Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Bảo hiểm thương mại ở một số quốc gia trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.3 KB, 54 trang )

BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

MỤC LỤC


1.

Lịch sử hình thành và phát triển BHTM

Khái niệm bảo hiểm đã hình thành từ lâu và ngành bảo hiểm trên
thế giới đã có lịch sử phát triển khá lâu dài. Trước công nguyên, ở Ai
Cập, những người thợ đẽo đá đã biết thành lập “quỹ tương trợ” để giúp
đỡ nạn nhân trong các vụ tai nạn. Từ đó, các hoạt động mang tính chất
của bảo hiểm phát triển dần theo sự phát triển của xã hội loài người.
Bắt đầu bằng hình thức các quĩ dự trữ, tương trợ đơn giản, các loại hình
bảo hiểm dần dần được hình thành và phát triển.
Bảo hiểm hàng hải được coi là có lịch sử phát triển sớm nhất
trong các ngành bảo hiểm còn tồn tại đến ngày nay, và nó đã đặt nền
móng cho sự phát triển của bảo hiểm sau này. Ban đầu là các hợp đồng
bảo hiểm giữa các thương gia và chủ tàu tại Ý, Bản hợp đồng bảo
hiểm cổ nhất còn lưu lại được phát hành tại Genoa - Italia vào năm
ngày 23/10/1347. Sau đó, cùng với "cuộc cách mạng thương mại"
vào thế kỷ 14, 15 thúc đẩy sự mở rộng vận tải hàng hải, bảo hiểm
hàng hải cũng phát triển mạnh mẽ. Vào thời gian này, nhu cầu giao
thương giữa Châu Âu và các lục điạ tăng mạnh và hầu hết việc đi lại
được thực hiện bằng đường biển. Những thỏa thuận bảo hiểm hàng hải
xuất hiện đảm bảo bồi thường cho các khách hàng nếu tàu của họ gặp
rủi ro. Từ Italia, bảo hiểm phát triển sang Anh một cách nhanh
chóng và đầy đủ hơn. Nền kinh tế vô cùng thịnh vượng của Anh trong
giai đoạn nửa sau của thế kỷ 17 đã tạo ra một nhóm người giàu đông
đảo. Họ ngày càng ưa thích những sản phẩm xa xỉ đến từ các lục địa xa


xôi khác. Tàu thuyền và hàng hóa của những đại gia này thường xuyên
phải đối mặt với vô số rủi ro giữa biển như thời tiết, thiên tai, cướp biển
hay nổi loạn, đồng nghĩa với việc mất trắng sau một đêm. Xuất phát từ
nhu cầu đó, Lloyd’s ra đời năm 1720, ban đầu chỉ là một quán cà
phê, xuất hiện những mẫu đơn bảo hiểm tàu và hàng (Lloyds SG form)
vẫn áp dụng cho đến ngày nay. Năm 1727, Liên đoàn bảo hiểm
Lloyd’s chính thức được thành lập. Vào thời đó, khi thương gia cần
bảo hiểm tàu, họ sẽ yêu cầu một bên trung gian đứng ra huy động
các thương gia khác chia sẻ một phần rủi ro. Nếu tàu thuyền, hàng
hóa gặp sự cố, bên trung gian sẽ làm việc với các th ương gia cho
tới khi rủi ro đã được bảo hiểm hoàn toàn . Những vụ bảo hiểm
nổi tiếng trong lịch sử như vụ chìm tàu Titanic năm 1912, vụ tai
Nhóm 5 | BHTM 1

2

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

2


nạn tàu chở dầu W.Bravry năm 1976... Ngày nay, Lloyd’s dần phát
triển thành hãng bảo hiểm có uy tín vào bậc nhất.
Bảo hiểm hỏa hoạn ra đời sau bảo hiểm hàng hải và là lĩnh vực
hoạt động chủ yếu của các công ty bảo hiểm trong thời kỳ đầu. Vào thế
kỷ XVII, tại các thành phố đông đúc ở Châu Âu, nhà cửa chủ yếu được
dựng bằng gỗ và lửa được dùng nhiều để sưởi ấm, chiếu sáng… Do
vậy, rủi ro cháy là rất cao, đòi hỏi sự ra đời của các công ty bảo hiểm
cung cấp các dịch vụ cứu hoả và bồi thường thiệt hại xảy cho người
được bảo hiểm khi xảy ra cháy. Sau đám cháy khủng khiếp ở thủ đô

London kéo dài 5 ngày (năm 1666), những công ty bảo hiểm hoả hoạn
đầu tiên đã xuất hiện ở Anh như: The Fire Office, Friendly Society Fire
Office. Sau đó, một loạt các công ty bảo hiểm cháy khác tiếp tục ra đời
ở Anh: Amicable (1696), Sun (1713), Union (1714), London (1714)…
Sau đó, bảo hiểm cháy mở rộng ra các nước khác trên lục địa Châu Âu:
ở Đức năm 1667, Pháp năm 1686. Sang thế kỷ XVIII, nhiều công ty
bảo hiểm hoả hoạn nổi tiếng ở Mỹ cũng ra đời.
Bảo hiểm nhân thọ ra đời khá sớm sau bảo hiểm hàng hải
nhưng do thiếu cơ sở khoa học nên bị nhà thờ cấm đoán. Hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ đầu tiên xuất hiện tại Anh vào năm 1583, một
thuyền trưởng nảy ra ý kiến yêu cầu công ty bảo hi ểm phi nhân
thọ đang bảo hiểm cho con tàu và hàng hoá của ông hãy bán thêm
hợp đồng bảo hiểm cho sinh mạng của mình . Sự kiện này khiến
các công ty bảo hiểm phi nhân thọ thấy rằng: “Con người cũng có
thể được bảo hiểm như tàu bè và hàng hoá”. Từ đó Các văn phòng
bán bảo hiểm nhân thọ lần lượt ra đời. Đến thế kỷ 17, Ferma,
Pascal và sau đó là Bernouli khai sinh và phát triển xác suất thống kê
toán. Cơ sở khoa học của bảo hiểm đã được hình thành.


Năm 1759, công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra
đời ở châu Mỹ nhưng chỉ bán các hợp đồng bảo hiểm
cho các con chiên trong nhà thờ của họ.



Năm 1762, công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable là
công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ở nước Anh áp
dụng phương pháp tính phí bảo hiểm dựa trên yếu tố
tỷ lệ tử vong.


Nhóm 5 | BHTM 1

3

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

3




Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa được thành
lập ở Bắc Mỹ.



Năm 1860 bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lưới đại lý bán
bảo hiểm nhân thọ.

Đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, nền kinh tế thế giới ngày
càng phát triển, các nghiệp vụ bảo hiểm mới nối tiếp nhau ra đời để bảo
đảm cho các rủi ro mới: bảo hiểm hàng không, bảo hiểm rủi ro xây
dựng và lắp đặt, bảo hiểm khai thác dầu khí… Bên cạnh các công ty
bảo hiểm, các tổ chức tái bảo hiểm ra đời càng góp phần mang lại
những bước phát triển ngày mạnh mẽ và vững chắc của bảo hiểm trên
toàn thế giới.
Cho đến nay bảo hiểm nhân thọ đã phát triển rất mạnh mẽ
và đa dạng. Từ những loại hình nhân thọ cơ bản là Bảo hiểm sinh
mạng có thời hạn (Bảo hiểm tử kỳ), Bảo hiểm trọn đời, Bảo hiểm

nhân thọ hỗn hợp, Bảo hiểm trợ cấp hưu trí, mỗi công ty bảo
hiểm đều thiết kế những sản phẩm mang những đặc thù riêng để
đáp ứng nhu cầu tài chính của từng khu vực dân cư và phù h ợp v ới
chính sách kinh tế, xã hội của từng quốc gia. Người ta cũng th ường
có những điều khoản bổ sung trong đó phạm vi bảo hiểm là tai
nạn hoặc bệnh tật, ốm đau, các bệnh hiểm nghèo xảy ra trong
thời hạn bảo hiểm của hợp đồng chính (là một trong bốn dạng
trên). Trên thế giới, hiện nay doanh số của bảo hiểm nhân th ọ
chiếm trên 50% doanh số của ngành bảo hiểm.

Nhóm 5 | BHTM 1

4

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

4


2.
2.1.

BHTM ở một số quốc gia trên thế giới

Các Doanh nghiệp BHTM, Trung gian BH và Tái BH ở một số
quốc gia
Ngày nay BHTM đang giữ một vị trí rất quan trọng trong nền
kinh tế nhiều quốc gia, đặc biệt ở các nước đang phát tri ển. Theo
tạp chí SIGMA số 4/1997 của SWISS: Nếu tính bình quân/năm,
người Nhật đã chi tiêu nhiều nhất về bảo hiểm: 5.088USD/người

dân. Đứng thứ hai là Thụy Sỹ: 4.507USD/người.Phần lớn các nước
công nghiệp đạt mức 1.200USD đến 2.400USD/người.Các n ước
công nghiệp hóa thườngở mức dưới 100USD/người.


Anh:

Tại Anh có 379 DN bảo hiểm nhân thọ trong đó 179 DN nước
ngoài, 903 DN bảo hiểm phi nhân thọ, trong đó có 563 DN nước ngoài.
Là đất nước có thị trường bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ lớn
nhất Châu Âu và lớn thứ ba thế giới, doanh thu từ bảo hiểm của Anh
đạt 29 tỉ bảng (đóng góp vào GDP Anh bằng ¼ Châu Âu). Tổng tài sản
1,9 tỉ bảng, thu hút 334.000 người làm việc trong đó có 114.300 lao
động trực tiếp, 219.700 trung gian bảo hiểm.
Theo số liệu thống kê năm 2014, bảo hiểm tài sản chi trả bình
quân 12,9 triệu bảng/ngày; Bảo hiểm sức khỏe thu hút 5,1 triệu người
tham gia bảo hiểm, chi trả 7,4 triệu bảng/ngày, lợi nhuận 247 triệu
bảng; Bảo hiểm du lịch trả 370 triệu bảng với 581.000 yêu cầu bảo
hiểm. Năm 2014 bảo hiểm xe cơ giới có gần 4 triệu yêu cầu bồi thường
với giá trị bình quân 2.728 bảng/vụ với tổng số tiền 9,8 tỉ bảng; Doanh
thu đạt 8 tỉ bảng, thu hút 29 triệu xe tham gia bảo hiểm.
Điểm đặc biệt, tại Anh có Liên đoàn bảo hiểm Lloyd’s (Lloyd’s
Underwriters Association).
• Đây là tên gọi chung của các công ty bảo hiểm Anh, xuất
phát từ tên một chủ quán cà phê Edward Lloyd tại London
vào cuối thế kỷ 18. Quán “Lloyd’s Coffee” là nơi gặp gỡ,
thông báo và trao đổi các thông tin, trao đổi nghiệp vụ thuê
tàu và bảo hiểm hàng hải. Năm 1727, Liên đoàn bảo hiểm
Lloyd’s chính thức thành lập, kinh doanh nghiệp vụ bảo
Nhóm 5 | BHTM 1


5

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

5








hiểm tại nước Anh và trên toàn thế giới. Lloyd's không
phải là một công ty mà là một thị trường bảo hiểm
gồm nhiều thành viên, thực hiện giao dịch bảo hiểm
thông qua 66 nghiệp đoàn, nó hoạt động như một
sàn giao dịch. Liên đoàn bảo hiểm Lloyd’s có ảnh hưởng
lớn đến thị trường bảo hiểm toàn thế giới về quy định các
quy tắc, điều kiện bảo hiểm và số lượng doanh thu.
Lloyd’s có một mạng lưới đại lý bảo hiểm lành nghề phục
vụ đắc lực tại hầu khắp các cảng khẩu quan trọng trên thế
giới.
Các Đại lý Lloyd’s: Là những đại lý do Liên đoàn Bảo
hiểm Lloyd’s của Anh quốc chỉ định và xây dựng thành
một mạng lưới đại lý tại hầu hết các cảng khẩu quan trọng
trên thế giới. Họ thường được tuyển chọn từ những người
thành thạo, giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực vận tải, giao
nhận và bảo hiểm. Đại lý Lloyd’s được giao nhiệm vụ theo

dõi và thông báo kịp thời cho Liên đoàn về tình hình hoạt
động hàng vận, các sự cố đường biển xảy ra tại địa phương
của mình (tàu đụng nhau, mắc cạn, cháy nổ, đắm,…) Khi
hàng hóa hoặc tàu bị tổn thất, chủ hàng và chủ tàu có thể
yêu cầu sự giúp đỡ của đại lý Lloyd’s hoạt động như một
người tư vấn chứ không phải là đại diện của Liên đoàn
Lloyd’s trừ khi nào họ được Liên đoàn Lloyd’s chính thức
uỷ quyền. Thông thường, khi có yêu cầu giám định tổn
thất hàng hoặc tàu, đại lý Lloyd’s sẽ sử dụng giám định
viên lành nghề, có kinh nghiệm tiến hành giám định và sau
đó, lập biên bản giám định theo mẫu của Lloyd’s (Lloyd’s
form) với chữ ký tên được đại lý Lloyd’s xác nhận.
Hiện nay, Lloyd's đã hiện diện tại Trung quốc, Brazil,
Mexico, Ấn độ, và Thổ nhĩ kỳ. Vandedael - giám đốc th ị
trường quốc tế Lloyd's cho biết, Lloyd's sẽ tiếp tục
phát triển rộng tại các thị trường này và đây là định
hướng chung cho đến năm 2025. Tuy nhiên, "Chúng tôi
vẫn tiếp tục tìm kiếm cơ hội tại các thị trường truyền
thống đã phát triển như Hoa kỳ, vì các thị tr ường này
chiếm khoảng 41% tổng thu phí bảo hiểm."
Ngoài lĩnh vực hàng hải truyền thống, các hoạt động
Nhóm 5 | BHTM 1

