I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYấN ANH TUN
GIáM ĐịNH TƯ PHáP ĐốI VớI CáC TộI PHạM Về THAM
NHũNG TRONG QUá TRìNH GIảI QUYếT Vụ áN HìNH Sự
LUN VN THC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYấN ANH TUN
GIáM ĐịNH TƯ PHáP ĐốI VớI CáC TộI PHạM Về THAM
NHũNG TRONG QUá TRìNH GIảI QUYếT Vụ áN HìNH Sự
Chuyờn ngnh: Lut hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Anh Tuấn
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP ĐỐI
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
VỚI CÁC TỘI PHẠM THAM NHŨNG TRONG QUÁ TRÌNH
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ ......................................................................... 7
Khái quát về giám định tư pháp trong tố tụng hình sự ...........................7
Khái niệm Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự ....................................7
Phân loại Giám định tư pháp trong Tố tụng hình sự ...................................11
Vai trị, ý nghĩa của Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự ...................15
1.1.4.
Đối tượng, nội dung và thủ tục giám định tư pháp trong tố tụng hình sự .........23
1.2.
Khái niệm, đặc điểm giám định tư pháp đối với các tội phạm
tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ...........................26
1.2.1.
1.2.2.
Khái niệm ....................................................................................................26
Đặc điểm......................................................................................................29
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG
GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM
NHŨNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ .........34
2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.2.
Qui định của pháp luật về giám định tư pháp đối với các tội
phạm về tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ...........34
Qui định của pháp luật về giám định tư pháp đối với các tội phạm về
tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trước năm 2003 .......34
Quy định của pháp luật về giám định tư pháp đối với các tội phạm về
tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo qui định của
BLTTHS 2003 ..............................................................................................37
Thực tiễn hoạt động giám định tư pháp đối với các tội phạm về
tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ...........................63
2.2.1.
Tình hình hoạt động giám định tư pháp đối với với các tội phạm về
tham nhũng ..................................................................................................63
2.2.2.
Nhận xét ......................................................................................................75
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP ĐỐI VỚI CÁC
TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................................................................. 79
3.1.
Cơ sở của việc hồn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao
3.1.1.
hiệu quả hoạt động giám định tư pháp đối với các tội phạm về
tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự...........................79
Cơ sở và yêu cầu về mặt lập pháp ...............................................................79
3.1.2.
Cơ sở và yêu cầu về mặt thực tiễn ..............................................................80
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
Hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp đối với các tội phạm
về tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ......................81
Hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự ..........................................................81
Hoàn thiện về luật giám định tư pháp .........................................................84
3.3.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp
3.3.1.
3.3.2.
3.3.3.
3.3.4.
3.3.5.
3.3.6.
3.3.7.
đối với các tội phạm về tham nhũng trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự ..............................................................................................86
Tăng cường sự lãnh đạo, kiểm tra, hướng dẫn và giải quyết những
vướng mắc đối với công tác giám định tư pháp trong quá trình giải
quyết các vụ án tham nhũng ........................................................................86
Nâng cao nhận thức và năng lực của các chủ thể về giám định tư
pháp trong tố tụng hình sự...........................................................................88
Củng cố và xây dựng đội ngũ giám định viên tư pháp đủ về số
lượng, chắc về nghiệp vụ.............................................................................90
Tăng cường đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ giám định tư
pháp cho các tổ chức giám định ..................................................................90
Hoàn thiện bộ máy tổ chức giám định tư pháp trong tố tụng hình sự .........91
Thực hiện xã hội hóa giám định tư pháp trong một số lĩnh vực giám định.........93
Mở rộng hợp tác quốc tế trong giám định tư pháp trong tố tụng hình sự .........94
KẾT LUẬN ..............................................................................................................97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................100
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
CQTHTT
Cơ quan tiến hành tố tụng
GĐTP
Giám định tư pháp
GĐV
Giám định viên
KLGĐ
Kết luận giám định
NLTNHS
Năng lực trách nhiệm hình sự
NTHTT
Người tiến hành tố tụng
TCGĐ
Trưng cầu giám định
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TTHS
Tố tụng hình sự
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Bảng 2.1. Thống kê số lượng GĐVTP và GĐVTP theo vụ việc
Trang
66
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm qua, tình hình tội phạm tham nhũng có diễn biến phức tạp trên
mọi lĩnh vực, xảy ra ở nhiều ngành, nhiều cấp khác nhau, tập trung chủ yếu trên một
số lĩnh vực trọng điểm như: đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý tài sản cơng, tài chính,
ngân hàng, quản lý sử dụng đất… Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng nhiệm vụ
đấu tranh phòng, chống tham nhũng và sớm ban hành các Nghị quyết; Luật phòng,
chống tham nhũng; Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS… nên đã tạo được chuyển biến
tích cực trong đấu tranh, phịng ngừa tham nhũng. Tuy nhiên, vẫn chưa đạt được
yêu cầu ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, thể hiện ở số lượng tài
sản của Nhà nước bị chiếm đoạt, lãng phí, thất thốt đặc biệt nghiêm trọng vẫn xảy
ra. Việc phát hiện, khởi tố, điều tra để xử lý hình sự đối với hành vi tham nhũng gặp
nhiều khó khăn trong quá trình xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
tham nhũng, đặc biệt là khó khăn trong giám định tư pháp trong quá trình giải quyết
các vụ án về tham nhũng như: thời gian giám định dài; kinh phí chi trả giám định
quá lớn; một số cơ quan được trưng cầu giám định từ chối né tránh; không quy định
công tác giám định đối với từng tội danh cụ thể; không quy định thời gian cử Giám
định viên; không quy định rõ trách nhiệm của Giám định viên; trình độ chun mơn
của một số giám định viên chưa đáp ứng được yêu cầu, kết luận giám định khơng
chính xác, phải giám định nhiều lần… là nguyên nhân quan trọng dẫn đến thời gian
giải quyết một số vụ án bị kéo dài, thậm chí khơng xử lý được.
