Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.31 KB, 42 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, hiện nay hội nhập khu vực và quốc tế đang là xu thế
chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu thế đó. Theo như đường lối chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay thì đa phương hoá các mối quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc
tế là những mục tiêu được đặt lên hàng đầu, trong đó, nội dung kinh tế ngày càng
chiếm vai trò quan trọng. Quá trình hội nhập rất đa dạng, nhưng lĩnh vực hội nhập
quan trọng nhất và chủ đạo nhất chính là về kinh tế – thương mại, bởi đây chính là
lĩnh vực góp phần chủ yếu trong việc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước, đưa Việt Nam lên một tầm cao mới, sánh vai với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Trong những năm trở lại đây, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong công tác xuất khẩu, đặc biệt là khâu mở rộng và phát triển thị trường. Chúng
ta đã có quan hệ làm ăn buôn bán với hàng trăm quốc gia và vùng lãnh thổ trên
khắp thế giới, đã xuất khẩu sang thị trường nước ngoài hàng trăm mặt hàng với giá
trị hàng tỷ đôla. Để đạt được những thành công trên có phần đóng góp không nhỏ
của của các chiến lược phát triển thị trường do Bộ Thương mại đề ra và có sự nỗ
lực cố gắng thực thi của các Bộ, ngành liên quan cũng như bản thân các doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.
Trước tầm quan trọng và thực tiễn xuất khẩu của Việt Nam trong những năm
vừa qua, tác giả đã lựa chọn đề tài: “ Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu
của Việt Nam sang các nước ASEAN” làm luận văn tốt nghiệp. Đề tài tập trung
vào phân tích thực trạng thị trường xuất khẩu của Việt Nam những năm qua, từ đó
rút ra những thành tựu và tồn tại cần khắc phục, đề ra định hướng cho những năm
tới và biện pháp để thực thi thành công theo định hướng đó.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Luận văn tốt nghiệp của em được chia làm ba phần:


Chương I: Một số lý luận chung về thị trường xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong những năm
qua.
Chương III: Định hướng chiến lược – Các biện pháp hỗ trợ thực hiện.
Do kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế nên Luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Vậy em kính mong được sự góp ý của các thầy cô và
các bạn sinh viên để em có điều kiện hoàn thiện hơn nữa kiến thức của mình.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
1. Các khái niệm về thị trường.
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nó ra đời và
phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá. Theo
định nghĩa ban đầu, định nghĩa nguyên thuỷ của các nhà kinh tế học đầu tiên, thị
trường gắn liền với một địa điểm nhất định. Nó là nơi diễn ra các quá trình trao đổi,
mua bán hàng hoá. Thị trường có không gian và thời gian.
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông
trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú; thị trường được mở rộng. Thị
trường được hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn. Nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá qua tiền
tệ làm môi giới.
Trong lĩnh vực kinh tế học chính trị, các nhà kinh tế hiện đại đã định nghĩa thị
trường là lĩnh vực lưu thông, ở đó hàng hoá thực hiện được giá trị của mình đã
được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Định nghĩa này muốn khẳng định một điều là
giá trị của hàng hoá chỉ có thể được thực hiện thông qua hoạt động trao đổi, hoạt

