Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Phong Điệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.18 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ HUẾ

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học

HÀ NỘI - 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ HUẾ

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Người hướng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH


HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sác đến cô giáo
Nguyễn Thị Vân Anh - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo trực tiếp giúp tôi hoàn
thành khóa luận này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc
biệt là các thầy cô trong tổ Lý luận văn học và các bạn sinh viên đã giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận.
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2016
Người thực hiện

NGUYỄN THỊ HUẾ


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo Nguyễn
Thị Vân Anh, tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khớp với bất kì công trình nghiên
cứu nào từng công bố.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 14 tháng 4 năm 2016
Người thực hiện

NGUYỄN THỊ HUẾ



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
5. Nhiệm vụ, mục tiêu của khóa luận ................................................................ 5
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5
7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5
NỘI DUNG....................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT 6
1.1. Quan niệm về thế giới nghệ thuật .............................................................. 6
1.1.1. Thế giới vật chất ...................................................................................... 6
1.1.2. Thế giới nghệ thuật ................................................................................. 6
1.2. Các yếu tố cơ bản của thế giới nghệ thuật ................................................. 8
1.2.1. Nhân vật .................................................................................................. 8
1.2.1.1. Khái niệm nhân vật .............................................................................. 8
1.2.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học....................................... 9
1.2.1.3. Cách phân loại nhân vật văn học ......................................................... 9
1.2.2. Không gian và thời gian nghệ thuật ...................................................... 11
1.2.2.1. Không gian nghệ thuật ....................................................................... 11
1.2.2.2. Thời gian nghệ thuật .......................................................................... 12
1.2.3. Ngôn ngữ ............................................................................................... 13
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ YẾU TỐ CƠ BẢN TRONG THẾ GIỚI NGHỆ
THUẬT TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP ................................................. 15
2.1. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Phong Điệp .................................... 15
2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người của phong Điệp ........................... 15


2.1.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Phong Điệp ................................ 18

2.1.2.1. Kiểu nhân vật tư tưởng....................................................................... 19
2.1.2.2. Kiểu nhân vật bi kịch ......................................................................... 25
2.1.2.3. Kiểu nhân vật cô đơn ......................................................................... 32
2.1.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................. 35
2.1.3.1. Khắc họa nhân vật qua ngôn ngữ của chính nó ................................. 35
2.1.3.2. Sử dụng yếu tố kì ảo........................................................................... 37
2.2. Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Phong Điệp. ...... 39
2.2.1. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 39
2.2.1.1. Không gian căn phòng ....................................................................... 39
2.2.1.2. Không gian đô thị ............................................................................... 43
2.2.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................. 45
2.2.2.1. Thời gian tâm trạng ............................................................................ 45
2.2.2.2. Thời gian phi lý .................................................................................. 48
2.3. Ngôn ngữ .................................................................................................. 50
2.3.1. Ngôn ngữ thông tục ............................................................................... 51
2.3.2. Ngôn ngữ giàu âm thanh ....................................................................... 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. "Thế giới nghệ thuật" là vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn quan
trọng trong nghên cứu văn học. Khi đọc văn bản ngôn từ hay xem phim trên màn
ảnh, xem biểu diễn trên sân khấu, chúng ta bước vào thế giới nghệ thuật của tác giả,
một thế giới sống động đầy ắp xung đột, buồn vui, hạnh phúc, đau đớn...
Một thế giới nghệ thuật nhất định, với tư cách là hệ thống không chỉ đặc
trưng cho tác phẩm đó mà còn đặc trưng cho cả nhà văn nói chung. Likhachev cho
biết: Văn học diễn tấu lại bản đàn của hiện thực, nhưng diễn tấu lại theo các khuynh
hướng "tạo phong cách" tiêu biểu đối với sáng tác của nhà văn nào đó hay "phong

cách thời đại" nào đó. Các khụyh hướng, phong cách ấy làm cho tác phẩm văn học
đa dạng hơn, phong phú hơn về phương diện nào đấy so với thế giới hiện thực, mặc
dù nó là tỉ lệ rút gọn một cách ước lệ. Nghiên cứu cấu trúc thế giới nghệ thuật vừa
cho ta hiểu hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, quan niệm của tác giả về thế giới
vừa có thể khám phá thế giới bên trong ẩn kín của nhà văn, cái thế giới chi phối sự
hình thành phong cách nghệ thuật.
1.2. Phong Điệp sinh năm 1976 tại thành phố Nam Định, chị là một trong số
các nhà văn trẻ, cần mẫn đã sáng tác với tinh thần chuyên nghiệp, tác phẩm của chị
khá đa dạng bao gồm cả truyện ngắn và tiểu thuyết. Tính đến thời điểm này, chị đã
cho xuất bản nhiều tác phẩm hay và thu hút được sự quan tâm của độc giả như các
tập truyện ngắn: Khi ta hai mươi, Ma mèo, Phòng trọ, Giấc mơ bay qua cửa sổ,
Người của ngày hôm qua, Vườn hoang, Kẻ dự phần, Nhật kí nhân viên văn
phòng và tập truyện ngắn mới nhất chị mới của chị đó là Biên bản bảo (NXB Phụ
nữ, 2015) và cả nhiều truyện dài, tiểu thuyết khác như Tiểu thuyết: Blogger … Có
thể thấy, Phong Điệp đã sớm tìm cho mình một lối đi, và gặt hái được thành công lớn
đặc biệt ở thể loại truyện ngắn chẳng hạn: Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi
truyện ngắn trên báo Văn nghệ Trẻ năm 1996 - 1997 với truyện ngắn Ma mèo, giải
thưởng “Văn học tuổi xanh” 1996 do Tạp chí Tuổi xanh tổ chức năm 1996 với truyện
ngắn Hoạ sĩ , giải: Chùm truyện ngắn hay nhất về đề tài phụ nữ hậu chiến, cuộc thi

