TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ HỒNG THU
DIỄN NGÔN VỀ GIỚI NỮ
TRONG TRUYỀN KÌ MẠN LỤC
CỦA NGUYỄN DỮ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học
HÀ NỘI - 2016
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ HỒNG THU
DIỄN NGÔN VỀ GIỚI NỮ
TRONG TRUYỀN KÌ MẠN LỤC
CỦA NGUYỄN DỮ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến các thầy cô giáo trường Đại
học Sư Phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Ngữ Văn đã dạy
bảo tận tình cho tôi suốt thời gian học tập tại trường và tạo điều kiện tốt nhất
cho tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến cô giáo,
ThS. Nguyễn Thị Vân Anh - người đã dành rất nhiều thời gian tâm huyết
hướng dẫn tôi nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này. Đồng thời, tôi xin gửi
lời biết ơn sâu sắc đến gia đình và bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập cũng như thực hiện khóa luận.
Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2016.
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Hồng Thu
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Thị Vân Anh. Khóa luận được trình
bày theo yêu cầu, quy định của khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư Phạm Hà
Nội 2.
Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2016
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Hồng Thu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 7
6. Dự kiến đóng góp của khóa luận.................................................................... 7
7. Cấu trúc của khóa luận ................................................................................... 8
NỘI DUNG........................................................................................................ 9
CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM DIỄN NGÔN, Ý NGHĨA CỦA VIỆC TIẾP CẬN
VẤN ĐỀ GIỚI NỮ TRONG VĂN HỌC TỪ LÍ THUYẾT DIỄN NGÔN...... 9
1.1. Khái quát về diễn ngôn ............................................................................... 9
1.1.1. Các hướng nghiên cứu chính về diễn ngôn ............................................ 10
1.1.1.1. Hướng tiếp cận ngôn ngữ học ............................................................. 10
1.1.1.2. Hướng tiếp cận phong cách học ......................................................... 11
1.1.1.3. Hướng tiếp cận xã hội học .................................................................. 13
1.1.2. Khái niệm diễn ngôn .............................................................................. 15
1.1.3. Đặc điểm diễn ngôn ............................................................................... 16
1.2. Diễn ngôn văn học .................................................................................... 19
1.3. Ý nghĩa của việc tiếp cận vấn đề giới nữ trong văn học từ lí thuyết diễn
ngôn .................................................................................................................. 23
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM DIỄN NGÔN VỀ GIỚI NỮ TRONG
“TRUYỀN KÌ MẠN LỤC” CỦA NGUYỄN DỮ ........................................ 26
2.1. Người phụ nữ khuôn thước, mẫu mực ...................................................... 26
2.1.1. Về chữ “Công” ....................................................................................... 27
2.1.2. Về chữ “Dung” ....................................................................................... 27
2.1.3. Về chữ “Ngôn” ....................................................................................... 29
2.1.4. Về chữ “Hạnh”........................................................................................ 34
2.2. Người phụ nữ lệch chuẩn ............................................................................ 39
2.2.1. Về chữ “Công”......................................................................................... 39
2.2.2. Về chữ “Dung” ........................................................................................ 40
2.2.3. Về chữ “Ngôn” ........................................................................................ 44
2.2.4. Về chữ „„Hạnh‟‟ ...................................................................................... 52
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cho đến nay, về cơ bản các vấn đề như tác giả, tác phẩm, văn bản đã
được giới thiệu rộng rãi ở ta. Song sự hình dung về diễn ngôn, diễn ngôn về
giới nữ, sự lí giải diễn ngôn giới nữ còn chưa rõ ràng.
1.2. Khi đặt vấn đề nghiên cứu Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ - từ góc
nhìn diễn ngôn về giới nữ là ta không chỉ nghiên cứu lớp vỏ ngôn từ mà chủ
yếu nghiên cứu vì sao tác giả lại có diễn ngôn như vậy, những nguyên tắc tư
tưởng chi phối nhân sinh quan thế giới quan của nhà văn. Bởi thực tiễn diễn
ngôn “nói” như thế nào không phụ thuộc vào ngữ học mà phụ thuộc vào ý
thức hệ, tri thức thời đại và cơ chế quyền lực. Văn học trong từng giai đoạn
được kiến tạo theo những hệ tri thức nhất định.
Như vậy có thể nói cách nghiên cứu diễn ngôn mà chúng tôi sử dụng là
một hướng nghiên cứu mới dù nó không mâu thuẫn không đối chọi cũng
không bác bỏ cách nghiên cứu trước đây. Cách nghiên cứu này cho phép xem
xét văn học ở bình diện mới. Đây là kiểu nghiên cứu liên ngành, cho thấy
được mối quan hệ khăng khít giữa văn học và tư tưởng, giữa văn học và văn
hóa, giữa tính xã hội và tính thẩm mỹ. Đây là hướng đi có nhiều triển vọng,
mở ra sự phát triển của lịch sử văn hóa tư tưởng. Bởi lẽ việc nghiên cứu văn
học như một sản phẩm ngôn từ thuần túy cũng cần thiết nhưng ngày nay với
sự phát triển mạnh mẽ của xã hội học văn học cho ta thấy rằng khó có thể giải
quyết những vấn đề của văn học chỉ thuần túy dựa trên những yếu tố nội tại
của văn bản mà cần đặt văn học trong bối cảnh rộng lớn hơn của những vấn
đề văn hóa xã hội.
1.3. Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học Việt
Nam thế kỉ XVI. Chỉ với một tác phẩm Truyền kì mạn lục cũng đã đủ khẳng
định tên tuổi của Nguyễn Dữ trong lịch sử văn học Việt Nam. Tác phẩm được
1
coi là mẫu mực của thể truyền kì, là “thiên cổ kì bút”, đánh dấu bước phát
triển quan trọng của văn học chữ Hán. Truyền kì mạn lục vừa có giá trị hiện
thực vừa có giá trị nhân đạo. Tác phẩm còn thể hiện tinh thần táo bạo, phóng
túng của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối. Ra đời
vào thế kỉ XVI, thuộc văn học trung đại Việt Nam đó là nền văn học mang
đậm nét ảnh hưởng của Nho giáo. Con người bị đặt trong các mối quan hệ
luân thường, bị ràng buộc bởi những điều cấm kị của Nho giáo. Trong xã hội
đó người phụ nữ phải tuân theo những qui định chặt chẽ của Nho giáo như
tam tòng, tứ đức. Họ còn bị coi như nguồn cội của sự cám dỗ đe dọa đạo đức.