Việc xác định thiệt hại về tài sản trong một số vụ án tham nhũng bắt buộc
phải tiến hành trưng cầu giám định về tài chính kế tốn, giám định kỹ thuật, giám
định chất lượng cơng trình… Kết luận giám định trong những trường hợp này là
nguồn chứng cứ quan trọng chứng minh tội phạm và nhiều khi là nguồn chứng cứ
duy nhất. Nội dung yêu cầu giám định trong các vụ án tham nhũng bao gồm nhiều
vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau (tài chính, xây dựng, kỹ
thuật chuyên ngành…) cần thiết phải có sự điều phối, hợp tác của nhiều ngành khác
1
nhau. Tuy nhiên chất lượng kết luận giám định trong một số trường hợp chưa bảo
đảm, một số kết luận cịn chung chung, mập mờ, khơng rõ ràng, khơng trả lời cụ thể
câu hỏi của cơ quan trưng cầu đặt ra, mà nêu “chỉ có giá trị tham khảo”, khơng
khẳng định rõ đúng sai và có dấu hiệu né tránh khiến cho các cơ quan tiến hành tố
tụng lúng túng, khó khăn trong q trình giải quyết vụ án. Một số trường hợp, nội
dung yêu cầu giám định là nghiệp vụ chuyên môn mới phát sinh, phức tạp, khối
lượng lớn như vụ Nguyễn Anh Tuấn và đồng phạm cố ý làm trái xảy ra tại Sở Quản
lý kinh doanh vốn và ngoại tệ (Ngân hàng NNPTNT) đã kéo dài đến 5 năm do
không thực hiện được yêu cầu giám định của Toà án Nhân dân Hà Nội. Đáng lo
ngại nhất là có hiện tượng “chạy” giám định tư pháp để thoát tội nên đã xảy ra
chuyện một vụ án phải giám định nhiều lần, mỗi lần cho một Kết luận giám định
khác nhau, nhận xét chung chung, né tránh, không rõ ràng.
Bên cạnh đó là những khó khăn, vướng mắc trong việc đánh giá, sử dụng kết
luận giám định. Thực tế cho thấy, nhiều cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng
cịn lúng túng, thiếu quyết đốn trong việc xem xét, đánh giá sử dụng kết luận giám
định trong vụ việc có nhiều bản giám định khác nhau như trong vụ án “Tượng đài
Chiến thắng Điện Biên Phủ”…
Trong quá trình giải quyết án tham nhũng, nhiều vụ án bị ách tắc do nhận
thức, quan điểm khác nhau giữa các cơ quan tố tụng về giải quyết vụ án, về sự cần
thiết của việc trưng cầu giám định, có tình trạng “lấy kết quả giám định thay cho kết
luận điều tra, coi kết quả giám định quan trọng hơn kết luận điều tra)…
Đối với các vụ án tham nhũng trong đầu tư xây dựng cơ bản, Viện kiểm
sát, Tòa án thường cho rằng, phải có quyết tốn cơng trình thì kết luận giám định
mới có giá trị pháp lý, trong khi đó các cơng trình xây dựng cơ bản trong án
tham nhũng thì thường đã và đang thi cơng trong nhiều năm và khơng biết khi
nào mới quyết tốn cơng trình được, mà thời hạn điều tra thì có hạn. Vì thế, mặc
dù nhiều cơng trình xây dựng đã có dấu hiệu rút ruột cơng trình, hành vi sai
phạm rất rõ ràng như: lập chứng từ giả mạo, tiền đã xuất ra khỏi quỹ, bị chiếm
đoạt… nhưng các cơ quan truy tố, xét xử vẫn cho rằng đó là khoản tiền tạm ứng,
2
chưa quyết tốn cơng trình thì chưa cấu thành tội phạm. Đây chính là ngun
nhân mà có rất ít các vụ án tham nhũng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản được
khởi tố, truy tố, xét xử trong thời gian vừa qua.
Những hạn chế, vướng mắc nêu trên cần được khắc phục, nên học viên lựa
chọn đề tài: “Giám định tư pháp đối với các tội phạm về tham nhũng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự” làm luận văn thạc sỹ luật học đáp ứng yêu cầu lý
luận và thực tiễn của giám định tư pháp đối với các tội phạm về tham nhũng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam thời gian qua, vấn đề giám định tư pháp trong quá trình giải
quyết các vụ án đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều cơ quan, ban, ngành;
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động
giám định tư pháp”; cũng đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về lý luận và
thực tiễn liên quan đến hoạt động giám định tư pháp với nhiều cơng trình như:
- Những vấn đế lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục TTHS
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tác giả: TS. Lê Hữu Thể -TS. Đỗ Văn ĐươngThS. Nguyễn Thị Thủy, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.