động trao đổi ấy được diễn ra trong quá trình lưu thông – một trong những khâu
của quá trình tái sản xuất.
Trong Marketing, khái niệm về thị trường cũng dựa trên nền tảng là sự trao
đổi. Theo Philip Kotler, “ thị trường là tập hợp tất cả những người mua thực sự hay
những người mua tiềm tàng đối với một sản phẩm”.
Đối với doanh nghiệp, tốt nhất nên hiểu thị trường là nơi có nhu cầu cần được
đáp ứng.
Theo như các hiểu của P.A.Samuelson, một nhà kinh tế học thuộc trường phái
chính hiện đại thì “thị trường là một quá trình mà trong đó, người mua và người
bán một thứ hàng hoá tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng
hàng hoá”.
Theo trường phái Cambridge của Anh thì “thị trường là tổng thể những người
có quan hệ kinh doanh, hay là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu”.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Còn nếu bắt nguồn từ kháI niệm “giao dịch” thì các nhà kinh tế học lại đưa ra
khái niệm “thị trường” như sau:
“Thị trường là tập hợp những người mua hàng hiện có và sẽ có ”
2. Phân loại thị trường.
Trong Marketing, thuật ngữ “thị trường” có thể bao hàm một vùng địa lý, ở đó
diễn ra các giao dịch thương mại, một dạng người tiêu thụ, một tầng lớp trung gian,
một mặt hàng, một sản phẩm…Chính vì vậy, có thể phân loại thị trường theo nhiều
căn cứ khác nhau.
* Căn cứ vào vị trí của sản phẩm trong tái sản xuất, người ta chia thị trường
thành thị trường tiêu dùng và thị trường doanh nghiệp.
Thị trường tiêu dùng là thị trường bao gồm những cá nhân và hộ gia đình mua
hay bằng một phương thức nào đó có được hàng hoá và dịch vụ để tiêu dùng cho cá

nhân.
Thị trường doanh nghiệp là thị trường bao gồm những nhà sản xuất, các nhà
buôn, họ mua sản phẩm về để tiếp tục quá trình sản xuất, để phân phối lại.
Thị trường doanh nghiệp được chia thànhcác loại thị trường sau:
Thị trường hàng tư liệu sản xuất là tập hợp những cá nhân và tổ chức mua
hàng và dịch vụ để sử dụng vào việc sản xuất ra những thứ hàng hóa khác hay dịch
vụ khác để bán, cho thuê hay cung ứng cho những người tiêu dùng khác.
Thị trường người buôn bán trung gian là tập hợp những cá nhân và tổ chức
mua hàng để bán lại hay cho người tiêu dùng khác thuê để kiếm lời.
Thị trường các cơ quan Nhà nước bao gồm những tổ chức của Chính phủ và
các cơ quan địa phương mua hay thuê những mặt hàng cần thiết cho họ để thực
hiện những chức năng cơ bản của mình theo sự phân công của chính quyền.
* Căn cứ vào tầm quan trọng của thị trường có thể chia thành thị trường chính
và thị trường phụ.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Thị trường chính thường diễn ra hoạt động mua bán với khối lượng lớn, có
tính
chất chỉ đạo đối với các thị trường phụ về xu hướng giá cả.
* Căn cứ vào tính chất kinh doanh có thể chia ra: thị trường bán buôn và thị
trường bán lẻ.
Thị trường bán buôn là thị trường trong đó diễn ra hoạt động mua bán với khối
lượng rất lớn, chủ yếu là bán cho người trung gian.
Thị trường bán lẻ là thị trường mà hoạt động mua bán diễn ra trực tiếp giữa
người bán trung gian và người tiêu dùng cuối cùng.
* Căn cứ vào quan hệ cung cầu, có thể chia thành thị trường người bán và thị
trường người mua.

Thị trường người bán, khi cung hàng hoá nhỏ hơn cầu, diễn ra cuộc cạnh tranh
giữa những người mua.
Thị trường người mua, khi cung hàng hoá lớn hơn cầu, lúc này diễn ra cuộc
cạnh tranh giữa những người bán để giành khách hàng.
* Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh có thể phân ra: thị trường hàng hoá, thị
trường dịch vụ, thị trường sức lao động…
Thị trường hàng hoá là thị trường trong đó hàng hoá được mua bán, trao đổi là
các sản phẩm hàng hoá hữu hình.
Thị trường dịch vụ là thị trường trong đó hàng hoá được mua bán, trao đổi là
các loại hình dịch vụ.
Thị trường sức lao động là thị trường trong đó sức lao động trở thành hàng
hoá.
* Căn cứ vào đối tượng lưu thông, có thể phân ra: thị trường từng mặt hàng cụ
thể( thị trường dầu mỏ, gạo, thép,cao su…); thị trường từng nhóm hàng( thị trường
hàng nông sản, thị trường máy thiết bị…)
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
* Căn cứ vào phạm vi lưu thông có thể phân ra: thị trường dân tộc, thị trường
khu vực, thị trường thế giới.
Thị trường dân tộc là thị trường mà trong đó hoạt động mua bán được diễn ra
trên quy mô một quốc gia, một dân tộc.
Thị trường khu vực là thị trường mà trong đó hoạt động mua bán được diễn ra
trên quy mô khu vực, gồm nhiều nước tham gia.
Thị trường thế giới là thị trường mà trong đó hoạt động mua bán được diễn ra
trên quy mô toàn thế giới.
* Ngoài ra nếu xét theo phương diện Marketing thì còn có một số dạng thị
trường nữa như:

Thị trường hiện tại – thị phần của doanh nghiệp trong tổng dung lượng thị
trường.
Thị trường hỗn hợp – bao gồm thị phần của doanh nghiệp và thị phần của đối
thủ cạnh tranh.
Thị trường tiềm năng – một phần khách hàng trong thị phần của đối thủ cạnh
tranh.
Thị trường lý thuyết – bao gồm thị trường hiện tại và thị trường tiềm năng.
Thị trường thực nhiệm – nơi bán thử nhiệm sản phẩm mới của doanh nghiệp.
3. Tầm quan trọng của việc thâm nhập thị trường.
Một trong những quyết định quan trọng nhất của một công ty kinh doanh là
phải lựa chọn cách thức thâm nhập vào từng thị trường cụ thể. Nó liên quan trực
tiếp đến sự thành công của công ty và cho phép tiết kiệm thời gian, kinh phí khi
thâm nhập và mở rộng, phát triển các thị trường mới.
Ngoài ra, phương pháp thâm nhập thị trường còn là một trong những ưu thế
cạnh tranh. Nếu một công ty lựa chọn được một phương pháp thâm nhập tối ưu,
khai thác được những lợi thế riêng của mình thì sẽ có thể tiếp cận được với khách
hàng một cách trực tiếp và nhanh chóng. Phương pháp thâm nhập thị trường tốt
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
không những mở rộng được các thị trường mới mà còn giữ vững những thị trường
đã tiếp cận được, tạo chỗ đứng vững chắc cho sản phẩm của công ty trên thị trường
nước ngoài.
Hiện nay, nhiều nước tuy đã tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá và tự do hoá
thương mại nhưng vẫn còn đặt ra nhiều rào cản phi thuế quan, gây khó khăn và trở
ngại cho các nước và công ty xuất khẩu. Vì thế, phương pháp thâm nhập thị trường
còn đóng vai trò là một trong những chách thức để vượt qua các rào cản đó.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường

quốc tế.
a. Những đặc điểm của nước lựa chọn thâm nhập.
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng của thị trường.
- Rủi ro môi trường chính trị và môi trường chung.
- Cơ sở hạ tầng kinh tế và chính trị.
b. Hàng rào bảo hộ mậu dịch và những quy định của Chính phủ.
- Hàng rào bảo vệ mậu dịch trực tiếp như: thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập
khẩu hàng hoá hạn chế hoạt động xuất khẩu của các công ty nước ngoài…
- Hàng rào bảo vệ mậu dịch gián tiếp như: những quy định về sản phẩm hoặc
thương mại, hệ thống tiêu chuẩn những ưu đãi với nhà cung cấp địa phương…
c. Những đặc điểm của sản phẩm.
d. Những mục tiêu và chiến lược thâm nhập của công ty kinh doanh.
e. Những yếu tố ảnh hưởng đến phương thức thâm nhập thị trường quốc tế.
- Địa điểm sản xuất.
- Những đòi hỏi về nguồn lực.
- Sự kiểm soát( mức độ yêu cầu kiểm soát các hoạt động ở thị trường nước
ngoài của công ty).
- Tính linh hoạt khi áp dụng các phương pháp thâm nhập.
5. Các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
a. Hình thức thâm nhập qua xuất khẩu và buôn bán đối lưu.
* Hình thức thâm nhập qua xuất khẩu.
- Xuất khẩu trực tiếp: đại diện bán hàng, đại lý phân phối.
- Xuất khẩu gián tiếp: đại lý, công ty quản lý xuất khẩu, công ty kinh doanh
xuất khẩu.
* Hình thức thâm nhập qua buôn bán đối lưu: đổi hàng, mua bán đối lưu,