Những tư tưởng của Nho giáo đối với người phụ nữ thực chất là sự tước đoạt
quyền lợi của giới nữ và tạo nên một xã hội vận hành theo kiểu nam quyền.
Người đàn ông thống ngự nữ giới và áp đặt các chuẩn mực của họ về cái đẹp,
về đức hạnh. Từ đó tạo ra những ẩn ức trong xã hội, những khao khát mong
muốn được giải phóng của người phụ nữ. Trong sáng tác thơ văn của các nhà
nho dường như ít đề cập tới vấn đề giới nữ, họ cho rằng “văn dĩ tải đạo, thi dĩ
ngôn chí” thơ văn dùng để đâm gian trừ tà, nói lên ý chí của người quân tử
chứ không đề cập tới những vấn đề nhỏ nhặt của cuộc sống, của phái yếu.
Nhưng trong tác phẩm của mình Nguyễn Dữ đã đề cập đến vấn đề này. Là
một nhà nho sinh ra từ cửa khẩu sân đình Nguyễn Dữ vẫn đứng trên lập
trường đạo đức của Nho gia để nhìn nhận đánh giá con người, những vấn đề
của con người trên quan điểm đạo đức. Tuy nhiên một tác giả văn học lớn
luôn có tinh thần nhân đạo cao cả, Nguyễn Dữ trong không ít trường hợp dù
vô thức hay có ý thức đã đưa những dòng ngợi ca vẻ đẹp, tình yêu hạnh phúc
cá nhân, đề cao những khát vọng nhu cầu của người phụ nữ. Những cuộc tình
si mê đắm đuối công khai quyền sống của người phụ nữ về thân xác. Nho
giáo luôn kêu gọi con người ta diệt dục, tiết dục thế mà Truyền kì mạn lục lại
đề cao quyền sống, quyền tự do của người phụ nữ. Nguyễn Dữ là một nhà
Nho vừa tuân thủ nguyên tắc “khuôn vàng thước ngọc”, lại vừa có thể phá vỡ
2
những nguyên tắc ấy ở mức độ nhất định để đến với vấn đề của giới nữ trong
phạm vi mà thời đại cho phép.
Nghiên cứu Truyền kì mạn lục từ diễn ngôn về giới nữ sẽ mang lại
nhiều kiến giải thú vị, giúp người đọc có cách nhìn sâu sắc, gãy gọn nhiều
khía cạnh của tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề
Là tác phẩm có giá trị về nội dung tư tưởng và nghệ thuật nên Truyền kì
mạn lục từ khi ra đời cho tới nay đã thu hút sự chú ý của người đọc với nhiều
công trình nghiên cứu tìm hiểu. Ý kiến đánh giá sớm nhất về Truyền kì mạn lục
phải kể đến lời tựa Truyền kì mạn lục của Hà Thiện Hán, ông có giới thiệu về tác
giả tác phẩm và cho rằng Truyền kì mạn lục ảnh hưởng từ Tiễn Đăng tân thoại
của Cù Tông Cát nhưng có nhiều điểm sáng tạo riêng.
Bùi Kỷ có thể được coi là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên bàn
luận về vấn đề người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục với Lời giới thiệu
Truyền kỳ mạn lục (bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện xuất bản năm
1940). Trong lời giới thiệu này, khi nêu chủ đề từng truyện, Bùi Kỷ đã có một
vài đánh giá sơ lược về người phụ nữ. Tuy nhiên, quan điểm đạo đức thẩm
mỹ của Bùi Kỷ trong bài viết này khá phức tạp, khi thì ông phê phán thuyết
“Tòng phu” của Nho gia, khi lại đứng trên lập trường nhà Nho để nhìn nhận.
Nhận xét về chủ đề các truyện có người phụ nữ tiết liệt, Bùi Kỷ thể hiện khá rõ thái
độ phê phán thuyết “Tòng phu”. Ông nhận xét: “Truyện 2 (Chuyện người nghĩa phụ
ở Khoái Châu) và truyện 16 (Chuyện người con gái Nam Xương): Tả rõ phụ nữ ở xã
hội cũ, dù ăn ở thủy chung với chồng thế nào, cũng chịu một thân phận hèn kém:
Một đằng vì thua bạc mà gán vợ, một đằng vì ngờ vực hão huyền để vợ phải quyên
sinh. Đáng giận thay cái thuyết “Tòng phu” đã làm hại bao nhiêu bạn quần thoa trong
bao nhiêu thế kỷ!” [19; tr 234].
Đối với nhân vật nữ vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến, Bùi Kỷ tuy
không phân tích rõ nhưng lại tỏ thái độ không đồng tình với những hành vi
3
của họ. Ông cho rằng: “Truyện 3 (Chuyện cây gạo), cũng như truyện 5
(Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây), truyện 11 (Chuyện yêu quái ở Xương Giang): có
ý bài xích những thói đắm đuối trong vòng tình dục của bọn thiếu niên” [19;
tr 234]. Đương nhiên, “bọn thiếu niên” mà nhà nghiên cứu nói đến ở đây gồm
cả nhân vật nam và nữ.