- Giám định tư pháp trong Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, tác
giả Nguyễn Thị Loan, năm 2015.
- Hoàn thiện các quy định về giám định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003,
bài viết của tác giả ThS.Đức Hạnh - Giảng viên trường Đại học Kiểm sát Hà Nội…
Ngồi ra, cũng đã có nhiều cuộc họp, hội thảo do Chính phủ, các Bộ, Ban,
ngành tổ chức để đánh giá về hiệu quả công tác giám định tư pháp trong những năm
qua; trong các cuộc họp, hội thảo đó, các cơ quan có liên quan cũng đã có những
báo cáo liên quan đến cơng tác giám định tư pháp như:
- Tham luận của Ban Nội chính Trung ương tại Hội nghị triển khai thi hành
Luật giám định tư pháp, tháng 9-2013.
- Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo
Trung ương về PCTN, kết luận tại Hội nghị toàn quốc về công tác PCTN tại Hà
Nội, ngày 05-5-2014…
3
Qua nghiên cứu các cơng trình khoa học, báo cáo tổng kết các cuộc họp, hội
thảo… có thể thấy ở mỗi cơng trình nghiên cứu, các tác giả có những góc độ và
cách tiếp cận khác nhau, chỉ ra những khó khăn vướng mắc trong hoạt động giám
định tư pháp trong q trình giải quyết vụ án hình sự nói chung, vụ án về tham
nhũng nói riêng; đi sâu phân tích thực trạng, chỉ ra một số nguyên nhân và giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp.
Tuy nhiên, từ trước đến nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu,
toàn diện về lý luận, thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám
định tư pháp đối với tội phạm về tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tiếp tục hoàn thiện lý luận; đánh giá thực trạng, chỉ rõ những tồn
tại, hạn chế, thiếu sót và các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó để đưa ra
các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp đối với các tội phạm
về tham nhũng trong để giải quyết triệt để vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tiếp tục hoàn thiện lý luận về hoạt động giám định tư pháp đối với các tội
phạm về tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trên cơ sở nghiên cứu
các văn bản pháp luật, các tài liệu lý luận và khái quát về thực tiễn hoạt động giám
định tư pháp đối với các tội phạm về tham nhũng.
- Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động giám định tư pháp đối với
các tội phạm về tham nhũng qua đó đánh giá những ưu điểm đạt được; làm rõ những hạn
chế, thiếu sót, tìm ra và phân tích các ngun nhân của những hạn chế, thiếu sót này.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám định tư pháp đối
với các tội phạm về tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận và thực trạng giám định tư pháp
đối với các tội phạm về tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động giám định tư pháp
trong quá trình giải quyết các vụ án về tham nhũng trên cơ sở khảo sát thực tiễn giải
quyết những vụ án tham nhũng lớn từ 2010 đến 2015.
Luận văn có tham khảo các báo cáo tổng kết của các Cơ quan tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết các vụ án về tham nhũng, báo cáo tổng kết các cuộc
họp do Ban nội chính Trung ương, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham
nhũng chủ trì tổ chức để tổng kết về cơng tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật
của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời dựa trên các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đấu tranh,
phòng chống tội phạm.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả áp dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích;
- Phương pháp thống kê hình sự;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn;
- Phương pháp đối chiếu, so sánh;
- Phương pháp khảo sát điển hình;
6. Những đóng góp mới của luận văn
6.1. Về lý luận
Đây là cơng trình khoa học nghiên cứu chun sâu, tồn diện, có hệ thống và
tương đối đầy đủ về hoạt động giám định tư pháp đối với các tội phạm về tham
nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
6.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu,
tham khảo, vận dụng để giúp cho những người tiến hành tố tụng giải quyết tốt các vấn
đề liên quan đến giám định tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ án tham nhũng.
5
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giám định tư pháp đối với các tội phạm
tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Chương 2: Qui định của pháp luật và thực tiễn hoạt động giám định tư pháp
đối với các tội phạm về tham nhũng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động giám định tư pháp đối với các tội phạm về tham nhũng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP ĐỐI VỚI
CÁC TỘI PHẠM THAM NHŨNG TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái quát về giám định tư pháp trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự
Thuật ngữ giám định có nguồn gốc chữ La tinh là “Expertis”, có nghĩa là
xem xét, tìm hiểu, nghiên cứu, kiểm tra, làm rõ, chứng minh, kết luận... Đó là q
trình các chủ thể dùng các kiến thức chuyên môn về các lĩnh vực khoa học kỹ thuật
và những kinh nghiệm thực tiễn để nghiên cứu, xét nghiệm, so sánh và kết luận về
một người, vật thể, sự việc, hiện tượng... giúp cho cơ quan, cá nhân trưng cầu, yêu
cầu giám định có nhận thức khách quan để giải quyết vấn đề đặt ra trên cơ sở khoa
học. Giám định có nhiều lĩnh vực như: giám định pháp y, giám định pháp y tâm
thần, giám định kỹ thuật hình sự, giám định văn hóa, giám định tài chính- kế tốn,
giám định xây dựng... Trong mỗi lĩnh vực giám định lại được chia ra thành nhiều
các chuyên ngành giám định cụ thể.
Theo từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “giám định” là “việc xem xét và kết luận về một
sự vật, hiện tượng mà cơ quan nhà nước cần tìm hiểu và xác định” [34, tr.389, 1071].
