một Cột là một sách tạo về nghệ thuật,
tượng trưng cho 1 toà sen nở trên mặt nước. Những kiến trúc đó thường hoà hợp
với cảnh trí thiên nhiên chung quanh tạo nên một khung cảnh kiến trúc hài hoà với
ngoại cảnh.
Nghệ thuật kiến trúc của đời Lý lại được đời Trần kế tục truyền thống và
phát triển mang tính chất phóng khoáng, khoẻ và hiện thực hơn. Tháp Phổ Minh,
Bình Sơn là những công trình kiến trúc có giá trị ở đời Trần, Tháp Bình Sơn cao 11
tầng, có bố cục chặt chẽ cân xứng.
Sang đời nhà Nguyễn nghệ thuật kiến trúc có chiều hướng ngày càng sa sút,
tuy nhiên cũng có những sáng tạo nhất định như Văn Miếu ( Hà Nội) và một số
đình, chùa ở các làng. Đỉnh cao của kiến trúc nhà Nguyễn là chùa Tây Phương(
Thạch Thất, Hà Tây) xây dựng thành ba lớp là lối kiến trúc phổ biến của các chùa
trong nam. Chùa Tây Phương cũng là nơi tập trung nhiều pho tượng có giá trị,
trong đó nổi tiếng nhất là chùa Tuyết Sơn và mười tám vị La Hán. Các bức tượng
lấy đề tài trong sự tích đạo Phật nhưng vẫn thế hiện những con người Việt Nam
Hiện thực và gợi cảm.
Ngày nay, những nghệ thuật, kiến trúc đó vẫn còn tồn tại và được trùng tu,
sửa sang để làm nơi du lịch của khách thập phương và nơi lễ bái của nhân dân
HVTH: Phan Thanh Hoàng

24


×