1


truyện ngắn Tạp chí VNQĐ 2014 với truyện ngắn Chuyến đêm; Mẹ con và trần thế.
Ngòi bút của chị tập trung đi khai thác nhiều khía cạnh của cuộc sống thế giới nghệ
thuật của truyện ngắn Phong Điệp mang đậm hơi thở của cuộc sống đương đại. Có
thể thấy Phong Điệp đã tạo được cho mình một phong cách riêng và gặt hái cho mình
nhiều thành công lớn trong đó đặc biệt nổi bật là thể loại truyện ngắn.
Trong hành trình lao động nghệ thuật, Phong Điệp đã có những tìm tòi thể
nghiệm riêng và đã xây dựng nên một thế giới nghệ thuật độc đáo. Thế giới ấy là sự

tổng hòa mối quan hệ của các yếu tố như: Nhân vật, thời gian, không gian, ngôn
ngữ, giọng điệu... Và chúng tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Nghiên cứu về Thế
giới nghệ thuật Phong Điệp, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về cảm quan đời
sống, những thể nghiệm sáng tạo mang tính cách tân nghệ thuật, kĩ thuật biểu hiện
trong các truyện ngắn của nhà văn. Đây cũng là con đường để bạn đọc đến gần hơn
với văn học đương đại, tiếp xúc với một nền văn hóa đầy biến động ở sự góp mặt
của hàng loạt cây bút trẻ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phong Điệp là một gương mặt không còn xa lạ với bạn đọc Việt Nam, bạn
đọc đã khá quen thuộc với các tác phẩm của chị ngay từ khi tập truyện ngắn đầu tay
ra đời là truyên ngắn Khi ta hai mươi xuất bản năm 1996 và từ đó đến nay chị liên
tục cho ra mắt các tác phẩm khác. Có thể nói đây là một trong số các nhà văn trẻ
cần mẫn và có sức viết tốt trong làng văn Việt Nam hiện đại, đặc biệt chị đã có một
trang web riêng cho mình đó là phongdiep.net - nơi để gặp gỡ bạn bè và chia sẻ
những tâm huyết đối với văn chương, trang web đã thu hút được rất nhiều các nhà
văn tham gia đóng góp. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu về nhà văn này vẫn
chưa thật phong phú. Nó mới chỉ dừng lại ở những lời giới thiệu tác phẩm, những
bài điểm sách trên các website, những cuộc trả lời phỏng vấn trao đổi. Qua những
cuộc trả lời phỏng vấn, Phong Điệp đã trực tiếp thổ lộ những suy tư, quan niệm về
nghề viết… Chẳng hạn như cuộc trò chuyện của chị với khán giả trong chương trình
Đường tới thành công phát trên kênh truyền hình VTC10 và đăng tải trên trang
web youtube.com.

2


Sáng tác của Phong Điệp không tạo nên những cơn sốt, nhưng vẫn dành
được quan tâm, bình luận của các báo, các nhà phê bình, các nhà nghiên cứu và bạn
đọc, một số bài viết đã đưa ra quan niệm mới rất đáng chú ý:
Nhà văn Võ Thị Xuân Hà nhận xét: "Phong Điệp là một cái tên rất quen

thuộc với bạn đọc. Bạn viết nhiều, viết khỏe, phong phú về thể loại và đa dạng về
đề tài như nông thôn, thành thị, miền núi... Và nói thật tôi rất khó để có thể nói rằng
cá nhân tôi thích mảng nào của bạn hơn, nỗi khắc khoải nhớ nhung làng quê hay nỗi
xót xa của thân phận người dân đô thị."
Ngày 21-7-2009, Ban Văn trẻ Hội Nhà văn Việt Nam đã lựa chọn các tác
phẩm mới nhất của Phong Điệp là Blogger và Kẻ dự phần để tổ chức buổi tọa đàm,
trong buổi tọa đàm này Phong Điệp nhận được rất nhiều ý kiến phê bình từ những
nhà văn và những nhà nghiên cứu. Có người lắc đầu chê bai song cũng có những
con mắt ngỡ ngàng thích thú và tỏ thái độ mong ngóng những tác phẩm tiếp theo
của Phong Điệp.
Nói về nghệ thuật trong văn xuôi của nhà văn Phong Điệp nhà văn Hoàng
Quảng Uyên nhận xét:"truyện của Phong Điệp hầu như không có cốt truyện. Truyện
chỉ mang những mảnh ghép số phận và hoàn cảnh bằng một chất keo dính chặt bởi
bàn tay khéo léo, xâu chuỗi bởi sợ chỉ đỏ. Những mảnh ghép tưởng bình thường,
không có gì, đôi khi còn "vớ vẩn" nữa bỗng trở nên có vấn đề, có tư tưởng. Nhận
xét chung về sáng tác của Phong Điệp, bên cạnh việc khẳng định những thành công,
nhà phê bình Trần Thiện Khanh cũng chỉ ra một số điểm hạn chế "truyện của Phong
Điệp giàu tính thời sự đồng thời bộc lộ rõ một khả năng tư duy nhanh trước nhiều
vấn đề của cuộc sống hiện đại. Phong Điệp đã có nhiều cố tìm tòi trong việc sử
dụng yếu tố kì ảo và nén chuyện vào một bài văn ngắn. Rất tiếc ở một số truyện
người kể chỉ chạy theo cái bên ngoài của sự kiện để lộ ý tưởng, lộ ngay từ mở
chuyện. Không ít truyện trong Kẻ dự phần đã dừng lại ở cái ngưỡng mô tả những gì
diễn ra trước mắt, và thiếu hẳn một chiều sâu của sự phân tích, khái quát, tổng hợp".
Có thể thấy những bài nhận xét, đánh giá trên là những bài nghiên cứu đầu
tiên có tính chất học thuật về truyện ngắn của Phong Điệp. Song nhìn chung, các tác

3


giả này đều tập trung vào phân tích, đánh giá những cách tân, đổi mới trên phương