chuyển nợ, mua lại.
b. Hình thức thâm nhập qua hợp đồng.
- Hợp đồng sử dụng giấy phép(HĐSDGP): HĐSDGP độc quyền, HĐSDGP
thông thường, HĐSDGP chéo.
- Hợp đồng kinh tiêu.
- Hợp đồng quản lý.
- Dự án chìa khoá trao tay.
c. Hình thức thâm nhập thông qua đầu tư.
- Chi nhánh sở hữu toàn bộ.
- Liên doanh(LD): LD hội nhập phía trước, LD hội nhập phía sau, LD mua lại,
LD đa giai đoạn.
- Liên minh chiến lược.
II. CHIẾN LƯỢC THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU.
1. Khái niệm.
Chiến lược thị trường xuất khẩu là một bộ phận trong chiến lược kinh doanh
và phát triển công ty, nó bao gồm các mục tiêu dài hạn về thị trường mà công ty
cần phải đạt được thông qua hoạt động xuất khẩu, các chính sách và giải pháp lớn
nhằm không ngừng giữ vững các thị trường cũ và mở rộng sang các thị trường mới.
2. Các mô hình chiến lược thị trường xuất khẩu.
a. Chiến lược thị trường xuất khẩu dựa trên ưu thế về sản phẩm.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Trong chiến lược này, một công ty hay một quốc gia phải tìm ra được các sản
phẩm có tính cạnh tranh cao, có những ưu điểm hơn hẳn các sản phẩm cùng loại
của công ty hay quốc gia khác, tập trung khai thác sản phẩm này trên thị trường
mới, tạo chỗ đứng vững chắc và uy tín cho thương hiệu của sản phẩm đó. Khi đã
thâm nhập sâu vào thị trường này, đa dạng hoá sản phẩm, từ đó mở rộng ra các sản

phẩm khác, từng bước chiếm lĩnh thị trường.
b. Chiến lược thị trường xuất khẩu dựa trên ưu thế về giá cả.
Cũng giống như chiến lược dựa trên ưu thế về sản phẩm, chỉ khác là trong
chiến lược này, công ty hay quốc gia thâm nhập thị trường dựa trên lợi thế cạnh
tranh về giá cả thấp hơn các mặt hàng cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Thông
thường, khi sử dụng chiến lược này, các công ty hay quốc gia xuất khẩu phải có
tiềm lực khá mạnh về tài chính. Bởi lẽ, trong chiến lược này, ban đầu, nhà xuất
khẩu phải bán sản phẩm cùng loại với giá rẻ hơn, ưu đãi hơn đối thủ cạnh tranh để
từng bước chiếm lĩnh thị trường. Sau khi đã có vị trí và lòng tin của người tiêu
dùng, nhà xuất khẩu mới dần tăng giá bán để thu hồi lại phần thua lỗ ban đầu.
Chiến lược này thường được áp dụng với thị trường các nước đang phát triển vì tại
các thị trường này yếu tố giá cả luôn được người tiêu dùng quan tâm hàng đầu.
c. Chiến lược thị trường xuất khẩu dựa trên ưu thế về kênh phân phối.
Nếu một sản phẩm cùng loại với các đối thủ cạnh tranh có cùng giá bán và
một số đặc điểm cơ bản khác nhưng một công ty hay một quốc gia xuất khẩu sản
phẩm đó lại xây dựng được một hệ thống kênh phân phối riêng thuận tiện hơn, đến
với người tiêu dùng nhanh chóng và dễ dàng hơn thì rõ ràng là công ty hay quốc
gia đó có lợi thế nhất định về kênh phân phối sản phẩm. Trong chiến lược phát
triển thị trường dựa trên ưu thế về kênh phân phối, thông thường nhà xuất khẩu
mong muốn sản phẩm đến tay người tiêu dùng một cách trực tiếp và nhanh chóng,
đồng thời tiết kiệm một số chi phí nhỏ lẻ. Trươc đây, các nhà xuất khẩu thường
phải thông qua ít nhất hai trung gian thì hàng hoá mới đến được tay người tiêu
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
dùng. Nhưng nay nếu nhà xuất khẩu nào khai thác được lợi thế kênh phân phối gọn
nhẹ thì thậm chí không cần trung gian vẫn đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Hàng hoá được quảng bá trực tiếp đến người tiêu dùng sẽ góp phần làm tăng lòng