Điểm qua có thể thấy, trong những lời định giá này, tiêu chí để Bùi Kỷ đánh giá
nhân vật nữ về cơ bản vẫn là tiêu chí đức hạnh của nhà Nho. Tuy có đề cập đến thân
phận thấp hèn của người phụ nữ trong tương quan với nam giới, nhắc đến bất công
trong đạo “Tam tòng” nhưng nhà nghiên cứu không nhấn mạnh những đặc điểm này
mà chú ý nhiều hơn đến ngợi khen, thương xót những người phụ nữ tiết hạnh và phê
phán những người phụ nữ sống vượt khuôn phép Nho gia. Trường nhìn của Bùi Kỷ ít
nhiều đã bao hàm vấn đề giới khi ông đặt người phụ nữ trong tương quan với người
đàn ông để phê phán thuyết “Tòng phu”, bảo vệ người phụ nữ, nhưng về cơ bản ông
vẫn đứng từ quan điểm đạo đức Nho gia để nhìn nhận họ.
Có thể thấy, khi nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, nhà
nghiên cứu Bùi Duy Tân cơ bản vẫn đứng từ góc nhìn xã hội học. Ở bài viết của mình,
nhà nghiên cứu nghiêng về khảo sát hoàn cảnh xã hội để lý giải các hiện tượng văn học
và hầu như chưa đặt ra vấn đề nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ trong tập tác phẩm này
từ góc nhìn giới.
Nguyễn Phạm Hùng cũng là một trong những nhà nghiên cứu quan tâm
đến đề tài người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục. Trong bài viết Tìm hiểu khuynh
hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, ông đã đưa ra một số
nhận định về vấn đề người phụ nữ trong tập truyện này. Nhà nghiên cứu đánh giá:
“Tựu chung, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, người phụ nữ đã xuất hiện rầm
rộ như thế ở Truyền kỳ mạn lục với cả diện mạo, tâm hồn, tình cảm, nhu cầu và
khát vọng, với số phận của mình… Nếu như trước đây, hình ảnh người phụ nữ
quý tộc có đi vào sáng tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Húc v.v... thì thường cũng
mới chỉ dừng lại ở sự nhận thức trên bình độ tâm lý, còn ở đây, nó là một đối
4
tượng nhận thức, đối tượng thẩm mỹ trọn vẹn, thành vấn đề người phụ nữ trong
văn học…” [10; tr 499].
Nói chung, những phát hiện của Nguyễn Phạm Hùng về nhân vật nữ
trong Truyền kỳ mạn lục trình bày trong bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng
tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã đóng góp thêm tiếng nói trong
lịch sử nghiên cứu vấn đề này. Qua bài viết, nhà nghiên cứu đã khẳng định vị
trí đặc biệt của Truyền kỳ mạn lục trong tiến trình văn học ở đề tài người phụ
nữ và chỉ ra tinh thần nhân đạo của Nguyễn Dữ khi viết về họ. Tuy nhiên,
những nhận xét của Nguyễn Phạm Hùng còn khá sơ lược, chưa mang tính
chất chuyên khảo. Hơn nữa, một số nhận định của ông thiên về ca ngợi mà
không thấy hạn chế nhất định trong những hình tượng này cũng như trong tư
tưởng Nguyễn Dữ. Chẳng hạn, ông đánh giá: “… Một quan niệm mới về việc
phản ánh con người đã xuất hiện. Truyền kỳ mạn lục là như vậy. Nó ca ngợi
vẻ đẹp của con người, cả về vật chất và tinh thần. Những hình ảnh da thịt
hồng hào, tươi tốt, hở hang rất dễ gặp trong tác phẩm này. Những dục vọng,
ước muốn thoát ra ngoài sự tỏa chiết của tư tưởng Nho gia về “tu, tề, trị, bình”
với người quân tử, “công, dung, ngôn, hạnh” đối với người phụ nữ phong
kiến cũng rất dễ gặp ở đây. Con người, đó không phải là những tấm gương
chói lòa về các anh hùng, liệt nữ lưu danh sử sách mà là những con người của
đời sống thực tế sôi động, cay nghiệt” [10; tr 501]. Nhận định này có phần
cực đoan, bởi lẽ, tuy Nguyễn Dữ đã có nhiều điểm nhân văn tiến bộ hơn so
với nhà Nho đương thời nhưng những nhân vật của ông ở một chừng mực
nhất định vẫn được khen, chê theo tiêu chí Nho gia, những khát vọng mang
hơi hướng vật chất trong truyện không được Nguyễn Dữ công khai ca ngợi,
thậm chí ít nhiều còn bị ông phê phán.
Tác giả Toàn Huệ Khanh trong công trình Nghiên cứu so sánh tiểu
thuyết truyền kỳ Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam cũng đề cập đến một số
5
nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, phân loại họ vào nhân vật của hai kiểu
truyện là truyện kỳ quái và truyện diễm tình. Công trình này đã giúp người
đọc có cái nhìn đầy đủ hơn về sự giao thoa giữa tác phẩm truyền kỳ của các
quốc gia vùng văn hóa Hán. Tuy nhiên vì chỉ xác định mục tiêu là phân tích
nhân vật theo mô-típ nên nhà nghiên cứu này chưa quan tâm đến phương diện
giới tính nữ của các nhân vật nữ. Những tri thức về văn hóa giới ở Việt Nam
thời trung đại cũng chưa được Toàn Huệ Khanh vận dụng để lý giải hình
tượng người phụ nữ.
Tóm lại, hầu hết các công trình nghiên cứu đã có về Truyền kỳ mạn lục
chưa đặt vấn đề nghiên cứu diễn ngôn về giới nữ. Trường quan sát của những
nhà nghiên cứu này không hoặc ít bao hàm vấn đề diễn ngôn về giới nữ.
Sau đó có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về Truyền kì mạn
lục, đó cũng là cơ sở căn cứ, tài liệu cho chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng lí thuyết diễn ngôn vào việc tìm hiểu đặc điểm và cơ chế kiến
tạo diễn ngôn về giới nữ trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Diễn ngôn về giới nữ trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài diễn ngôn về giới nữ trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn
Dữ chúng tôi tìm được 10 truyện thể hiện diễn ngôn về giới nữ đó là:
- Chuyện nàng Túy Tiêu
- Chuyện cây gạo
- Chuyện Lệ nương
- Chuyện nghiệp oan của Đào Thị
- Chuyện yêu quái ở Xương Giang
6
- Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây
- Chuyện đối tụng ở Long đình
- Chuyện Từ Thức gặp tiên
- Chuyện người con gái Nam Xương
- Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này chúng tôi chủ trương phối hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau:
- Phương pháp hệ thống: Hệ thống lại những luận điểm hay những
vấn đề được đặt ra trong những công trình nghiên cứu về diễn ngôn.