diện hình thức nghệ thuật ở từng yếu tố riêng lẻ, chưa có bài viết nào tập trung đi
sâu vào các bình diện thuộc thế giới nghệ thuật truyện ngắn Phong Điệp với tư cách
là một chỉnh thể. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn triển khai đề tài Thế giới nghệ thuật
truyện ngắn Phong Điệp như là sự đóng góp thêm một hướng tiếp cận tác phẩm
của nhà văn này dưới sự soi sáng của lý thuyết Lý luận văn học hiện đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài đã chọn, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện
ngắn Phong Điệp. Trong quá trình nghiên cứu những biểu hiện đặc trưng cơ bản của
nó, người viết có liên hệ với một số tác phẩm văn xuôi của các nhà văn khác để thấy
rõ hơn nét độc đáo trong truyện ngắn của nhà văn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thế giới nghệ thuật là một phạm vi rộng thể hiện qua nhiều phương diện
như: Nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu, không gian, thời gian, quan niệm nghệ
thuật… Các yếu tố này thể hiện đan xen vào nhau trong tác phẩm và phụ thuộc vào
tư duy của nhà văn, góp phần làm nên tính sinh động của cái được miêu tả. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của khóa luận và qua thực tiễn khảo sát tác phẩm, người
viết chỉ khai thác một số biểu hiện rõ nhất của thế giới nghệ thuật, đó là: Thế giới
nhân vật, không gian và thời gian và ngôn ngữ.
Nhóm tác phẩm chúng tôi chọn làm đối tượng nghiên cứu gồm 3 tập truyện
ngăn của Phong Điệp:
1- Phong Điệp (2012), Nhật kí nhân viên văn phòng, Nxb Trẻ
2- Phong Điệp (2008), Kẻ dự phần, Nxb Hội nhà văn
3- Phong Điệp (2015), Biên bản bão, Nxb Phụ nữ
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện khóa luân này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống
- Phương pháp so sánh, đối chiếu

4



- Phương pháp xác định lịch sử phát sinh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
5. Nhiệm vụ, mục tiêu của khóa luận
5.1. Nhiệm vụ của khóa luận
Xác lập một cách hiểu thống nhất về thế giới nghệ thuật và những yếu tố
nằm trong` cấu trúc của nó.
Chỉ ra được điểm độc đáo, mới mẻ của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
Phong Điệp.
5.2. Mục tiêu của khóa luận
Khóa luận hướng tới mục tiêu tìm ra những điểm độc đáo, mới mẻ của thế
giới nghệ thuật trong truyện ngắn Phong Điệp. Trên cơ sở đó, khóa luận nêu lên
những đánh giá về tài năng và những đóng góp cũng như vị trí của Phong Điệp
trong nề văn học đương đại.
6. Đóng góp của khóa luận
Khái quát lý thuyết về thế giới nghệ thuật, vận dụng để tìm hiểu thế giới
nghệ thuật trong truyện ngắn Phong Điệp.
Chỉ ra và phân tích những khía cạnh mới của thế giới nghệ thuật trong truyện
ngắn Phong Điệp trong tương quan với một số nhà văn đương thời. Qua đó, khẳng
định vị trí của Phong Điệp trong đời sống văn học đương đại.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung được
chúng tôi triển khai thành hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thế giới nghệ thuật
Chương 2: Một số yếu tố cơ bản trong thế giới nghệ thuật truyện ngắn Phong Điệp

5



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
1.1. Quan niệm về thế giới nghệ thuật
1.1.1. Thế giới vật chất
“Thế giới” là một khái niệm thuộc phạm trù triết học. Theo Từ điển triết
học, “thế giới” có thể được hiểu theo các nghĩa sau:
Theo nghĩa rộng: Thế giới là toàn bộ hiện thực khác quan (tất cả những gì tồn
tại bên ngoài và độc lập với ý thức con người). Thế giới là nguồn gốc của nhận thức.
Theo nghĩa hẹp: Thế giới dùng để chỉ đối tượng của vũ trụ, nghĩa là bộ phận
của thế giới vật chất do thiên văn học nghiên cứu. Người ta chia bộ phận thế giới
vật chất đó thành hai lĩnh vực, nhưng không có ranh giới tuyệt đối: thế giới vĩ mô
và thế giới vi mô.
Như vậy, có thể nói, thế giới là một phạm vi rất rộng, một vũ trụ rộng lớn tồn
tại xung quanh con người và độc lập bên ngoài ý thức con người.
1.1.2. Thế giới nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính
chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của
tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một
thế giới riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới thực
tại vật chất hay tâm lí con người, mặc dù nó phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ
thuật có không gian riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá
trị riêng… xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tác nghệ thuật” [12, Tr. 302]. Chẳng
hạn, trong thế giới truyện cổ tích, con người và loài vật, cây cối, thần phật đều có
thể nói chung một thứ tiếng người, đôi hài có thể đi một bước bảy dặm, nồi cơm vô
tận ăn mãi không hết… Trong văn học lãng mạn, quan hệ nhân vật thường xây dựng
trên cơ sở cảm hóa. Trong văn học cách mạng, nhân vật thường chia thành hai tuyến
địch - ta, người chiến sĩ cách mạng và quần chúng. Như thế, mỗi thế giới nghệ thuật
có một mô hình nghệ thuật trong việc phản ánh thế giới. Sự hiện diện của thế giới

6



nghệ thuật không cho phép đánh giá và lí giải tác phẩm văn học theo lối đối chiếu
đơn giản giữa các yếu tố hình tượng với các sự thực đời sống riêng lẻ, xem có
“giống” hay “không”, “thật” hay “không”, mà phải đánh giá trong chỉnh thể tác
phẩm, xem xét tính chân thật của tư tưởng chỉnh thể của tác phẩm so với chỉnh thể
hiện thực. Các yếu tố hình tượng chỉ có ý nghĩa trong thế giới nghệ thuật của nó.
Theo giáo trình Lý luận văn học (Trần Đình Sử chủ biên), “thế giới nghệ
thuật là một thế giới kép: Thế giới được miêu tả và thế giới miêu tả. Thế giới được
miêu tả gồm nhân vật, sự kiện, cảnh vật… Thế giới miêu tả là thế giới của người kể
chuyện, người trữ tình. Hai thế giới này gắn kết không tách rời như hai mặt của một
tờ giấy. Không có thế giới miêu tả thì không có thế giới được miêu tả và ngược lại.
Tuy nhiên chúng không thể liên thông. Người kể chuyện không thể trực tiếp tham
gia vào sự kiện trong thế giới được miêu tả như một nhân vật” [, Tr. 82]. Thế giới
được miêu tả trong tác phẩm có các bình diện của nó. Đó là con người riêng (nhân
vật), không gian, thời gian riêng, đồ vật, âm thanh, màu sắc có ý nghĩa tượng trưng
riêng không đồng nhất với thực tại. Các bình diện trên đều là yếu tố của thế giới
nghệ thuật, mỗi yếu tố có một vị trí nhất định và không thể thiếu đối với hệ thống.
Không nên đánh giá tác phẩm chỉ trong một bình diện, cũng như không nên xem xét
các bình diện trên một cách tách rời, bỏ qua mối quan hệ và liên hệ qua lại của
chúng. Chỉ có nghiên cứu đồng bộ các bình diện mới đem lại bức tranh đầy đặn về
thế giới mà nhà văn sáng tạo ra.
Như vậy, thế giới nghệ thuật là một phạm trù rất rộng. Thuật ngữ này chỉ
dùng trong văn học, trong sáng tác nghệ thuật. Có nhiều định nghĩa, quan niệm khác
nhau về thế giới nghệ thuật. Qua các định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra cách
hiểu: Thế giới nghệ thuật là thế giới riêng mà nhà văn sáng tạo trong tác phẩm của
mình. Thế giới ấy là hình bóng của thế giới vật chất nhưng không hoàn toàn là thế
giới vật chất. Bước vào thế giới nghệ thuật, người đọc đã tự nguyện cùng nhà văn
bắt đầu hành trình khám phá bản chất của cuộc sống và bản thể con người. Đó là
một cuộc chơi thú vị, hấp dẫn nhưng cũng không ít những đắng cay cần sự trải