tin và uy tín của thương hiệu, tạo dựng được chỗ đứng dễ dàng hơn tại nước nhập
khẩu.
d. Chiến lược thị trường xuất khẩu dựa trên ưu thế về công nghệ.
Chiến lược này được áp dụng chủ yếu với các sản phẩm đã qua chế biến hoặc
sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Nhà xuất khẩu có được công nghệ tiên tiến,
hiện đại, Trước hết có thể tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, nhiều tính
năng, công dụng và hiện đại. Đó là một ưu thế rất đáng chú ý khi xuất khẩu sang
các thị trường ngoài nước. Bên cạnh đó, công nghệ cao góp phần làm tăng hàm
lượng công nghệ trong sản phẩm, từ đó tăng giá trị của sản phẩm nhưng tốn ít lao
động nên giá thành không tăng hoặc giảm đi, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho
doanh nghiệp khi xuất khẩu. Ngoài ra, với thị trường các nước phát triển, giá cả
không phải là mối quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng mà chính là sản phẩm và
tính năng hiện đại của sản phẩm, hàm lượng công nghệ có trong sản phẩm thì chiến
lược này chắc chắn sẽ phát huy tác dụng và đem lại hiệu quả.
e. Chiến lược thị trường xuất khẩu dựa trên ưu thế về lao động.
Chiến lược này ngược với chiến lược ưu thế về công nghệ. Chiến lược này chủ
yếu áp dụng với những sản phẩm thô, sơ chế hoặc chưa qua chế biến, cần nhiều lao
động. Với những quốc gia có nguồn lao động dồi dào, chi phí nhân công rẻ thì ưu
thế lao động đóng một vai trò rất quan trọng. Bởi lẽ, những công ty hay quốc gia
xuất khẩu đó sẽ tiết kiệm được một phần chi phí, từ đó hạ giá thành sản phẩm, thị
trường có nhu cầu hàng hoá tinh xảo, cần nhiều đến bàn tay khéo léo của con người
thì ưu thế lao động sẽ giúp các nhà xuất khẩu đẩy mạnh được công tác xuất khẩu
sang các thị trường này.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU

CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
I. PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SANG THỊ
TRƯỜNG CÁC NƯỚC ASEAN CỦA VIỆT NAM.
ASEAN vẫn luôn được coi là thị trường trọng điểm của nước ta trong giai
đoạn từ 1995 – 2002 và cả trong những năm tới đây. Việt Nam gia nhập ASEAN từ
năm 1995 và từ đó đến nay, hàng hoá xuất khẩu của ta sang các nước nằm trong
khu vực này đều được hưởng những ưu đãi nhất định như quy chế MFN và trong
thời gian tới đây, khi cam kết CEPT được thực hiện đầy đủ thì thuế đánh vào hàng
hoá của Việt Nam sẽ được giảm xuống mức 0 – 5%. Tỷ trọng xuất khẩu sang các
nước ASEAN luôn chiếm khoảng gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Từ năm 1995 đến nay, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN vẫn tăng
khá đều đặn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, tốc độ tăng trưởng của thị trường này
đang có dấu hiệu giảm sút.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN trong thời kỳ 1997-2002
Đơn vị: triệu
USD.
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002
ASEAN 1112,1 1945,0 2516,3 2619,0 2554,6 2425,6
Tỷ trọng % 12,1 20,8 21,8 18,1 17 14,3
Tăng trưởng % 124,5 174,9 129,4 104,1 97,5 86,2
Nguồn: niên giám thống kê 2001 & Thống kê hải
quan.
Nhìn bảng trên ta thấy xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN có sự
tăng giảm không đều. Trong những năm từ 1997 đến 1999, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam sang ASEAN tăng trưởng đều đặn với tốc độ khá cao. Nhưng từ năm