- Phương pháp liên ngành: Diễn ngôn về giới nữ có liên quan đến
nhiều lĩnh vực như chính trị, văn hóa, xã hội,… Vì vậy khi thực hiện
đề tài này chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp liên ngành để có cái
nhìn bao quát vấn đề.
- Phương pháp xã hội học: Truyền kì mạn lục đề cập tới nhiều vấn đề
mà xã hội học quan tâm, chúng tôi sẽ soi chiếu tác phẩm dưới cái
nhìn xã hội học để nghiên cứu được trọn vẹn hơn.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng kết hợp một số phương pháp như so
sánh, thống kê, phân tích,... để rút ra những luận điểm đặc trưng và khái quát
nhất cho vấn đề.
6. Dự kiến đóng góp của khóa luận
Việc đi sâu tìm hiểu diễn ngôn về giới nữ trong Truyền kì mạn lục góp
phần làm rõ hơn một vấn đề mới của chủ nghĩa nhân đạo: Quyền tự do và sự
thức tỉnh ý thức cá nhân của con người trong văn học trung đại. Những yếu tố
chi phối, kiến tạo nên diễn ngôn của nhà văn.
7
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tham khảo, nội dung của
khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Khái niệm diễn ngôn, ý nghĩa của việc tiếp cận vấn đề giới
nữ trong văn học từ lí thuyết diễn ngôn.
Chương 2: Đặc điểm diễn ngôn về giới nữ trong Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ.
8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM DIỄN NGÔN, Ý NGHĨA CỦA VIỆC TIẾP CẬN
VẤN ĐỀ GIỚI NỮ TRONG VĂN HỌC TỪ LÍ THUYẾT DIỄN NGÔN
1.1. Khái quát về diễn ngôn
Thời gian gần đây, trong nghiên cứu văn học, xã hội học, khái niệm
diễn ngôn được sử dụng tương đối nhiều trong các ngành khoa học xã hội và
nhân văn: triết học, xã hội học, ngôn ngữ học, tâm lí học, nghiên cứu văn
học..., song việc xác định nội hàm và các nội dung cơ bản của nó dường như
vẫn chưa được xác định rõ nét. Mỗi nhà nghiên cứu tìm cho mình những quan
niệm và dấu hiệu biểu hiện khác nhau về diễn ngôn. Chính vì thế, việc xác
định nó vẫn như là một câu hỏi còn để ngỏ.
Theo nghiên cứu của Manfred Frank, diễn ngôn (discourse) được bắt
nguồn từ tiếng Latinh “discourus”, mà từ này có gốc động từ là “discoursere”
có nghĩa là tán chơi, nói huyên thuyên. Như vậy, diễn ngôn là một lối nói,
cách nói hoặc một lượt nói có độ dài không xác định, sự triển khai không bị
hạn định, bởi chú ý nghiêm ngặt. Trong tiếng Pháp, nghĩa của từ diễn ngôn
gần với từ tán gẫu, nói chuyện phiếm, kể chuyện,…
Theo
/>
ngon, khái niệm diễn ngôn được định nghĩa: “Hiểu tổng quát, diễn ngôn là thực
tiễn giao tiếp của con người trong xã hội. Nhấn mạnh thực tiễn giao tiếp xã hội
để phân biệt với lời nói cá nhân”. Còn trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học tập
2, Đỗ Hữu Châu đã trích dẫn khái niệm diễn ngôn nghiêng về phương diện ngôn
ngữ như sau: “Diễn ngôn là một thuật ngữ chung chỉ cách dùng ngôn ngữ, tức
chỉ các sản phẩm ngôn ngữ được tạo ra do một hành động giao tiếp nào đấy”.
Tác giả cuốn The Routledge dictionary of literature terms lại khẳng định rằng:
9
“Cho đến nửa sau thế kỉ 20, thuật ngữ diễn ngôn vẫn mang ý nghĩa cơ bản là sự
trình bày một vấn đề cụ thể bằng cách nói hay viết theo một trật tự trước sau”.
Từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX, nghiên cứu diễn ngôn (hay còn
gọi là phân tích diễn ngôn) trở thành một trào lưu khoa học phát triển rầm rộ
ở châu Âu và diễn ngôn trở thành một khái niệm trung tâm, được lưu hành
rộng rãi trong khoa học xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, ta cũng có thể thấy rõ,
khái niệm diễn ngôn được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Các nội
dung định nghĩa đó có thể khác xa nhau hay mâu thuẫn với nhau, qua đó càng
chứng tỏ tính phức tạp và nội hàm chưa được xác định rõ của thuật ngữ khoa
học này.
1.1.1. Các hướng nghiên cứu chính về diễn ngôn
Trong lí luận hiện nay có ba khuynh hướng nghiên cứu. Một là ngữ học
do các nhà ngữ học đề xuất. Hai là lí luận văn học do M. Bakhtin nêu ra và
ba là xã hội học, lịch sử tư tưởng mà tiêu biểu là Foucault.
1.1.1.1. Hướng tiếp cận ngôn ngữ học
Nền tảng cơ sở của hướng tiếp cận diễn ngôn từ phương diện ngôn ngữ
học là những luận điểm của F.de Sausure trong cuốn Giáo trình ngôn ngữ học
đại cương. Trong công trình này, Sausure phân biệt ngôn ngữ với lời nói.
Ngôn ngữ là một hệ thống, một kết cấu tinh thần trừu tượng, khái quát trong
khi lời nói là sự vận dụng ngôn ngữ trong những hoàn cảnh cụ thể, bởi các cá
nhân cụ thể. Sausure còn chỉ ra, đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học là
ngôn ngữ, sản phẩm của xã hội kết tinh lại trong trí óc của mỗi người chứ
không phải là lời nói.