6

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

6



của Lloyd's hiện đã vươn sang hầu hết các lĩnh v ực
khác như hàng không, thiên tai, tai nạn nghề nghiệp,
động lực... Các công ty hàng đầu thế giới trong các lĩnh
vực sản xuất ôtô, dược phẩm, hàng không, ngân hàng,
điện tử, chế tạo hiện đều là khách hàng của Lloyd's.
Chẳng hạn, người mẫu Petra Morgan trả mỗi năm
86.000 USD để bảo hiểm... bộ ngực của mình. Nếu bộ
ngực bị tổn thương hoặc biến dạng, dẫn đến việc ph ải
chấm dứt sự nghiệp, cô sẽ được bồi thường 16 triệu
USD. Hay bảo hiểm lên tới 10 triệu bảng Anh (khoảng
14 triệu USD) cho… cái lưỡi của một chuyên gia nếm
cà phê. Lloyd's còn bảo hiểm cho các căn cứ quân sự
của Mỹ ở nước ngoài trước nguy cơ bị khủng bố tấn
công.
Thế giới hiện đại ngày một xuất hiện nhiều biến
động, biến đổi khí hậu khiến thiên tai xảy ra th ường
xuyên hơn, các bệnh dịch mới xuất hiện nhiều hơn,
chính trị nhiều khu vực cũng trở nên rối ren thậm chí
còn liên quan tới cả khủng bố, chưa kể đến ảnh hưởng
của mặt trái công nghệ.
Lĩnh vực bảo hiểm của Lloyd's rất phong phú, hầu như
có mặt ở khắp mọi nơi.
Tìm hiểu về một doanh nghiệp bảo hiểm nổi bật tại Anh: Tập
đoàn Prudential
• Thành lập năm 1848 tại Luân Đôn, Vương Quốc Anh, Tập
đoàn Prudential là một trong những tập đoàn tài chính
hàng đầu thế giới, cung cấp các sản phẩm bảo hiểm nhân
thọ, dịch vụ tài chính và quản lý tài sản tại Vương quốc
Anh, Mỹ và Châu Á. Với hơn 165 năm lắng nghe và thấu
hiểu nhu cầu của khách hàng, Prudential luôn nằm trong

top 10 tập đoàn bảo hiểm hàng đầu thế giới và là một
trong những tập đoàn bảo hiểm nhân thọ hàng đầu nước
Anh.
• Hiện nay, Prudential phục vụ khoảng 24 triệu khách hàng
bảo hiểm nhân thọ khắp thế giới và quản lý tài sản với
tổng trị giá lên đến 509 tỷ Bảng Anh (tính đến
Nhóm 5 | BHTM 1

7

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

7








31/12/2015). Tại châu Á, với hơn 90 năm kinh nghiệm,
Prudential hiện đang hoạt động tại 14 thị trường, trong đó
Prudential có mặt tại thị trường Việt Nam từ 1999.
Sự phối hợp hoạt động chặt chẽ của các trụ sở văn phòng,
đơn vị kinh doanh trên khắp thế giới đã giúp Prudential
tận dụng được lợi thế từ nhu cầu tích lũy tài sản và nhu
cầu thu nhập hưu trí ngày càng tăng của khách hàng. Quy
mô hoạt động toàn cầu và thu nhập từ các khu vực địa lý
và các sản phẩm đa dạng đã mang lại cho Prudential ưu

thế vượt trội.
Tại Vương quốc Anh, Prudential là Công ty Bảo hiểm
Nhân thọ và Quỹ Hưu trí hàng đầu cung cấp các sản phẩm
tài chính cá nhân đa dạng.

Mỹ

Ngành công nghiệp bảo hiểm của Hoa Kỳ được xây dựng trên
mô hình bảo hiểm Anh. Vào năm 1735, Công ty bảo hiểm đầu tiên của
Hoa Kỳ đã ra đời ở Charleston, thủ phủ bang South Carolina. Vào năm
1759, Hội nghị Giáo hội Trưởng lão Philadelphia đã quyết định bảo trợ
cho tập đoàn bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hoa Kỳ. Tập đoàn này
hoạt động vì lợi ích của các mục sư và tín đồ. Ngày 22/5/1761, tập
đoàn này đã ký kết được hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên với công
chúng Mỹ.
Mặc dầu vậy, mãi đến 80 năm sau (tức là sau năm 1840) dịch vụ
bảo hiểm nhân thọ Mỹ mới thật sự cất cánh. Chìa khóa dẫn đến thành
công chính là nhờ các Công ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự
chống đối từ các nhóm tôn giáo.
Khi Mỹ chuyển mình từ một thuộc địa xa bờ của Anh trở thành
một thế lực độc lập và từ một nước nông nghiệp thành nước công
nghiệp phát triển, ngành kinh doanh bảo hiểm của nước này cũng phát
triển mạnh theo hướng từ một vài Công ty ban đầu trở thành một ngành
công nghiệp quy mô lớn.
Một Doanh nghiệp BHTM nổi bật tại Mỹ: Tập đoàn Chubb


Tháng Giêng năm 2016, Tập đoàn ACE mua lại Tập đoàn
Nhóm 5 | BHTM 1


8

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

8






Chubb, tạo nên một tập đoàn bảo hiểm tài sản và trách
nhiệm lớn nhất thế giới được niêm yết trên thị trường
chứng khoán, và hoạt động dưới thương hiệu nổi tiếng
Chubb.
Tập đoàn Chubb
Lịch sử của Tập đoàn Chubb bắt đầu từ năm 1882, khi
Thomas Caldecot Chubb và con trai của ông, Percy, khai
trương hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hải ở vùng
hải cảng của thành phố New York. Để khởi nghiệp, họ đã
huy động 1.000 USD từ mỗi thương gia trong tổng số 100
thương gia nổi tiếng, và thời gian đầu chủ yếu tập trung
vào dịch vụ bảo hiểm tàu biển và hàng hóa.
Cha con Chubb đã rất xuất sắc trong việc chuyển rủi ro
thành thắng lợi, bằng cách giúp người mua bảo hiểm
phòng tránh trước khi thảm họa xảy ra. Vào thời điểm
chuyển giao giữa hai thế kỷ, Chubb đã có mối quan hệ
chặt chẽ với các đại lý và môi giới bảo hiểm. Những người
này chỉ định khách hàng cho các chuyên viên thẩm định
bảo hiểm của Chubb.