2000 sang đến năm 2002 thì cả giá trị và tỷ trọng xuất khẩu của nước ta sang
ASEAN đều giảm, do những nguyên nhân sau. Thứ nhất, do sự chuyển đổi trong
chiến lược thị trường xuất khẩu của Chính phủ ta, tập trung vào một số thị trường
mới, nhiều tiềm năng đồng thời giữ vững các thị trường truyền thống, đã có quan
hệ thương mại lâu dài. Thứ hai, các loại hàng mà ta có thế mạnh thì các nước
ASEAN cũng có, sức cạnh tranh của một số mặt hàng trong số đó thậm chí còn
mạnh hơn ta. Thứ ba, Việt Nam đã tham gia toàn bộ danh mục IL và đã bắt đầu
chuyển 20% lượng hàng hoá của danh mục TEL vào danh mục giảm thuế.
Xuất khẩu phi dầu mỏ (chủ yếu là nông sản, máy tính và các linh phụ kiện)
vào khu vực này tăng 56,4% trong năm 1998 (mặc dù nhu cầu nhập khẩu của khu
vực giảm), nhưng tụt xuống còn 2,1% trong năm 1999. Nguyên nhân chính là hai
nước Philipin và Indonexia phải nhập khẩu một lượng gạo lớn do mất mùa vào năm
1998, nhưng nhu cầu nhập khẩu gạo đã giảm vào năm 1999. Nhiều hàng hoá phi
dầu mỏ của Việt Nam xuất khẩu sang ASEAN tiếp tục giảm trong các năm 2000 -
2002 do khi ta đã ký được hiệp định thương mại với Hoa Kỳ thì ta có thể xuất trực
tiếp sang Hoa Kỳ mà không cần qua các nước trung gian khu vực này.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Tổng kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và ASEAN trong năm 2002 đạt
2425,6 triệu USD, giảm 2,7% so với tổng giá trị xuất khẩu của năm 2001. Kim
ngạch xuất khẩu chủ yếu tập trung phục vụ nhu cầu nhập khẩu dầu thô của Singapo
và Malaysia và nhu cầu nhập khẩu máy tính, linh phụ kiện của Thái Lan và
Philippin.
Nhu cầu nhập khẩu nông sản Việt Nam, chủ yếu là gạo của các nước ASEAN
ổn định ở mức thấp. Doanh thu từ xuất khẩu máy tính và các linh phụ kiện tăng
khoảng 20% ngay trong 6 tháng đầu năm 2002. Trong năm 2002, thị trường lớn
nhất cho các sản phẩm này của Việt Nam là Philippin, nhập khẩu khoảng 179 triệu

USD, Thái Lan 100 triệu USD (riêng linh kiện điện tử là hơn 61 triệu USD),
Malaysia 15 triệu USD (riêng linh kiện điện tử là 2,02 triệu USD) và Singapo 5
triệu USD. Đây là nhóm hàng có triển vọng giúp nâng doanh thu hàng xuất khẩu
phi dầu mỏ như Philippin, Thái Lan, Malaysia va Singapo phục hồi và chuyển
hướng phát triển nền kinh tế dựa trên thành tựu của công nghệ thông tin.
Nhờ giá dầu thô tăng trong thời gian qua nên kim ngạch xuất khẩu dầu thô của
Việt Nam sang các nước trong khu vực tăng đáng kể. Tuy nhiên, giá dầu giảm
trong năm 2001 làm doanh thu từ xuất khẩu dầu mỏ vào các nước ASEAN giảm
xuống. Tỷ trọng xuất khẩu sang ASEAN tuy cao nhưng nếu chỉ xét riêng yếu tố
này thì chưa đủ căn cứ để kết luận rằng ASEAN là thị trường tiêu thụ chính của
hàng hoá Việt Nam. Bởi lẽ, trong tổng kim ngạch xuất khẩu đi các nước ASEAN
có đến 60 – 70% được xuất sang Singapo, mà đây lại là thị trường tái xuất điển
hình, giống như Hồng Kông. Vì lý do đó, cần có một cách nhìn mang tính thực tiễn
hơn khi đánh giá về sự gắn bó thương mại giữa Việt Nam với các nước ASEAN.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu cho bạn hàng ASEAN thì dầu thô chiếm tỷ
trọng lớn (36% kim ngạch năm 1997, 16% năm 1998), sau đó là gạo (8% kim
ngạch năm 1997, 18% kim ngạch năm 1998). Hải sản cũng là mặt hàng được xuất
khẩu nhiều sang ASEAN. Tỷ trọng hàng thuỷ sản xuất sang ASEAN trong tổng
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
xuất thuỷ sản của Việt Nam năm 1997 là 8,6% ; năm 1998 có giảm nhưng vẫn còn
6,6%. Hàng dệt may tuy đạt kim ngạch gần 40 triệu USD vào năm 1998 nhưng chủ
yếu là bán cho khách hàng Singapo (33 triệu USD) để xuất đi nước thứ ba, không
tiêu thụ tại ASEAN.
Nếu Việt Nam chuyển hướng xuất khẩu dầu thô (như hiện nay đang chuyển
hướng sang Australia) thì tỷ trọng hàng xuất khẩu sang ASEAN trong xuất khẩu
của ta sẽ giảm rất mạnh (chỉ còn trên 10%). Tiếp theo đó, nếu các nước Indonesia