Từ điển Bách Khoa Việt Nam cũng có cách định nghĩa tương tự về nghĩa của từ
giám định trong ngành luật là “kiểm tra và kết luận về một hiện tượng hoặc một vấn
đề mà cơ quan nhà nước cần tìm hiểu và xác định” [36, tr.1211].
Theo quy định của pháp luật, GĐTP là hoạt động bổ trợ tư pháp phục vụ
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự, giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án
hành chính. Trong lĩnh vực tư pháp, khái niệm giám định tư pháp lần đầu tiên được
đề cập trong Nghị định số 117/HĐBT ngày 21/7/1988 của Hội đồng bộ trưởng (nay
là Chính phủ), theo đó nêu:
Giám định tư pháp là sử dụng kiến thức, phương pháp khoa học
kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn để kết luận về vấn đề có liên quan đến
7
các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, các tranh chấp lao động
theo quyết định trưng cầu giám định của cơ quan Công an, Viện kiểm sát
nhân dân, Tòa án nhân dân (trong văn bản này gọi chung là cơ quan tiến
hành tố tụng) nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Pháp lệnh Giám định tư pháp năm 2004 tiếp tục xác định và làm rõ hơn về
khái niệm này. Tại Điều 1 quy định:
Giám định tư pháp là việc sử dụng kiến thức, phương tiện,
phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chun mơn
những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự
(sau đây gọi chung là vụ án) do người giám định tư pháp thực hiện theo
trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm
phục vụ cho việc giải quyết các vụ án [32, Điều 1].
Để cụ thể hóa một trong các vấn đề của quá trình cải cách tư pháp ở nước ta,
Luật giám định tư pháp được Quốc hội thông qua vào ngày 20/6/2012 và có hiệu
lực thi hành vào ngày 01/01/2013 tiếp tục quy định hoàn chỉnh hơn về giám định tư
pháp. Luật Giám định tư pháp quy định:
Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến
thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết
luận chun mơn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành
chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của
Luật này [21, Điều 2].
Như vậy, cho đến nay mới chỉ có khái niệm về GĐ chứ chưa có khái niệm về
giám định tư pháp trong tố tụng hình sự trong luật thực định. Tuy nhiên, khoa học
pháp lý đã có một số quan điểm về GĐTP trong tố tụng hình sự được phát biểu
thành các định nghĩa khoa học có thể kể đến như:
Quan điểm thứ nhất: giám định tư pháp trong tố tụng hình sự là việc
nghiên cứu các vật chứng, chứng từ, tử thi, tình trạng sức khỏe và đặc điểm thể chất
8
của người sống có ý nghĩa đối với vụ án, do người có hiểu biết chun mơn tiến
hành theo u cầu của cơ quan điều tra bằng quyết định trưng cầu giám định. Khái
niệm này đã cụ thể hóa các hoạt động giám định trong tố tụng hình sự nhưng phạm
vi chủ thể của khái niệm này quá hẹp vì giám định tư pháp trong tố tụng hình sự
khơng chỉ được tiến hành theo yêu cầu của cơ quan điều tra mà còn theo yêu cầu
của những Cơ quan tiến hành tố tụng khác (Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển…)
Quan điểm thứ hai cho rằng: trong tố tụng hình sự giám định là việc
nghiên cứu, phân tích, xét nghiệm do các nhà khoa học, kĩ thuật và chuyên môn
khác tiến hành theo yêu cầu của cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tịa án về
những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự (Nguyễn Mạnh Hùng, Thuật ngữ pháp
lý 2011). So với quan điểm thứ nhất, quan điểm này phù hợp hơn với các quy định
của BLTTHS năm 2003 xét về mặt chủ thể có thẩm quyền trưng cầu giám định. Tuy
nhiên khái niệm này cũng chưa bao quát hết nội hàm các quy định của pháp luật tố
tụng về chủ thể có thẩm quyền trưng cầu giám định cũng như những nội dung khác
liên quan đến Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự.
Có thể nhận thấy, GĐTP trong tố tụng hình sự là hoạt động xuất hiện trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. GĐTP chỉ được tiến hành trong
những trường hợp và theo trình tự do BLTTHS quy định. Nói cách khác, hoạt động
giám định tư pháp nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự theo trình tự do
BLTTHS quy định thì mới là GĐTP trong tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự quy định GĐTP là một biện pháp điều tra, thu thập
chứng cứ với những quy định rất rõ ràng, chi tiết; đồng thời cũng xác định rõ ý
nghĩa của kết luận giám định đối với việc chứng minh tội phạm và người phạm tội;
cụ thể như sau:
- Điều 60 quy định về người giám định, trong đó xác định rõ người giám
định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám định được cơ quan tiến
hành tố tụng trưng cầu theo quy định của pháp luật; đồng thời quy định rõ quyền
và nghĩa vụ của họ trong quá trình tố tụng hình sự.
9
Luật giám định tư pháp quy định chủ thể tiến hành GĐTP bao gồm giám định
viên tư pháp và người GĐTP theo vụ việc. Trong đó, giám định viên tư pháp là người
đủ tiêu chuẩn về quốc tịch, sức khỏe, phẩm chất đạo đức, trình độ và thực tế cơng tác,
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm để thực hiện giám định tư pháp.