nghiệm. Thế giới nghệ thuật bao gồm tất cả các yếu tố trong tác phẩm văn học. Có

7


bao nhiêu yếu tố cấu thành nên tác phẩm văn học sẽ có bấy nhiêu yếu tố thuộc thế
giới nghệ thuật. Trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu
những yếu tố cấu trúc cơ bản của thế giới nghệ thuật được biểu hiện cụ thể qua các
truyện ngắn của Phong Điệp.
1.2. Các yếu tố cơ bản của Thế giới nghệ thuật
1.2.1. Nhân vật
1.2.1.1. Khái niệm nhân vật
Nhìn một cách rộng nhất, nhân vật là khái niệm không chỉ được dùng trong
văn chương mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. Theo bộ Từ điển tiếng Việt của viện Ngôn
ngữ học do Hoàng Phê chủ biên thì nhân vật là khái niệm mang hai nghĩa: Thứ nhất,
“đó là đối tượng (thường là con người) được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn
học”. Thứ hai, đó là “người có vai trò nhất định trong xã hội”. Tức là, thuật ngữ nhân
vật được dùng phổ biến ở nhiều mặt cả ở đời sống nghệ thuật, đời sống xã hội - chính
trị lẫn đời sống sinh hoạt hằng ngày… Nhưng trong phạm vi nghiên cứu của khóa
luận này, chúng tôi chỉ đề cập đến khái niệm nhân vật theo nghĩa thứ nhất mà bộ Từ
điển tiếng Việt định nghĩa, đó là nhân vật trong tác phẩm văn chương.
Cuốn Lý luận văn học do tác giả Phương Lựu chủ biên định nghĩa về nhân
vật văn học như sau: “Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả
thể hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện văn học” [16,Tr.227]. Đó là nhân vật
không tên như thằng bán tơ trong Truyện Kiều… Đó là những con vật trong truyện
cổ tích, thần thoại, đồng thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những
con vật mang nội dung và ý nghĩa như con người… Khái niệm nhân vật đôi khi
được sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ con người cụ thể nào mà chỉ một hiện
tượng nổi bật trong tác phẩm nhưng chủ yếu bằng hình tượng con người. Nhân vật
văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, có những dấu hiệu để nhận ra.

Trong cuốn giáo trình Lý luận văn học do giáo sư Hà Minh Đức chủ biên,
các tác giả cuốn này cho rằng: “Nhân vật văn học là một hình tượng mang tính ước
lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ
là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính

8


cách… Và cần chú ý thêm một điều: Thực ra khái niệm nhân vật thường được quan
niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là con người, những con người
có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong
tác phẩm, mà còn có thể là sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách
con người… Cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể mà chỉ là
một hình tượng con người về con người hoặc có liên quan tới con người, được thể
hiện nổi bật trong tác phẩm” [Tr.126].
Như vậy, các nhà nghiên cứu lí luận văn học, bằng cách này hay cách khác,
khi định nghĩa về nhân vật văn học vẫn cơ bản gặp nhau ở những nội hàm không
thể thiếu được của khái niệm này: Thứ nhất, đó phải là đối tượng mà văn học miêu
tả, thể hiện bằng những phương tiện văn học. Thứ hai, đó là những con người, hoặc
những con vật, đồ vật, sự vật, hiện tượng mang linh hồn con người là ẩn dụ của con
người. Thứ ba, đó là đối tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống
hiện thực bởi nó đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà văn.
1.2.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học
Là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành nên mỗi tác phẩm văn học, nhân
vật có một vai trò, vị trí hết sức quan trọng.
Trước tiên, nhân vật văn học là đơn vị cơ bản, là phương tiện tất yếu và quan
trọng nhất giúp nhà văn phản ánh một cách chân thực đời sống. Bằng sự suy ngẫm,
chiêm nghiệm, bằng những tìm tòi, khám phá, nhà văn xây dựng nên nhân vật và hệ
thống nhân vật trong tác phẩm để từ đó khái quát các tính cách xã hội và mảng đời
sống gắn liền với nó.

Bên cạnh việc phản ánh, khái quát hóa hiện thực cuộc sống với những mảng
đời sống xã hội gắn liền với nó, nhân vật còn có chức năng thể hiện quan niệm nghệ
thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người, về cuộc đời. Văn học phản
ánh thế giới bằng hình tượng. Song, điều đó không có nghĩa là nhà văn sao chép
nguyên xi hiện thực cuộc sống vào trong tác phẩm. Nhà văn phải là người sáng tạo
trên cơ sở trải nghiệm, sự suy ngẫm theo sự cảm thụ của bản thân mình.
1.2.1.3. Cách phân loại nhân vật văn học
Nhân vật văn học là một hiện tượng đa dạng về mặt kiểu loại. Có rất nhiều
cách phân chia nhân vật văn học:

9


Xét về cấu trúc tác phẩm: Dựa vào vị trí của nhân vật đối với nội dung cụ
thể và với cốt truyện trong tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật
chính, nhân vật phụ và nhân vật trung tâm. Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò
chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện.
Đó là con người liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả
triển khai đề tài cơ bản của mình. Trong các nhân vật chính của tác phẩm lại có thể
nhận thấy nổi lên những nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm từ đầu đến cuối về
mặt ý nghĩa. Đó là nơi quy tụ các mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề
trung tâm của tác phẩm. Ngoài nhân vật trung tâm và nhân vật chính, còn lại là các
nhân vật phụ. Nhân vật phụ mang các tình tiết, sự kiện, tư tưởng có tính chất phụ
trợ bổ sung. Nó góp phần làm đầy đủ phương diện cấu trúc của nhân vật văn học.
Xét về ý thức hệ: Dựa vào đặc điểm của tính cách, mối quan hệ với tư tưởng
tác giả và lý tưởng của thời đại, có thể chia ra thành nhân vật chính diện, nhân vật
phản diện. Sự phân biệt nhân vật chính diện và nhân vật phản diện gắn liền với
những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống xã hội, hình thành trên cơ sở đối lập về
quan điểm tư tưởng và lý tưởng sống. Nhân vật chính diện và phản diện là những
phạm trù lịch sử. Nhân vật chính diện mang lý tưởng, quan điểm tư tưởng, đạo đức

tốt đẹp của tác giả và của thời đại. Ngược lại, nhân vật phản diện lại mang những
phẩm chất xấu xa, trái với đạo lý và lý tưởng, đang lên án và phủ định. Như vậy, hai
loại nhân vật này luôn ở vị trí đối kháng nhau.
Dựa vào cấu trúc hình tượng: Theo tiêu chí này, người ta chia nhân vật
thành nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách và nhân vật tư
tưởng. Nhân vật chức năng xuất hiện trong văn học cổ đại và trung đại. Đó là loại
nhân vật thường không được khăc họa đời sống nội tâm, các phẩm chất, đặc điểm
nhân vật cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối. Hơn nữa, sự tồn tại và hoạt động
của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng nhất định, đóng một số vai trò nhất
định. Nhân vật loại hình là nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội, phẩm
chất của một loại người nhất định của một thời. Đó là nhân vật nhằm khái quát cái
chung về loại của các tính cách và nhờ vậy mà được gọi là điển hình. Nhân vật tính

10


cách là một kiểu nhân vật phức tạp. Ở trên đã nói, tính cách như là đối tượng chủ
yếu của nhận thức văn học. Đó là tính cách trong nghĩa rộng. Nhưng không phải
mọi nhân vật văn học đều phản ánh cấu trúc của tính cách. Do đó, trong nghĩa hẹp,
nhân vật tính cách là một loại nhân vật được mô tả như một nhân cách, một cá nhân
có tính cách nổi bật. Trong nhân vật tính cách, cái quan trọng không phải chỉ là cái
đặc điểm, thuộc tính xã hội nào đó mà người ta có thể liệt kê ra được.Tính cách còn
thể hiện ở tương quan của các thuộc tính đó với nhau, tương quan giữa các thuộc
tính đó với môi trường, tình huống. Nhân vật tính các thường có những mâu thuẫn
nội tại, những nghịch lý, những chuyển hóa. Vì vậy, tính cách có một quá trình tự
phát triển, và nhân vật không đồng nhất giản đơn vào chính nó. Trong văn học có
những nhân vật mà hạt nhân cấu trúc của nó không phải là cá tính, cũng không phải
là các phẩm chất loại hình, mà là một tư tưởng, một ý thức. Đó là kiểu nhân vật tư
tưởng. Chẳng hạn, các nhân vật “quỷ sứ” như Malfret, Cain, Luifer, Jean Valiean,
Javais của Huygo; Andray của L.Tolstoi; Laconnicov của Dostoevski. Trong sáng

tác, loại nhân vật này dễ rơi vào công thức, minh họa, trở thành cái loa tư tưởng của
tác giả và loại nhân vật “dẹt” thiếu sức sống.
Trên đây là những loại nhân vật thường gặp. Sự phân biệt này chỉ mang tính
chất tương đối. Nó chỉ nhằm nhấn mạnh nét trội, nét đặc trưng cơ bản của một loại
nhân vật nào đó.
1.2.2. Không gian và thời gian nghệ thuật
Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều có một không gian và thời gian riêng. Không
gian và thời gian ấy là sự quy ước, mã hóa của nhà văn về không gian, thời gian
thực tại. Không gian và thời gian nghệ thuật là hai yếu tố cơ bản cấu thành nên thế
giới nghệ thuật.
1.2.2.1. Không gian nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “không gian nghệ thuật là hình thức bên
trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính cách chỉnh thể của nó. Sự miêu tả,
trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong
trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ
quảng tính của nó: Cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao,

11


thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn
với cảm thụ về không gian tâm tưởng” [12.Tr.160]. Do vậy, không gian nghệ thuật
có tính độc lập tương đối, không quy định vào không gian địa lí. Không gian nghệ
thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mô hình hóa các mối liên hệ của bức tranh
thế giới như thời gian, xã hội, đạo đức, tôn ti trật tự. Ngôn ngữ của không gian nghệ
thuật rất đa dạng và phong phú. Các cặp phạm trù cao - thấp, xa - gần, rộng - hẹp,
cong - thẳng, bên này - bên kia, vững chăc - bập bênh, ngay - lệch… Đều được
dùng để biểu hiện các phạm vi giá trị phẩm chất của đời sống xã hội. Không gian
nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn
ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác

giả hay một giai đoạn văn học. Không gian nghệ thuật trong văn chương có những
đặc trưng cơ bản: Nó xuất hiện lần lượt tuần tự theo sự trình bày của tác giả, không
gian mang tính quan niệm và không bị một hạn chế nào.
1.2.2.2. Thời gian nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn
học chính là “hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của
nó. Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học bao giờ
cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật
bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian nghệ thuật. Sự phối
hợp của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước
lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật. Khác với thời gian khách quan được đo bằng
đồng hồ và lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược quay về quá khứ, có thể bay
vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát
thành vô tận” [12, Tr.322].
Trong tác phẩm văn chương, thời gian chỉ trở thành nghệ thuật khi nó trực
tiếp tác động vào nhân vật, vào môi trường mà ở đó diễn ra số phận của nhân vật và
những biến động của tâm tư, tình cảm con người. Thời gian nghệ thuật là hình thức
của hình tượng nghệ thuật thể hiện tài năng và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ…
Nó được nhận biết nhờ các mối quan hệ giữa các biến cố, có thể là quan hệ nhân