và Philippin khôi phục được sản xuất lúa gạo thì xuất khẩu hàng hoá của ta sang
ASEAN chắc chắn sẽ còn giảm nữa.
Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam ở khu vực ASEAN:
a)Thị trường Singapo:
Singapo là một thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối ASEAN,
chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN. Theo Bộ thương mại
Việt Nam thì năm 1992 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này
mới chỉ đạt 402 triệu USD thì 10 năm sau, năm 2002, Việt Nam đã xuất khẩu sang
Singapo mức 961 triệu USD.
Việt Nam xuất khẩu vào Singapo 3 nhóm hàng chính: (1) nhóm sản phẩm không
qua chế biến (trong đó có dầu thô), (2) nhóm sản phẩm sơ chế và (3) nhóm hàng
công nghiệp. Trong đó, nhóm (1) chiếm tỷ trọng cao nhất, từ 60-70% tổng kim
ngạch và sẽ tăng trong những năm tới. Việt Nam có triển vọng xuất khẩu một
số mặt hàng trong nhóm (2): rau quả (đặc biệt là thanh long) và thủ công mỹ nghệ.
Đối với nhóm (3), Việt Nam nên chú trọng thành lập các liên doanh với Singapo
trong lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ kiện phục vụ xuất khẩu hàng điện tử và viễn
thông nhằm tận dụng xu hướng đưa sản xuất sang những bước có chi phí sản xuất
thấp.
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Phụ lục 1 cho thấy từ năm 2000 đến năm 2002, có 5 trong số 10 mặt hàng chính
của Việt Nam xuất khẩu sang Singapo tăng trưởng khá mạnh: cao su, hải sản, thủ
công mỹ nghệ, rau quả và linh kiện điện tử. Các mặt hàng này đều là những mặt
hàng mà Việt Nam có thế mạnh, nguồn cung cấp khá dồi dào, vì thế trong những
năm tới đây, Việt Nam có nhiều triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ hơn nữa trong
việc xuất khẩu những mặt hàng này sang Singapo. Bên cạnh các mặt hàng có kim
ngạch tăng thì vẫn có một số mặt hàng giảm sút tương đối về cả lượng và giá trị: cà

