Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN nâng cao hiệu quả dạy và học trong phân môn vẽ trang trí ở bậc trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 28 trang )

Phần I: Lí lịch
Họ và tên: Phạm Thị Ngân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Tam Đa
Tên đề tài sáng kiến kinh nghiệm: Nâng cao hiệu quả dạy
và học trong phân môn vẽ trang trí ở bậc trung học cơ sở

-1-


MỤC LỤC
***
MỞ ĐẦU
a. ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................Trang 03

- Thực trạng………………………………………...Trang 03
- Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới………………Trang 04
- Phạm vi nghiên cứu………………………………………..Trang 05
b. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH...................................................Trang 05
-



sở lí luận

-

Các

........................................................................Trang 05


biện pháp tiến hành

.................................................Trang 08

NỘI DUNG
a. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI………………………….….Trang 15
b. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI…………………………....Trang 16

- Thuyết minh tính mới……………………………………..Trang 16
- Khả năng ứng dụng…………………………………….…..Trang 18
-

Kết

quả thực hiện………………………………... .Trang 22

KẾT LUẬN....................................................................................Trang 23

CAM KẾT……………….……………………………………..Trang 24

-2-


NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VÀ HỌC TRONG PHÂN
MÔN VẼ TRANG TRÍ Ở BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ
MỞ ĐẦU

a. Đặt vấn đề:
-THỰC TRẠNG :
1. Đặc điểm tình hình:

a. Thuận lợi:
Được sự quan tâm của nghành giáo dục, của Ban giám hiệu nhà trường, tổ
chuyên môn, anh chị em cùng tổ đã tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, cũng
như về trang thiết bị dạy học. Đặc biệt với sự nỗ lực của các em học sinh đã giúp
tôi hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này .
b. Khó khăn:
- Về phía nhà trường.
Là một môn học độc lập trong chương trình THCS. Dạy và học nghiêm
túc, có kiểm tra, thi đánh giá cuối năm và kết quả là một trong những tiêu chuẩn
để xét lên lớp hay tốt nghiệp bậc học. Song thực tế hiện nay cho thấy rằng cơ sở
vật chất cho việc dạy và học mĩ thuật ở THCS thiếu thốn và nghèo nàn, nhà
trường chưa có phòng dạy mĩ thuật riêng. Các loại mẫu (hình khối, biểu bảng,
tranh ảnh…) tuy đã được nghiên cứu và sản xuất nhưng chưa đủ đáp ứng cho
dạy – học mĩ thuật, sách đọc thêm và các tài liệu tham khảo khác rất hiếm. Giáo
viên phải tự tìm tài liệu, sưu tầm ĐDDH. trong khi đó yêu cầu của bộ môn lại
cần phải có nhiều tài liệu tham khảo như: Tranh, ảnh và mẫu vẽ…
- Về phía học sinh.
Đối với học sinh trường THCS Tam Đa đã từ lâu các em chưa được tiếp
xúc với bộ môn này vì vậy học mĩ thuật chưa có nền nếp, kiến thức chưa có hệ
thống, thực hành ít, môi trường thẩm mĩ hạn hẹp. Học sinh ít được quan sát,
-3-


tham quan danh lam thắng cảnh và bảo tàng. Vì thế hiểu biết về mĩ thuật, về cái
đẹp chưa sâu rộng, không kích thích các em học tập. Đa phần học sinh bị chi
phối, ảnh hưởng về các môn chính, môn phụ của xã hội nhà trường. Các em phải
tập trung cho các môn chính, lo cho thi, lo đánh giá, phần nào bỏ qua sao lãng
môn mĩ thuật. Hơn nữa do thiếu phương tiện học tập, phương pháp thực hành
thiếu linh hoạt, nên bài vẽ của các em thường khô, thiếu phóng khoáng, đôi khi
gò bó, công thức.

2. Kết quả của thực trạng trên.
Từ thực trạng trên để việc học mĩ thuật, đặc biệt là phân môn trang trí đạt
hiệu quả tốt hơn tôi đã đưa những phương pháp cơ bản về cách dạy và học mĩ
thuật đặc biệt là phương pháp dạy vẽ trang trí áp dụng cho từ lớp 6 đến lớp 9 và
đa phần các em rất thích hoạt động tạo hình, việc vẽ, xem các tác phẩm mĩ thuật
dần dần đã hình thành ở các em. Các em hứng thú học vẽ trang trí hơn vẽ theo
mẫu phần nào hơn cả vẽ tranh đề tài, bài vẽ của các em đẹp hơn, có tiến bộ rõ rệt
về cách dùng màu.

- Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:
Mĩ thuật là một trong những môn nghệ thuật. Nếu dạy học là khó thì dạy
nghệ thuật càng khó, cần phải mang tính nghệ thuật cao hơn. Vì học mĩ thuật
đem lại niềm vui cho mọi người, làm cho mọi người nhìn ra cái đẹp, thấy cái
đẹp có ở trong mình, xung quanh mình, gần gũi và đáng yêu. Đồng thời mĩ thuật
giúp mọi người tự tạo ra cái đẹp theo ý mình và thưởng ngoạn nó ngay trong
sinh hoạt thường ngày của mình, làm cho cuộc sống thêm hài hoà hạnh phúc.
Nhà trường ngày nay ngoài việc truyền thụ kiến thức khoa học kỹ thuật,
còn phải chú ý đến giáo dục thẩm mĩ, nhằm đào tạo học sinh trở thành những
con người phát triển, toàn diện để xây dựng đất nước. Đáp ứng yêu cầu thẩm mĩ
ngày càng cao và càng phức tạp của xã hội, con người đã phát huy óc sáng tạo
đem lại sự phong phú đa dạng cho nhiều hình thức và nhiều thể loại trang trí.
Trang trí là thể hiện cái đẹp của sự trình bày bằng nghệ thuật sắp xếp, đường nét,
màu sắc, hình mảng. Trang trí bắt nguồn từ thực tế đời sống xã hội. Trang trí là
làm đẹp hơn cái vốn có ban đầu, học trang trí ta sẽ biết làm đẹp cuộc sống xung
quanh, làm đẹp cho gia đình và lam đẹp cho chính mình . Mỗi thời đại trang trí
-4-