Sự đối lập lời nói/ ngôn ngữ trong quan điểm của Saussure đã làm nền
tảng cho sự phân biệt giữa discourse (diễn ngôn) và text (văn bản). Văn bản
(text) là cấu trúc ngôn ngữ mang tính chất tĩnh, còn diễn ngôn (discourse) là
cấu trúc lời nói mang tính động.
10
Trong giai đoạn này, do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi ngôn ngữ học
Saussure và chủ nghĩa cấu trúc, các nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ tập
trung vào khám phá cấu trúc tĩnh tại, bất biến của các diễn ngôn và văn bản. Tư
tưởng này đã loại trừ tất cả thuộc tính ngẫu nhiên, cá thể của lời nói, chỉ chú ý
đến phương diện ổn định, bất biến của ngôn ngữ như một bản thể xã hội. Và
đối tượng hướng tới của các nhà nghiên cứu không phải là những văn bản/ diễn
ngôn cụ thể, mà họ chỉ coi đó là chất liệu, thông qua việc phân tích các văn
bản/ diễn ngôn, họ cố gắng chỉ ra những cấu trúc khái quát, những thuộc tính
bản chất của văn học nói chung. Mỗi nhà nghiên cứu đều cố gắng tìm ra một
mô hình phi thời gian cho các văn bản, theo những cách thức khác nhau.
Như vậy là, dưới cái nhìn của các nhà cấu trúc, tất cả các hành động
của con người và các cơ cấu tổ chức của xã hội đều liên quan đến ngôn ngữ,
và có thể được tìm hiểu như một hệ thống gồm các yếu tố có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Như thế, diễn ngôn cũng là một cấu trúc khép kín, nội tại, được cấu
thành từ những yếu tố bất biến là các phạm trù ngữ pháp như thời, thức, thể,
giọng, ngôi… Cách tiếp cận này đã khiến cho nhà nghiên cứu, khi phân tích
diễn ngôn, đặc biệt chú trọng đến phương diện cấu trúc và nỗ lực tìm kiếm
những mô hình ngôn ngữ mang tính chất tĩnh- cái cơ chế ẩn tàng của tổ chức
ngôn từ trong văn bản cũng như diễn ngôn.
1.1.1.2. Hướng tiếp cận phong cách học
Có thể coi M.Bakhtin là người khởi nguồn cho một truyền thống mới
trong nghiên cứu diễn ngôn. Tư tưởng về diễn ngôn của Bakhtin có vai trò
như một bản lề, hay một cầu nối bắc từ quan niệm về diễn ngôn của ngôn ngữ
học cấu trúc sang quan niệm diễn ngôn của các trường phái lí luận hậu hiện
đại. Trong các trước tác của Bakhtin, ta có thể thấy sự đối thoại và phủ định
đối với rất nhiều những quan điểm về ngôn ngữ học được lưu hành phổ biến
11
trong thời đại của ông, đặc biệt là những quan điểm ngôn ngữ được triển khai
trên cơ sở tư tưởng của Saussure.
Nếu như hướng tiếp cận ngôn ngữ học về diễn ngôn được hình thành
trên cơ sở ngôn ngữ học Saussure thì hướng tiếp cận phong cách học về diễn
ngôn lại được phát triển dựa trên nền tảng đối lập với những quan điểm của
Saussure về ngôn ngữ. Bakhtin phê phán ngôn ngữ học hàn lâm chỉ tập trung
nghiên cứu phương diện cấu trúc của ngôn ngữ mà không chú ý đến bình diện
sinh thành của ngôn ngữ, tức là ngôn ngữ trong đời sống, trong giao tiếp. Ông
đề xuất một lĩnh vực nghiên cứu mới mà ông gọi là “siêu ngôn ngữ”, có nghĩa
là ngôn ngữ như một thực thể đa dạng, sống động, mang tính lịch sử chứ
không phải là ngôn ngữ như một hệ thống mang tính chất tĩnh, khép kín và
trừu tượng.
Bởi vậy, diễn ngôn (hay lời nói) (discourse), là khái niệm trung tâm
trong quan điểm của Bakhtin về ngôn ngữ. Ông cho rằng, diễn ngôn là ngôn
ngữ trong chỉnh thể sống động, cụ thể, là ngôn ngữ trong sử dụng, trong bối
cảnh xã hội, của những giọng xã hội mâu thuẫn và đa tầng. Cũng chính bởi
vậy, Bakhtin nhấn mạnh, đối thoại là bản chất của diễn ngôn. Mỗi người nói
không phải là người nói đầu tiên, mà đều là người trả lời, là người đối thoại
với hàng ngàn những người nói trước đó. Người nghe cũng sẽ không phải là
người lắng nghe một cách thụ động mà là người chủ động hồi đáp. Lời nói
của chúng ta, vì thế, “được hình thành và phát triển trong sự tác động qua lại,
thường xuyên, liên tục với những phát ngôn của các cá nhân khác”.
Trong thực tế, các phát ngôn thường liên kết với nhau và được tổ chức
trong những hình thức ổn định mà ông gọi là các thể loại lời nói. Thể loại lời
nói là những loại hình phát ngôn tương đối bền vững, được sản sinh ra trong
một phạm vi sử dụng ngôn ngữ cụ thể, là một chỉnh thể bao gồm ba bình diện:
nội dung chủ đề, phong cách và tổ chức kết cấu.