12


quả, quan hệ tâm lí hoặc liên tưởng. Tuy nhiên, điều quan trọng không chỉ là cách
biểu thị thời gian mà là quan niệm, cách hiểu thời gian của tác giả.
Tóm lại, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật là hai khái niệm luôn
đi song hành với nhau, tạo ra tính cấu trúc và tính quá trình của các tác phẩm, là yếu
tố mở ra thế giới nghệ thuật của nhà văn.
1.2.3. Ngôn ngữ
Theo quan niệm của ngôn ngữ học: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng

yếu trong đời sống con người. “Ngôn ngữ là ý thức thực tại thực tiễn, ngôn ngữ
cũng tồn tại cho cả người khác nữa, như vậy cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân
tôi nữa, và cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra do nhu cầu, do cần thiết phải giao
dịch với người khác”. Theo Từ điển thuật ngữ mỹ học phổ thông: “Ngôn ngữ là hệ
thống tín hiệu đặc biệt bao gồm những dấu hiệu, kí hiệu được sử dụng với mục đích
trao đổi hoặc truyền đạt thông tin.Trong nghệ thuật, mỗi chuyên ngành đều có ngôn
ngữ riêng để điễn đạt loại hình nghệ thuật của mình”.
Trong văn học, ngôn ngữ mang những giá trị đặc biệt, vừa truyền tải dung
lượng thông tin nhất định, vừa mang tính thẩm mỹ cao. Phân biệt ngôn ngữ văn học
và ngôn ngữ có tính chất nghệ thuật cao của tác phẩm văn học, Từ điển thuật ngữ
văn học viết: “ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ có tính nghệ thuật cao của tác phẩm
văn học. Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng lớn, nhằm bao quát
các hiện tượng ngôn ngữ được dùng một cách chuẩn mực trong các biên bản ngôn
ngữ, trên báo chí, trên đài phát thanh, trong văn học và trong khoa học”[13,Tr.215].
Ngôn ngữ là chất liệu của văn học. Khác với các loại hình nghệ thuật như:
Hội họa, kiến trúc, điêu khắc, hình tượng nghệ thuật trong văn học được xây dựng
bằng ngôn từ. Vì thế, nó không trực tiếp tác động vào các giác quan của công
chúng, mà tác động sâu xa đến trí tưởng tượng, cảm xúc của người đọc, lay động
tâm hồn người đọc. Đó chính là tính phi vật thể của hình tượng nghệ thuật ngôn từ.
Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện cá tính của nhà văn.
Nó cũng là sự biểu hiện phong cách, tâm lý, quan điểm, lập trường, ý thức sáng tạo,
tâm huyết của nhà văn gửi gắm trong đó. Đồng thời cũng có vai trò quan trọng dẫn

13


dắt người đọc tìm hiểu tác phẩm. Trong đây, có ngôn ngữ mực thước, nghiêm trang
của người uyên thâm, tao nhã. Có thứ ngôn ngữ chua xót, đau đớn, hoài nghi của
người luôn trăn trở về thế thái nhân tình. Có thứ ngôn ngữ bông đùa, hài hước của
người tư duy trào lộng… Nhưng dù nói thế nào đi nữa một khi đã gắn với người

nghệ sĩ thì ngôn ngữ cũng là thứ đã được ý thức sáng tạo một cách sâu sắc. Bởi vì:
“Người hạ bút làm thơ mà không am hiểu ngôn ngữ khác gì chàng mất trí lao xuống
dòng sông cuồn cuộn mà không biết bơi”.
Tóm lại, thế giới nghệ thuật là một phạm trù rộng và được tạo nên từ nhiều
yếu tố. Các yếu tố này có vị trí, vai trò nhất định trong hệ thống và có mối quan hệ
biện chứng với nhau tạo thành chỉnh thể của hệ thống đó. Thế giới nghệ thuật của
tác phẩm ngôn từ là một hệ thống hoàn chỉnh vận động theo quy luật và nguyên tắc
vốn có của nó. Không nên đánh giá toàn bộ tác phẩm chỉ qua một bình diện hoặc
xem xét các bình diện trong sự tách rời mà phải đặt chúng trong chỉnh thể. Như vậy,
thế giới nghệ thuật trong tác phẩm văn học mới hiện ra sống động và toàn vẹn trong
sự chiếm lĩnh của bạn đọc.

14


CHƯƠNG 2
MỘT SỐ YẾU TỐ CƠ BẢN TRONG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN PHONG ĐIỆP
2.1. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Phong Điệp
2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người của phong Điệp
Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm trung tâm của thi pháp
học, nó phản ánh một cách sâu sắc và toàn diện bản chất nhân học của văn học. Ở
một phương diện nào đó, thuật ngữ quan niệm nghệ thuật về con người có giá trị
tương đương với khái niệm "tính tư tưởng” trong tác phẩm văn học. Nếu tư tưởng là
linh hồn của tác phẩm (Korolenco) thì quan niệm nghệ thuật về con người là cốt lõi
tư tưởng, chiều sâu nhân bản của tác phẩm đó, đồng thời là thước đo sự tiến bộ của
nhà văn. Quan niệm nghệ thuật về con người là cái giới hạn tối đa trong cách hiểu,
cách cảm, cách nhìn và cách lý giải về con người của nhà văn được hóa thân thành
các nguyên tắc , các phương tiện, biện pháp, hình thức thể hiện con người trong văn
học, tạo nên giá trị thẩm mĩ cho các hình tượng nhân vật đó. Quan niệm nghệ thuật

về con người gắn liền với vốn sống, vốn văn hóa, tài năng, cá tính sáng tạo của nhà
văn và ý thức hệ của cộng đồng xã hội. Nói gắn gọn thì quan niệm nghệ thuật về
con người chính là cách cắt nghĩa của văn học về con người thông qua các phương
tiện nghệ thuật đặc thù. Mỗi nhà văn đều có quan niệm nghệ thuật riêng và luôn
chịu sự chi phối của các quan niệm đó. Có tác phẩm văn học tức là đã tồn tại một
quan niệm nghệ thuật nhất định về con người và cuộc đời.
Văn học Việt Nam sau 1975, đặc biệt sau đổi mới 1986 đã có những chuyển
biến mạnh mẽ trong quan niệm nghệ thuật về con người. Không chấp nhận quan
niệm văn học mô phỏng một cách công thức, giản đơn về cuộc sống con người, các
nhà văn biết lánh xa lối văn chương chỉ ca ngợi một chiều và dần dần lấy số phận
của con người làm "miếng đất khám phá những quy luật nhân vĩnh hằng của giá trị
nhân bản", coi đó là điểm xuất phát, là chuẩn mực để nhà văn soi ngắm và định giá
thế giới. Có thể nói, Nguyễn Minh Châu chính là người mở đường tinh anh và tài