có những đặc điểm và yêu cầu khác nhau, cũng như nhìn nhận cái đẹp của trang
trí qua từng thời kì xã hội, tôn giáo cũng có nhiều vẻ riêng biệt. Trang trí được

sử dụng một cách rộng rãi trong đời sống, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau,
hầu như ta đều thấy vai trò của nó trong đời sống hàng ngày. Tất cả mọi người
chúng ta nói chung và học sinh THCS nói riêng tiếp xúc hàng ngày với nghệ
thuật trang trí, nếu biết kết hợp, áp dụng những kiến thức học tập được,
chắc chắn sẽ tìm thấy nhiều bài học bổ ích góp phần làm cho đời sống thêm sinh
động tươi đẹp.

Phạm vi nghiên cứu:
Hs trung học cơ sở: Xác định nghiên cứu nói trên, đề tài không đi sâu nghiên
cứu lí luận mà vận dụng những thành tựu đạt được trong dạy học mĩ thuật thực
tế ở trường THCS. Do điều kiện thời gian và yêu cầu đề tài còn hạn chế, đề tài
chỉ nghiên cứu dạy học ở trường THCS Tam Đa.

b. Phương pháp tiến hành.
- CƠ SỞ LÍ LUẬN:
1. Trang trí ở bậc học THCS.
Trang trí là một nhu cầu thiết yếu với con người, với xã hội, với nền kinh
tế quốc dân và chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống (Kiến trúc đô thị,
trang trí nội, ngoại thất. Trang trí phục trang, trang trí điện ảnh sân khấu…).
Phân môn trang trí ở THCS được đưa vào từ lớp 6 đến lớp 9. trong một
năm học lớp 6 có 9 tiết, lớp 7 có 7 tiết, lớp 8 có 8 tiết, riêng lớp 9 chỉ học 1/2
tiết/tuần cho nên chỉ có 5 tiết. Vì vậy nội dung cơ bản được chọn lọc hết sức cơ
bản. Khác với các trường nghệ thuật chuyên đào tạo các hoạ sĩ, bởi số thời gian
học chuyên môn ở các trường nghệ thuật chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn ở trường phổ
thông (nơi dạy nghệ thuật đại trà) thời gian rất eo hẹp, mỗi bài học và làm, gói
gọn trong một tiết học (45 phút). Những bài học chủ yếu nhằm nâng cao về kiến
thức trang trí, phương pháp thể hiện cũng như thực hành ứng dụng trong đời
sống và các bài học cơ bản như (Hình vuông, hình tròn, hình chữ nhật, đường
diềm) được sắp xếp học đi học lại nhiều lần ở mỗi lớp nhằm giúp học sinh nắm


-5-


vững kiến thức trong bố cục trang trí và phát huy khả năng tìm tòi sáng tạo. Khả
năng của học sinh sẽ được nâng cao dần theo từng lớp học vì vậy việc học trang
trí được tiến hành đúng quy trình nhằm khuyến khích sự tìm tòi, sáng tạo, độc
đáo của học sinh khi làm bài, chương trình và nội dung học trang trí ở THCS có
sự sắp xếp mang tính đồng tâm, phát triển để học sinh tiếp cận môn học từ dễ
đến khó, từ tô màu đến tìm màu, từ vẽ thêm hoạ tiết cho đều đến sự tìm hoạ tiết
để sắp xếp…
2. Tính đồng tâm trong trang trí.
Trong trang trí có một số bài học mang tính chất bắt buộc, những bài
trang trí này được gọi là: bài học trang trí cơ bản (cách dùng màu, phương pháp
bố cục, thể thức trang trí, trang trí hình vuông, trang trí hình chữ nhật, trang trí
hình tròn, trang trí đường diềm…). Tuỳ theo từng bậc học, từng lớp để phân bố
sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và trình độ nhận thức của HS. Những bài
cơ bản này sẽ lặp đi lặp lại không chỉ có ở các trường tiểu học – THCS mà còn
học tới các trường cao đẳng, đại học… Các bài học trang trí cơ bản là cơ sở cho
sự nhận thức cái đẹp và giúp người học vận dụng kiến thức đó vào đời sống thực
tại.
Giáo viên khi dạy các bài trang trí cơ bản cần quan tâm đến:

- Nâng cao dần về sắp xếp, chọn lọc hoạ tiết.
- Sự cân bằng trong tổng thể bố cục
- Phối hợp các thể thức trong trang trí áp dụng vào các bài trang trí cơ bản,
các thể thức (đăng đối, xen kẽ, phá thế, nhắc lại…)

- Sử dụng đậm nhạt và màu sắc sao cho phù hợp.
3. Tính thực tiễn trong trang trí đối với nhà trường phổ thông.
Nghệ thuật trang trí bao giờ bao giờ cũng gắn liền với đời sống. Nó bắt

nguồn từ cuộc sống và trở lại phục vụ cho cuộc sống, vì vậy mà chương trình,
nội dung dạy học trang trí ở trường phổ thông phải được quan tâm gắn với đời
sống của học sinh và xã hội. Có những bài tưởng như chỉ là trang trí đơn giản
(trang trí nhãn vở) nhưng thực chất có sự liên quan rất phong phú của những bài