Tập đoàn Chubb không đề cao quy mô công ty, và chỉ coi
đó là một thước đo cho những gì công ty đạt được. Tại lễ
kỷ niệm 75 năm thành lập tập đoàn vào năm 1957, Hendon
Chubb – người đã cùng anh trai Percy lãnh đạo tập đoàn từ
năm 1895 – đã phát biểu, “ "Tôi cho rằng có lẽ hiện nay
các doanh nghiệp Mỹ đang có xu hướng quá coi trọng quy
mô của công ty, trong khi đối với tôi, đó chỉ nên là một sản
phẩm phụ của thành quả lao động."
Tập đoàn ACE
ACE Limited được thành lập năm 1985 trước tình trạng
đang có khủng hoảng thừa về bảo hiểm trách nhiệm và bảo
hiểm nhà quản lý trên thị trường bảo hiểm Hoa Kỳ. Nhận
biết được nhu cầu, một số nhân vật tiên phong đã đón đầu
và giúp hình thành một liên doanh góp vốn để thành lập
một loại hình công ty bảo hiểm mới. Những nhà tài trợ
sáng lập này đã lập ra một danh sách gồm 34 công ty nổi
tiếng từ nhiều ngành khác nhau, bao gồm: chăm sóc sức
khỏe, dược phẩm, sản xuất, vận tải, tiện ích, năng lượng,
ngân hàng và công nghiệp ô tô.
Nhóm 5 | BHTM 1

9

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

9





Từ khi thành lập đến những năm 1990, ACE đã phát triển
nhanh chóng thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm, thành
lập các mối quan hệ đối tác chiến lược và mua lại các công
ty. Một bước chuyển quan trọng của ACE là vào năm
1999, khi công ty mua lại mảng bảo hiểm tài sản và trách
nhiệm trên thị trường quốc tế và trong nước của Tập đoàn
Cigna, Công ty Bảo hiểm Bắc Mỹ (INA). Thương vụ này
đã khiến ACE lập tức có một hệ thống toàn cầu và sắp
nhập lịch sử 200 năm của INA vào lịch sử của công ty.
Trong thập kỷ sau và tiếp theo đó, ACE tiếp tục có những
bước phát triển trong việc mở rộng sự hiện diện ra thị
trường quốc tế và thông qua các dự án mua lại công ty
mang tính chiến lược.
Trong thời gian đó, danh tiếng của ACE ngày càng được
củng cố - một tập đoàn bảo hiểm ưu việt, cung cấp dịch vụ
vượt trội thông qua một hệ thống toàn cầu xuất sắc.
Khi mua lại Chubb vào năm 2016, ACE đã là một tập đoàn
bảo hiểm hàng đầu thế giới, phục vụ khách hàng từ các tập
đoàn đa quốc gia lớn nhất đến các cá nhân và hộ gia đình
trên toàn thế giới.
Tập đoàn Chubb mới
Hiện nay tập đoàn Chubb mới hoạt động trên 54 nước với
hệ thống 120 văn phòng đại diện trên khắp toàn cầu.
Chubb cũng cộng tác với 8,500 đại lý và các nhà môi giới
độc lập toàn thế giới và cung cấp dịch vụ bảo hiểm tài
sản , trách nhiệm cho các tổ chức thương mại và cá nhân,
bảo hiểm tai nạn con người và y tế bổ sung, tái bảo hiểm
và bảo hiểm nhân thọ cho đa dạng các nhóm khách hàng
khác nhau.


Hiện nay , kênh phân phối chủ yếu mà hầu hết các doanh nghiệp
BHNT dâng sử dụng vẫn là qua mạng lưới Đại lý. Hoạt dộng bảo hiểm
qua kênh này vẫn tỏ ra khá hiệu quả với việc đóng góp doanh thu.




Công ty bảo hiểm xe cơ giới State Farm với hơn 84,000
đại lý và nhân viên, công ty hiện đang cung cấp dịch vụ
bảo hiểm cho hơn 80 triệu khách hàng ở Mỹ và Canada.
Công ty bảo hiểm Farmers cung cấp dịch vụ bảo hiểm
cho hơn 10 triệu hộ gia đình với hơn 20 triệu hợp đồng
Nhóm 5 | BHTM 1

10

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

10






bảo hiểm cá nhân trên khắp tất cả 50 tiểu bang, thông qua
những nỗ lực đóng góp của hơn 50,000 đại lý độc quyền
và độc lập và đội ngũ nhân viên lên đến gần 24,000 người.
Bảo hiểm Chubb Corp cũng cộng tác với 8,500 đại lý và
các nhà môi giới độc lập trên toàn thế giới cung cấp dịch

vụ bảo hiểm về tài sản và thiệt hại cho khách hàng thông
qua hệ thống 120 văn phòng đại diện trên 27 quốc gia
khắp toàn cầu.
Bảo hiểm COUNTRY Financial có hơn 3,000 nhân viên
và 2,000 đại diện tài chính cung cấp đầy đủ các loại sản
phẩm và dịch vụ để đáp ứng các nhu cầu về tài chính và
bảo hiểm cho khách hàng.

Bên cạnh kênh phân phối đại lý là chủ đạo, các doanh nghiệp
BHNT cũng đã bắt đầu sử dụng các kênh phân phối hiện đại khác như
các hình thức bán sản phẩm trực tiếp qua điện thoại, qua mạng
internet và đặc biệt là hệ thống các ngân hàng thương mại
(Bancassurane ) đã được nhiều doanh nghiệp lớn triển khai và mở
rộng. Khiến cho hệ thống các kênh phân phối trên thị trường ngày càng
phát triển.

Nhóm 5 | BHTM 1

11

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

11


2.2.

Các sản phẩm

Sản phẩm bảo hiểm, về bản chất là một dịch vụ, một lời hứa, một

lời cam kết mà công ty bảo hiểm đưa ra với khách hàng. Khách hàng
đóng phí để đổi lấy những cam kết bồi thường hoặc chi trả trong tương
lai. Khác với sản phẩm vật chất mà người mua có th ể cảm nhận
được qua cac giác quan, người mua sản phẩm bảo hiểm không thể
chỉ ra mầu sắc, hình dáng, kích thước hay mùi vị của sản phẩm. H ọ
cũng không thể cảm nhận được bằng các giác quan như cầm nắm,
sờ mó, ngủi hoặc nếm thử…
Để khắc phục những khó khăn đó, cũng là đ ể củng cố lòng
tin của khách hàng, các doanh nghiệp bảohiểm tìm cách tăngtính
hữu hình của sản phẩm: chú ý những lợi ích có liên quan đến d ịch
vụ: sử dụng những người nổi tiếng, có uy tín tuyên truy ền d ịch v ụ;
phát triển hệ thống đại lý chuyên nghiệp; xây dựng uy tín của công
ty bảo hiểm; tăng cường vai trò quan trọng của hoạt đ ộng
marketing. Như vậy, lòng tin và chất lượng dịch vụ khách hàng
chính là chìa khóa để bán sản phẩm bảo hiểm.
Bảo hiểm Phi nhân thọ
Sản phẩm của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân th ọ
cũng rất giống nhau, đặc biệt là loại hình bảo hiểm tự nguyện, ch ỉ
khác đôi chút về quyền lợi, mức phí đóng.