Người giám định tư pháp theo vụ việc là người chưa được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bổ nhiệm là giám định viên tư pháp nhưng là người đủ tiêu chuẩn về quốc tịch,
sức khỏe, phẩm chất đạo đức, trình độ và thực tế hoạt động chuyên môn, kinh
nghiệm, được lựa chọn làm người giám định tư pháp theo vụ việc.
- Điều 64 quy định về Chứng cứ, tại khoản 2 xác định Kết luận giám định là
một trong các nguồn chứng cứ pháp lý phục vụ điều tra, truy tố, xét xử.
- Điều 65 quy định về thu thập chứng cứ trong đó xác định rõ để thu thập
chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án có quyền tiến hành một trong các
biện pháp là Trưng cầu Giám định.
- Điều 73 quy định về Kết luận giám định, trong đó xác định rõ quyền của
người giám định được đưa ra kết luận về vấn đề được giám định, trách nhiệm, thủ
tục khi đưa ra kết luận về vấn đề được giám định; trách nhiệm, thủ tục đối với Cơ
quan tiến hành tố tụng trong trương hợp không đồng ý với kết luận giám định.
- Tại Điều 155 quy định về Trưng cầu giám định trong đó xác định rõ chủ
thể có quyền ra quyết định trưng cầu giám định là Cơ quan tiến hành tố tụng, quy
định về các nội dung trong Quyết định trưng cầu giám định và các trường hợp bắt
buộc phải trưng cầu giám định.
- Điều 156 quy định về việc tiến hành giám định, trong đó có các quy định về
địa điểm tiến hành giám định, các chủ thể khác có thể tham dự việc giám định bên
cạnh giám định viên và thu tục trong trường hợp giám định không thể tiến hành
đúng thời hạn mà cơ quan trưng cầu giám định yêu cầu.
- Điều 157 quy định về các vấn đề có liên quan đến nội dung kết luận giám định.
Từ những phân tích trên, có thể khái quát “Giám định tư pháp trong tố tụng
hình sự là việc người có kiến thức chun môn trong những lĩnh vực khác nhau, sử
dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật nghiệp vụ để kết luận,
10
làm sáng tỏ những vấn đề theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm phục vụ
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
1.1.2. Phân loại Giám định tư pháp trong Tố tụng hình sự
1.1.2.1. Căn cứ vào quy định của pháp luật về sự cần thiết phải xác định các
sự kiện trong vụ án: Giám định bắt buộc và giám định khi xét thấy cần thiết
Giám định bắt buộc: được quy định tại khoản 3 điều 155 BLTTHS 2003, là
trường hợp khi xuất hiện một hoặc một số tình tiết liên quan đến vụ án mà luật
TTHS đã quy định thì CQTHTT bắt buộc phải TCGĐ, nếu không trưng cầu là vi
phạm thủ tục tố tụng hình sự.
Giám định khi xét thấy cần thiết: là trường hợp khi xuất hiện những tính
tiết nhất định trong vụ án, tuy luật khơng quy định bắt buộc phải giám định
nhưng CQTHTT nhận thấy việc giám định là rất cần thiết để giải quyết vụ án
một cách chính xác và TCGĐ thì giám định viên sẽ tiến hành việc giám định. Đó
là các trường hợp:
+ Cần có KLGĐ làm căn cứ để quyết định tiến hành một hoặc một số hoạt
động tố tụng hình sự.
+ Cần có KLGĐ để có chứng cứ nhằm củng cố, hỗ trợ cho các chứng cứ
khác phục vụ cho việc giải quyết xử lý vụ án.
1.1.2.2. Căn cứ vào tình huống và kết quả giám định: giám định lần đầu,
giám định bổ sung, giám định lại
Giám định lần đầu là việc tiến hành giám định lần đầu tiên đối với một vấn
đề nào đó của vụ án cần được làm rõ theo quyết định TCGĐ của CQTHTT.
Giám định bổ sung là giám định tiếp theo lần giám định trước nhằm bổ sung,
làm rõ thêm KLGĐ trước đó hoặc khi phát sinh những vấn đề mới liên quan đến các
tình tiết đã được kết luận trước đó. Ngồi ra, giám định bổ sung còn được trưng cầu
trong trường hợp khi ra quyết định TCGĐ lần trước đó, CQTHTT khơng đưa ra hết
những câu hỏi đối với giám định viên. Giám định bổ sung có thể do người tiến hành
giám định trước đó tiến hành hoặc do người giám định khác tiến hành.
Giám định lại là việc giám định được tiến hành theo yêu cầu của CQTHTT
11
trong trường hợp có căn cứ xác thực nghi ngờ KLGĐ khơng đảm bảo tính khách
quan hoặc có mâu thuẫn trong các KLGĐ về cùng một vấn đề cần giám định.
Nội dung giám định lại là toàn bộ những yêu cầu giám định lần trước và
người giám định trước đó không được tiến hành việc giám định lại mà phải do
người giám định khác tiến hành.
1.1.2.3. Căn cứ vào số lượng, thành phần người tham gia giám định: giám
định cá nhân, giám định tập thể
Giám định cá nhân là việc giám định do một người tiến hành độc lập giải
quyết toàn bộ yêu cầu giám định theo quyết định trưng cầu của CQTHTT.