-6-


trang trí cơ bản (trang trí hình chữ nhật, trang trí ứng dụng…) hoặc trong trang
trí trại hè, một bài gắn liền với đời sống sinh hoạt của học sinh được thể hiện
bằng nhiều kiến thức tổng hợp (kiến thức kẻ chữ, trình bày, sắp xếp và bao
quát…)
4. Tính dân tộc trong trang trí.
Dân tộc nào cũng có những màu sắc và những nét riêng biệt. Nhìn vào
lịch sử, chúng ta thấy thể hiện rõ nhất ở các hoa văn, hoạ tiết cổ trong các đồ
dùng (trống đồng, mũi tên, thuyền bè, cán dao thổ cẩm…) trên các đình chùa,
lăng tẩm
(hoa văn trên các bia đá, hoạ tiết chim lạc ở trống đồng và hoạ tiết con rồng, con
phượng hoặc hoạ tiết hoa sen trên các kèo cột…). Để có những hoạ tiết vốn cổ
dân tộc không phải dễ dàng.
5. Tính khoa học cơ bản trong trang trí.
Bản thân trang trí hết sức khoa học, khoa học về sắp xếp, khoa học về sử
dụng màu sắc. Một bức tường được sơn màu xanh nhạt sẽ cho ta cảm giác mát
mẻ, khi sơn màu hồng ta thấy ấm áp. Một bức tranh treo trong phòng khách
khác với nội dung bức tranh treo ở phòng ăn. Vì vậy chúng ta thấy trang trí
không chỉ có đẹp mà còn hết sức khoa học.
Nội dung cơ bản trong trang trí ở THCS bao giờ cũng bắt nguồn từ tính
vừa sức, HS tiếp thu được một cách thoải mái phù hợp với khả năng nhận thức
của các em. Giáo viên phải nắm vững đối tượng để truyền thụ kiến thức phù hợp
với khả năng nhận thức của HS. Một số giáo viên ít chú trọng đến sự tiếp thu

của HS, giảng lí thuyết liên miên, trình bày nhiều kiến thức, sử dụng nhiều ngôn
từ khó hiểu khiến bài giảng không đạt yêu cầu. Ngược lại, nhiều giáo viên biết
định mức kiến thức cơ bản, truyền thụ có trọng tâm, coi trọng khâu thực hành đã
đem lại kết quả tốt đẹp.
6. Phương pháp dạy – học trang trí ở trường THCS.
a. Yêu cầu đối với người học trang trí.
- Phải có phương tiện để học và thể hiện làm bài trang trí như: bút chì, tẩy,
thước kẻ, compa, màu bút dạ, màu sáp, giấy … Nắm được nội dung vẽ trang trí
-7-


khác với vẽ theo mẫu. Mỗi bài học vẽ trang trí đều có sự khác nhau về mức độ
yêu cầu.
- Thông qua bài giảng, học sinh biết cách làm một bài trang trí theo đúng
phương pháp (tìm và sắp xếp các mảng hình chính, phụ, tìm chọn và sắp xếp hoạ
tiết, tìm đậm nhạt và tìm màu). Học vẽ trang trí học sinh cần có một tư duy sáng
tạo và say mê, tìm tòi để bài vẽ có hiệu quả cao. Học sinh cần nắm vững một số
thể thức chính áp dụng trong bố cục trang trí:
+ Đăng đối : Trên bề mặt vuông nhất định chúng ta nhắc lại họa tiết ở hai
bên đường trục ( đường thẳng chia đôi hình vuông). Họa tiết đó có thể nhắc lại
từ phía trên xuống phía dưới. Như thế goi là phương pháp đặt họa tiết đăng đối.
Hai bên hoặc trên dưới đăng đối với nhau goi là đăng đối đơn. Nếu bốn góc của
một hình vuông đều nhắc lại một họa tiết giống nhau theo hai đường trục bắt
chéo nhau ở giữa là đăng đối kép. Có thể dùng nhiều họa tiết đăng đối trên hinhf
sáu góc, tám góc, hình tròn và lấy một điểm tụ chính giữa làm trụ trung tâm.
b. Đối với người dạy.
- Phải nắm chắc chương trình dạy vẽ trang trí của mỗi lớp thông qua các
bài cụ thể
- Mỗi bài dạy trang trí phải đảm bảo đúng kiến thức cơ bản, có trọng tâm,
mang đặc trưng môn học.

- Biết mở rộng kiến thức trong mỗi bài dạy bằng sự hướng dẫn học sinh
tìm tòi, sáng tạo (tìm hoạ tiết, tìm bố cục, tìm màu cho hài hoà…). Hướng dẫn
HS cách làm bài trang trí và góp ý kiến từng bài của học sinh.
- CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH:
1. Phương pháp giảng dạy trang trí cơ bản:
a. Hướng dẫn HS tìm hiểu nội dung bài trang trí: Nhằm phân biệt bài
trang trí thuộc loại nào: trang trí cơ bản hay trang trí ứng dụng, nếu là trang trí
cơ bản thì bố cục, hoạ tiết, màu sắc luôn có sự tìm tòi để có một bài vẽ trang trí
có bố cục đẹp, hài hoà. Còn nếu là bài trang trí ứng dụng thì phải lưu ý đến tính
thực tiễn khi sử dụng như: hoạ tiết, màu sắc, bố cục phù hợp với nội dung yêu
cầu sử dụng. Mỗi nội dung bài trang trí đều có những kiến thức chủ yếu, thông
qua giảng dạy những kiến thức chủ yếu này giúp học sinh hiểu được lí thuyết,
-8-