Nhóm 5 | BHTM 1

12

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

12


Hiện khối doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đang nghiên

cứu các sản phẩm mới, tiềm năng như: bảo hiểm khách du lịch l ữ
hành, các hoạt động du lịch mạo hiểm; bảo hiểm hàng nông s ản
Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài (rau, hoa quả, động vật t ươi
sống...); bảo hiểm vật chất xe ô tô theo phương th ức bồi th ường
bằng thay thế phụ tùng mới và công thay thế trong bối cảnh giá xe
hạ, số lượng ô tô tăng khi thuế suất thuế nh ập khẩu sẽ gi ảm v ề
0% với các nước ASEAN vào năm 2018, Nhật Bản năm 2022, châu
Âu và các nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình D ương
năm 2023.


Mỹ

Hình thức bảo hiểm trách nhiệm công cộng xuất hiện trong
những năm 1880 và cùng với phát minh ra xe ô tô, hình thức bảo hiểm
này đã được công chúng đón nhận và ngày càng thể hiện được tầm
quan trọng.
Ngày nay, các doanh nghiệp tại Mỹ có nhiều loại hình thức sản
phẩm đa dạng, phóng phú đáp ứng nhu cầu ngày càng cao với sự phát
triển của kinh tế - xã hội. Các công ty Bảo hiểm, điển hình là Chubb
với lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ đã cung cấp dịch vụ bảo hiểm tài
sản , trách nhiệm cho các tổ chức thương mại và cá nhân, bảo hiểm
tai nạn con người
Ví dụ cụ thể Tại Chubb, lại chia ra các loại sản phẩm:
Nhóm 5 | BHTM 1

13

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1


13






Bảo hiểm cá nhân: Bảo hiểm Tai nạn cá nhân, Bảo hiểm
Phi nhân thọ cho Cá nhân, Đầu tư, Bảo hiểm Nhân thọ,
Bảo hiểm Sức khỏe, Bảo hiểm Du lịch.
Thương mại:
+ Bảo hiểm Thương mại theo Ngành nghề: Xây dựng,
Năng lượng, Các tổ chức Tài chính, Sản xuất, Hàng hải,
Bất động sản, Công nghệ Thông tin và Mạng.
+ Bảo hiểm Thương mại theo Loại Sản phẩm: Tai nạn và
Sức khỏe, Thương vong, Bảo hiểm Xây dựng, Bảo hiểm
Năng lượng, Môi trường, Các dòng Sản phẩm Bảo hiểm
Tài Chính, Bảo hiểm Hàng hải, Bảo hiểm Bất động sản.

Anh:
Bảo hiểm Phi nhân thọ ở Anh phát triển qua một quá trình lâu
dài. Ngày nay, các sản phẩm của các doanh nghiệp tại Vương Quốc
Anh cũng khá phong phú.


Bảo hiểm nhân thọ
Trên thế giới hầu hết các doanh nghiệp đều cũng cấp các loại
hình bảo hiểm Tử kỳ và hỗn hợp.
Ví dụ :
 Anh:

Aviva: là một công ty bảo hiểm hàng đầu trong thị
trường bảo hiểm nhân thọ của Vương quốc Anh và
Ireland, với 13% cổ phần trong thị trường đời sống và
lương hưu của Anh.
Đây cũng là công ty bảo hiểm lớn thứ 5 trên th ế gi ới, là
một trong những nhà cung cấp hàng đầu về các sản
phẩm đời sống và lương hưu cho Châu Âu và có nhi ều
doanh nghiệp lớn trên thế giới. Với lịch sử từ năm 1696,
Aviva có 30 triệu khách hàng trên toàn thế giới. Nó có
hơn 240 tỷ bảng (430 tỷ) tài sản đang được quản lý.
Ngoài những sản phẩm BHNT truyền thống, Aviva đưa ra
những sản phẩm Bảo hiểm Chăm sóc tương lai: Nếu
người được bảo hiểm được chẩn đoán bị bệnh nghiêm
trọng hoặc nếu tử vong, Aviva giúp đảm bảo rằng gia
đình bạn được bảo vệ bằng Bảo hiểm như bảo hiểm thế
Nhóm 5 | BHTM 1

14

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

14


chấp cho người tử vong, Bảo hiểm cho gia đình và cuộc
sống, Bảo hiểm nhân thọ cho người từ 50 tuổi...


Mỹ:
Metlife : Các sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm nhân thọ cá

nhân của MetLife bao gồm bảo hiểm nhân thọ dài hạn và
một số loại hình bảo hiểm nhân thọ , bao gồm toàn bộ
cuộc sống, đời sống toàn cầu và toàn bộ chi phí bảo hiểm
nhân thọ. Những dịch vụ khác nhau liên quan đến thời
gian và số tiền bảo hiểm có sẵn và liệu một khám sức
khỏe là cần thiết cho bảo hiểm. Công ty cũng cung cấp
bảo hiểm nhân thọ nhóm, cung cấp thông qua nhà tuy ển
dụng, bao gồm cuộc sống có thời hạn, cuộc sống vĩnh
viễn, và chết do tai nạn và phân chia. MetLife là công ty
bảo hiểm nhân thọ lớn nhất ở Hoa Kỳ, dựa trên bảo
hiểm nhân thọ

Nhóm 5 | BHTM 1

15

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

15


2.3.