12
Như vậy, với một quan niệm mới về diễn ngôn, Bakhtin đã đưa ngôn
ngữ học rẽ sang một bước ngoặt mới: chuyển từ nghiên cứu ngôn ngữ như
một thực thể tĩnh tại, khép kín và biệt lập sang nghiên cứu ngôn ngữ trong
giao tiếp, trong thực tiễn đời sống đa dạng và sinh động. Nếu Saussure nhấn
mạnh đến tính cấu trúc của ngôn ngữ thì Bakhtin đặc biệt quan tâm đến tính
đối thoại của lời nói. Nếu các lý thuyết văn học được triển khai trên nền tảng
ngôn ngữ học cấu trúc có xu hướng đồng qui các văn bản/ diễn ngôn vào
những mẫu số chung thì lý thuyết văn học của Bakhtin nhằm chỉ ra sự phức
tạp, đa diện và biến đổi không ngừng của các văn bản/ diễn ngôn trong lịch
sử. Quan niệm về tính lịch sử, tính xã hội này của diễn ngôn sau này sẽ gặp
gỡ, hay cũng có thể nói, sẽ đặt nền tảng cho một sự chuyển hướng cực kì quan
trọng trong tư duy lý thuyết thế kỉ XX: trào lưu giải cấu trúc.
1.1.1.3. Hướng tiếp cận xã hội học
Trung tâm điểm của hướng tiếp cận thứ ba này là những quan niệm về
diễn ngôn của M.Foucault, người được coi là ông tổ của các lý thuyết hậu
hiện đại và có ảnh hưởng lớn nhất đến nghiên cứu diễn ngôn từ sau những
năm 1960.
Nếu coi quyền lực và tri thức là hai mối quan tâm lớn nhất của Foucault
thì diễn ngôn là một mắt xích quan trọng không thể thiếu của hai yếu tố này.
Foucault chỉ ra mối quan hệ phức tạp giữa diễn ngôn và quyền lực. Từ đó,
Foucault cho rằng tri thức là sản phẩm được tạo ra bởi các diễn ngôn; bởi
đằng sau diễn ngôn là quyền lực, cho nên, tri thức mà chúng ta có là kết quả
của các mâu thuẫn về quyền lực.
Với lí do tìm hiểu và vận dụng lí thuyết diễn ngôn để giải thích cho
những cách nhìn, góc nhìn về giới nữ, một hướng tiếp cận nghiêng về khía
cạnh văn hóa - xã hội, dựa trên quan niệm của Foucault về diễn ngôn. Đây là
quan niệm đang trở thành nền tảng cho rất nhiều các trường phái lý thuyết
hiện đại và gợi mở một con đường đầy triển vọng cho các nhà nghiên cứu văn
13
học ở nhiều ngành khác nhau. Vì vậy, tiếp cận khái niệm diễn ngôn theo
hướng phong cách học, mà hạt nhân là quan niệm của Foucault.
Về khái quát, có thể đặt quan niệm của Foucault về diễn ngôn trong
mối quan hệ so sánh với các quan niệm, hướng nghiên cứu khác. Nếu ngôn
ngữ học được phát triển trên nền tảng tư tưởng Saussaure nhấn mạnh đến tính
chất hệ thống, khép kín, tĩnh tại của diễn ngôn thì các nhà tư tưởng như
M.Bakhtin, M.Foucault lại khẳng định tính chất sinh thành, đa dạng, năng sản
của diễn ngôn. Nếu Bakhtin đặc biệt chú ý đến tính liên chủ thể của diễn ngôn
thì Foucault đề cập đến tính phi chủ thể của diễn ngôn, sự biến mất của chủ
thể người trong mê cung của các diễn ngôn. Ba quan điểm tiếp cận này đều có
sức lan tỏa và ảnh hưởng rất lớn đến gần như toàn bộ lý thuyết văn học và
ngôn ngữ trong thế kỉ XX.
Tóm lại; ba cách tiếp cận ngôn ngữ học, phong cách học và xã hội học
này đã cung cấp ba cách định nghĩa khác nhau về diễn ngôn: diễn ngôn như là
cấu trúc của ngôn ngữ/lời nói, diễn ngôn như là lời nói - tư tưởng hệ, và diễn
ngôn như là công cụ để kiến tạo tri thức và thực hành quyền lực. Ba quan
niệm này nảy sinh trên nền tảng những cách cắt nghĩa khác nhau về bản chất,
vai trò của ngôn ngữ và đều có sức lan tỏa, ảnh hưởng rất lớn đến gần như
toàn bộ lý thuyết văn học và ngôn ngữ trong thế kỉ XX.
Trên thực tế, trong quá trình phát triển, các lý thuyết diễn ngôn có xu
hướng đan bện vào nhau, tạo nên những vùng giao thoa, những khu vực
chung. Sự kết hợp này khiến cho con đường đi của khái niệm trở nên phức tạp
và cho thấy nghiên cứu diễn ngôn vẫn đang là một tiến trình vận động, hứa
hẹn nhiều những nhánh rẽ bất ngờ.
Qua ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn, chúng ta cũng có thể quan
sát thấy ngọn nguồn sự phát triển và phân nhánh phức tạp của thuật ngữ, cũng
như sự tương tác, kế thừa, phủ định, sáng tạo giữa các khuynh hướng, và đặc
14
biệt là những bước chuyển trong tư duy lý thuyết của ngành khoa học xã hội
và nhân văn thế kỉ XX.
1.1.2. Khái niệm diễn ngôn
Có một thực tế là: dù có công trình nghiên cứu về văn học Pháp đương
đại được viết vào những năm 1960 thì Foucault vẫn chưa bao giờ là một nhà
nghiên cứu văn học theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Tuy nhiên, và điều này
còn thú vị hơn, những ảnh hưởng của Foucault đến nghiên cứu văn học là rất
sâu đậm: cả trên phương diện những đề tài cụ thể (tính dục, cái tôi, vấn đề nữ
quyền...) cũng như trên phương diện lí thuyết (vấn đề lịch sử văn học, vấn đề
tác giả, vai trò của phê bình văn học, giới tính trong sáng tác và tiếp nhận văn
học, tính văn học (literariness). Tất cả những ảnh hưởng nhiều mặt, đa dạng
này của Foucault với nghiên cứu văn học, về cơ bản, đều có thể được cắt
nghĩa từ việc nhìn nhận văn học như một diễn ngôn.