nắm được cách làm. Ví dụ trong bài: Trang trí lọ hoa, chỉ yêu cầu học sinh trang
trí trên các lọ hoa sao cho đẹp. Còn phần tạo mẫu dáng lọ hoa, yêu cầu học sinh
tìm kiểu lọ, sao cho có được những kiểu lọ mới, lạ và đẹp. Nội dung bài học rất
phong phú, đa dạng song thực tế thời gian không cho phép giáo viên giảng giải
lí thuyết quá nhiều vì nếu nói nhiều sẽ thiếu thời gian cho học sinh thực hành.
Bởi vậy mỗi nội dung bài dạy, giáo viên phải cân nhắc, suy nghĩ để lựa chọn
những kiến thức cơ bản nhất, thiết yếu nhất, trọng tâm nhất sao cho phù hợp với
nội dung yêu cầu và đảm bảo thời gian bài học.
b. Hướng dẫn HS tìm phác thảo: Tạo thói quen cho HS suy nghĩ trước
khi tìm phác thảo và bước đầu phải tìm bằng các đường, nét, hình mảng kỉ hà
nhằm tạo nên một bố cục hợp lí.

Những bố cục trên phải được hướng dẫn cụ thể ở phần lí thuyết: cách tìm
bố cục, tìm hoạ tiết, tìm hình mảng và vận dụng các thể thức trang trí…
Sau khi tìm bố cục bằng các hình kỉ hà, hướng dẫn các em có thể tìm phác

thảo đen trắng để tìm đậm nhạt. Vẽ đen trắng để tránh được bố cục không cân
đối như: Bố cục nặng nề (mảng đen quá, to quá) hoặc bố cục lỏng lẻo (các mảng
rời rạc…)
Trên cơ sở các hình bố cục kỉ hà, có thể tìm các hoạ tiết phù hợp với các
mảng đó. Ví dụ:

-9-


Sử dụng các hoạ tiết cho phù hợp với các mảng kỉ hà phải là những hoạ
tiết đơn giản và cách điệu. Ví dụ:

Cuối cùng bài trang trí nào cũng phải tô màu nhưng công việc tô màu của
học sinh tiểu học khác với tìm màu để thể hiện ở học sinh THCS cần phải hướng
dẫn học sinh biết cách sử dụng màu sắc sao cho hợp lí và hài hoà. Có thể sử
dụng hoà sắc nóng hay hoà sắc lạnh, sử dụng các gam màu trầm hay các gam
màu sáng.
Trong mỗi bài vẽ trang trí phải tìm màu chủ đạo. Từ màu chủ đạo tìm các màu
khác đặt vào cho hợp lí và cân nhắc đặt các màu cạnh nhau cho hài hoà.
+ Màu sắc đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật trang trí. Nó thể hiện
sở thích và năng khiếu thẩm mĩ của học sinh. Khi trang trí học sinh phải biết
những nguyên tắc cơ bản về màu sắc để sử dụng màu cho sắc bén. Màu sắc còn
nói lên được tình cảm của con người, của một dân tộc. Do thói quen sinh hoạt,
lao động vui chơi ở một môi trường nhất định tạo ra.
Quá trình vẽ một bài trang trí là quá trình tìm tòi, suy nghĩ để quyết định dùng
màu nào cho hợp lí, dùng loại hòa sắc nào, nhẹ nhàng hoặc gay gắt tươi vui hay
-10-


trầm lặng muốn vậy học sinh phải thuộc bảng pha màu, đó là cơ sở để khám

phá, tìm ra các màu mới, tạo nên các hoà sắc đẹp thuận mắt và ưa nhìn.

Vòng thuần sắc
Trang trí hình tròn

c.Một số điểm lưu ý khi dạy trang trí:
- Hướng dẫn học sinh sử dụng hình mảng, đường nét: Phải dứt khoát mới
tạo nên bố cục chặt chẽ. Ví dụ:

-11-


- Cần tránh những bố cục lỏng lẻo hoặc nặng nề do cách sắp xếp hình
mảng không hợp lí.

- Không dùng nét viền đều nhau. Tạo nên sự khô cứng trong trang trí. Ví Dụ:

- Hoạ tiết phải phù hợp với nội dung yêu cầu sử dụng và mang tính dân
tộc, hoạ tiết đã được đơn giản, cách điệu, tránh vẽ nét viền khô cứng.

- Những bố cục cần tránh:

-12-


- Những bố cục nên làm:

2. Phương pháp giảng dạy lí thuyết trang trí.
- Trong chương trình dạy phân môn trang trí các lớp 6 - 7 - 8 - 9 không có
bài lí thuyết dành riêng cho một tiết, thường lí thuyết được giảng trước khi HS

làm bài. Thời gian này chỉ chiếm khoảng 15 đến 17 phút. Do đó những kiến thức
cơ bản giáo viên phải chắt lọc có trọng tâm để truyền thụ cho học sinh. Học sinh
có thể căn cứ vào đó để làm bài cho có hiệu quả. Tuy nhiên giáo viên có thể tổ
chức để mở rộng kiến thức cho học sinh vào các buổi học tự chọn, ngoại khoá,
nghe nói chuyện…
Căn cứ vào yêu cầu của bài để giảng cho học sinh, có bài rất cần nhiều thời
gian như: phương pháp bố cục, phương pháp và cách dùng màu trong trang trí,
phương pháp sáng tác tranh cổ động…Dù thời gian dài hay ngắn thì bài lí thuyết
dạy trang trí cũng phải lưu ý:
- Cần xây dựng nội dung trọng tâm bài trang trí: Tìm hiểu khái niệm cơ bản,
sử dụng những dẫn chứng thực tế, hình ảnh, đồ vật cụ thể có tác dụng và sức
-13-


thuyết phục cao để minh hoạ cho khái niệm cơ bản.