Khách hàng
Xét tình hình khách hàng ở một số nước:


Anh

Với mức thu nhập bình quân hàng năm năm 2015 là 26.500

bảng với GDP là 3,003 tỷ USD thì chi tiêu cho bảo hiểm là chiếm
10,5% GDP.
Cơ cấu khách hàng mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo
hiểm năm 2016: đối với bảo hiểm ô tô, 90% là khách hàng chuyển từ
dịch vụ ở công ty khác sang và 10% là khách hàng mua mới, 58% mua
tập thể còn 42% mua theo kiểu truyền thống; đối với bảo hiểm bất động
sản, 85% là khách hàng chuyển từ dịch vụ ở công ty khác sang và 15%
là khách hàng mua mới.
Đa số người tiêu dùng ở Anh mua ít nhất một sản phẩm bảo hiểm
trong số các loại bảo hiểm động cơ, tài sản, tai nạn, sức khỏe, trách
nhiệm pháp lý, bảo hiểm vật nuôi,… Vào năm 2013, các doanh nghiệp
bảo hiểm ở Anh nhận được trên toàn thế giới phí bảo hiểm ròng là 50,2
tỷ bảng Anh và trả tiền cho các yêu cầu bồi thường trị giá 32,1 tỷ bảng
Anh.
Trong số 26,4 triệu hộ gia đình ở Anh trong năm 2012:


20,1 triệu người có bảo hiểm nội dung



19,6 triệu đã có bảo hiểm xe máy



17 triệu người có bảo hiểm bất động sản



3,1 triệu người đã được bảo hiểm thế chấp




2,8 triệu khách hàng đã bảo hiểm cho vật nuôi của họ, với
trên 95% bảo hiểm dành cho mèo và chó.

Khoảng 70% khách hàng sẵn sàng chia sẻ ít nhất một dữ liệu cá
nhân cho doanh nghiệp bảo hiểm. 20% khách hàng giữ liên lạc về vấn
Nhóm 5 | BHTM 1

16

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

16


đề P&C công ty và 18% khách hàng giữ liên lạc chia sẻ về cuộc sống
của họ với doanh nghiệp bảo hiểm(năm 2016).
Về việc đánh giá chất lượng của dịch vụ năm 2016, khoảng 42%
đánh giá tốt về bảo hiểm ô tô, khoảng 45% đánh giá tốt về bảo hiểm bất
động sản, khoảng 40% đánh giá tốt về bảo hiểm nhân thọ và khoảng
61% xem các công ty bảo hiểm là tiềm năng của các dịch vụ bổ sung.


Mỹ
Với mức thu nhập bình quân hàng năm năm 2015 là 41.355
USD với GDP là 18,287 tỷ USD thì chi tiêu cho bảo hiểm là chiếm
11,3% GDP.
Cơ cấu khách hàng mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo

hiểm năm 2016: đối với bảo hiểm ô tô, 83% là khách hàng chuyển từ
dịch vụ ở công ty khác sang và 17% là khách hàng mua mới, 18% mua
tập thể còn 82% mua theo kiểu truyền thống; đối với bảo hiểm bất động
sản, 55% là khách hàng chuyển từ dịch vụ ở công ty khác sang và 45%
là khách hàng mua mới.
Khoảng 80% khách hàng sẵn sàng chia sẻ ít nhất một dữ liệu cá
nhân cho doanh nghiệp bảo hiểm. 15% khách hàng giữ liên lạc về vấn
đề P&C công ty và 26% khách hàng giữ liên lạc chia sẻ về cuộc sống
của họ với doanh nghiệp bảo hiểm(năm 2016).
Về việc đánh giá chất lượng của dịch vụ năm 2016, khoảng 68%
đánh giá tốt về bảo hiểm ô tô, khoảng 67% đánh giá tốt về bảo hiểm bất
động sản, khoảng 58% đánh giá tốt về bảo hiểm nhân thọ và khoảng
62% xem các công ty bảo hiểm là tiềm năng của các dịch vụ bổ sung.

Nhóm 5 | BHTM 1

17

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

17




Nhật
Với mức thu nhập bình quân hàng năm là 4140000 Yên với
GDP là 4,882 tỷ USD thì chi tiêu cho bảo hiểm là chiếm 7,3% GDP.
Cơ cấu khách hàng mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo
hiểm năm 2016: đối với bảo hiểm ô tô, 82% là khách hàng chuyển từ

dịch vụ ở công ty khác sang và 18% là khách hàng mua mới, 60% mua
tập thể còn 40% mua theo kiểu truyền thống.
Khoảng 60% khách hàng sẵn sàng chia sẻ ít nhất một dữ liệu cá
nhân cho doanh nghiệp bảo hiểm. 22% khách hàng giữ liên lạc về vấn
đề P&C công ty và 24% khách hàng giữ liên lạc chia sẻ về cuộc sống
của họ với doanh nghiệp bảo hiểm(năm 2016).
Về việc đánh giá chất lượng của dịch vụ năm 2016, khoảng 22%
đánh giá tốt về bảo hiểm ô tô, khoảng 20% đánh giá tốt về bảo hiểm bất
động sản, khoảng 22% đánh giá tốt về bảo hiểm nhân thọ và khoảng
80% xem các công ty bảo hiểm là tiềm năng của các dịch vụ bổ sung.
Tóm lại, Trình độ dân trí, sự hiểu biết ý nghĩa tác dụng và
sự cần thiết của bảo hiểm, mức sống và thói quen mua bảo hiểm
của người dân là một nhân tố xã hội ảnh hưởng tới sự phát tri ển
của thị trường bảo hiểm.




Trình độ dân trí và mức sống quyết định lượng khách
hàng tiềm năng: Khách hàng tiềm năng bao gồm khách
hàng thực tế đang tham gia mua bảo hiểm và bộ phận
khách hàng trong tương lai sẽ tham gia mua bảo hiểm.
Qui mô, số lượng, chất lượng của khách hàng tiềm
năng có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đến thị
trường bảo hiểm.

Do đó, ở các nước phát triển, thị trường bảo hiểm phát triển
rất mạnh mẽ.

Nhóm 5 | BHTM 1


18

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

18


2.4.

Luật pháp
 Anh

Về bảo hiểm ở Anh Quốc, Cơ quan Dịch vụ Tài chính đã đảm
nhận bảo hiểm từ Hội đồng Tiêu chuẩn Bảo hiểm Tổng hợp năm
2005; pháp luật thông qua bao gồm Đạo luật Công ty Bảo hiểm năm
1973 và một năm 1982, và Cải cách để bảo hành và các khía cạnh
khác được thảo luận vào năm 2012.
Quy chế Bảo hiểm Vương quốc Anh:


Đạo luật Thị trường và Dịch vụ Tài chính năm 2000.



Sổ tay Hướng dẫn về Dịch vụ Tài chính (FSA).



Tuyên bố FSA và truyên bố chính sách.




Liên đoàn bảo hiểm Lloyds của London.



Dịch Vụ Thanh Tra Viên Tài Chính.

Điều lệ Hợp đồng Bảo hiểm Vương quốc Anh:


Đạo luật bảo hiểm người tiêu dùng 2012.



Đạo luật đảm bảo cuộc sống năm 1774.



Đạo luật Bảo hiểm Hàng Hải năm 1906.



Đạo luật bên thứ ba năm 2010.



Đạo luật bên thứ ba năm 1930.