Khái niệm diễn ngôn tuy không được giới thuyết một cách hệ thống
trong một công trình lý thuyết cụ thể nào của Foucault, song lại là một mắt
xích, một chìa khóa quan trọng đến mức nếu không hiểu khái niệm này, thì
người đọc khó có thể tiếp cận toàn bộ các trước tác khổng lồ với những tư
tưởng khá dị biệt của ông.
Foucautl nói: “Thay vì giảm dần các nét nghĩa đã khá mơ hồ của từ
diễn ngôn, tôi tin rằng thực tế tôi đã bổ sung thêm ý nghĩa của nó; lúc thì coi
nó như một khu vực chung của tất cả các lời nhận định, lúc thì coi nó như một
nhóm các lời nhận định đã được cá thể hóa, và đôi khi lại xem nó như thực
tiễn được quy ước tạo nên vô số các nhận định”.
Như vậy, theo Foucault, ta có được ba cách định nghĩa khác nhau về
diễn ngôn:
Thứ nhất, diễn ngôn được coi là tất cả các nhận định nói chung, đó là
tất cả các phát ngôn hoặc văn bản có nghĩa và có một hiệu lực nào đó trong
thế giới thực.
15
Thứ hai, diễn ngôn là một nhóm các diễn ngôn cụ thể, được qui ước
theo một cách thức nào đó và có một mạch lạc hoặc một hiệu lực nói chung,
“được nhóm lại với nhau bởi một áp lực mang tính thiết chế nào đó, bởi sự
tương tự giữa xuất xứ và bối cảnh hay bởi chúng cùng hành động theo một
cách gần giống nhau”. Ví dụ, diễn ngôn nữ giới là một nhóm các diễn ngôn có
chung một hiệu lực là nhằm phản kháng lại diễn ngôn về phụ nữ của đàn ông,
diễn ngôn chủ nghĩa đế quốc là nhóm các diễn ngôn có chung một hiệu lực là
áp đặt quyền lực thực dân lên những xứ sở thuộc địa…
Thứ ba, diễn ngôn là một thực tiễn sản sinh ra vô số các nhận định và
chi phối việc vận hành của chúng.
Quan niệm thứ ba về diễn ngôn là quan niệm có ảnh hưởng lớn nhất đến
các nhà nghiên cứu sau này. Ở đây, diễn ngôn không chỉ được coi như “một cái
gì tồn tại cố hữu, tự thân và có thể được phân tích một cách cô lập”, mà là
những qui tắc và cấu trúc nhằm tạo ra những phát ngôn và những văn bản cụ
thể. Cách định nghĩa thứ ba này cho thấy bản chất thuộc về các thiết chế, bản
chất bị chi phối bởi luật lệ của diễn ngôn, nó cho thấy các diễn ngôn không
được tạo ra từ hư không, mà sinh mệnh của nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của
các thiết chế, và đằng sau nó là bàn tay vô hình của quyền lực. Lời nói và suy
nghĩ của con người không phải là sự biểu hiện một cách tự do những tư tưởng
cá nhân, mà bị định hình và nhốt chặt vào trong một thứ khung có trước.
Nếu coi quyền lực và tri thức là hai mối quan tâm lớn nhất của Foucault
thì diễn ngôn là một mắt xích không thể thiếu để tìm hiểu hai yếu tố này. Với
Foucault, cả tri thức và quyền lực đều chỉ có thể được tạo ra, được hiện thực
hóa, được vận hành và phân phối bởi diễn ngôn.
1.1.3. Đặc điểm diễn ngôn
16
Đối với Foucault diễn ngôn là gì thì là vấn đề khiến ông rất do dự. Xét
qua cách hiểu của ông trong Khảo cổ thì thấy nội hàm, đặc điểm của diễn
ngôn phong phú, phức tạp hơn nhiều. Có thể nêu ra ba điểm sau:
Một là, diễn ngôn biểu hiện ra bề ngoài thành hình thức ngôn ngữ,
nhưng nó không phải là ngôn ngữ thuần tuý, mà là một phương thức biểu đạt
của tư tưởng và lịch sử. Foucault cho bết, “Tôi biết rất rõ, các định nghĩa này
phần lớn đều không phù hợp với tập quán dùng từ thông thường, các nhà ngữ
học đem lại cho diễn ngôn một ý nghĩa hoàn toàn khác.” Do đó Deleus nói:
“Nhiệm vụ của Khảo cổ học tri thức trước hết là phát hiện hình thức biểu đạt
đích thực, bất luận đơn vị ngôn ngữ học thế nào, hình thức biểu đạt này đều
không thể trộn lẫn với bất cứ đơn vị ngôn ngữ nào như cái biểu đạt, từ ngữ,
câu, mệnh đề,” Diễn ngôn của Foucault khác với diễn ngôn ngữ học ở chỗ,
trước sau đều gắn với thực tiễn diễn ngôn, có hai sức mạnh nhân văn và sức
mạnh thực tiễn. Diễn ngôn cũng khác với ngôn ngữ, bởi nó chủ yếu thuộc về
lịch sử, không phải do các thành tố ngôn ngữ tạo thành, mà là do các sự kiện
chân thực và liên tục tạo thành, nhưng người ta không thể phân tích ở bên
ngoài thời gian triển khai ngôn ngữ. Diễn ngôn của Foucault không phải là
một hệ thống khép kín, mà do các sự kiện liên tục tạo thành, do đó mà có tính
lịch sử và tính mở. Một mặt diễn ngôn do thực tiễn tạo thành, mặt khác, diễn
ngôn lại ảnh hưởng đến thực tế diễn ngôn, thực tiễn diễn ngôn cũng làm thay
đổi diễn ngôn. Diễn ngôn không phải là công cụ, không phải hình thức ngôn
ngữ, mà là bản thân thực tiễn được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ.
Foucault nói, “diễn ngôn là một thực tiễn đặc thù”.