Trang trí đầu báo tường

Trang trí quạt giấy

Trang trí lọ hoa và trang trang trí đĩa tròn

-14-


Trang trí cổng trại
- Giáo viên có thể sử dụng các bài học cũ của học sinh lớp trước để phân tích và
cũng nên tìm tòi chọn một vài đồ vật như: tờ bích báo, lọ hoa bằng gốm, hộp
mứt các loại…nhằm giúp học sinh mở rộng thêm kiến thức học trang trí gắn liền
với đời sống.

- Phần lí thuyết chỉ giúp học sinh nắm vững những khái niệm cơ bản, những dự
định sẽ làm và những kiến thức tạo cơ sở ban đầu cho sự hình thành sáng tạo,
tìm tòi để học sinh vận dụng trong bài trang trí cụ thể, vì vậy bài lí thuyết phải
có trọng tâm, Giáo viên giảng giải vừa sức với khả năng nhận thức của học sinh
và có nhiều liên hệ thực tế để học sinh dễ hiểu và dễ làm bài. Khi giảng lí thuyết
cơ bản, giáo viên nên đặt nhiều câu hỏi, giúp các em nắm chắc hơn bài học và
làm cho tiết dạy thêm sinh động.
- Lí thuyết cơ bản không chỉ dừng ở phần giảng cho toàn lớp mà giáo viên cần
sử dụng nó khi hướng dẫn góp ý cho từng em. Thông qua bài làm của học sinh,
giáo viên có thể biết ngay những phần lí thuyết các em có nắm chắc hay không
và trên cơ sở đó góp ý, nhắc lại những phần lí thuyết đã dạy, giúp các em sửa
chữa, tìm cách giải quyết mới trong bài làm trang trí.

NỘI DUNG
a. Mục tiêu, nhiệm vụ đề tài:
-15-


* Mc tiờu :
Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích :
- Tìm ra một số phơng pháp dạy học tích cực nhằm nâng
cao chất lợng dạy- học của phân môn vẽ tranh ở THCS.
- Tạo nên một quan niệm dạy học mới về công tác giảng dạy
phân môn vẽ tranh ở bậc THCS
.- Tạo một thói quen tự tìm tòi, sáng tạo và tự học tập, tự
nghiên cứu để phục vụ cho việc dạy học theo phơng pháp
mới.
* Nhim v :
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận, nội dung , phơng pháp
yêu cầu dạy học ở phân môn vẽ tranh ở THCS .

- Nghiên cứu hiệu quả bài vẽ tranh của học sinh THCS.

b. Mụ t gii phỏp ca tai :
*Những giải pháp cụ thể.
Để học sinh hoàn thành xuất sắc các bài tập theo chơng trình chúng ta cần tậo trung vào giải quyết một số
vấn đề cụ thể sau.
3.1: Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng.
3.2: Hớng dẫn học sinh tìm chọn nội dung đề
tài;
3.3 :Hớng dẫn học sinh cách vẽ.
3.4: Hớng dẫn học sinh thực hành.
3.5: Nhận xét đánh giá bài của học sinh.
3.6:Củng cố bài giảng .
-16-


Sáu vấn đề này đợc giải quyết tốt thì hiệu quả sẽ
đem lại một bài giảng thành công cho một phân môn quan
trọng của bộ môn mĩ thuật. Cụ thể từng vấn đề một sẽ đợc giải quyết ở phần III dới đây.
3.1: Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng.
a/. Sự chuẩn bị đối với giáo viên.
Giáo viên cần chủ động chuẩn bị hai nội dung cụ thể
đó là: Đồ dùng dạy học:trực quan các bớc vẽ và các bức tranh
có nội dung khác nhau và chuẩn bị phơng pháp giảng dạy
(theo từng bài, từng lớp).
* Đối với việc chuẩn bị đồ dùng dạy học của giáo
viên: Đối với môn mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ tranh
nói riêng, việc sử dụng đồ dùng dạy học (ĐDDH) là đặc
biệt cần thiết. Bởi vì, dạy mĩ thuật là dạy trên những gì
cụ thể, hiện diện một cách rõ ràng trớc học sinh. Học sinh

phải đợc quan sát một cách cụ thể về hình dáng, đậm
nhạt, mầu sắc, đờng nét, bố cục. Đó cũng chính là kiến
thức cơ bản của bộ môn mĩ thuật. Vì thế, để dạy tiết
học vẽ theo mẫu cần phải chú ý nhiều tới ĐDDH và phơng
pháp sử dụng đồ dùng dạy học.
* Đối với việc chuẩn bị phơng pháp giảng dạy của
giáo viên: Để + Tạo đợc không khí học tập tốt để học sinh
háo hức chờ đón bài học.
+ Tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi
những vấn đề mà giáo viên giảng giải.
+ Tổ chức bài học sao cho học sinh tham gia vào quá
trình nhận thức một cách tự giác.
-17-