Nhóm 5 | BHTM 1

19

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

19




Mỹ

Như một vấn đề ban đầu, các công ty bảo hiểm thường phải tuân
theo tất cả các luật và quy định giống như bất kỳ loại hình kinh doanh
khác. Điều này bao gồm phân vùng và sử dụng đất, luật tiền lương,
giờ, luật thuế và các quy định về chứng khoán. Cũng có những quy
định khác mà các công ty bảo hiểm cũng phải tuân theo. Quy chế của
các công ty bảo hiểm thường được áp dụng ở cấp Nhà nước và mức độ
điều chỉnh khác nhau giữa các quốc gia.
Quy chế của ngành bảo hiểm bắt đầu ở Hoa Kỳ vào những năm
1940, thông qua một số phán quyết của Toà án Tối cao Hoa Kỳ . Phán
quyết đầu tiên về bảo hiểm đã xảy ra vào năm 1868 (trong Paul v.
Virginia cầm quyền), với phán quyết của Tòa án Tối cao rằng hợp đồng
bảo hiểm không phải là trong bản thân hợp đồng thương mại và bảo
hiểm đó không phải tuân theo quy định của liên bang. Đây là "tai nạn
tư pháp", như nó được gọi, ảnh hưởng đến sự phát triển của quy chế
bảo hiểm cấp tiểu bang. Quan điểm này không thay đổi cho đến năm
1944 (trong Hoa Kỳ v. Đông Nam Hiệp hội Underwriters phán quyết),
Tại Hoa Kỳ mỗi tiểu bang thường có một đạo luật tạo ra một cơ

quan hành chính. Các cơ quan này thường được gọi là Sở Bảo hiểm,
hoặc một số tên tương tự, và quan chức chính là Ủy viên Bảo hiểm,
hoặc một viên chức có tên tương tự. Cơ quan này sau đó tạo ra một
nhóm hành chính quy định để quản lý các công ty bảo hiểm đang cư trú
tại, hoặc làm kinh doanh trong tiểu bang. Ở Hoa Kỳ, quy định về các
công ty bảo hiểm gần như được thực hiện bởi một số tiểu bang và
các cơ quan bảo hiểm của họ. Chính phủ liên bang đã được miễn trừ
bảo hiểm từ quy định của liên bang trong hầu hết các trường hợp.
Nhóm 5 | BHTM 1

20

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

20


Trong trường hợp một công ty bảo hiểm tuyên bố phá sản , nhiều
quốc gia hoạt động độc lập các dịch vụ và quy định để đảm bảo ít gặp
khó khăn về tài chính ( Hiệp hội các Ủy ban Bảo hiểm quốc gia hoạt
động như một dịch vụ tại Hoa Kỳ).
Ở Hoa Kỳ và các cơ quan có thẩm quyền tương đối cao khác,
phạm vi điều chỉnh vượt ra ngoài sự giám sát thận trọng đối với các
công ty bảo hiểm và mức độ đầy đủ về vốn của họ, và bao gồm các vấn
đề như đảm bảo rằng chủ sở hữu hợp đồng được bảo vệ chống
lại các yêu cầu về đức tin xấu của bên bảo hiểm, Phí bảo hiểm không
quá cao (hoặc cố định), và các hợp đồng và chính sách ban hành đạt
tiêu chuẩn tối thiểu. Hành động xấu có thể tạo ra nhiều khả năng; Hãng
bảo hiểm từ chối yêu cầu bồi thường có vẻ hợp lệ trong hợp đồng hoặc
chính sách, hãng bảo hiểm từ chối thanh toán một cách vô lý thời gian,

hãng bảo hiểm gánh vác chứng cứ về người được bảo hiểm - thường
trong trường hợp yêu cầu bồi thường không thể chấp nhận được. Các
vấn đề khác của luật bảo hiểm có thể phát sinh khi việc định giá xảy ra
giữa các công ty bảo hiểm, Tạo ra một môi trường cạnh tranh không
lành mạnh cho người tiêu dùng. Một ví dụ đáng chú ý là nơi mà Zurich
Financial Services - cùng với một số công ty bảo hiểm khác - giá chính
sách thổi phồng theo một phong cách chống cạnh tranh . Nếu một công
ty bảo hiểm bị phát hiện là có tội gian lận hoặc lừa đảo, họ có thể bị
phạt bởi cơ quan quản lý hoặc trong vụ kiện của bên được bảo hiểm
hoặc bên liên quan. Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, hoặc nếu bên
đã có một loạt các khiếu nại, quyết định, giấy phép của hãng bảo hiểm
có thể bị thu hồi hoặc đình chỉ. Cần lưu ý rằng những hành động đức
tin xấu xa là rất hiếm ở bên ngoài Hoa Kỳ. Ngay cả ở Hoa Kỳ, trật tự
đầy đủ của học thuyết được giới hạn ở một số tiểu bang như

Nhóm 5 | BHTM 1

21

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

21


California. Hoặc nếu bên đó đã có một loạt các khiếu nại hoặc phán
quyết, giấy phép của hãng bảo hiểm có thể bị thu hồi hoặc đình chỉ.
Bên cạnh đó, các quy định ở một số quốc gia khác:


Nhật

Các lớp bắt buộc về bảo hiểm tại Nhật Bản bao gồm:


Bảo hiểm trách nhiệm pháp lý bắt buộc về ô tô. Chủ sở
hữu hoặc người sử dụng ô tô (với một số trường hợp ngoại
lệ) phải mua bảo hiểm trách nhiệm pháp lý bao gồm tử
vong hoặc thương tật cơ thể của bên thứ ba phát sinh từ
hoạt động (Điều 3, 5 và 11 của Đạo luật Bảo đảm Trách
nhiệm Xe hơi (Đạo luật Không. 97 năm 1955, với sự sửa
đổi)).



Bảo hiểm trách nhiệm năng lượng hạt nhân. Các nhà
khai thác kinh doanh hạt nhân tham gia vào lắp đặt lò phản
ứng hạt nhân, chế biến nhiên liệu hạt nhân hoặc nếu không
trong các doanh nghiệp liên quan đến năng lượng hạt nhân
phải mua trách nhiệm pháp lý bảo hiểm bao gồm thiệt hại
liên quan đến năng lượng hạt nhân cho bên thứ ba kết quả
từ hoạt động kinh doanh đó (Điều 6, 7, 7-2 và 8 của Đạo
luật bồi thường thiệt hại hạt nhân (Đạo luật số 147 năm
1961, như sửa đổi)) để bao gồm các sự kiện nhất định
được miễn trừ theo bảo hiểm đó (ví dụ như động đất và
sóng thần), các nhà khai thác kinh doanh hạt nhân tiếp tục
phải ký hợp đồng bồi thường tổn thất năng lượng hạt nhân
với chính phủ Nhật Bản (Điều 6, 7, 7-2 và 10 của Đạo luật
về Bồi thường thiệt hại hạt nhân và các Điều 2 và 3 của
Nhóm 5 | BHTM 1

22


Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

22


Đạo luật về Hợp đồng bảo vệ bồi thường thiệt hại hạt nhân
(Đạo luật Không. 148 năm 1961, với sự sửa đổi)).