15


hoa với các sáng tác thể hiện sự tìm tòi và thể nghệm theo hướng đó. Lớp nhà văn
kế tiếp như: Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn
Bình Phương... đã đón lấy làn gió dân chủ trong văn học, mạnh dạn đi sâu vào
những khía cạnh riêng tư, khuất lấp của con người và xã hội. Trong quan niệm nghệ
thuật của đa số những nghệ sĩ lớn, việc lấy số phận cá nhân làm gương soi lịch sử
và lấy nội tâm con người để nói về cuộc sống chung hầu như là việc bình thường
bởi suy cho cùng, văn học và hiện thực là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm
là con người (Nguyễn Minh Châu).
Phong Điệp là một trong những gương mặt trẻ tiêu biểu trong văn học đương
đại. Ở cái tuổi vừa tròn bốn mươi, nhờ tài năng, một tư duy nhạy bén chị cùng sức
viết cần mẫn chị đã thử nghiệm được ở trên nhiều thể loại sáng tác khác nhau và đạt
được nhiều thành quả đáng nể với mười tập truyện ngắn, ba tiểu thuyết, một tập tản
văn, ba cuốn sách thiếu nhi và một tập phỏng vấn, đối thoại văn học. Phong Điệp là

một trong số những cây bút có vốn liếng văn chương có thể coi là dày dặn trong lứa
viết văn thế hệ 7X. Trong đó truyện ngắn là thể loại chị yêu thích và đạt được nhiều
thành công nhất với nhiều truyện đã đạt nhiều giải thưởng lớn như: Ma mèo (NXb
Trẻ 1997) - trong đó có truyện ngắn Ma mèo - giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi
truyện ngắn trên báo Văn nghệ Trẻ 1996- 1997) và truyện ngắn Họa sĩ - giải
thưởng Văn học tuổi xanh 1996 do Tạp chí Tuổi xanh tổ chức năm 1996... Chị cũng
đã tường phát biểu "sức ngắn gọn, sức công phá của thể loại này khiến truyện ngắn
luôn là sự lựa chọn số một của tôi. Tuy có những vấn đề buộc phải giải quyết bằng
thể loại tiểu thuyết nên tôi vẫn tìm cách duy trì song song cả hai". Đọc những truyện
ngắn của chị người đọc có thể nhận ra một quan niệm nghệ thuật về con người đầy
ý nghĩa. Các sáng tác của Phong Điệp có thể nói chính là những trải nghiệm của
Phong Điệp, là những gì mà chị đã nhìn thấy, nghe thấy trong suốt những tháng
năm làm báo, một nghề nghiệp có điều kiện được tiếp xúc với nhiều môi trường
sống khác nhau rồi từ đó khái quát thành những mẩu truyện đầy ám ảnh. Truyện của
chị thường tập trung ở hai mảng đề tài chính là bức tranh cuộc sống miền núi và
cuộc sống nơi đô thị. Nhiều trang viết của chị thấm đẫm sự cảm thông chia sẻ với số
phận của từng nhân vật. Đó là câu chuyên về cô bé Thu Hoài, một cô bé dở bị người
đàn ông lợi dụng làm chuyện phi nhân tính trong truyện Tiếng ru, là cậu bé Phong

16


một dân đào vàng chuyên nghiệp kể từ khi mới mười ba tuổi trong Dốc gió, hay là
số phận của Sa - một cô gái Nam Định cả tin đi theo tiếng gọi của tình yêu tìm đến
một thị trấn heo hút để rồi một ngày chàng trai trong mộng cũng rời bỏ cô, để lại
một mình Sa trong cái thị trấn buồn tẻ đến tê tái trong Phố núi, hay một tình yêu
đầy khắc khoải của Miên dành cho Thụy trong Thị trấn chân mây.... Tuy vậy nổi
bật hơn cả vẫn là cuộc đời và số phận của những nhân viên văn phòng, tất cả họ đề
sống với những lo toan, bất tận của cuộc sống. Đồng lương còng cõi không đủ đảm
bảo cho họ yên tâm, cuộc sống hàng ngày cứ bập bềnh trôi đi cùng những lo toan

vụn vặt như: lo tắc đường không kịp về đón con, lo một điều gì đó bất trắc có thể
xày ra khi phóng xe máy vù vù trên đường hàng ngày, lo bệnh tật, lo con cái hư
hỏng. Họ những nhân viên văn phòng ấy cứ như một đàn cừu đã bị lùa vào chuồng
loanh quanh, luẩn quẩn không tìm ra lối thoát cho cuộc sống của chính mình, một
đôi người đã dũng cảm đi tìm sự thay đổi bằng cách bỏ việc, rời bỏ gia đình, hay
thậm chí đơn giản là ngoại tình để tìm sự an ủi trong phút chốc. Nhưng tất cả đều
nhanh chóng nhận ra rằng mọi quyết định thay đổi ấy đều là những sai lầm tai hại
bởi họ đã quá quen với cuộc sống tù túng kia mất rồi.
Những câu chuyện, những cuốn sách đã ra đời trong một không gian buồn
xám như vậy. Qua đó tác giả đã đặt ra một vấn đề: Đằng sau những lộng lẫy, phù
phiếm phố xá mà ta đang nhìn thấy ngoài kia, là biết bao cuộc đời, biết bao thân phận
tuổi trẻ đang gồng mình với đời sống. Và không ít người trẻ tuổi, trong cuộc mưu
sinh, đã không chiến thắng được chính mình, đã “bỏ quên” những lý tưởng ban đầu,
những giá trị cần thiết để chạy theo những thực dụng tầm thường… Con người cần
tỉnh táo để nhận ra những giá trị của hạnh phúc, và trên hành trình tìm kiếm tình yêu,
hạnh phúc thật chẳng dễ dàng gì, và nếu bạn đang “sở hữu” nó, hãy biết nâng niu, giữ
gìn. Con người cần làm gì đó sao cho có ý nghĩa với bản thân, gia đình, cộng đồng.
Đừng để cuộc sống trôi đi một cách vô nghĩa, nhạt nhẽo. Có thể nói Phong Điệp đã
thâu tóm được cả một thế hệ những người trẻ tuổi trong truyện ngắn của mình, giúp
người đọc có thể nhận thức được đầy đủ hiện thực đời sống con người.
Đọc những truyện ngắn của Phong Điệp ta thấy một không khí đầy bế tắc tù
túng về kể cả nhân vật và tinh thần. Tuy nhiên, những truyện của chị sẽ có thể giúp
cho nhiều người trong số chúng ta nhận ra nhận ra được hình ảnh của mình trong đó