+ Động viên khích lệ nhằm giúp học sinh làm bài bằng
khả năng và cảm xúc riêng.
Việc chuẩn bị phơng pháp tốt cho giáo viên cũng
không thể thiếu việc sắp xếp, tổ chức giờ dạy thông qua
giáo án, qua kế họach giảng dạy tiết vẽ tranh đó một cách
rõ ràng, cụ thể. Phơng pháp chủ đạo là lấy học sinh làm
trung tâm và thầy giáo là ngời hớng dẫn cũng đợc thể hiện
rõ trên giáo án. Mọi họat động của giáo viên mang tính
chất gợi mở, cũng nh vậy mọi họat động tích cực của học
sinh đợc lập kế họach theo từng bớc của tiến trình giảng
dạy. Và đặc biệt giáo viên cần chú ý tới phần minh họa
bảng cũng cần đợc thể hiện rõ trong giáo án theo một cột
riêng (bên phải của phần kiến thức và diễn biến giờ dạy).
b/. Sự chuẩn bị đối với học sinh.
+ Việc xem bài trớc là công việc đầu tiên của học

sinh. Từ đó, học sinh sẽ su tầm tranh ảnh,bài vẽ của hoạ sĩ
hoăc bài của các bạn HS năm trớc có liên quan đến nội dung
bài học. Hay HS có thể trực tiếp quan sát những hình ảnh
trong thực tế phục vụ bài học.
+ Việc chuẩn bị đồ dùng học tập cũng là một yếu tố
rất cần thiết đối với học sinh. Bởi vì, cũng nh thầy nếu
chuẩn bị thiếu ĐDDH thì việc dạy học rất kém hiệu quả,
còn trò nếu thiếu đồ dùng học tập cũng coi nh là không
phải học mĩ thuật. Những đồ dùng của học sinh không thể
thiếu đợc đó là: Vở thực hành mĩ thuật; bút vẽ (bút chì,
bút dạ mầu, bút sáp mầu ,vở tập vẽ). Học sinh mà đã

-18-


chuẩn bị đợc đồ dùng học lập tức là giờ giảng đã đợc góp
một phần lớn vào hiệu quả của giờ dạy.
Nh vậy việc chuẩn bị tốt của thày và của trò cho bài
học vẽ theo tranh sẽ đem lại hiệu quả cao cho tiết học và
khắc phục đợc cách Dạy-Học cũ và lạc hậu.
3.2 Hớng dẫn học sinh tìm chọn nội dung đề tài:
Dạy mĩ thuật nói chung và vẽ tranh nói riêng, phải thực
hiện theo hớng để học sinh làm bài thực hành là chính
(thời gian khoảng 20 - 25 /45 phút của tiết học).Thế nhng
thời gian đầu giờ (7 -10 phút) là thời gian giảng lý thuyết.
Phần này tuy chiếm ít thời gian nhng lại là một việc vô
cùng quan trọng trong quá trình hình thành kiến thức mĩ
thuật, kiến thức vẽ theo mẫu đối với học sinh.
*Phơng pháp
.- Trong chơng trình của phân môn Vẽ tranh (vẽ theo đề

tài cũ) suốt bậc học TH học sinh đợc thực hiện rất nhiều
đề tài quen thuộc, gần gũi và đơn giản. Thông thờng, mỗi
bài Vẽ tranh học sinh sẽ nhận thức về nội dung đề tài ngay
ở đầu bài. Nhng không hẳn vì thế mà chúng ta quên
không hớng dẫn cho học sinh cách chọn đề tài.
Việc định hớng nội dung đề tài cho học sinh còn giúp
các em tập trung có trọng tâm, chọn và vẽ không những
đúng đề tài mà còn thể hiện có ý nghĩa, có tình cảm,
có cảm xúc của mình trong tranh.
3.3:Hớng dẫn HS cách vẽ tranh:
*Hớng dẫn cách sắp xếp hình vẽ (bố cục)

-19-


- Trớc khi thể hiện bài vẽ của mình giáo viên cần hớng
dẫn cho học sinh cách sắp xếp hình (bố cục), tuy đây là
một bớc nhỏ nhng lại ảnh hởng rất sâu sắc tới kết quả bài
học của học sinh. Giáo viên cần thực hiện hớng dẫn học sinh
một cách chống.ó hệ t
- Hớng dẫn cách sắp xếp thông qua đồ dùng dạy học,
việc vận dụng phơng pháp này sẽ giúp giáo viên tận dụng
đợc thời gian, và hơn nữa trong giờ học học sinh đợc quan
sát và hoạt động rất nhiều, rất tích cực. Đó chính là hớng
giải quyết cho một phơng pháp lấy học sinh làm trung
tâm. Việc hớng dẫn học sinh theo phơng pháp này thì học
sinh sẽ đợc nhìn thấy và chứng kiến rất trực quan về các
bài có sự sắp xếp xấu, cha đẹp. Từ đó hình thành đợc
nhận thức về bài thể hiện đẹp trong học sinh rất sâu
sắc. Nếu giáo viên chỉ giảng chay thì cha chắc tất cả các

em đã ghi nhận đầy đủ lời giảng giải của giáo viên. Nhng
nếu học sinh đợc quan sát, nhận xét các bài vẽ đẹp, xấu cụ
thể chắc chắn các em sẽ có sự ghi nhớ sâu đậm.
- Trong phạm vi phần hớng dẫn cách vẽ diễn ra rất
ngắn (4 -6 phút) thì giáo viên cần phải cân đối thời gian
để phần hớng dẫn bố cục này thật nhanh nhng phải hiệu
quả, để đảm bảo đợc thời gian cho các phần hớng dẫn còn
lại.
*Hớng dẫn học sinh phác mảng chính, mảng phụ.
- Nói tới mảng chính, mảng phụ trong bài Vẽ tranh
chúng ta tởng chừng đó là chuyên môn cao nhng thực chất
của vấn đề lại là những kiến thức đơn giản và hết sức
bình thờng. Nếu giáo viên hớng dẫn học sinh theo một
-20-