Hai là, diễn ngôn có tính chất chỉnh thể, “thuật ngữ diễn ngôn có thể
xác định là một chỉnh thể trần thuật hình thành hệ thống đồng nhất.” Diễn
ngôn không phải là sự phơi bày của một chủ thể tư duy, nhận thức và sử dụng
diễn ngôn để trình bày một cách trang nghiêm, mà là một tổng thể được xác
17
định do sự khuếch tán của chủ thể và tính không liên tục của nó trong đó.
Diễn ngôn là không gian ngoại tại, trong đó triển khai một mạng lưới ở các vị
trí khác nhau. Phạm vi của sự kiện diễn ngôn truớc sau là hữu hạn, hiện thời
do các đoạn ngữ nghĩa hợp thành chỉnh thể hữu hạn, đoạn ngữ nghĩa có thể vô
số, nhưng là chỉnh thể hữu hạn. Nhưng diễn ngôn lại không phải là chủ đề, đề
tài, lí luận, văn bản, không phải bộ môn chuyên ngành hay phạm vi môn học.
Nhà văn, tác phẩm, thư tịch, chủ đề đều là đối tượng của diễn ngôn, nhưng
không cấu thành bản thân diễn ngôn. Cũng đều là mĩ học, nhưng mĩ học
Trung Quốc và phương Tây tạo thành hai diễn ngôn hoàn toàn khác biệt, về lí
luận văn học cũng thế, diễn ngôn có tính hệ thống, tính lịch sử, tính liên tục,
tính thống nhất, do đó diễn ngôn căn bản là một sự tụ họp, kiến tạo. Foucault
nói, diễn ngôn không phải là cái hình thành một cách tự nhiên, mà trước sau
là kết quả của một sự kiến tạo. Rõ ràng, chủ đề, trần thuật, lí luận… thuộc về
diễn ngôn, nhưng bản thân chúng không phải là diễn ngôn. Foucault nói:
Chúng tôi gọi một diễn ngôn hình thành, thay thế một diễn ngôn khác không
có nghĩa là một chỉnh thể lựa chọn lí luận hoàn toàn mới mẻ về đối tượng,
trần thuật, khái niệm, đột nhiên được trang bị hoàn thiện, tổ chức tốt đẹp, xuất
hiện trong một văn bản, văn bản đó làm một sự sắp xếp ngon lành… mà có
nghĩa là một sự thay đổi về quan hệ sẽ nảy sinh, nhưng sự thay đổi đó không
có nghĩa là thay đổi toàn bộ mọi thành phần. Cũng tức là nói, trần thuật phục
tùng một số quy luật hình thành mới, không có nghĩa là tất cả đối tượng hoặc
khái niệm tất cả trần thuật hoặc tất cả lí luận đều biến mất. Diễn ngôn là một
loại tổ chức, cơ chế, cấu trúc, có tính chỉnh thể và tính chức năng, các hệ
thống diễn ngôn khác nhau có thể sử dụng các khái niệm giống nhau, đối
tượng nói đến cũng có thể tương đồng. Đối với Foucault thì diễn ngôn và văn
bản có quan hệ rất khác với ngữ học và khác với Bakhtin. Theo ông, văn bản
có độ dài, có tác giả, có cấu trúc, có thể loại, còn diễn ngôn thì không, nó chỉ
là cái cơ chế, cấu trúc vô thức chi phối mọi hoạt động lời nói của xã hội. Diễn
18
ngôn thuần tuý là sự kiện tư tưởng, ý thức hệ. Mục đích nghiên cứu diễn ngôn
là phơi bày cơ chế quyền lực, xuyên qua các cuộc vật lộn chữ nghĩa của đủ
các thứ chủ nghĩa, tổ chức, văn bản. Nhiệm vụ nghiên cứu như thế thực tế đã
vượt qua nghiên cứu lịch sử văn học, mà bước vào lĩnh vực phê phán văn hóa.
Tóm lại Foucault không nói diễn ngôn về mặt ngôn ngữ học, nghệ
thuật, mà nói trên ý nghĩa triết học, tư tưởng hệ và văn hóa học. Nói cách
khác diễn ngôn của ông là một phạm trù của lịch sử tư tưởng hay phương
pháp, nhưng không phải là khái niệm ngôn ngữ học hay văn học sử. Ông đã
vứt bỏ quan niệm thô thiển xem ngôn ngữ chỉ là công cụ trong suốt mà người
ta có thể tự do tuỳ ý sử dụng. Đó là nguyên nhân để sau này người ta đem nó
liên hệ với bá quyền, quyền lực. Về mặt này Foucault đã có cống hiến to lớn
đối với phương pháp luận nghiên cứu lịch sử tư tưởng của nhân loại.
Ông mở ra một lối nghiên cứu lịch sử tư tuởng, văn hóa mới. Foucault
cũng vứt bỏ quan niệm xem diễn ngôn chỉ là phương tiện phản ánh hiện thực.
Ông không phủ nhận sự tồn tại của hành vi tính dục cụ thể, cũng không phủ
nhận con người có sự phân biệt giới tính về sinh lí, con người có khí quan tính
dục. Điều ông muốn khăng định là cái gọi là “tính dục” là kết quả của các loại
diễn ngôn phân tích, miêu tả, và nhằm mục đích quy phạm nó, chứ không
phải là nguyên nhân. Nó chẳng phải là bí mật bản chất của cá nhân hay của
nhân loại. Cái gọi là sự áp chế là do quyền lực xã hội, nhưng không phải là do
ai thao túng, mà là quyền lực và tri thức, quyền lực dưới hình thức tri thức,
tức là dưới các hình thức diễn ngôn đó tạo ra cái gọi là tính dục. Như thế
muốn hiểu các hiện tượng trong đời sống xã hội còn cần phải khảo cổ học tri
thức trong diễn ngôn để giải mã chúng.
1.2. Diễn ngôn văn học
Có thể nhận diện được đặc điểm của diễn ngôn này bằng cách chỉ ra
quan hệ của nó đối với các diễn ngôn khác; rất khó để nhận diện được bản thể
của diễn ngôn, và vì thế chỉ nên nói về chức năng của nó mà thôi.
19