Bảo hiểm và bảo hiểm bồi thường cho tàu biển. Chủ tàu
hoặc người thuê tàu chở hàng không có trọng tải từ 100
tấn trở lên: (I) nếu tàu của Nhật Bản đăng ký tham gia vào
hoạt động quốc tế, là hành trình, hoặc (II) nếu tàu của
nước ngoài đăng ký nhập hoặc rời khỏi cảng Nhật Bản
hoặc sử dụng các phương tiện neo đậu tại Nhật Bản, phải
mua bảo hiểm (i) các thiệt hại phát sinh do ô nhiễm do rò
rỉ hoặc xả dầu nhiên liệu bunker được nạp bởi các tàu đó
và (ii) chi phí cho việc dỡ bỏ hoặc các biện pháp cần thiết
khác phát sinh từ việc bỏ tàu đó vào lãnh thổ Nhật Bản do
bị mắc kẹt, chìm hoặc bất kỳ lý do nào khác (các bài báo
39-4 và 39-5 của Đạo luật trách nhiệm pháp lý đối với
thiệt hại do ô nhiễm dầu (Đạo luật Không. 95 của năm
1975, với sự sửa đổi)).

Các cư dân Nhật Bản được yêu cầu tham gia vào nhiều bảo hiểm
bao gồm một hệ thống an sinh xã hội do quốc gia và chính quyền địa
phương, bao gồm:



Chủ doanh nghiệp có nhân viên, về nguyên tắc tham gia
trong hệ thống bảo hiểm tai nạn lao động công nghiệp,
theo những khoản trợ cấp bảo hiểm được trả cho người lao
động trong trường hợp có liên quan đến công việc thương
tích, bệnh tật, khuyết tật hoặc tử vong (các điều 2, 3 và 7
của Đạo luật bảo hiểm bồi thường tai nạn lao động công
nghiệp (Luật số 50 năm 1947, như sửa đổi)), cũng như
trong hệ thống bảo hiểm việc làm, theo đó trợ cấp bảo
hiểm được trả cho người lao động trong trường hợp thất
Nhóm 5 | BHTM 1

23

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

23


nghiệp (các điều 2, 3, 5 và 6 của Đạo luật Bảo hiểm Việc
làm (Đạo luật số 116 của 1974, với sự sửa đổi)).


Người dân Nhật Bản phải phụ thuộc vào tuổi tác, hệ thống
bảo hiểm, theo đó các khoản bảo hiểm được thanh toán
trong trường hợp bệnh tật, thương tích, sinh con hoặc tử
vong (các điều 2, 3, 5 và 6 của Đạo luật Bảo hiểm Y tế
Quốc gia (Đạo luật số 192 năm 1958, với sự sửa đổi)), Hệ
thống bảo hiểm chăm sóc, theo đó các khoản trợ cấp bảo
hiểm quy mô được thanh toán đối với các điều kiện cần
chăm sóc dài hạn hoặc một số loại Trợ cấp khác (điều 2, 3

và 9 của Luật Bảo hiểm Chăm sóc Dài hạn (Đạo luật số
123 năm 1997, với sự sửa đổi), và hệ thống hưu trí, theo
các khoản trợ cấp bảo hiểm được thanh toán dựa trên tuổi,
tàn tật hoặc tử vong (Điều 2, 3 và 7 của Luật Tiền lương
Quốc gia (Đạo luật số 141 năm 1959, như Sửa đổi).



Một số hệ thống hưu trí khác cũng được điều hành bởi khu
vực công, Bao gồm cả hệ thống bảo hiểm hưu trí của nhân
viên, được thiết kế cho nhân viên. Theo Đạo luật Bảo
hiểm Lương hưu của Người lao động (Luật số 115 năm
1954, như sửa đổi).

Các công ty bảo hiểm nhận tại địa phương: các lớp bắt buộc về
bảo hiểm ở trên được phân loại là bảo hiểm phi nhân thọ và bảo lãnh
phát hành bởi các công ty bảo hiểm Nhật Bản hoặc không phải của
Nhật Bản yêu cầu kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ có giấy phép tại
Nhật Bản (Điều 3 và Điều 185 của Luật Kinh doanh Bảo hiểm Không.
105 của năm 1995, được sửa đổi; IBA)).

Nhóm 5 | BHTM 1

24

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

24



Chế độ giấy phép kinh doanh (Công ty bảo hiểm nước
ngoài): các công ty bảo hiểm nước ngoài phải có giấy phép kinh doanh
bảo hiểm phi nhân thọ để bảo lãnh các lớp bảo hiểm bắt buộc được quy
định trong phần trên. Bất kỳ công ty bảo hiểm nước ngoài nào tham gia
hợp đồng bảo hiểm mà không có giấy phép kinh doanh bảo hiểm sẽ bị
trừng phạt, trong trường hợp cá nhân, bị phạt tù không quá hai năm
hoặc không có tội hình sự hơn ba triệu yên, hoặc cả hai (Điều 316, mục
4 của IBA), và nếu Cơ quan công ty (hành động thông qua một đại diện
hoặc nhân viên), bởi một tội phạm không quá ba triệu yen (Điều 321,
khoản 1, khoản 4 IBA).


Pháp
Các Chỉ thị EU đã được chuyển thành luật Pháp và các quy tắc
tương ứng có thể được tìm thấy trong Luật Bảo hiểm. Các quy tắc cụ
thể áp dụng cho hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm cũng có thể được
tìm thấy trong Bộ luật Tài chính và Tiền tệ.
Các nguồn pháp luật khác cho hoạt động bảo hiểm và tái bảo
hiểm bao gồm: Bộ luật dân sự; Các tiền lệ pháp luật được Tòa án Tối
cao Pháp ( Cour de cassation ) thành lập đặc biệt; Nghề nghiệp chuyên
nghiệp (ví dụ, liên quan đến mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm và môi
giới).
Quy định hợp đồng bảo hiểm:
Không có định nghĩa pháp lý về hợp đồng bảo hiểm theo luật
Pháp, trừ trường hợp Điều 1964 Bộ luật Dân sự quy định rằng các hợp
đồng đó thuộc loại "hợp đồng không liên quan", đó là các hợp đồng có
nghĩa là các thoả thuận lẫn nhau và có những ảnh hưởng tích cực hoặc
tiêu cực Đối với tất cả các bên, hoặc một hoặc nhiều người trong số họ,
phụ thuộc vào một sự kiện không chắc chắn.
Nhóm 5 | BHTM 1


25

Nhóm 5 | Bảo hiểm thương mại 1

25


×