trình tự, không nâng cao vấn đề, bắt đầu từ dễ đến
khó, thì chắc chắn học sinh sẽ nhận thức đợc sự cần thiết
của mảng chính, mảng phụ trong một bức tranh.
- Một điểm nữa mà giáo viên thấy việc học sinh tham
gia minh hoạ cùng sẽ đợc hiểu học trò hơn, và nếu giáo viên
phát triển bài từ những ý tởng của học sinh sẽ đem lại tâm
lý vui thích cho học sinh, vì các em sẽ cảm nhận rằng
mình đã chọn và có ý đồ tốt nên sẽ hăng hái làm bài là
điều đơng nhiên.
Tóm lại ở bớc hớng dẫn này giáo viên cần cùng học sinh
xây dựng đợc bố cục hình mảng, tìm đợc các mảng
chính, mảng phụ hợp lý, từ đó các em sẽ có cơ sở thể hiện
hình vẽ vào các ô mảng đó. Bớc này chúng ta có thể ví nh
nền móng của một công trình xây dựng. Nó chính là cái

khung giúp định hớng học sinh vẽ đúng, trúng, hiệu quả.
*Hớng dẫn học sinh vẽ phác hình ảnh của nhóm chính và
nhóm phụ.
- Phần hớng dẫn học sinh vẽ phác hình ảnh này là một
bớc cơ bản và cần thiết. Nếu bớc trớc các em đợc vẽ khung
hình của nhóm chính, phụ thì ở bớc này học sinh cần biết
phác các hình ảnh cho các ô mảng đã định đó (các hình
ảnh đó có thể là Ngời, các con vật, thiên nhiên). Mỗi một
đề tài thì lại đợc đề cập đến một nhóm hình ảnh cụ
thể, nếu muốn vẽ các hình ảnh đúng, cân đối, hài hoà
thì học sinh không quên và giáo viên không bỏ qua phần hớng dẫn này.
- Chú ý khi hớng dẫn học sinh vẽ phác các hình ảnh,
nếu không khéo lại thành vẽ chi tiết. Chỉ đợc vẽ bằng các
-21-


nét thẳng, (nét kỷ hà), trên cơ sở nét này học sinh mới
thực hiện bớc tiếp theo để vẽ chi tiết các hình ảnh đó.
- Khi cho học sinh lên minh hoạ bảng xong giáo viên có
thể nhấn mạnh thêm sự cần thiết khi vẽ chi tiết phải tẩy
sửa các nét phác cho hình vẽ gọn gàng và đẹp hơn..
*Hớng dẫn học sinh vẽ màu.
- Trong chơng trình giáo dục Mỹ thuật đã xác định
mục tiêu rất rõ ràng: Vẽ mầu đối với các em phải tự nguyện,
tự chọn, tự do. Xét về thực tế thì đúng là yếu tố mầu
sắc sẽ ảnh hởng rất sâu sắc với lứa tuổi. Với các em có thể
bài vẽ sẽ xuất hiện rất nhiều mầu đẹp, hài hoà, tơi tắn,
tình cảm, nhng với ngời lớn lại cha chắc tìm đợc những
mầu nh vậy. Nói khác đi tức là học sinh thì dám sử dụng
các màu đó còn ngời lớn lại không dám chọn, và cái dám

chọn của học sinh ấy lại là cái đẹp đặc thù mỹ thuật. Mầu
sắc của các em sử dụng rất nguyên chất, rất tinh khiết
đó chính là đặc điểm khác hẳn những tranh của ngời
lớn.
Nh vậy hiểu rằng mình có quyền lựa chọn cách thể
hiện mầu, nhng sự lựa chọn ấy cần theo định hớng và gợi ý
của giáo viên để tránh những cách vẽ sai lệch, khi đã thành
thói quen không có lợi thì sẽ ảnh hởng sâu sắc khi học lớp
lớn hơn. Vì chơng trình giáo dục Mỹ thuật phổ thông là
một chơng trình đồng tâm.
- ở phần quan sát nhận xét giáo viên đã định hớng tốt
về mầu sắc trong tranh đề tài, học sinh đã hiểu đợc mầu
cũng cần thể hiện chính, phụ, đậm nhạt rõ ràng Còn ở
-22-


phần này do yêu cầu của chơng trình cùng đặc điểm
tình hình thực tế và mục tiêu giáo dục giáo viên cần xác
định rõ: Không tham vọng quá nhiều dễ dẫn đến bị sai
phơng pháp. Giáo viên nên gợi ý học sinh nhận xét mầu
đẹp là những mầu có đậm, có nhạt, có nóng, có lạnh, tơi
sáng nhng hài hoà.
3.4 Hớng dẫn học sinh thực hành.
Thời gian làm bài của HS chiếm nhiều nhất trong tiết
học.Phần nay,hoạt động của HS là chủ yếu, nhng không
phải vì thế mà hoạt động của GV dợc lơi lỏng.ở phần
nay.GV phải thật sát sao với từng đối tợng HS .
+ Học sinh làm bài độc lập: Qua các phần hớng dẫn
trên học sinh đã đợc lĩnh hội đầy đủ nội dung và phơng
pháp thể hiện một bài Vẽ tranh. Và bây giờ là lúc học sinh