Giám định tập thể là việc nhiều người cùng một lĩnh vực chuyên môn hoặc ở
nhiều lĩnh vực chuyên môn cùng tiến hành giám định một vấn đề nào đó.
Giám định tập thể được CQTHTT trưng cầu trong trường hợp sau:
+ Yêu cầu giám định đòi hỏi nhiều người giám định ở các lĩnh vực chuyên
môn khác nhau giải quyết.
+ Khối lượng tài liệu, vật chứng, mẫu vật lớn cần có kết luận kịp thời cho
cơng tác điều tra vụ án hình sự.
+ Vấn đề giám định rất phức tạp, đòi hỏi kết luận giám định của một tập thể
người giám định để đảm bảo tính chính xác, tin cậy.
+ Cần giám định lại một yêu cầu giám định do một GĐV hoặc một tập thể
GĐV đã tiến hành giám định.
1.1.2.4. Căn cứ vào vấn đề cần giám định liên quan tới một hoặc nhiều lĩnh
vực khoa học:
Giám định chuyên khoa là việc một hoặc nhiều người giám định của một
chuyên khoa đảm nhiệm việc giám định.
Giám định tổng hợp là việc nhiều người giám định thuộc nhiều chuyên khoa
đảm nhiệm việc giám định.Việc giám định tổng hợp được tiến hành bằng nhiều
phương pháp thuộc các chuyên khoa khác nhau trên cùng một đối tượng giám định
hoặc trên nhiều đối tượng giám định có liên quan với nhau để cùng giải quyết một
yêu cầu giám định cụ thể.
12
1.1.2.5. Căn cứ vào lĩnh vực chuyên môn giám định
Giám định pháp y là việc sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học
kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về phương diện y học những vấn đề có liên quan đến
sự kiện chết người, thương tích... theo văn bản trưng cầu của CQTHTT nhằm phục
vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Giám định pháp y tâm thần: là một bộ phận của tâm thần học, phát triển cùng
với sự phát triển chung của ngành tâm thần học. Giám định pháp y tâm thần là việc
sử dụng kiến thức trong lĩnh vực y học tâm thần để xem xét những vấn đề có liên
quan đến cá nhân như vấn đề về sức khỏe tâm thần, xác định chính xác những đối
tượng bị nghi rối loạn tâm thần có bị bệnh tâm thần hay khơng, mức độ nặng nhẹ, từ
đó xác định năng lực trách nhiệm hành vi phạm pháp.
Mục đích của giám định pháp y tâm thần nhằm giám định tình trạng sức
khỏe- sức khỏe tâm thần của bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng. Giám
định khả năng chịu trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự dựa trên 2 tiêu chuẩn:
+ Tiêu chuẩn y học: đó là vấn đề chuẩn đốn bệnh (họ bị bệnh gì? mức độ
nặng, nhẹ?)
+ Tiêu chuẩn pháp luật: xem xét khả năng nhận thức hành vi (có, hạn chế hay
mất khả năng nhận thức), xem xét khả năng kiềm chế hành vi. Nên đối tượng của
giám định pháp y tâm thần là trạng thái tâm thần và hồ sơ tài liệu của con người.
Giám định kỹ thuật hình sự: là việc sử dụng những kiến thức, phương pháp
khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ chun mơn trong khoa học hình sự để xác định hoặc
truy nguyên các hiện tượng vật chất như con người, sự vật, hiện tượng… có liên
quan đến vụ án hình sự.
Hoạt động giám định trong lĩnh vực này thực hiện các nhiệm vụ truy nguyên
nhằm làm sáng tỏ một vụ việc có tính hình sự với mục đích xác định và chứng minh
sự đồng nhất của các hiện tượng vật chất đang có liên quan đến vụ việc với những
hình thức vật chất đã được xác định, thu thập trong quá trình điều tra.
Giám định xây dựng: là hoạt động của cá nhân, tổ chức có năng lực giám
định sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ để kết
13
luận về chuyên môn trong lĩnh vực xây dựng những vấn đề cú liên quan đến vụ án,
đặc biệt là những vụ án về xây dựng.
Giám định môi trường: đánh giá nguồn tác động và đánh giá mức độ ảnh
hưởng của các hoạt động và các yếu tố đến môi trường.
Giám định trong lĩnh vực môi trường: bao gồm các hoạt động lấy mẫu và
phân tích mơi trường, khơng khí, nước, đất. Hoạt động này đã góp phần trong cơng
tác xác định mức độ vi phạm của các tổ chức, cá nhân trong cơng tác bảo vệ mơi
trường, từ đó đưa các biện pháp xử lý hành chính, hình sự nhằm tăng cường hiệu
lực pháp luật trong công tác bảo vệ mơi trường
Giám định văn hóa: việc sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học kỹ
thuật, nghiệp vụ chuyên ngành để giám định các loại hình tác phẩm văn học- nghệ
thuật và văn hóa phẩm, đưa ra kết luận về chuyên ngành văn hóa có liên quan đến
vụ án do người GĐTP thực hiện.
Giám định văn hóa nhằm phục vụ cho việc xem xét, phân tích các tác phẩm văn
học, nghệ thuật, văn hóa phẩm có mang nội dung đồi trụy, phản động, chống phá Đảng
và Nhà nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phù hợp với thuần phong mỹ tục
hay khơng? Có phải là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, là nguyên bản, nguyên gốc hay
bản sao, đồ giả? Trên cơ sở đó đưa ra những kết luận về chuyên môn theo trưng cầu
của cơ quan THTT, phục vụ đắc lực cho công tác điều tra tội phạm về văn hóa.