phê, dầu thô, giầy dép, gạo, dệt may. Trong đó, cà phê là mặt hàng giảm mạnh về
khối lượng xuất khẩu (trung bình mỗi năm giảm khoảng 50%) và giá trị xuất khẩu
(trung bình mỗi năm giảm 65%). Một trong những nguyên nhân lý giải cho hiện
tượng trên là do cơ cấu sản phẩm của ta không còn phù hợp với nhu cầu của người
tiêu dùng nữa. Ngoài ra, ngày càng xuất hiện nhiều nước xuất khẩu cà phê trên thị
trường thế giới, vì vậy dẫn đến giá cà phê có xu hướng giảm dần.
Chính vì thế, trong tương lai, để tăng xuất khẩu vào thị trường Singapo, các
doanh nghiệp Việt Nam phải chuyển biến cơ cấu mặt hàng cho phù hợp với nhu
cầu của nước bạn. Đó là các sản phẩm điện tử, may mặc, giầy dép, cơ khí, nông-
lâm sản mà Việt Nam có nhiều thế mạnh. Có thể nói, Singapo là một thị trường lớn
mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể khai thác để tăng xuất khẩu.
b) Thị trường Malaysia.
Thị trường Malaysia tuy không phải là một thị trường trọng điểm của Việt Nam
nhưng vẫn là một trong 5 thị trường lớn thuộc ASEAN. Hàng năm lượng hàng hoá
xuất khẩu sang thị trường này chiếm khoảng 10% lượng hàng hoá của Việt Nam
xuất khẩu sang ASEAN. Các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường này nhìn chung
không có gì khác so với các thị trường khác trong cùng khu vực, trong đó nổi lên
một số mặt hàng chính sau: cà phê, cao su, dầu thô, gạo, hải sản, giầy dép…
Trong số các mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang Malaysia thì đáng
chú ý có mặt hàng cao su và dầu thô. Dầu thô tuy trong 2 năm 2000 và 2001 có sự
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
sụt giảm khá lớn về khối lượng và giá trị xuất khẩu (năm 2000 xuất khẩu 904,9
ngàn tấn tương đương 207,7 triệu USD; năm 2001 chỉ xuất được 662,7 ngàn tấn
tương đương 120,1 triệu USD) nhưng sang năm 2002, con số này lại được tăng lên
với khối lượng 771,5 ngàn tấn và giá trị xuất khẩu tương đương là 144,17 triệu
USD (tăng gần 120%). Đây là một tín hiệu đáng mừng đối với ngành xuất khẩu dầu

thô Việt Nam trong thời gian tới (Xem phụ lục 2).
Từ năm 2000 đến năm 2002, mặt hàng cao su có sự tăng trưởng vượt bậc, trung
bình mỗi năm tăng hơn 50% về cả lượng và giá trị. Đặc biệt về khối lượng xuất
khẩu năm 2002 so với năm 2001 tăng tới 75%, cho thấy mặt hàng cao su vẫn sẽ
tiếp tục giữ vững vị trí trên thị trường này và còn có thể tăng mạnh hơn nữa.
Các mặt hàng còn lại, một số mặt hàng có sự suy giảm nhưng cũng không đáng
kể hoặc gần như giữ nguyên về giá trị xuất khẩu. Vì vậy, nếu muốn Malaysia tiếp
tục nhập khẩu các sản phẩm truyền thống của Việt Nam thì các sản phẩm này vẫn
phải giữ được chất lượng tốt và tính cạnh tranh cần phải nâng cao hơn nữa.
c) Thị trường Indonesia.
Nhìn chung, hai nước Việt Nam ồa Indonesia thực hiện xuất, nhập khẩu để tiêu
dùng trong nước những mặt hàng bổ sung cho nhau (những mặt hàng mà nước kia
không có hoặc không đủ cho tiêu dùng trong nước). Indonesia nhập khẩu nông sản
của Việt Nam, chủ yếu là gạo, lạc nhân và đường thô. Riêng đối với gạo, nhu cầu
nhập khẩu của Indonesia không ổn định, tuỳ thuộc vào điều kiện khí hậu của nước
này.
Ngoài ra, Việt Nam còn thực hiện buôn bán thương mại hàng đổi hàng với
Indonesia. Việt Nam đổi nông sản lấy máy móc, thiết bị, nguyên liệu phục vụ sản
xuất, hoá chất và phân bón. Indonesia trong những năm vừa qua cũng đã xây dựng
nhiều liên doanh sản xuất tại Việt Nam để xuất khẩu sang Indonesia các mặt hàng
như giầy dép, dệt may. Indonesia cũng nhập hàng thô từ Việt Nam (chủ yếu là dầu
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368

×