tái hiện những hình ảnh từ hiện thực cuộc sống thành một
bức tranh theo những gợi ý của giáo viên.
Giáo viên quản lý lớp thực hành cần đảm bảo yêu cầu
không rời lớp khi các em đang làm bài, không ngồi tại một
chỗ, không nên làm gián đoạn nhiều thời gian thực hành
của học sinh, để đảm bảo thời gian thực hành của học
sinh diễn ra một cách thoải mái, nhẹ nhàng.
Tóm lại. Phần hớng dẫn học sinh thực hành thực chất là
cả quá trình học sinh làm bài, giáo viên không dời lớp, dời
học sinh. Và có những gợi mở, định hớng kịp thời giúp các
em hoàn thiện bài. Thái độ và tác phong của giáo viên phải
gần gũi, hoà nhã, mềm mỏng và thật nhẹ nhàng ,luôn luôn
khen ngợi các em học tót và đông viên các em học con yếu
-23-


để các em thât tự tin khi làm bài. Đông thời học sinh cảm
thấy giờ học thực sự vui để học, chơi để học.
3.5 Phơng pháp đánh giá và nhận xét kết quả
thực hành của học sinh:
Đối với vấn đề này giáo viên cần nắm đợc tinh thần
đổi mới phơng pháp trong việc đánh giá nhận xét bài của
học sinh. Thực chất đây lại là phần đã gián tiếp tác động
t tởng yêu thích bộ môn đối với học sinh. Chính vì lý do
đó việc nhận xét bài của học sinh cần phát huy đợc tinh
thần khích lệ các em hăng hái học phân môn là chính, và
phải tôn trọng ý kiến của học trò nếu là tích cực, nếu phê
bài yếu kém thì giáo viên cũng phải dùng cách khen trớc
để rồi chê sau
Tóm lại, tuy nhận xét và đánh giá chỉ đóng vai trò

nhận định, kết quả học tập của học sinh, nhng nếu giáo
viên biết vận dụng những yếu tố tích cực của tâm lý học
sinh cộng với phơng pháp nhận xét linh hoạt sẽ đem đến
tâm lý học tập sôi nổi, vui vẻ và phát triển cho học sinh.
- KT QU THC HIN:
p dng phng phỏp dy trang trớ nờu trờn v qua mt s bi hc c th,
tụi kho sỏt v thy cht lng hc mụn m thut núi chung v phõn mụn trang
trớ núi riờng ca hc sinh trng THCS Tam a c nõng lờn rừ rt. Kho sỏt
cht lng ca 2 lp 6A v 6B qua 4 nm hc 2010-2011, 2011- 2012, 20122013 v HKI nm hc 2013- 2014 nh sau:
Lp
6A
7A
8A
9A

Nm hc
2010-2011
2011-2012
2012-2013
2013-2014

S s
29
29
29
29


26
27

28
29

C
3
2
1
0
-24-


6B
7B
8B
9B

2010-2011
2011-2012
2012-2013
2013-2014

29
29
29
29

24
25
26
29


5
4
3
0

Trên đây là toàn bộ quá trình tìm đọc và nghiên cứu về Phương pháp dạy
phân môn trang trí ở trường THCS trong chương trình mĩ thuật THCS. Song
đề tài đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu cách dạy học phân môn vẽ trang trí cách
thực hiện của bản thân Tôi và áp dụng qua một số bài cụ thể. Thì thấy các em vẽ
những bài trang trí có tiến triển rõ rệt, các em học sinh rất hào hứng và rất thích
thú mỗi khi học phân môn trang trí.

PHẦN KẾT LUẬN
- Trang trí là một phân môn khó đòi hỏi học sinh phải có óc sáng tạo, sự cần
cù và linh hoạt vì khi vẽ được một bài trang trí các em phải thực sự tìm tòi sáng
tạo để biết tìm và chọn sắp xếp các mảng hình sao cho chặt chẽ lôgíc với nhau từ
tổng thể đến chi tiết, biết tìm và chọn sắp xếp hoạ tiết hợp lí với các mảng hình
đã chọn… Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp thích hợp hướng dẫn
để giúp một phần nào học sinh THCS có được những kỹ năng , kỹ xảo về vẽ
trang trí đạt hiệu quả cao nhất. Điều này có thể gây thêm hứng thú cho HS trong
khi học môn mĩ thuật và các môn học khác. Các em cần nắm bắt kỹ các bước, để
có thể cảm nhận và trình bày được một bài trang trí đẹp theo cảm nhận riêng của
mình. Thông qua quá trình học tập phân môn trang trí, có thể nâng cao được
hiểu biết đối với nghề nghiệp, với xã hội, hoàn thiện nhân cách và lối sống trong
sinh hoạt cho học sinh.
- Bởi vậy đây cũng là một trong nhiều giải pháp của tôi giúp các em học tốt
hơn đối với phân môn vẽ trang trí, cũng như giúp các em ham thích học mĩ thuật
hơn. Điều quan trọng là mỗi giáo viên đều có mỗi cách truyền thụ khác nhau, và
có từng giải pháp đối với từng lớp cũng như từng đối tượng hoc sinh. Song mục

đích cuối cùng là chỉ mong cho các em hoc tập thật tốt.
- Do đó Tôi đưa ra giải pháp này chỉ là kinh nghiệm của bản thân đã rút ra
được trong quá trình giảng dạy bộ môn mĩ thuật. nên ít nhiều chắc cũng còn hạn
-25-


×