Giám định giao thơng cơng chính: do GĐV có đủ năng lực cũng như điều
kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật tiến hành để kết luận về những vấn đề về chuyên ngành
giao thơng cơng chính có liên quan đến vụ án như việc giám định chất lượng cơng
trình cầu đường, giám định tính chất an tồn giao thơng, giám định chất lượng
phương tiện giao thông, giám định chất lượng cây xanh trồng trên hè phố…
Giám định tài chính: việc người có chun mơn về tài chính, kế tốn sử
dụng những kiến thức, phương pháp khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên
ngành và những quy định của pháp luật có liên quan để xem xét, đánh giá các
chứng từ, tài liệu liên quan đến hoạt động tài chính, kế tốn của các cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp.
14
Giám định tài chính nhằm phục vụ cho việc xem xét, phân tích, đánh giá tính
đúng đắn của việc chấp hành pháp luật của Nhà nước về tài chính, kế tốn. Trong trường
hợp khơng đúng pháp luật của Nhà nước thì có gây ra thiệt hại gì về kinh tế không? Thiệt
hại ở mức độ như thế nào? Trên cơ sở đó đưa ra những kết luận về chun mơn theo yêu
cầu của CQTHTT, phục vụ đắc lực cho công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ.
Định giá tài sản trong tố tụng hình sự: là việc xác định giá trị tài sản bị xâm
phạm bởi hành vi phạm tội. Trong BLHS có rất nhiều tội danh quy định yếu tố giá
trị tài sản bị xâm phạm (hư hỏng, hủy hoại, chiếm đoạt, chiếm giữ, sử dụng trái
phép, nâng khống giá trị,…) là một trong những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội
phạm. Vì vậy, việc xác định giá trị tài sản bị xâm phạm có ý nghĩa quan trọng và
mang tính chất bắt buộc để xác định hành vi xâm phạm về tài sản có phải là tội
phạm hay khơng? Bên cạnh đó, việc định giá tài sản cịn là căn cứ để xác định
khung hình phạt, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi
lượng hình và xác định mức bồi thường cho người bị thiệt hại.
Hiện nay, BLTTHS hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc định giá tài sản.
Việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự hiện nay được thực hiện chủ yếu theo quy
định tại Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ. Nghị định này
quy định về việc thành lập, quyền, nghĩa vụ của các thành viên Hội đồng định giá tài
sản; nguyên tắc định giá; trình tự, thủ tục yêu cầu và việc định giá tài sản; thời hạn
định giá; hồ sơ định giá; chi phí định giá;…; kết luận định giá tài sản; quyền của bị
can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận định giá tài sản.
Như vậy tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, những căn cứ phân loại khác
nhau mà GĐTP được phân chia thành nhiều loại khác nhau. Việc phân loại này có ý
nghĩa trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động GĐTP, xác định trách nhiệm
của các ngành, các cấp, cơ quan chủ quản. Hơn nữa, việc phân loại này cũng giúp
CQTHTT lựa chọn cá nhân, cơ quan, tổ chức phù hợp để TCGĐ.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự
1.1.3.1. Vai trị của giám định tư pháp
Trong xu thế hội nhập tồn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực như hiện nay, đời
15
sống của người dân cũng được nâng cao, trình độ dân trí cũng ngày một phát triển.
Bên cạnh những mặt tích cực của q trình đó mang lại thì tình hình tội phạm, tệ
nạn xã hội ngày một gia tăng và diễn biến phức tạp hơn trước. Để giúp các
CQTHTT thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, GĐTP mặc dù là hoạt động
bổ trợ nhưng lại góp phần khơng nhỏ vào hoạt động TTHS nói chung và q trình
giải quyết vụ án hình sự nói riêng.
Những phân tích dưới đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai trị của hoạt
động trong tố tụng hình sự.
Thứ nhất: Giám định tư pháp góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án
Góp phần xác định dấu hiệu của tội phạm, giúp các CQTHTT ra các quyết
định tố tụng chính xác, khách quan: Dấu hiệu của tội phạm có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định một hành vi xảy ra trên thực tế có phải là tội phạm hay khơng,
là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định
khơng khởi tố vụ án hình sự (Điều 63 BLTTHS 2003).
Trong quá trình giải quyết vụ án, khi chưa xác định được dấu hiệu tội phạm thì
mọi việc tiến hành các hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp cưỡng chế, ngăn
chặn, đối với người bị nghi là thực hiện tội phạm đều có thể dẫn đến oan sai, vi phạm
quyền dân chủ của cơng dân, làm giảm lịng tin của nhân dân vào pháp luật. Vì vậy
việc xác định dấu hiệu tội phạm là một nhiệm vụ quan trọng của CQTHTT, đó là cơ sở
để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định trong quá trình THTT. Theo điều 100
BLTTHS 2003 “chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm”.
Như vậy, dấu hiệu tội phạm chính là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự.
Trong nhiều trường hợp việc xác định dấu hiệu tội phạm địi hỏi phải có sự
đánh giá khách quan, khoa học từ những nhà chuyên mơn có kiến thức nghiệp vụ và
kinh nghiệm. GĐTP là một trong những công cụ hữu hiệu được CQTHTT sử dụng
để hỗ trợ xác định có hay khơng có tội phạm.