17


và để tìm thấy một điểm sáng để thay đổi, và để thấy cuộc sống này còn nhiều điều
tốt đẹp, đáng sống hơn nữa. Ngòi bút của Phong Điệp đã đi sâu, tìm tòi để phát hiện
ra vẻ đẹp cũng như những mặt trái của cuộc sống. Với quan niệm nghệ thuật về con

người như thế, Phong Điệp tiếp tục góp phần khẳng định quan điểm "văn học là
nhân học" (M.Gorki) - bởi con người vừa là điểm xuất phát, đối tượng khám phá
chủ yếu, vừa là cái đích cuối cùng của văn học. Đồng thời nó cũng là điểm quy
chiếu, là thước đo giá trị của mọi vấn đề xã hội , mọi sự kiện và biến cố lịch sử. Từ
đó, hình thành nên một thế giới nhân vật sinh động, phong phú - thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Phong Điệp.
2.1.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Phong Điệp
Trước năm 1975, văn học nhìn con người với tư cách người công dân, con
người dân tộc, con người giai cấp. Bởi vậy, lý luận văn học luôn xem xét nhân vật ở
các kiểu cố định như: nhân vật tính cách, nhân vật chức năng, nhân vật tư tưởng,
nhân vật phản diện, nhân vật chính diện; và xem xét nhân vật ở các phương diện
khái quát nhất: Tầng lớp, giai cấp, nghề nghiệp...
Sau năm 1975, từ những nhận thức và quan niệm mới về con người dẫn đến
những đổi thay về kiểu nhân vật văn học. Văn học có sự dịch chuyển từ tư duy sử thi
sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng thế sự đời tư nên
khả năng tiếp cận, phản ánh hiện thực và con người cũng được tăng cường một cách
nhạy cảm, sắc bén. Số phận con người trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhà văn.
Họ nhìn nhận con người như một cá thể bình thường trong đời sống. Họ khai thác con
người tự nhiên trước nhu cầu hạnh phúc riêng tư. Con người trong văn học là con
người trần thế với tất cả các đặc tính tự nhiên và xã hội của nó. Trong con người ấy
có cả ánh sáng và bóng tối, cao cả và thấp hèn, ý thức và vô thức...
Sự thay đổi trên đã dẫn đến sự xuất hiện nhiều kiểu nhân vật trong văn học
đương đại: nhân vật cô đơn, nhân vật bi kịch, nhân vật lạc thời, nhân vật kì ảo, nhân
vật tha hóa... Các nhà văn đã phá vỡ cái nhìn một phía, tĩnh tại đơn điệu để tạo ra
cái nhìn phức tạp, sinh động và sâu sắc hơn. Vì thế, việc đánh giá về cách thức xây
dựng nhân vật, vai trò, chức năng của nhân vật trong thời kì văn học này cũng có sự
dịch chuyển theo xu hướng văn học và tư duy nghệ thuật của nhà văn.

18



Thế giới nhân vật của Phong Điệp vô cùng phong phú và đa dạng, mỗi tác
phẩm lại chứa đựng những số phận khác nhau, đó là: Cô gái nhẫn nhục, cam chịu
hoàn cảnh mà không dám đứng lên phản kháng; là chân dung những thanh niên bế tắc
sống giữa cuộc đời nhiều lừa lọc, dối trá; anh chàng trông xe với cuộc đời nhiều bất
hạnh, vô định; cô gái bán hoa hoàn lương nhưng không thoát khỏi những trận đòn tàn
nhẫn của kẻ giang hồ; anh chàng hám lợi, hám danh, liều bỏ quê hương đi tìm cuộc
đổi đời ở thành phố; một nghệ sĩ coi thường sinh mệnh, hạnh phúc gia đình để chạy
theo cái hào nhoáng, sang trọng bề ngoài; những người bị công việc cuốn đi, phải ăn
ngủ qua quýt và tước bỏ dần những ham muốn, đam mê; một nữ nhân vật bất đắc dĩ
phải dự phần vào cuộc sát sinh, đang tìm cách thoát khỏi những cuộc truy sát lúc rạng
sáng; những nhân viên văn phòng với cuộc sống buồn chán,tẻ nhạt; cô bé ngoan
ngoãn,thương mẹ nhưng bị tật nguyền và sau đó cũng không tránh khỏi những nghiệt
ngã của số phận; những nông dân khốn khổ đưa con ra phố phường thi cử; người mẹ
vội về đón con với bao lo lắng về sự bất trắc có thể xảy ra với những đứa trẻ của
mình... Các nhân vật này đều được hiện lên rất chân thực trên những trang viết của
chị, chị hay đi sâu vào những cảnh huống bất thường, lạ lẫm hoặc oái oăm, những cái
bị văng ra khỏi quỹ đạo chung, quy luật chung để nhân vật bộc lộ mình. Qua khảo sát
ba tập truyện ngắn của Phong Điệp, chúng tôi đã khái quát lên ba kiểu nhân vật tiêu
biểu mà nhà văn thường xây dựng trong các tác phẩm của mình, đó là: Kiểu nhân vật
tư tưởng, kiểu nhân vật bi kịch, kiểu nhân vật cô đơn.
2.1.2.1. Kiểu nhân vật tư tưởng
Nhân vật tư tưởng là loại nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý
thức tồn tại trong đời sống tinh thần của xã hội. Chẳng hạn, nhân vật Độ trong
truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao nhằm thể hiện nhận thức của người trí thức yêu
nước về cuộc kháng chiến chống Pháp khi cách mạng còn ở thời kỳ gay go và gian
khổ. Thông thường, loại nhân vật này hay xuất hiện khi xã hội có những dấu hiệu
biến động và nhà văn thông qua nhân vật để gửi gắm tư tưởng của. Đọc truyện ngắn
Phong Điệp, chúng ta cảm nhận đằng sau mỗi nhân vật, mỗi câu chuyện bao giờ
cũng là cách nhìn, cách đánh giá của nhà văn - tư tưởng của con người trên hành


19


×