KLGĐ sẽ chỉ ra nguyên nhân, nguồn gốc của sự việc, giải thích những hiện
tượng đã xảy trong thực tế như: KLGĐ về nguyên nhân chết người, nguyên nhân
cháy, thiệt hại tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân… Đây là cơ sở để CQTHTT
16
xác định vụ việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm hay khơng, từ đó đưa ra những quyết
định tố tụng chính xác, khách quan nhằm bảo đảm quyền con người, quyền, lợi ích
hợp pháp của cơng dân.
Góp phần xác định người phạm tội: Trong hoạt động tố tụng hình sự, mục
đích cuối cùng là xác định có hay khơng có tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên
việc chứng minh tội phạm và xác định người phạm tội là một q trình hết sức khó
khăn, địi hỏi phải áp dụng nhiều biện pháp trong đó có Trưng cầu giám định.
Thông qua việc giám định giúp các CQTHTT phát hiện dấu vết của tội phạm, hậu
quả, thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra… từ đó có căn cứ khách quan để xác định
chính xác người phạm tội.
Cũng khơng ít trường hợp, KLGĐ với sự chính xác và khách quan của nó đã
chứng minh một người khơng phải là thủ phạm của vụ án đó nên GĐTP cịn giúp
minh oan cho người vô tội.
Thứ hai: Hỗ trợ các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án
* Góp phần xác định năng lực chịu trách nhiệm hình sự của người thực
hiện tội phạm, năng lực nhận thức và khả năng khai báo đúng đắn của
người bị hại, người làm chứng: việc xác định độ tuổi và NLTNHS là điều kiện hết
sức quan trọng để xác định một người đó có lỗi hay khơng khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Nếu một người không đủ một trong hai điều kiện trên thì
khơng phải chịu TNHH đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS mà mình đã gây ra.
Bên cạnh đó độ tuổi và NLTNHS của những người tham gia tố tụng khác cũng
có ý nghĩa hết sức quan trọng để các CQTHTT xác định tư cách tham gia tố tụng của
họ và đánh giá tính xác thực của những thơng tin, tài liệu do họ cung cấp bởi lẽ lời khai
của họ là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng để xác định sự thật vụ án.
Cụ thể: tại Điểm b, khoản 2 điều 55 BLTTHS “người do có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất mà khơng có khả năng nhận thức được những tình tiết của
vụ án hoặc khơng có khả năng khai báo” thì khơng được làm chứng. Nếu là người
bị hại thì cần phải có đại diện hợp pháp tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho họ.
17
* Góp phần xác định cơng cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội:
Công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội ln phản ánh mức độ, tính chất nguy
hiểm của hành vi phạm tội. Tội phạm mà chúng thực hiện càng nghiêm trọng, nguy
hiểm bao nhiêu thì cơng cụ, phương tiện phạm tội càng được chuẩn bị kỹ lưỡng và
thủ đoạn phạm tội càng tinh vi xảo quyệt bấy nhiêu. Phương tiện phạm tội là những
đối tượng được chủ thể của tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của
mình. Cơng cụ phạm tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội ví dụ như dao để
đâm, kéo để cắt, súng, cuốc, chúng có thể là bất cứ vật gì, có khi được chuẩn bị
trước mà cũng có khi chúng được tận dụng tại hiện trường.
GĐTP là công cụ sắc bén giúp CQĐT xác định cơng cụ phạm tội là vật gì.
Đặc điểm, hình dáng, kích thước, chức năng, vật tìm được tại hiện trường có phải là
cơng cụ gây án hay khơng. Bởi mỗi loại công cụ, phương tiện phạm tội khác nhau
đều để lại dấu vết khác nhau trên vật tác động hoặc tại hiện trường.
Xác định công cụ, phương tiện phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc
định tội, định khung hình phạt bởi một số tội phạm phương tiện phạm tội bắt buộc
phải được thực hiện bằng phương tiện nhất định như điều 289 BLHS quy định
phương tiện phạm tội là những giá trị vật chất. Tính chất của phương tiện phạm tội
trong một số trường hợp có thể làm thay đổi một cách đáng kể mức độ tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ví dụ như hành vi cướp tài sản bằng cách
dùng vũ khí để đe dọa người bị tấn công, hoặc dùng chất cháy,chất nổ để hủy hoại
tài sản của người khác. Đây là những phương tiện mang tính hủy hoại hàng loạt,
nhanh chóng gây hậu quả nguy hại cho đối tượng bị tác động.
Phương pháp, thủ đoạn phạm tội là cách thức thực hiện hành vi phạm tội,
trong đó có cách thức sử dụng phương tiện. Tính chất của thủ đoạn phạm tội luôn là
yếu tố ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội vì vậy nó được coi là
tình tiết cần được xem xét khi định tội danh, định khung hình phạt, xác định tình tiết
tăng nặng giảm nhẹ TNHS.
Tóm lại, cơng cụ, phương tiện và phương thức, thủ đoạn phạm tội phản ánh
tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Do đó, cơng việc tìm ra chúng có ý nghĩa
rất lớn, giúp cơ quan bảo vệ pháp luật giải quyết vụ án một cách thấu tình đạt lý nhất.
18